NẢ
Nả nong
A: To get impatient.
P: S'impatienter.
Nả nong hay Nong nả là nôn nóng trong lòng muốn làm ngay công việc cho sớm có kết quả.
TNHT: |
- Độ chúng tu nhơn chí nả nong.
- Mấy ai nong nả tìm đến cảnh thiêng liêng mà nhiều kẻ lại tìm vào vực thẳm. |
TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.
NÃI
Nãi
乃
A: Then, however.
P: Alors, cependant.
Nãi: Tiếng dùng để chuyển ý , có nghĩa là: bèn, rồi thì.
KNHTĐ: Nãi Nhựt, Nguyệt, Tinh, Thần chi quân.
KNHTÐ: Kinh Ngọc Hoàng Thượng Ðế.
NẠI
Nại hà
奈何
A: How? What is to be done?
P: Comment? Que faire?
Nại: Làm sao? Thế nào? Hà: tiếng dùng để hỏi.
Nại hà?: Làm sao? Làm thế nào?
Nại hà kiều: Cầu Nại hà, là cây cầu bắc ngang sông lớn mà người đi đến đó không biết cách nào để đi qua cầu cho khỏi té xuống sông, nên hỏi nhau: Nại hà? Làm sao?
Tương truyền, nơi cõi Âm phủ có một cây cầu rất mỏng manh, bắc ngang một con sông lớn, ván lót gập ghình, trơn trợt, rất khó lên cầu để đi qua sông. Hơn nữa, dưới cầu là sông lớn có đủ các thứ rắn độc, cua kình hung dữ, đợi người nào lọt xuống thì chúng xúm lại xé thây ăn thịt.
Các chơn hồn nơi Âm phủ, khi đến cầu nầy, muốn lên cầu qua sông, nhìn thấy cảnh tượng như thế thì nãn lòng thối bước, không biết làm thế nào để đi qua cầu cho được an toàn. Nhiều người cố đi qua, nhưng đến giữa cầu thì bị té xuống sông, rắn rít cua kình giành nhau phanh thây ăn thịt, thật là ghê gớm.
KSH: |
|
Cầu Nại hà bắc giăng sông lớn,
Tội nhơn qua óc rởn dùn mình. |
|
|
Hụt chơn, ván lại gập ghình, |
Nhào đầu xuống đó, cua kình rỉa thây. |
|
Nhiều thứ rắn mặt mày dữ tợn,
Ngóng cổ trông mắt trợn dòm người. |
|
|
Gắp thây nuốt sống ăn tươi, |
Vì bày thưa kiện, móc bươi xúi lời. |
|
KSH: Kinh Sám Hối.
NAM
NAM
1. NAM: 南 Phương Nam, nước VN, người VN.
Td: Nam ai, Nam bang, Nam giao.
2. NAM: 男 Đàn ông con trai, trái với Nữ.
Td: Nam nhi, Nam nữ bất thân.
Nam ai - Nam xuân
南哀 - 南春
A: Melancholic (gay) piece of ancient music.
P: Un air mélancolique (gai) de musique ancien.
Nam: Phương Nam, nước VN, người VN. Ai: Buồn. Xuân: mùa Xuân, vui tươi.
Cổ nhạc Việt Nam có ba bài Nam: Nam Ai, Nam Xuân và Đảo Ngũ Cung. Gọi là ba bài Nam là vì khi nhạc sĩ đờn ba bài nầy thì day mặt về hướng Nam.
Nam Ai thì nhạc đờn theo nhịp chậm, giọng buồn thảm bi ai. Nam Xuân thì nhạc đờn theo nhịp nhanh hơn, giọng điệu vui tươi, mát mẻ. (Xem chi tiết nơi chữ: Cổ nhạc, vần C)
Nam bang
南邦
A: Viêtnam.
P: Viêtnam.
Nam: Phương Nam, nước VN, người VN. Bang: nước, quốc gia.
Nam bang là nước Nam, tức là nước Việt Nam.
TNHT: |
Hảo Nam bang! Hảo Nam bang!
Tiểu quốc tảo khai Hội Niết Bàn. |
TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.
Nam Bình Phật Tổ (Nam Bình Vương Phật)
南屏佛祖(南屏王佛)
Nam: Phương Nam, nước VN, người VN. Bình: che chở, ngăn che (bình phong). Phật Tổ: vị Phật lớn. Vương Phật: vị Phật làm vua.
Nam Bình Phật Tổ là vị Phật lớn che chở nước VN.
Nam Bình Vương Phật là vị Phật vua che chở nước VN.
Nơi Điện Thờ Phật Mẫu ở Trí Giác Cung, Địa Linh Động (khi xưa là Trường Qui Thiện), có thờ bức họa Nam Bình Phật Tổ, đặt tại vị trí ngó ngay vào bửu điện thờ Đức Phật Mẫu.
Đây là nơi duy nhứt thờ Nam Bình Phật Tổ. Báo Ân Từ, cũng như các Điện Thờ Phật Mẫu khác đều không có thờ Nam Bình Phật Tổ.
Nhìn bức họa Nam Bình Phật Tổ trên bàn thờ, chúng ta thấy Ngài mặc áo tràng, tay rộng, màu nâu lợt pha vàng, tay mặt cầm quạt, chân mang thảo hài, có dáng dấp như một ông Tiên; Ngài lại cầm bình bát nơi tay trái, và có vành tai dài thòng xuống như tai Phật; Ngài có râu lún phún trên miệng và càm, lại đội mão giống như mão của ông quan nơi triều đình.
Do đó, chúng ta thấy nơi Ngài như có sự phối hợp của Tam giáo: Nho giáo, Tiên giáo và Phật giáo.
Phía trên bức họa là 4 chữ Nho lớn: 南屏佛祖 (Nam Bình Phật Tổ) viết theo hàng ngang. Bên cạnh đứng của bức họa có hai hàng chữ Nho thẳng đứng, chép ra như sau:
有濟於人有濟於物誰謂其顛
錯有我佛佛其有靈馨香拜乞
Hữu tế ư nhơn, hữu tế ư vật, thùy vị kỳ điên,
Thác hữu ngã Phật, Phật kỳ hữu linh, hinh hương bái khất.
Giải nghĩa:
Hữu tế ư nhơn: có cứu giúp người. Hữu tế ư vật: có cứu giúp vật. Thùy: ai. Vị: Bảo rằng. Kỳ: hư tự. Điên: khùng.
Thác hữu ngã Phật: lầm có ta là Phật. Thác: lầm. Phật kỳ hữu linh: Phật ấy có linh thiêng. Hinh: mùi thơm bay xa. Hương: cây nhang. Bái: lạy. Khất: xin.
Hai câu chữ Nho trên không phải là hai câu liễn đối, nên trong bức họa viết hai hàng không bằng nhau, hàng ngoài có 16 chữ và hàng trong có 8 chữ, nghĩa là:
Có cứu giúp người, có cứu giúp vật, ai bảo ấy điên?
Lầm có ta là Phật, Phật ấy có linh, đốt nhang thơm vái lạy cầu xin.
Nguồn gốc bức họa Nam Bình Phật Tổ:
Chúng tôi có hỏi một vài vị lão thành của Trường Qui Thiện về nguồn gốc bức họa Nam Bình Phật Tổ thì quí vị ấy đều trả lời rằng: "Trong chuyến Đức Phạm Hộ Pháp Á du, sang Đài Loan, rồi qua Nhựt Bổn để rước xác tro của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để về nước, có người Tàu ở Đài Loan đem tặng Đức Phạm Hộ Pháp bức họa Nam Bình Phật Tổ nầy."
Chúng tôi liền kiểm tra lại bằng cách đọc trở lại rất kỹ tập "Nhựt Ký Á Du" do ông Sĩ Tải Bùi Quang Cao ghi lại, chúng tôi không thấy có chỗ nào nói về vụ người Đài Loan tặng bức họa Nam Bình Phật Tổ cho Đức Phạm Hộ Pháp. Rất may lúc đó, ông Bùi Quang Cao (bây giờ là Giám Đạo Cao) còn sống khỏe mạnh, nên chúng tôi trực tiếp đến hỏi ông Cao.
Trong chuyến Á du nầy, Đức Phạm Hộ Pháp đem ông Cao theo làm thơ ký, kiêm nhân viên nhiếp ảnh và quay phim, cho nên tất cả việc xảy ra, ông Cao đều hay biết để ghi nhựt ký. Ông Sĩ Tải Bùi Quang Cao xác nhận một cách quả quyết với chúng tôi hai ba lần rằng, nhứt định không có người Tàu nào đem tặng cho Đức Phạm Hộ Pháp bức họa Nam Bình Phật Tổ, bởi vì đây là sự kiện lớn tốt đẹp, đâu cần phải giấu giếm.
Mặt khác, chúng tôi lại dò hỏi về vấn đề thời gian: Đức Phạm Hộ Pháp trao cho Trường Qui Thiện bức họa Nam Bình Phật Tổ vào ngày tháng năm nào?
Chúng tôi được cho biết chắc chắn là Đức Phạm Hộ Pháp đem giao bức họa Nam Bình Phật Tổ cho Ban Giám Đốc Trường Qui Thiện vào năm Canh Dần (1950), không nhớ rõ ngày nào nhưng trước ngày làm Lễ Sinh Nhựt mừng Lục tuần Đức Phạm Hộ Pháp (ngày mùng 5 tháng 5 năm Canh Dần) và Đức Ngài dạy đặt tại vị trí như chúng ta thấy hiện nay.
So sánh về thời gian, chúng ta thấy, bức họa nầy đã có từ năm 1950, mà Đức Phạm Hộ Pháp Á du khởi hành vào ngày 1-8-Giáp Ngọ (dl 28-8-1954) và trở về ngày 16-9-Giáp Ngọ.
Kết luận: Bức họa Nam Bình Phật Tổ có trước ngày Đức Phạm Hộ Pháp đi Đài Loan tới hơn 4 năm.
Chúng tôi may mắn gặp ông Lãnh Nhạc Huỳnh Minh Mẫn, ông thuật lại cho chúng tôi nghe, vào khoảng năm 1950, Đức Phạm Hộ Pháp sai ông đi Sài Gòn, đến nhà Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng để lấy bức họa Nam Bình Phật Tổ đem về Tòa Thánh cho Đức Ngài. Khi đến nơi, gặp Ngài Tiếp Pháp, trình bày công việc, thì Ngài Tiếp Pháp mở tủ lấy ra hai bức họa, cuốn tròn lại, gói thật kỹ, giao cho ông đem về Đức Phạm Hộ Pháp. Sau đó, Đức Ngài đem xuống giao cho Trường Qui Thiện một tấm để thờ nơi Đền Thờ Đức Phật Mẫu, còn một tấm thì giao cho Đầu phòng Trần Thái Lang thờ nơi Hộ Pháp Tịnh Đường ở Địa Linh Động.
Ngoài ra, ông Lãnh Nhạc Huỳnh Minh Mẫn còn cho chúng tôi biết, ông Nhạc Sư Lê Ngọc Hội có làm tờ giải thích về Đức Nam Bình Phật Tổ, và bảo chúng tôi đi sưu tầm tờ giải thích nầy để biết rõ thêm.
Nhờ sự tiết lộ của ông Lãnh Nhạc Mẫn, chúng tôi liền tìm đến nhà người con trai của Ngài Tiếp Pháp là ông Trương Minh Tánh ở Sài Gòn, chúng tôi được ông Tánh cho biết, Ngài Tiếp Pháp cũng có một bức họa Nam Bình Phật Tổ, lộng kiếng treo nơi phòng khách, nhưng màu áo tràng là màu xanh chớ không phải màu nâu vàng lợt, thời gian quá lâu nên bức họa nầy bị mối ăn hư hết, rất uổng, và ông Tánh cũng cho biết, bức họa nầy hình như do ông Lỗ Bá Hiền đem lại tặng Ngài Tiếp Pháp.
Sau đó, chúng tôi lại đi sưu tầm bài giải thích của ông Nhạc Sư Lê Ngọc Hội về Nam Bình Phật Tổ, may mắn được Nhạc sĩ Lê Minh Dương, tín đồ Trường Qui Thiện, lấy ra cho mượn xem. Bài của Nhạc Sư Hội đề tựa là: "CẢM TƯỞNG vì sao có tiểu tượng của Nam Bình Phật Tổ thờ ở Đền Thờ Phật Mẫu, cũng như có mặt Ngài ở Trí Giác Cung."
Cuối bài, đề ngày là: "Tòa Thánh Tây Ninh, lập ngày 15-4-Quí Sửu (d 17-5-1973), Nhạc Sư Lê Ngọc Hội, Chưởng quản Bộ Nhạc Trung Ương, bút hiệu Tiêu Tràng."
Nội dung, Nhạc Sư Hội viết: Nam Bình Phật Tổ chính là Tổ Sư Bồ Đề Đạt Ma của Phật giáo, vị Tổ Sư đời thứ 28 của Phật giáo Ấn Độ, đem y bát sang Trung hoa để mở mang Phật giáo ở Trung hoa vào thời vua Lương Võ Đế.
Chúng tôi nhận thấy lời giải thích nầy của Nhạc Sư Hội không phù hạp với lời giải thích của Đức Phạm Hộ Pháp, nên không chép vào đây cho thêm dong dài. (Muốn biết tiểu sử của Tổ Sư Bồ Đề Đạt Ma, xin quí vị xem chữ: Nhứt Tổ, vần Nh).
Ý nghĩa sự thờ Nam Bình Phật Tổ (Nam Bình Vương Phật): (do Đức Phạm Hộ Pháp giải thích)
* Vào năm Nhâm Thìn (1952), anh em thợ hồ khi xây dựng Báo Ân Từ, có bạch hỏi Đức Hộ Pháp về việc thờ Đức Nam Bình Phật Tổ.
Đức Hộ Pháp dạy như sau: - Khuôn bao hình chữ nhựt ở tấm vách ngoài ngó vào Điện Thờ Phật Mẫu, để trống, sau nầy sẽ đắp hình Nam Bình Vương Phật, cũng như Đền Thánh có hình Hộ Pháp ngự trên ngai trông vào Bát Quái Đài đó vậy.
Anh em thợ hồ bạch: - Xin Thầy cho biết hình Nam Bình Phật Tổ thế nào để sau nầy mấy con đắp.
Đức Hộ Pháp nói: - Chừng nào có Điện Thờ Phật Mẫu (ĐTPM) thì Thầy sẽ cho biết, không có gì lạ. Đền Thánh là Bạch Ngọc Kinh tại thế có hình Hộ Pháp mặc Thiên phục khôi giáp, thì nơi ĐTPM, lẽ dĩ nhiên hình của Ngài không mặc Thiên phục, chỉ mặc áo cà sa nhà Phật mà thôi. Nơi Trí Giác Cung, Thầy có dạy thờ Nam Bình Vương Phật trong ĐTPM rồi.
* Đàn cơ tại Cung Đạo Tòa Thánh đêm 26-6-Nhâm Tý (dl 4-8-1972) lúc 20 giờ 15, Phò loan: Hiến Pháp - Khai Đạo.
Đức Phạm Hộ Pháp giáng cơ.
Ngài Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa bạch hỏi Đức Hộ Pháp: "Nơi Báo Ân Từ Tòa Thánh thờ Phật Mẫu, phía ngoài đối diện với bửu điện thì không có tượng chi hết, chỉ ở Địa Linh Động có tượng thờ vị Nam Bình Phật Tổ. Xin Đức Ngài chỉ giáo."
Đức Phạm Hộ Pháp giáng cơ đáp: "Nên đặt vào một nghi tiết riêng biệt, vì Đấng ấy có công mở Đạo tại VN."
Ngài Bảo Đạo bạch hỏi tiếp: "Nơi các Điện Thờ Phật Mẫu sau nầy cũng phải thờ hay không?"
Đức Phạm Hộ Pháp đáp: "Dùng riêng một chỗ cho Người mà thôi."
Qua lời giải thích của Đức Phạm Hộ Pháp: một là với anh em thợ hồ vào năm 1952 lúc Đức Ngài còn sinh tiền, hai là với Ngài Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa vào năm 1972 khi Đức Ngài đã qui Thiên giáng cơ giải đáp, chúng ta thấy có hai điểm quan trọng để thờ Nam Bình Phật Tổ:
1. Nơi Tòa Thánh thờ Đức Chí Tôn, có Hộ Pháp mặc Thiên phục với khôi giáp (vì đây triều nghi của Đức Chí Tôn) đứng ở HTĐ nhìn thẳng vào BQĐ, thì nơi Điện Thờ Phật Mẫu (ĐTPM) cũng tương tự như vậy, cũng phải có tượng Nam Bình Vương Phật, nhưng không được mặc khôi giáp, chỉ mặc áo cà sa (vì Đức Phật Mẫu không có triều nghi, chỉ có tình Mẹ con), đứng đối diện với bửu điện thờ Phật Mẫu.
2. Thờ Nam Bình Phật Tổ vì Đấng ấy có công mở Đạo tại nước Việt Nam.
Đức Hộ Pháp không nói đích danh Nam Bình Vương Phật là Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, nhưng tất cả chúng ta đều hiểu Nam Bình Vương Phật chính là Đức Phạm Hộ Pháp.
BQÐ: Bát Quái Ðài.
HTÐ: Hiệp Thiên Ðài.
Nam châu
南州
A: Viêtnam.
P: Viêtnam.
Nam: Phương Nam, nước VN, người VN. Châu: Giao châu.
Thời Hùng Vương, nước ta có tên là Văn Lang.
Thời An Dương Vương, nước ta có tên là Âu Lạc.
Thời Triệu Đà sửa tên nước là Nam Việt.
Khi nhà Hán đô hộ nước ta thì đặt tên là Giao Chỉ Bộ.
Thái Thú Sĩ Nhiếp xin sửa tên lại là Giao Châu.
Nhà Đường đô hộ nước ta đặt tên là An Nam Đô Hộ Phủ.
Khi Đinh Tiên Hoàng dựng nền độc lập thì đặt tên nước ta là Đại Cồ Việt.
Đến đời nhà Lý thì sửa tên nước ta là Đại Việt, nhưng người Tàu vẫn gọi nước ta là An Nam, gọi vua nước ta là An Nam Quốc Vương hay Nam Bình Vương.
Đến đời nhà Nguyễn, vua Gia Long lên ngôi năm 1802 mới đặt tên nước là Việt Nam, và tên nầy được dùng mãi đến ngày nay.
Một điều khá lý thú là ngay từ thời nhà Mạc (1527-1592), trước khi vua Gia Long lên ngôi khoảng 250 năm, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã ghi ngay nơi trang mở đầu thi tập: Trình Tiên Sinh Quốc Ngữ, câu đầu tiên là: "Việt Nam khởi tổ xây nền", như vậy là mặc nhiên Trạng Trình đã tiên đoán sau nầy nước ta có tên là Việt Nam.
Do đó, từ ngữ Nam Châu là chỉ nước Việt Nam.
KTKVTH: Cõi Nam Châu bồi đắp giang sơn.
KTKVTH: Kinh Tụng Khi Vua Thăng Hà.
Nam đại bất hôn
男大不婚
Nam: Đàn ông con trai, trái với Nữ. Đại: lớn. Bất: không. Hôn: cưới vợ.
Nam đại bất hôn là con trai lớn không cưới vợ,
Trong sách Minh Tâm Bửu Giám, ông Hồ An Định nói:
Nam đại bất hôn như liệt mã vô cương,
Nữ đại bất giá như tư diêm phạm thủ.
Nghĩa là:
Trai lớn không cưới vợ như ngựa kém không cương.
Gái lớn không chồng như con tư diêm bị rờ lên đầu.
(Con tư diêm có đặc tính là ai vỗ đầu nó thì nó chịu theo ngay).
Nam giản - Đông sàng
南澗 - 東床
Nam: Phương Nam, nước VN, người VN. Giản: suối. Đông: hướng Đông. Sàng: giường.
Nam giản là khe suối phía Nam, chỉ người con dâu hiền thảo và đảm đang, nên thường nói là: Dâu Nam giản.
Đông sàng là giường phía Đông, chỉ người rể quí, nên thường nói: rể Đông sàng.
Điển tích:
1. Dâu Nam giản: Bài thơ Thái Tần trong Kinh Thi khen ngợi người vợ đảm đang việc nội trợ, khi cúng bái tổ tiên, đi hái các thứ rau mọc chỗ nước trong để làm đồ ăn dâng cúng.
|
Vu dĩ thái tần, nam giản chi tân,
Vu dĩ thái tảo, vu bỉ hàng lạo. |
Nghĩa là: |
Đi hái rau tần, ở bờ khe phía Nam.
Đi hái rau tảo, bên lạch nước kia. |
Theo phong tục người Tàu thì họ thường dùng rau tảo và rau tần để làm giỗ cúng Tổ Tiên.
Tách riêng hai chữ Nam giản để chỉ người vợ đảm đang, hiếu thảo, biết lo lắng công việc gia đình.
2. Rể Đông sàng: Đời nhà Tấn bên Tàu, có quan Thái Úy tên là Khước Giám, muốn chọn một người rể xứng đáng cho con gái của mình, nên cho người nhà đến trường học của ông Vương Đạo, để xem trong đám học trò của ông Vương Đạo có người nào xứng đáng không?
Sau đó, người nhà trở về báo cáo với Thái Úy rằng:
- Học sinh giỏi thì đông, người nào nghe đến việc Thái Úy kén rể thì đều sửa soạn quần áo tươm tất, ganh đua nhau ra dáng nề nếp, chỉ có một chàng học trò không để ý đến việc đó, phanh áo nằm tréo chân nơi giường phía Đông.
Thái Úy Khước Giám bảo:
- Trò đó mới đáng là rể của ta.
Tên chàng học trò đó là Vương Hy Chi, học rất giỏi, có tài viết chữ đẹp, sau làm quan đến chức Hữu Quân.
Do điển tích nầy, người ta dùng từ ngữ Đông sàng để chỉ chàng rể xứng đáng, tài giỏi.
Nam giao
南郊
A: Heaven worshipping ceremony.
P: Cérémonie de sacrifice au Ciel.
Nam: Phương Nam, nước VN, người VN. Giao: lễ tế Trời tổ chức ở phía Nam kinh thành vào ngày đông chí, gọi là Tế Giao.
Khi vua Gia Long nhà Nguyễn thống nhứt đất nước, lập kinh đô ở Huế, nhà vua cho đắp ở phía Nam kinh thành, thuộc làng Dương Xuân, một nền đất cao và rộng để làm đàn tế Trời gọi là đàn Nam giao. Đàn nầy có 3 phần là Thượng, Trung, Hạ.
Cứ 3 năm một lần, vào ngày đông chí, 20 hoặc 21 tháng 12 dương lịch, vua cùng triều thần đến đàn Nam giáo thiết lễ tế Trời. Lễ vật gồm: trâu tơ mới mọc sừng, dê, heo, xôi, rượu, hoa quả. Hiện nay, di tích đàn Nam giao vẫn còn ở cố đô Huế.
TĐ ĐPHP: Muốn cứu vãn tình thế, tiên nho buộc cả nhà vua và triều chánh, dĩ chí toàn dân, phải ăn chay, nguyện tế, gọi là Lễ Nam giao.
TÐ ÐPHP: Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp.
Nam hoa
南花
A: The Viêtnamese girls.
P: Les filles Viêtnamiennes.
Nam: Phương Nam, nước VN, người VN. Hoa: bông hoa, chỉ người con gái.
Nam hoa là gái nước Nam, phụ nữ Việt Nam.
TNHT: Làu soi gương hạnh rạng Nam hoa.
TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.
Nam Hoa Kinh
南華經
Nam Hoa: tên một hòn núi ở Tào Châu thuộc nước Tống thời xưa bên Tàu. Kinh: sách do bậc Thánh nhân viết ra để dạy về Đạo lý.
Khi Trang Tử đến ở ẩn nơi chân núi Nam Hoa, ông đem hết tinh hoa của Đạo giáo học được nơi Đức Lão Tử, viết thành bộ sách lấy tên núi Nam Hoa mà đặt, gọi là Nam Hoa Kinh, đời sau người ta gọi là sách Trang Tử.
Văn chương trong Nam Hoa Kinh rất có tiết tấu, nhiều câu dùng phép biền ngẫu, lời văn luôn luôn bóng bẩy, trôi chảy, ảnh hưởng rất lớn đến các đời sau: các thi nhân đời Lục Triều như Kê Khang, Nguyễn Tịch, Sơn Đào,... và ngay cả đời Đường như Lý Thái Bạch, đời Tống như Tô Đông Pha đều nhờ bộ kinh nầy mà có thêm nhiều sở đắc.
Nam Hoa Kinh (sách Trang Tử) ngày nay còn được 33 thiên, kể ra như sau đây:
■ NỘI THIÊN: gồm 7 thiên có tựa đề là: Tiêu dao du, Tề vật luận, Dưỡng sanh chủ, Nhơn gian thế, Đức sung phù, Đại tôn sư, Ứng đề vương.
■ NGOẠI THIÊN: gồm 15 thiên có tựa đề là: Biền mẫu, Mã đề, Khư kịp, Tại hựu, Thiên địa, Thiên đạo, Thiên vận, Khắc ý, Thiện tánh, Thu thủy, Chí lạc, Đạt sanh, Sơn mộc, Điền tử phương, Tư bắc du.
■ TẠP THIÊN: gồm 11 thiên: Cang tang sở, Từ vô quỉ, Tắc dương, Ngoại vật, Ngụ ngôn, Nhược vương, Đạo Chích, Thuyết kiếm, Ngư phủ, Liệt ngự khấu, Thiên hạ.
Có 5 nhà làm sách chú thích Nam Hoa Kinh, nhưng số thiên của mỗi nhà chú thích lại khác nhau, kể ra:
1. Bản chú thích của Tư Mã Bưu, 21 quyển, 52 thiên: Nội thiên có 7, Ngoại thiên có 28 và Tạp thiên có 14, Giải thuyết có 3 thiên. Bản chú nầy hiện nay đã thấtlạc, chưa tìm ra.
2. Bản chú của Mạnh Thị, 18 quyển 52 thiên. Bản nầy cũng bị thất lạc.
3. Bản chú của Thôi Soạn, 10 quyển 27 thiên gồm: Nội thiên có 7, Ngoại thiên có 20. Quyển sách nầy cũng đã mất.
4. Bản chú của Hướng Tú, 20 quyển 26 thiên, không có Tạp thiên. Bản nầy cũng đã mất.
5. Bản chú của Quách Tượng, 33 quyển 33 thiên. Nội thiên có 7, Ngoại thiên có 15, Tạp thiên có 11. Bản nầy hiện còn nhưng sửa lại còn 10 quyển.
Về sau có ông Tiêu Hoằng làm ra pho sách Trang Tử Dực, gom góp các lời chú giải của những người trước, từ Quách Tượng trở đi, có lối 22 người. Có thể nói đây là một pho Tạp chú rộng rãi và đầy đủ, rồi phần sau lại có phụ thêm phần Trang Tử Khuyết Ngộ, gom góp những chỗ sai biệt từ cuốn
Nam Hoa Kinh Giải của Lục Cảnh Nguơn đời Tống đến các tài liệu trong Sử Ký, sách Trang Tử Luận của Nguyễn Tịch, Vương An Thạch, sách Trang Tử Từ Đường Ký của Tô Đông Pha, . . . Tóm lại, hầu hết các sách của các học giả nghiên cứu về Trang Tử, ông đều có đọc và trích lục đầy đủ.
Căn cứ vào văn mạch của Trang Tử, chỉ có phần Nội thiên là biểu thị được cái chỗ trọng yếu của học thuyết Trang Tử, còn Ngoại thiên và Tạp thiên thì rất rời rạc, chỉ bàn đi bàn lại những tư tưởng đã phô diễn trong Nội thiên mà thôi.
Trang Tử được xem là ông tổ của phái Văn học u mặc trào lộng của nước Tàu từ xưa đến nay. Cho nên văn của ông toàn dùng lối nghịch thuyết, tức là lối nói nghịch để bổ túc những chân lý phiến diện của người đời. Bởi vậy, văn chương trong Nam Hoa Kinh rất ngang dọc, phóng túng, khi nói xuôi, khi nói ngược, nói Đông để đả kích phía Tây, nói phải để tỏ thêm cái quấy, nói quấy để bổ túc cho cái phải.
Đọc Nam Hoa Kinh, ta nghe toàn là một giọng cười.... cái cười vang siêu thoát của bậc Thánh nhân.
"Tư tưởng của Trang Tử thật sâu xa bao quát vô cùng. Các học giả chú giải hay nghiên cứu Trang Tử, sở dĩ có nhiều chỗ không đồng nhau là vì cái học của Trang Tử không thuộc về địa phận của lý trí, mà thuộc về khu vực Tâm linh trực giác.
Trước hết ta phải xem nó như một Tâm học (Huyền học) hơn là một Triết học suông của lý trí, nghĩa là chẳng phải chỉ học nó như ta nghiên cứu học hỏi các học thuyết khác bằng trí, mà phải dùng đến Tâm để ngộ nó, nghĩa là "sống với nó." Nếu không sống với nó thì học nó chẳng qua là một cuộc mua vui cho trí não nhất thời, không bổ ích gì cho đời sống tinh thần, mà ta không làm sao hiểu nó cho thấu đáo được nữa.
Tôi đã hết sức muốn gìn giữ địa vị khách quan, nhưng đối với một học thuyết nhất nguyên thì bảo bỏ phần chủ quan
cũng khó mà thấy đặng chỗ thâm sâu của lẽ Đạo nhiệm mầu: Ta không thể tách mình ra khỏi sự vật mà hiểu theo quan niệm nhị nguyên cho đặng.
Tôi đã nói: nó là Tâm học, cho nên chẳng những dùng trí mà phải dùng cả Tâm để đi ngay vào nó, đồng hòa với nó, hiểu nó và sống với nó. Chẳng phải kẻ đứng trên dòng sông mà xem nước chảy, mà là kẻ nhảy xuống dòng nước, bơi lội trong đó, để thí nghiệm cái chảy của nó." (Trích trong Trang Tử Tinh Hoa của Nguyễn Duy Cần).
Nam Kha - Mộng Nam Kha
南柯 - 夢南柯
A: The dream of Nam Kha.
P: Le rêve de Nam Kha.
Nam: Phương Nam, nước VN, người VN. Kha: cành cây. Mộng: giấc chiêm bao.
Nam Kha là cành cây phía Nam. Mộng Nam Kha là giấc mộng khi nằm ngủ say dưới cành cây phía Nam.
Điển tích: Theo Dị Văn Lục, Thuần Vu Phần đời Đường, ở đất Quảng Lăng, nhà có cây hòe to, sống lâu năm, cành lá sum suê rậm rạp. Nhân khi vui sinh nhựt của mình, Thuần Vu Phần uống rượu say, nằm ngủ quên dưới cây hòe, mộng thấy mình bay lên không trung, vào một nơi có đề bảng: Đại Hòe An Quốc, được quốc vương nước ấy thương, gả công chúa cho, rồi được bổ đến làm Thái Thú đất Nam Kha, công danh thật hiển hách. Sau, Thuần Vu Phần cầm quân đánh giặc, chẳng may bị thua. Còn công chúa ở nhà bị đau bịnh chết. Vua nước Đại Hòe An nghi ngờ, rồi cách chức đuổi đi. Thuần Vu Phần buồn chán và uất ức, liền giựt mình thức dậy, thấy mình đang nằm dưới cội cây hòe, nơi cành cây phía
Nam, nhìn lên thấy một con kiến chúa đang nằm trong một tổ kiến lớn.
Thuần Vu Phần nằm suy nghĩ về giấc mộng vừa qua của mình, chợt tỉnh ngộ, hiểu rằng nước Đại Hòa An là cây hòe lớn, cành cây phía Nam là đất Nam Kha, vua nước Đại Hòe An là con kiến chúa, dân chúng là toàn ổ kiến.
Thuần Vu Phần cảm câu chuyện trong mộng, tỉnh ngộ biết cảnh đời là ngắn ngủi, không định liệu được việc gì cả, bèn dốc lòng tìm đạo tu hành.
Trong văn chương thường dùng điển tích nầy với các từ ngữ: Giấc Nam Kha, giấc hòe, để chỉ cuộc đời là phù du mộng ảo; công danh phú quí như giấc chiêm bao.
KCBCTBCHĐQL: Định tâm thần giải mộng Nam Kha.
KCBCTBCHÐQL: Kinh cầu bà con thân bằng cố hữu đã qui liễu.
Nam mô
南無
A: Veneration to.
P: Vénération à.
Nam mô: là chữ phiên âm từ tiếng Phạn: Namah, người Tàu phiên âm là Nam vô, người Việt phiên âm là Nam mô, dịch nghĩa ra là: qui mệnh, kỉnh lễ, cứu ngã, độ ngã.
Nam mô là câu nói của chúng sanh khi hướng về Phật, qui y tín thuận, quyết chí vâng theo lời Phật dạy, xin gởi trọn đời mình cho Phật.
Ý nghĩa chơn thật của từ ngữ Nam mô là như thế, nhưng thông thường người ta dùng tiếng Nam mô làm chữ khởi đầu cho câu cầu nguyện. Thí dụ: Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát, Nam mô Lý Đại Tiên Trưởng....
Trước khi đảnh lễ Đức Chí Tôn, người tín đồ Cao Đài phải lấy dấu Phật, Pháp, Tăng và niệm: Nam mô Phật, Nam mô Pháp, Nam mô Tăng.
1. Nam mô Phật: là nguyện noi theo đại đức đại từ đại bi, chí thiện chí mỹ của Đức Chí Tôn, Đấng toàn năng toàn tri, ân đức háo sanh vô biên vô lượng.
2. Nam mô Pháp: là nguyện noi theo các pháp vô vi huyền diệu của Đức Chí Tôn, tôn kính và tuân theo các lời vàng ngọc của Đức Chí Tôn truyền dạy để tu tâm sửa tánh cho trở nên thiện lương chơn chánh, lập công bồi đức giải quả tiền khiên, thoát đọa luân hồi để sớm trở về cùng Đức Chí Tôn.
3. Nam mô Tăng: là nguyện thương yêu toàn cả chúng sanh, nguyện thân cận với những vị đạo cao đức trọng để học hỏi Đạo lý và tiến hóa tâm linh.
Nam ngoại Nữ nội
男外女內
Nam: Đàn ông con trai, trái với Nữ. Ngoại: ngoài. Nữ: đàn bà. Nội: trong.
Nam ngoại nữ nội là đàn ông thì lo việc bên ngoài gia đình, đàn bà thì lo việc bên trong gia đình.
Đó là sự phân công phân nhiệm một cách tổng quát trong gia đình theo truyền thống của dân tộc ta.
Nam nhi
男兒
A: Men.
P: Hommes.
Nam: Đàn ông con trai, trái với Nữ. Nhi: con trẻ, người trẻ tuổi.
Nam nhi là chỉ chung đàn ông con trai.
Nam nhi chi khí: Khí phách của kẻ làm trai, tức là cái sức hiên ngang cứng cỏi của kẻ làm trai.
TNHT: |
Thanh sử từng nêu gương nữ kiệt,
Hồng ân chi kém bạn nam nhi. |
TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.
Nam nữ thọ thọ bất thân
男女授受不親
Nam: Đàn ông con trai, trái với Nữ. Nữ: đàn bà con gái. Thọ thọ: trao cho và nhận lấy. Chữ THỌ 授 trước là trao cho; chữ THỌ 受 sau là nhận lấy. Bất thân: không gần gũi, không thân cận.
Nam nữ thọ thọ bất thân nghĩa là: con trai và con gái đưa và nhận vật gì, không được lấy tay mà trao cho nhau một cách thân cận, phải phân biệt để tránh sự khêu gợi dục vọng dâm tà. (bàn tay con trai và con gái không được đụng chạm nhau)
TNHT: Nam nữ bất thân, Nam ở Đông hiên, nữ ở Tây hiên.
TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.
Nam phong thử nhựt biến nhơn phong
南風此日變人風
Nam: Phương Nam, nước VN, người VN. Phong: phong hoá. Thử: ấy, cái ấy. Nhựt: ngày. Biến: biến hoá tạo ra. Nhơn: người, nhơn loại. Nam phong: phong hóa của người Việt Nam. Nhơn phong: phong hóa của nhơn loại.
Nam phong thử nhựt biến nhơn phong: nền phong hóa của người VN ngày ấy biến thành nền phong hóa của nhơn loại.
Câu thi vừa giải nghĩa trên nằm trong bài thi của Đức Chí Tôn giáng cơ ban cho để ông Lê Văn Hoạch trao cho vua Bảo Đại. Xin chép bài Thánh Ngôn nầy ra sau đây:
Phò loan:
Hộ Pháp
Tiếp Đạo. |
BÁO ÂN TỪ, đêm 11 rạng 12 tháng 12 Đ. Hợi.
(dl đêm 21 rạng 22-1-1948),1 giờ tới 1 giờ rưởi. |
THẦY, các con,
Từ ngày nay là ngày Thầy đắc vọng cho toàn cả nòi giống các con.
VĨNH và HỌACH phải hiệp cùng VĨNH THỤY mà làm cho tròn Thánh ý Thầy đã định nghe. TẮC, con biểu TÀI viết Nho văn bài thi nầy cho HOẠCH đưa tận tay VĨNH THỤY.
THI:
Thượng hạ nhị Thiên xử địa hoàn,
Việt Nam nhứt quốc nhứt giang san.
Hoàng đồ toàn bảo Thiên thi định,
Đảnh tộ trường lưu tổ nghiệp tồn.
Quốc Đạo kim triêu thành Đại Đạo,
Nam phong thử nhựt biến nhơn phong.
An dân liệt Thánh tùng Nghiêu Thuấn,
Văn hóa tương lai lập Đại Đồng.
Thầy lại còn muốn cho hai con HOẠCH và VĨNH hiệp cùng VĨNH THỤY hội thuyết tại Vịnh Hạ Long, nghe à.
Thầy ban ơn cho các con. Thăng.
Ghi chú:
VĨNH: Tiếp Thế Lê Thế Vĩnh.
HOẠCH: Bảo Sanh Quân Lê Văn Hoạch, Thủ Tướng.
VĨNH THỤY: tên của vua Bảo Đại: Nguyễn Vĩnh Thụy.
TẮC: Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc.
TÀI: Nguyễn Bửu Tài phái Tiên Thiên, qui hiệp Tòa Thánh Tây Ninh, được Đức Lý Giáo Tông phong chức Phối Sư phái Thượng.
Trong bài thi có chữ: Đảnh tộ.
Đảnh: Đỉnh: cái vạc, to lớn, đang lúc. Tộ: vận nước nối đời thịnh vượng. Đảnh tộ là vận nước đang lúc thịnh vượng.
Viết bài thi ra Hán văn:
上下二天處地環
越南一國一江山
皇圖全保天書定
鼎祚長流祖業存
國道今朝成大道
南風此日變人風
安民烈聖從堯舜
文化將來立大同
Nam phụ lão ấu
男婦老幼
A: Men, women, old men and children.
P: Hommes, femmes, vieillards et enfants.
Nam: Đàn ông con trai, trái với Nữ. Phụ: đàn bà. Lão: người già. Ấu: trẻ nhỏ.
Nam phụ lão ấu là đàn ông, đàn bà, người già và con nít, ý nói tất cả mọi người già trẻ trong địa phương.
Nam quốc sơn hà
南國山河
Nam: Phương Nam, nước VN, người VN. Quốc: nước. Sơn: núi. Hà: sông.
Nam quốc sơn hà là non sông nước Việt Nam.
Ông Lý Thường Kiệt đời nhà Lý kéo quân Nam sang đánh Quảng Đông của Tàu, có làm bài thi tứ tuyệt bằng Hán văn để khích lệ tinh thần tướng sĩ, chép ra như sau:
Nam quốc sơn hà Nam Đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại Thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Viết ra Hán văn:
南國山河南帝居
截然定分在天書
如何逆虜來侵犯
汝等行看守敗虛
Dịch nghĩa:
Non sông nước Nam vua Nam ở,
Rõ ràng định phận tại Thiên thơ.
Tại sao quân giặc kéo đến xâm phạm?
Bọn bây rồi coi nhận lấy thất bại tan tành.
Nam tả - Nữ hữu
男左 - 女右
A: Man on the left - Woman on the right.
P: Homme à gauche - Femme à droite.
Nam: Đàn ông con trai, trái với Nữ. Tả: bên tay trái. Hữu: bên tay mặt.
Nam tả là đàn ông (phái Nam) ở phía tay trái.
Nữ hữu là đàn bà (phái Nữ) ở phía tay mặt.
CG PCT: "Tòa Thánh day mặt về hướng Tây tức là chánh cung Đoài, ấy là Cung Đạo, còn bên tay trái Thầy là cung Càn, bên tay mặt Thầy là cung Khôn. Đáng lẽ Thầy phải để 7 cái ngai của phái Nam bên tay trái Thầy tức bên cung Càn mới phải, song chúng nó vì thể Nhơn Đạo cho đủ Ngũ Chi, cho nên Thầy buộc phải để vào Cung Đạo là cung Đoài cho đủ số.
Ấy vậy, cái ngai của Đầu Sư Nữ phái phải để bên cung Khôn tức là bên tay mặt Thầy."
Như vậy, chúng ta thấy: bên tay trái của Đức Chí Tôn dành cho Nam phái (Nam tả) vì bên tả thuộc cung Càn theo Bát Quái Đồ Cao Đài, và bên tay mặt của Đức Chí Tôn dành cho Nữ phái (Nữ hữu) vì bên hữu thuộc cung Khôn theo Bát Quái Đồ Cao Đài. (Xem: Bát Quái, vần B)
CG PCT: Chú Giải Pháp Chánh Truyền.
Nam Tào - Bắc Đẩu
南曹 - 北斗
1. Nam Tào và Bắc Đẩu là hai vì sao ở trên trục Nam Bắc của Địa cầu. Khi Địa cầu chuyển động tự quay và quay chung quanh Mặt Trời, hai vì sao nầy vẫn luôn luôn ở trên trục Nam Bắc của Địa cầu.
- Đặc biệt sao Bắc đẩu là một Định tinh, ở tại trung tâm của Càn Khôn Vũ Trụ, nên tất cả các chùm sao khác đều quay quanh sao Bắc Đẩu. (Xem chữ: Bắc Đẩu)
- Sao Nam Tào không phải là một Định tinh, nhưng có chuyển động thế nào để luôn luôn nằm trên hướng Nam của trục Địa cầu. Cho nên các nhà hàng hải dùng sao Nam Tào để định hướng Nam của Địa cầu.
Muốn tìm sao Nam Tào, trước hết phải tìm chòm sao Chữ Thập (La Croix du Sud) gồm bốn ngôi sao khá sáng luôn luôn hiện rõ ở lưng chừng bầu Trời phía Nam. Từ sao Chữ Thập nầy, kéo một đường thẳng tưởng tượng theo nét sổ dài xuống chân trời thì gặp một ngôi sao hơi lu nằm gần sát chơn trời. Đó là sao Nam Tào, nên cũng gọi là sao Nam Cực.
2. Nam Tào Bắc Đẩu là hai vị Tiên coi Bộ Sanh và Bộ Tử của nhơn loại nơi cõi trần.
· Nam Tào (Nam Cực) Tiên Ông coi Bộ Sanh.
· Bắc Đẩu Tiên Ông coi Bộ Tử.
TNHT: |
Vạn trượng then gài ngăn Bắc Đẩu,
Muôn trùng nhíp khảm hiệp Nam Tào. |
KTHĐMP: |
Rủi Thiên số Nam Tào đã định,
Giải căn sinh xa lánh trần ai. |
TĐ ĐPHP: Con đường TLHS:
"Nếu khi về được rồi, thân nhân của chúng ta dắt chúng ta đến một cung có một quyển sách Thiên Thơ (Vô Tự Kinh) để trước mặt ta, dở ra xem thấy tên mình và kiếp sanh của mình đã làm gì, thì trong quyển Thiên Thơ ấy nó hiện tượng ra hết, chúng ta tự xử chúng ta, mình làm tòa để xử mình, hoặc mình phải đầu kiếp hay là đoạt đến địa vị nào, mình đứng đến mức nào thì cũng do mình định đoạt lấy.
Vị Chưởng quản nơi cung ấy theo tiếng phàm của chúng ta đặt tên là Nam Tào Bắc Đẩu."
Sau đây, xin chép sự tích của hai Ông Tiên: Nam Tào và Bắc Đẩu định số kiếp sanh tử của mỗi người nơi cõi trần:
Ông Quản Lộ, tự là Công Minh, vốn người ở đất Bình Nguyên đời Tam Quốc, diện mạo xấu xí, thích uống rượu. Từ bé, Quản Lôï thích xem Thiên văn, thường đêm nằm xem trăng sao, thao thức không chợp mắt, cha mẹ ngăn cấm không được.
Vừa lớn lên, Quản Lộ làu thông Kinh Dịch, hiểu được ý nghĩa uyên thâm, biết đoán chiều gió, tinh thông khoa lý số, và giỏi cả việc xem tướng.
Một hôm, Quản Lộ ra cánh đồng dạo chơi, thấy một gã thanh niên đang cày ruộng. Quản Lộ dừng lại bên lề đường, ngắm anh thợ cày một lúc, đoạn gọi lại hỏi:
- Nầy anh kia, dám hỏi quí danh và niên kỷ bao nhiêu?
- Tôi họ Triệu, tên Nhan, 19 tuổi. Còn tiên sinh là ai?
- Ta là Quản Lộ. Ta thấy trên quầng mắt của anh có tử khí, chỉ 3 ngày nữa là anh phải chết. Tiếc thay gương mặt đẹp thế kia mà sống không thọ.
Triệu Nhan nghe Quản Lộ nói thế thì lo sợ, về nhà ngay báo cho cha biết. Người cha lập tức đi tìm Quản Lộ, rồi phủ phục xuống đất kêu khóc:
- Xin tiên sinh rủ lòng thương cứu mạng con tôi.
Quản Lộ đáp: - Đó là số Trời, cầu đảo sao được.
Ông lão vẫn năn nỉ van lơn:
- Già nầy chỉ có một đứa con trai là Triệu Nhan, xin tiên sinh rủ lòng thương mà cứu cho.
Nói xong cả hai cha con đều sụp lạy Quản Lộ.
Quản Lộ thấy hai cha con thảm thiết quá, không nỡ bỏ, đành mách bảo:
- Anh hãy về nhà tìm một vò rượu thật tinh khiết và thật ngon, với một ít món nhắm ngon, không được dùng thịt, ngày mai đem vào núi Nam Sơn, tìm gốc cây cổ thụ, sẽ thấy trên phiến đá có hai ông già đang ngồi đánh cờ.
· Một ông mặc áo trắng, ngồi quay mặt hướng Nam, dung mạo nghiêm khắc.
· Một ông mặc áo hồng, ngồi quay mặt hướng Bắc, dung mạo hiền hòa.
Bấy giờ, thừa lúc hai vị cao hứng mãi mê đánh cờ, anh cứ bày rượu và món nhắm ra mâm dâng lên. Đợi cho hai ông lão ăn uống và đánh cờ xong thì anh lạy khóc mà van xin tuổi thọ, như thế may ra anh được hai vị sửa đổi tuổi thọ cho anh. Nhớ kỹ một điều là đừng nói ta xúi anh làm việc nầy nhé.
Cha của Triệu Nhan mời Quản Lộ về nhà để thết đãi và chờ xem kết quả.
Hôm sau, Triệu Nhan làm y như lời Quản Lộ dặn, đem rượu ngon, nem nướng, ly chén lên núi Nam Sơn, đi chừng năm dặm thì đến cây đại thọ, gặp hai ông Tiên đang ngồi đánh cờ trên phiến đá. Triệu Nhan đội mâm rượu sẻ sẻ đến gần, hai ông chăm chú đánh cờ. Triệu Nhan quì dâng mâm lên, đặt trên bàn thạch. Hai ông mãi mê đánh cờ, cao hứng, bất giác đưa tay cầm chén rượu nâng lên uống cạn, rồi vừa ăn uống vừa đánh cờ một cách hứng thú ngon lành.
Đợi hai ông đánh xong ván cờ, Triệu Nhan sụp lạy khóc òa lên, cầu xin hai Tiên Ông cho thêm tuổi thọ. Hai ông lão giựt mình nhìn lại thấy Triệu Nhan như thế, đoạn ông áo đỏ bảo ông áo trắng:
- Đây chắc là gã Quản Lộ xúi nó đến đây, nhưng hai ta đã dùng của nó thì cũng nên giúp nó.
Ông áo trắng liền rút cuốn Bộ Tử trong mình ra, tìm một lúc rồi bảo Triệu Nhan:
- Năm nay nhà ngươi 19 tuổi, đáng lý phải chết, giờ đây ta thêm cho một chữ cửu lên trên hai chữ thập cửu thì ngươi sẽ sống tới cửu thập cửu tức là 99 tuổi. Nhưng ngươi về nhà nói với gã Quản Lộ rằng: Từ nay phải chừa đi, chớ tiết lộ Thiên cơ nữa. Nếu không thì Trời sẽ khiển phạt nghe chưa?
Ông áo hồng cũng rút cuốn Bộ Sanh trong mình ra, rồi cũng tìm chỗ tên Triệu Nhan thêm vào một nét bút.
Một cơn gió thơm ngào ngạt thổi qua, hai Ông Tiên biến thành hai con hạc trắng bay lên mất hút.
Triệu Nhan mừng rỡ lạy tạ, rồi thu xếp ly chén trở về nhà. Khi gặp lại Quản Lộ và cha, Triệu Nhan thuật lại hết các việc, không quên thuật lại lời nhắn nhủ của hai ông Tiên cho Quản Lộ rõ. Triệu Nhan lại hỏi Quản Lộ hai ông Tiên ấy là ai?
Quản Lộ đáp:
- Ông Tiên áo hồng chính là ngôi Nam Đẩu, gọi là Nam Tào; còn ông Tiên áo trắng chính là ngôi Bắc Đẩu.
Triệu Nhan lại hỏi:
- Tôi nghe nói Bắc Đẩu có 7 vị, sao chỉ thấy có 1 ông?
Quản Lộ giải thích:
- Phân ra thì thành 7, kết hợp lại thì thành 1.
• Bắc Đẩu cầm Bộ Tử.
• Nam Tào cầm Bộ Sanh.
Nay đã sửa tuổi thọ của anh rồi thì anh còn lo chi nữa.
Từ đó, Quản Lộ lo sợ tội tiết lộ Thiên cơ nên không dám khinh suất nói hở việc huyền bí cho ai biết nữa.
TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.
KTHÐMP: Kinh Tụng Huynh Ðệ Mãn Phần.
TÐ ÐPHP: Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp.
Nam thanh nữ tú
男清女秀
A: Good looking boy and pretty girl.
P: Beau jeune homme et charmante jeune fille.
Nam: Đàn ông con trai, trái với Nữ. Thanh: trong sạch. Nữ: con gái. Tú: đẹp.
Nam thanh nữ tú là trai xinh gái đẹp.
Nam Thiệm Bộ Châu
南贍部洲
Nam: Phương Nam, nước VN, người VN. Thiệm Bộ: tên một giống cây. Châu: vùng đất lớn mà chung quanh là biển.
Theo Phật giáo, Nam Thiệm Bộ Châu là vùng đất lớn ở về phía Nam núi Tu Di, mà trên Châu nầy có mọc rất nhiều cây Thiệm bộ. Nam Thiệm Bộ Châu là châu của chúng ta đang ở, cũng có nghĩa là cõi Ấn Độ.
Theo Vũ Trụ quan của Đạo Cao Đài, Nam Thiệm Bộ Châu là tên của một Châu trong Tứ Đại Bộ Châu nơi cõi thiêng liêng, mà Thất thập nhị Địa (72 Địa cầu) nằm trong Tứ Đại Bộ Châu nầy. Địa cầu 68 của nhơn loại chúng ta nằm trong Nam Thiệm Bộ Châu. (Xem chi tiết nơi chữ: Tứ Đại Bộ Châu, vần T)
BXTCĐPTTT: Xin giải nàn Nam Thiệm Bộ Châu.
BXTCÐPTTT: Bài Xưng Tụng Công Ðức Phật Tiên Thánh Thần.
Nam trung
男中
A: In the men.
P: Dans les hommes.
Nam: Đàn ông con trai, trái với Nữ. Trung: ở giữa, ở trong.
Nam trung là trong giới đàn ông, tức là người đàn ông trong giới đàn ông.
TNHT: Gương soi hậu thế vẹn nam trung.
TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.
NAN
NAN
NAN: 難 Khó.
Td: Nan đào, Nan phân, Nan y.
Nan đào
難逃
A: Difficult to escape.
P: Difficile à s'enfuir.
Nan: Khó. Đào: trốn, chạy trốn.
Nan đào là khó mà trốn thoát.
Kiếp số nan đào: không thể chạy trốn khỏi số mệnh.
Nan huynh nan đệ
難兄難弟
Nan: Khó. Huynh: anh. Đệ: em.
Nan huynh nan đệ là anh khó làm anh, em khó làm em.
Ý nói: Anh giỏi thì em khó xứng làm em, em giỏi thì anh khó xứng làm anh. Cả hai anh em đều tài giỏi.
Đời nhà Hán, hai anh em Nguyên Phương và Qúi Phương đều rất tài giỏi nên nói: "Nguyên Phương nan vi huynh, Quí Phương nan vi đệ."
Nan phân
難分
A: Difficult to distinguish.
P: Difficile à distinguer.
Nan: Khó. Phân: chia tách riêng ra.
Nan phân là khó phân biệt cái nào ra cái nào, vì chúng lẫn lộn vào nhau.
TNHT: Chánh Tà, Tà Chánh nan phân.
TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.
Nan trung chi nan
難中之難
A: A difficulty in several difficulties.
P: Une difficulté dans plusieurs difficultés.
Nan: Khó. Trung: ở trong. Chi: hư tự.
Nan trung chi nan là cái khó ở trong cái khó, ý nói: việc rất khó khăn, khó khăn dồn dập.
Nan y
難醫
A: Incurable.
P: Incurable.
Nan: Khó. Y: trị bịnh, chữa bịnh.
Nan y là bịnh khó trị, chứng bịnh rất khó chữa cho lành.
NÁO
Náo động nhơn tâm
鬧動人心
Náo: ồn áo. Động: làm cho rung động, lo lắng. Nhơn tâm: lòng người, lòng dạ của dân chúng.
Náo động nhơn tâm là làm cho lòng dạ dân chúng lo lắng không yên.
NÃO
Não cân
腦筋
A: Cerebral muscles.
P: Muscles cérébraux.
Não: Óc, não bộ. Cân: gân.
Não cân là hệ thần kinh của con người, là trung tâm của sự hiểu biết và cảm giác.
TNHT: Chớ nên xao động tâm trí, ngơ ngẩn theo thường tình thì não cân được tự minh.
TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.
Não loạn
惱亂
A: Sorrow and troubled.
P: Triste et troublé.
Não: phiền muộn. Loạn: bối rối.
Não loạn là phiền muộn và bối rối, chẳng được an lạc.
NĂM
Năm cây hương
A: Five sticks of incense.
P: Cinq baguettes d'encens.
Hương: cây nhang đốt cháy tỏa mùi thơm.
Khi chưa đốt gọi là Nhang, khi đốt lên thì gọi là Hương.
Phần Tiểu Dẫn: Cách thờ phượng và cúng kiếng, nơi phần đầu của Quyển Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo, Hội Thánh viết như sau: "Khi cúng Thầy, phải đốt cho đủ năm cây hương, cắm hàng trong ba cây gọi là Án Tam Tài, thêm hàng ngoài hai cây nữa gọi là Tượng Ngũ Khí."
Thứ tự cắm 5 cây hương:
Thứ tự cắm 5 cây hương nầy giống như khi chúng ta lấy dấu: Nam mô Phật, Pháp, Tăng. (Xem hình vẽ)
Án Tam Tài: Án là cầm giữ, đứng hàng ngang. Tam Tài là: Thiên, Địa, Nhơn. Án Tam Tài là ba ngôi Thiên Địa Nhơn đứng hàng ngang.
Tượng Ngũ Khí: tượng trưng 5 chất Khí, tức là 5 cái năng lực khởi đầu của vũ trụ. Ngũ Khí là chất khí nên không hình ảnh, thuộc thời Tiên Thiên, nhưng khi ngưng kết lại thì có hình ảnh, thuộc thời Hậu Thiên, tạo thành Ngũ Hành: Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ.
Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo giải thích như sau:
"Nói về 5 cây nhang, từ thử Bần đạo để cho các Nho gia tự do giảng giải sao thì giảng, còn Bần đạo hiểu rõ là Ngũ Khí.
Chí Tôn dùng Ngũ Khí biến thành Ngũ Hành, vận chuyển Càn khôn thế giới, tức là: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Mỗi chất đều có mỗi sắc, mỗi sắc đều có mỗi Khí. Mùi vị và sanh quang của nó, chúng ta không thể hưởng được, nghe được.
Nên chi, khi làm lễ đốt đủ Năm cây hương là đúng theo phép tín ngưỡng, là qui pháp lại, mọi vật trong Ngũ Khí dâng lễ cho Đức Chí Tôn, chỉ có Người vui hưởng qui pháp ấy mà thôi. Cắt nghĩa rõ rệt ra là Ngũ Khí đó vậy. Đúng hơn nữa là trong Bát hồn vận chuyển được phải nhờ đến Ngũ Khí, cùng một ý nghĩa với: Vạn vật đồng thinh niệm Chí Tôn."
Vậy Năm cây hương nầy là lễ hiến Ngũ Khí dâng lên Đức Chí Tôn.
Năm cây hương nầy, chữ Hán gọi là: Ngũ hương hay Ngũ phần hương. Do đó, một số vị giải thích ý nghĩa Năm cây hương theo y như Phật giáo. Điều nầy không phù hợp với lời giải thích của Đức Phạm Hộ Pháp, tức là không đúng theo giáo lý của Đạo Cao Đài.
Hơn nữa, Ngũ hương bên Phật giáo là 5 thứ hơi thơm, chớ không phải là 5 cây nhang đốt lên cắm vào lư hương khi làm lễ. Chúng ta sẽ thấy sau đây:
Theo Phật học Từ Điển của Đoàn Trung Còn, trang 397 cuốn II, giải thích Ngũ hương, chép ra:
"Ngũ hương là năm thứ hương, năm thứ hơi thơm.
Trong khi dâng các thứ hương như: trầm hương, quế hương, chiên đàn hương, v.v... cúng Phật, người ta cũng thành tâm mà dâng luôn năm thứ hương nơi mình:
1. Giái hương (Encens de la bonne conduite)
2. Định hương (Encens de la méditation)
3. Huệ hương (Encens de la sagesse)
4. Giải thoát hương (Encens de la délivrance)
5. Giải thoát tri kiến hương (Encens de la vue parfaite).
Giái hương: Hơi thơm của người có giái hạnh.
Người ấy lòng không chê bai kẻ khác, không hung dữ, không ganh hiền ghét ngõ, không tham không giận, không ép người và không gạt người.
Định hương: Hơi thơm của người tu thiền.
Người ấy giữ tâm tự nhiên, không phiền lụy vì sự thiện ác ở đời, không vui không giận, không sợ không mừng, tức là tâm chẳng loạn động.
Huệ hương: Hơi thơm của người đắc trí huệ.
Người ấy tâm được giải thoát, không chạy rượt theo danh lợi, không bị danh lợi ràng buộc mà sa vào thất tình. Nhờ vậy, tâm được sáng suốt, phân biệt được việc thiện, ác.
Giải thoát hương: Hơi thơm của người được giải thoát.
Người ấy giữ cho tâm ý đừng có dính vào các sự ác trược, không theo bọn sư tà thuật phù chú, hùng cường mà làm việc thiện, dẫu có bị hại cũng không nao.
Giải thoát tri kiến hương: Hơi thơm của người tự biết mình được giải thoát.
Người ấy được tâm tự tại, biết mình được giải thoát, thấy cái bổn tánh Như Lai của mình.
Ngũ hương ấy cũng kêu là Ngũ phần pháp thân hương, năm sự thơm lành hiệp lại làm cái Pháp thân. Năm thứ hương ấy quí hơn tất cả các thứ hương bằng vật chất mà mình cúng dường lên Phật.
Ngũ hương lại là 5 thứ hương dùng để cúng Phật hoặc để làm thơm đồ vật:
1. Đàn hương. 2. Trầm hương. 3. Đinh hương. 4. Uất kim hương. 5. Long não hương.
Năm châu
A: Five continents.
P: Cinq continents.
Năm châu (Hán văn: Ngũ châu) là năm vùng đất lớn trên địa cầu. Năm châu gồm: Á châu, Âu châu, Mỹ châu, Phi châu, và Úc châu.
Năm châu là chỉ toàn cả thế giới, toàn cả nhơn loại.
TNHT: Độ hồn nay gội khắp năm châu.
TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.
Năm hằng
A: Five cardinal virtues.
P: Cinq vertus cardinales.
Năm hằng, chữ Hán là Ngũ thường, là năm đức tánh thường có của con người.
Năm hằng gồm: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
(Xem chi tiết nơi chữ: Tam cang - Ngũ thường, vần T)
KSH: Ba giềng nắm chặt, năm hằng chớ lơi.
(Ba giềng - Năm hằng: dịch chữ Tam cang - Ngũ thường)
KSH: Kinh Sám Hối.
Năm sắc hoa tươi
A: The five fresh-coloured flowers.
P: Les fleurs fraiâches de cinq couleurs.
Năm sắc hoa tươi là năm thứ hoa có năm màu tươi tốt dùng để dâng cúng Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu.
Hoa tượng trưng xác thân của chúng ta. Năm sắc hoa tươi ấy để tượng trưng Ngũ tạng hay là Ngũ quan của cơ thể chúng ta, mà Ngũ tạng hay Ngũ quan tương ứng với Ngũ Hành (Kim, Thuỷ, Mộc Hỏa, Thổ), tức là tương ứng với năm màu khác nhau, kể ra:
NGŨ TẠNG: |
NGŨ QUAN: |
NGŨ HÀNH: |
Tâm (tim) |
Lưỡi
|
Hỏa (đỏ) |
Can (gan) |
Mắt
|
Mộc (xanh) |
Tỳ (lá lách) |
Miệng
|
Thổ (vàng) |
Phế (phổi) |
Mũi
|
Kim (trắng) |
Thận (thận) |
Tai
|
Thủy (đen) |
Như thế, khi dâng năm sắc hoa tươi lên cúng Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu, nên chọn năm màu hoa tương ứng với Ngũ hành. Các hoa màu trắng, vàng, đỏ, xanh thì dễ có; riêng hoa màu đen không có thì thay bằng hoa màu đỏ sậm hay tím sậm.
BDH: Năm sắc hoa tươi xin kỉnh lễ.
BDH: Bài Dâng Hoa.
NẮM
Nắm tâm
A: To keep the heart.
P: Conserver le coeur.
Nắm: Giữ chặt trong bàn tay. Tâm: lòng dạ, cái tâm.
Nắm tâm là giữ chặt cái tâm cho yên tĩnh, trong sạch, không cho vọng động ham muốn.
KKTD: Nắm tâm đắp vững mặt thành Càn khôn.
KKTD: Kinh khi thức dậy.
Nắm tâm hương
A: A handful of perfumes of sincerity.
P: Une poigné de parfums de sincérité.
Nắm: một bó nhỏ vừa cầm trong bàn tay. Tâm: lòng dạ. Hương: cây nhang đốt cháy tỏa mùi thơm.
Tâm hương là dùng tấm lòng thành làm nén hương dâng lên cầu nguyện.
Nắm tâm hương là lấy tấm lòng chơn thành làm bó hương dâng lên cầu nguyện.
KCTPĐQL: |
Nhớ nỗi hiếu khó ngăn nét thảm,
Tưởng nguồn ân đốt nắm tâm hương. |
KCTPÐQL: Kinh cầu Tổ Phụ đã qui liễu.
NẠP
Nạp bất phu xuất
納不敷出
Nạp: nộp vào, thâu vào. Bất: không. Phu: đủ. Xuất: chi ra.
Nạp bất phu xuất là số thâu vào không đủ cho số xuất ra.
Nạp thái - Nạp trưng
(Xem: Lục lễ danh nghi, vần L)
NĂNG
NĂNG
NĂNG: 能 Khả năng, sức làm được việc, tài giỏi.
Td: Năng cứu, Năng thuyết.
Năng cứu
能救
A: To have ability to save.
P: Être possible de sauver.
Năng: Khả năng, sức làm được việc, tài giỏi. Cứu: giúp cho thoát nạn.
Năng cứu là có khả năng cứu thoát.
DLCK: Năng cứu tật bịnh, năng cứu tam tai,....
DLCK: Di Lạc Chơn Kinh.
Năng du ta bà thế giới
能遊娑婆世界
Năng: Khả năng, sức làm được việc, tài giỏi. Du: đi xa. Ta bà thế giới: các cõi trần.
Năng du ta bà thế giới là có khả năng đi đến các cõi trần có chúng sanh sinh sống.
DLCK: Năng du ta bà thế giới độ tận vạn linh đắc qui Phật vị.
DLCK: Di Lạc Chơn Kinh.
Năng giả đa lao
能者多勞
Năng: Khả năng, sức làm được việc, tài giỏi. Giả: hư tự. Đa: nhiều. Lao: mệt.
Năng giả đa lao là tài giỏi thì mệt nhiều.
Người tài giỏi thì có nhiều việc để làm nên càng thêm mệt nhọc.
Năng lai năng khứ khinh khinh
能來能去輕輕
Năng: Khả năng, sức làm được việc, tài giỏi. Lai: tới. Khứ: đi. Khinh khinh: nhẹ nhàng.
Năng lai năng khứ khinh khinh: (chơn thần) có khả năng đến, có khả năng đi một cách nhẹ nhàng.
Năng mách bảo
A: To advise frequently.
P: Adviser fréquemment.
Năng: (tiếng nôm) thường thường. Mách: báo cho biết. Bảo: nói cho biết điều hay lẽ phải.
Năng mách bảo là thường hay báo cho biết và dạy bảo.
KKĐN: Đấng thiêng liêng năng mách bảo giùm.
KKÐN: Kinh khi đi ngủ.
Năng thuyết bất năng hành
能說不能行
A: Good words and no deeds.
P: Bien dire mais non bien faire.
Năng: Khả năng, sức làm được việc, tài giỏi. Thuyết: nói lý lẽ nhằm làm cho người ta nghe theo. Bất năng: không khả năng. Hành: làm.
Năng thuyết bất năng hành là có khả năng nói mà không có khả năng làm, nói được mà không làm được, ý nói: người không thực tế, chỉ lý thuyết suông.
NÂU
Nâu sồng
A: Dark brown colour.
P: Couleur brune sombre.
Nâu: màu nâu. Sồng: màu dà, màu nâu tối.
Nâu sồng là màu nâu và màu dà. Hai màu nầy tối, không đẹp, được Phật giáo chọn để nhuộm quần áo cho các tăng ni mặc thường ngày, để tỏ ý không khoe đẹp, tiết kiệm, thể hiện hạnh tốt của người tu hành phế đời hành đạo.
Nâu sồng là chỉ người tu hành, hay việc tu hành.
TNHT: Nhuộm áo nâu sồng về Cực Lạc.
TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.
NẺO
Nẻo
NẺO: (nôm) Lối đi, con đường đi.
Td: Nẻo hạnh, Nẻo hoạn, Nẻo phiền.
Nẻo hạnh
A: The path of plum-trees; the path of virtue.
P: Le chemin des pruniers; le chemin de vertu.
Nẻo: Lối đi, con đường đi. Hạnh: cây hạnh, hay là đức hạnh.
■ Nẻo hạnh là con đường đi có trồng những cây hạnh ở hai bên đường, ý nói con đường đi đến trường học, bởi vì khi xưa, nơi Đức Khổng Tử dạy học có trồng rất nhiều cây hạnh, nên gọi nơi đó là Hạnh đàn 杏壇.
TNHT: |
Nẻo hạnh làu soi gương nguyệt thắm,
Sân ngô rạng vẻ cảnh thu đưa. |
■ Nẻo hạnh là con đường hạnh đức, tức là con đường trau giồi đức hạnh, con đường tu.
TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.
Nẻo hoạn
A: Path of mandarin.
P: Chemin de mandarin.
Nẻo: Lối đi, con đường đi. Hoạn: làm quan.
Nẻo hoạn là dịch chữ: Hoạn lộ: con đường làm quan.
TNHT: Nẻo hoạn buông khơi trí đặc tài.
TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.
Nẻo phiền
A: Path of sadness.
P: Chemin de tristesse.
Nẻo: Lối đi, con đường đi. Phiền: buồn rầu lo lắng.
Nẻo phiền là con đường phiền não, đó là con đường đời tranh danh đoạt lợi, giựt giành quyền tước.
TNHT: Dẫn khách phồn hoa lánh nẻo phiền.
TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.
NÊ
Nê hoàn cung
泥環宮
A: The sternum.
P: Le sternum.
Nê: bùn, vật gì giống như bùn. Hoàn: vòng tròn. Cung: một bộ phận.
Nê hoàn cung là cái mỏ ác ở đỉnh đầu.
Khi đứa bé mới sanh ra, xương mỏ ác chưa mọc đầy đủ nên nhìn thấy chỗ đó hơi lõm vào, có dạng hình tròn, mềm mềm, nhấp nhô theo nhịp tim, đó là Nê hoàn cung.
Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo giảng giải về Nê hoàn cung như sau:
"Cái ấy định mạng sanh của con người, nó là trung tâm điểm của cả cơ thể, khôn ngoan hiển hách của kiếp sống con người, mà nó ở ngay Nê hoàn cung, tức nhiên nó ở ngay mỏ ác, cho nên con nít, đầu nó mới sơ sanh đã mềm, lớn lên mới cứng. Tại sao mềm?
Tại ở trong khiếu ấy có ba hột tối tiểu, nó tế nhuyễn đến nỗi con mắt chúng ta không thấy được, nhưng dùng kiếng hiển vi mới trông thấy nó rõ ràng được. Ba hột ấy không phải là vật chất mà cũng không phải là khí chất. Ba hột tế nhuyễn như thể hột mè, nhỏ vậy thôi, xoay chuyển bên mặt qua bên trái, một hột dương, hai hột âm, nó xoay chuyển cả với nhau mới sanh ra điển lực, mà điển lực ấy, ngay chỗ đó là cái linh hồn của chúng ta tương liên với chơn thần, nó tương liên với xác thịt ta, nó là cái khiếu khôn ngoan của con người. Do tại chỗ khiếu ấy, chơn linh của chúng ta điều khiển cả hình xác.
Trí khôn ngoan ấy nó phải đi một chiều và nó đi có mực thước, có độ lượng, hễ nó ngừng lại thì cái trí phải mờ ám (đương chạy mà vụt ngừng, kẻ đó có cái trí mờ ám, khôngsáng suốt, không thông minh), mà nó vận hành nhiều chừng nào, cái trí hoạt bát của con người nhiều chừng ấy, mà hễ nó đi quá độ lượng thì con người trở nên điên khùng ngây dại.
Ấy vậy, cái kẻ tài nhân khôn ngoan đáo để đó, nó gần cái mức khùng, điên dại, đi quá độ lượng tức nhiên nó phải điên phải ngây. Chúng ta trước ngó thấy cái tình trạng các bậc học nhiều, chúng ta nghe trước ông cha chúng ta thường nói: các nhà đa văn quảng kiến hay khùng (xưa kêu là điên chữ), tình trạng nó như vậy.
Đức Chí Tôn mở khiếu cho chúng ta, mở khiếu đặng định chuẩn thằng, đừng quá cái mức vận hành của nó.
Đạo pháp của Đức Lão Tử biểu chúng ta phải tịnh đặng nhập vào cái cảnh bất nhập, tức nhiên là hư vô, cốt yếu cho ba hột ấy chạy cho có mực thước, nó chạy dịu dàng, đừng cho loạn, đừng cho quá sức của nó. Loạn tức nhiên điên, phải để cho ba hột chạy vừa chừng, đặng cho cái chơn linh của chúng ta có phương thế điều khiển cả hình xác chúng ta trong mực thước khuôn khổ luật định của nó, không quá sức."
Khiếu Huyền Quan của con người cũng ở tại Nê hoàn cung. Nó là một khiếu quan trọng nhứt nên gọi là Tổ khiếu của các khiếu.
Trong phép Luyện đạo, Nê hoàn cung còn được gọi là Thiên môn, Côn Lôn đảnh, và cũng gọi nó là Cao Đài (Đầu thượng viết Cao Đài), vì nơi đó, chơn linh điều khiển chơn thần của con người.
Trong quyển Dưỡng Chơn Tập của ông Nguyễn Minh Thiện, trang 40 nói về Thân, chỉ rõ vị trí của Nê hoàn cung, xin chép ra sau đây để có thêm tài liệu nghiên cứu:
"Trong thân con người ở phía trước có ba cung là: Nê hoàn cung, Giáng cung và Huỳnh Đình cung, là chỗ Thần, Khí đình trú.
Nê hoàn cung cũng gọi là Thượng đơn điền, ở trong chính giữa cái đầu, phía trước là mi gian, phía sau là ải Ngọc Chẩm, phía hữu và phía tả là hai lỗ tai. Chớ lầm tưởng là huyệt Bá hội ở trên đỉnh đầu.
Dưới cái tâm huyết có một khiếu gọi là Giáng cung, là chỗ rồng cọp giao hội.
Từ Giáng cung xuống ngay 3 tấc 6 phân, gọi là Thổ phủ, là Huỳnh Đình, ấy là Trung đơn điền."
NỆ
Nệ cổ
泥古
A: To be infatuated with old ideas.
P: Être entiché des idées surannées.
Nệ: câu nệ, cố chấp. Cổ: xưa.
Nệ cổ là cố chấp theo xưa, tức là không chịu cải biến theo mới cho hợp thời.
NI
Ni Kim Cô
尼金箍
A: The hood of female bonze.
P: Le capuchon de bonzesse.
Ni: người phụ nữ xuất gia đi tu. Kim: vàng. Cô: cái vành, cái đai.
Kim Cô là một cái vành tròn bằng vàng.
Đạo phục của Nữ Đầu Sư có đội một cái Ni Kim Cô bằng hàng trắng, y như các vãi chùa, có thêu bông sen, bao quanh đầu một cái Kim Cô bằng vàng, trên Ni Kim Cô ấy phải choàng một cái mão Phương Thiên, nghĩa là một cái choàng bằng hàng cho thiệt mỏng, trên chót thêm một cái mũ bằng vàng chụp trọn đầu tóc, chính giữa, ngay trước mặt có chạm Thiên Nhãn Thầy, bao quanh một vòng minh khí. Cái choàng của mão Phương Thiên phải cho thiệt dài, 3 thước 3 tấc 3 phân, vì mỗi phen lên ngự trên ngai thì phải có hai vị Lễ Sanh nữ phái theo sau, nâng đỡ chẳng cho phết dưới đất.
Nữ Chánh Phối Sư, Nữ Phối Sư, Nữ Giáo Sư đều đội Ni Kim Cô bằng hàng trắng, phải cho dài từ đầu tới gót.
Ni cô: 尼姑 người phụ nữ xuất gia tu theo Phật giáo.
Ni sư: 尼師 là Ni cô tu lâu năm, có trình độ cao, làm thầy các Ni cô khác trong chùa.
NIÊM
NIÊM
1. NIÊM: 拈 Cầm đưa lên.
Td: Niêm hoa vi tiếu.
2. NIÊM: 黏 Dán cho dính vào.
Td: Niêm yết.
Niêm hoa vi tiếu
拈花微笑
Niêm: Cầm đưa lên. Hoa: cái bông. Vi: nhỏ. Tiếu: cười. Niêm hoa: cầm cái hoa đưa lên. Vi tiếu: cười mỉm.
Niêm hoa vi tiếu: nói đầy đủ là: "Thế tôn niêm hoa, Ca Diếp vi tiếu." Nghĩa là: Đức Phật Thích Ca cầm cái hoa đưa lên, ông Ma Ha Ca Diếp mỉm cười.
Đây là một câu chuyện rất quan trọng của Phật giáo, được xem là đầu mối của Phật giáo Thiền Tông.
1. Theo sách Liên Đăng Hội Yếu, Thích Ca Mâu Ni Phật chương:
"Trong cuộc hội ở núi Linh Sơn, Đức Thế Tôn giơ cành hoa ra hiệu cho đại chúng. Mọi người đều im lặng không hiểu ý gì, chỉ có một mình ông Ma Ha Ca Diếp rạng rỡ mỉm cười. Đức Thế Tôn nói:
- Ta có Chánh pháp Nhãn tạng, Niết Bàn Diệu Tâm, Thực tướng Vô tướng, Vi diệu Pháp môn, bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trao phó cho Ma Ha Ca Diếp.
Xưa nay Thiền Tông đều coi câu nói ấy của Đức Thế Tôn là quan trọng nhứt của Tông môn. Tông nầy lấy Tâm truyền Tâm làm chỗ dựa để khai ngộ."
Nhưng việc nầy chép ở kinh nào? do ai truyền thuật? Các Kinh Luận đã thu vào trong Đại Tạng đều không thấy ghi chép việc nầy. Các bậc Tông sư đời nhà Tùy, Đường, cũng không có nói đến.
Đến đời Tống, Vương An Thạch mới nói tới việc nầy.
2. Theo sách Tông môn Tạp lục:
"Vương An Thạch, tức Vương Kinh Công, hỏi Tuệ Tuyền Thiền sư:
- Thiền Tông nói Đức Phật Thích Ca giơ cành hoa lên là có xuất xứ ở kinh điển nào?
Tuệ Tuyền đáp:
- Tạng Kinh cũng không thấy chép việc nầy.
Vương An Thạch nói:
- Tôi vào trong Hàn Uyển, ngẫu nhiên thấy có bộ Đại Phạm Thiên Vương Vấn Phật Quyết Nghi Kinh, gồm 3 quyển, nhân đó mà đọc, thấy sách ghi chép rất tường tận việc Phạm Vương đến núi Linh Sơn, dâng Phật một cành hoa Ba-la vàng, rồi xả thân làm sàng tọa, thỉnh Phật vì chúng sanh thuyết pháp.
Đức Thế Tôn đăng tọa, giơ cành hoa lên cho đại chúng xem. Nhân thiên trăm vạn không ai hiểu ý gì, chỉ có một vị đầu đà nước da vàng ánh rạng rỡ mỉm cười. Đức Thế Tôn bèn nói:
- Ta có Chánh pháp Nhãn tạng, Niết Bàn Diệu tâm, Thực tướng Vô tướng, trao lại cho Ma Ha Ca Diếp.
Kinh nầy nói nhiều đến việc các đế vương tôn sùng thỉnh vấn Phật, cho nên giữ làm Bí Tàng, người thế tục không được biết đến." (Theo Từ Điển Phật Học Hán Việt)
Ý NGHĨA:
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín vi diệu bên trong, tuy có tướng mà không có tướng. Cái bông là biểu hiệu của Tâm, sự im lặng là biểu hiệu của Pháp. Tâm với Pháp tuy có mà không, tuy không mà có.
Ca Diếp đã biết đem Nhãn với Tâm phối hiệp mà tương ứng nhau. Thần quang từ Mắt phát dụng, mà Thần quang chính là Linh quang của Tự Tánh, nó vốn ở nơi bổn Tâm. Đem Thần quang phối hiệp với bổn Tâm thì Tâm được quang minh tự tại. Còn nếu đem Thần quang vọng ra ngoài, nhiễm lấy trần cảnh thì Tâm bị vọng động hôn mê. Ca Diếp đã dùng Mắt xem Tâm, thâu Thần nơi con Mắt, khiến nó trở về Tâm khiếu, gọi là phép Hồi Quang Phản Chiếu, hay là Phản Bổn Hoàn Nguyên. Ấy là bí quyết về Tâm không, vô chấp vậy.
Phật đưa cái bông lên là ý Ngài đưa cái Tâm duy nhứt lên cho tăng chúng thấy. Thế mà tăng chúng chỉ thấy bông chớ không thấy Tâm. Chỉ có Ca Diếp là thấy được Tâm, quán triệt được chỗ vi diệu của Chánh pháp của Phật, không bị cái tướng của cái bông che mắt, nên mới đạt được Tâm ấn bí truyền của Phật. Vì vậy mà Đức Phật Thích Ca mới giao ngôi Nhứt Tổ Phật giáo cho Ma Ha Ca Diếp.
Câu chuyện Niêm Hoa Vi Tiếu nầy được xem là hột giống Thiền mà Đức Phật Thích Ca đã gieo vào Phật giáo lúc Phật còn sanh tiền.
Nhưng hột giống ấy không nẩy nở được ở đất nước Ấn Độ, phải chờ đợi đến đời Tổ Sư thứ 28 là Bồ Đề Đạt Ma, Ngài mới đem hột giống Thiền ấy gieo vào đất Trung Hoa thì nó mới nẩy nở và phát triển rực rỡ vào thời Lục Tổ Huệ Năng, và được truyền lại cho đến ngày nay.
Niêm luật
黏律
A: Prosodical rule.
P: Règle de la prosodie.
Niêm: Dán cho dính vào. Luật: phép tắc.
Niêm luật là phép dính nhau, tức là luật về âm thanh (bằng trắc) trong một bài Thơ Đường và luật gieo vần. (Xem chi tiết nơi chữ: Thơ Đường luật, vần Th).
Niêm yết
黏揭
A: To affix.
P: Afficher.
Niêm: Dán cho dính vào. Yết: bày tỏ ra, bảo cho biết.
Niêm yết là dán giấy lên để thông báo cho mọi người.
NIỆM
NIỆM
NIỆM: 念 Tưởng nghĩ tới, tư tưởng, đọc lên.
Td: Niệm hương chú, Niệm kinh.
Niệm hương chú
念香咒
A: The rite of the offering of incenses.
P: Le rite de l'offre des encens.
Niệm: Tưởng nghĩ tới, tư tưởng, đọc lên. Hương: cây nhang đốt cháy tỏa mùi thơm. Chú: bài cầu nguyện.
Niệm hương chú là bài kinh đọc lên khi đốt nhang dâng lên Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng để cầu nguyện.
Niệm hương chú cũng được gọi là Phần hương chú, là bài chú đốt nhang.
Câu xướng của Lễ sĩ: "Thành kỉnh tụng Niệm hương chú", nghĩa là: Thành kính tụng bài kinh Niệm hương.
Niệm niệm bất vong
念念不忘
Niệm: Tưởng nghĩ tới, tư tưởng, đọc lên. Bất: không. Vong: quên.
Niệm niệm bất vong là nhớ tưởng không quên.
Niệm Phật
念佛
A: To invoke the Buddha.
P: Invoquer le Bouddha.
Niệm: Tưởng nghĩ tới, tư tưởng, đọc lên. Phật: Đức Phật.
Niệm Phật là đọc danh hiệu của Đức Phật, và tưởng nghĩ tới công đức, lòng từ bi của Đức Phật.
NIÊN
NIÊN
NIÊN: 年 Năm, tuổi.
Td: Niên đại, Niên giám.
Niên cao đức thiệu
年高德卲
Niên: Năm, tuổi. Cao: lớn. Đức: đạo đức. Thiệu: cao.
Niên cao đức thiệu là tuổi lớn, đạo đức cao.
Đôi liễn Hội Thánh Hàm Phong:
聖會年高顧問九重心不倦
銜封德卲執中一貫位何憂
Thánh Hội niên cao cố vấn Cửu Trùng tâm bất quyện,
Hàm Phong đức thiệu chấp trung quán nhứt vị hà ưu.
Nghĩa là:
Nhiều Chức sắc lão thành của Hội Thánh Hàm Phong làm cố vấn cho CTĐ, lòng không mỏi,
Những Chức sắc Hàm phong đức cao, giữ đúng theo đạo của Đức Khổng Tử, lo gì không đạt ngôi vị.
CTÐ: Cửu Trùng Ðài.
Niên đại
年代
A: Year and generation.
P: Année et génération.
Niên: Năm, tuổi. Đại: đời, thời đại.
Niên đại là thời đại và năm ghi lại những sự việc quan trọng trong lịch sử.
Niên giám
年鑑
A: Annuary, Year book.
P: Annuaire, Annales.
Niên: Năm, tuổi. Giám: chép các việc trước để làm gương soi.
Niên giám là sách ghi chép các việc quan trọng xảy ra trong một năm theo thứ tự ngày tháng để tiện việc tra xét về sau.
Niên quang tự tiễn
年光似箭
Niên: Năm, tuổi. Quang: sáng, hết. Tự: giống như. Tiễn: cái tên để bắn.
Niên quang tự tiễn là năm hết như tên bắn, ý nói thời gian qua mau như tên bắn.
NIẾT
Niết Bàn
涅槃
A: Nirvana.
P: Nirvana.
Niết Bàn: do phiên âm từ tiếng Phạn: Nirvana, hay tiếng Pali: Nibbàna. Theo nghĩa tiếng Phạn: Niết (Nir) là ra khỏi, Bàn (vana) là rừng. Niết Bàn là ra khỏi rừng mê tối, rừng phiền não, rừng sanh tử luân hồi.
Niết Bàn là cảnh giới hoàn toàn sáng suốt, thanh tịnh, tốt đẹp, là cảnh giới cuối cùng mà người tu hành theo Phật giáo mong muốn đạt được.
Niết Bàn được dịch ra Hán văn là:
· Diệt: dứt nhơn quả sanh tử, dứt nghiệp luân hồi.
· Diệt độ: dứt nhơn quả sanh tử, qua khỏi dòng nước mạnh.
· Tịch diệt: trống không lặng lẽ, dứt nhơn quả sanh tử.
· Bất sanh: chẳng còn sanh ra nơi cõi trần.
· An lạc: an ổn khoái lạc, hết khổ.
· Giải thoát: lìa khỏi các phiền não.
Đối với Phật giáo Nam Tông, nhập Niết Bàn là được vào nơi nghỉ ngơi trọn vẹn, dứt hết tất cả thể chất và tinh thần.
Đối với Phật giáo Bắc Tông, nhập Niết Bàn là vào cõi cao rốt, sau khi linh hồn đã qua khỏi các cuộc từng trải và tiến bộ.
Hồi Đức Phật Thích Ca thành đạo và giáo độ chư đệ tử, pháp môn của Ngài chia ra làm hai thời kỳ: thời kỳ đầu về Tiểu thừa, thời kỳ sau là Đại thừa.
Trong thời kỳ Tiểu thừa, Ngài khuyên các đệ tử diệt phần phiền não để đắc quả La Hán, đắc Niết Bàn tại thế (Hữu Dư Niết Bàn) và đến chừng tịch thì nhập hẳn vào Niết Bàn trọn vẹn (Vô Dư Niết Bàn).
Đến thời kỳ Đại thừa, Đức Phật dạy rằng, thành La Hán và nhập Niết Bàn tạm mà thôi, phải lo đắc Đại Niết Bàn, tức là Niết Bàn của Phật Thế Tôn, Phật Như Lai.
La Hán, tuy đã đắc đạo và nhập Niết Bàn, vào nơi an nghỉ, nhưng là cảnh yên nghỉ tạm thời, rồi đây các vị La Hán ấy còn phải tu học nữa đặng về sau thành Phật Thế Tôn.
Đức Phật nói tóm tắt cảnh trí của bực đắc Niết Bàn của Phật Thế Tôn như sau đây: Cái tâm giác ngộ, trong sạch hoàn toàn, nhà đạo thành Phật đến Niết Bàn. Người lướt tới cảnh tuyệt cao, cũng như kẻ lên tới đỉnh núi tuyết, ở trên còn mênh mông một bầu trời xanh mà thôi. Thần Tiên quả vị thấp hơn, ước được như người. (Theo Phật Học Từ Điển của Đoàn T. Còn)
Đối với Phật giáo, cõi Niết Bàn có nhiều từng lớp như: Hữu Dư Niết Bàn, Vô Dư Niết Bàn, Đại Bát Niết Bàn.
Trong Đạo Cao Đài, từ ngữ Niết Bàn dùng để chỉ cõi của chư Phật. CLTG là cõi của chư Phật nên được gọi là Niết Bàn, nơi đó có Niết Bàn Cảnh.
CLTG: Cực Lạc Thế giới.
NINH
NINH
NINH: 寧 Thà là, cam đành.
Td: Ninh nhân phụ ngã, Ninh thọ tử.
Ninh nhân phụ ngã, vô ngã phụ nhân
寧人負我,無我負人
Ninh: Thà là, cam đành. Nhân: người. Phụ: phụ phàng, phản bội. Ngã: ta. Vô: không, đừng.
Ninh nhân phụ ngã: thà là để người phụ mình.
Vô ngã phụ nhân: chớ ta đừng phụ người.
Ninh thọ tử, bất ninh thọ nhục
寧受死,不寧受辱
Ninh: Thà là, cam đành. Thọ: chịu, nhận lấy. Tử: chết. Nhục: ô nhục.
Ninh thọ tử: thà chịu chết.
Bất ninh thọ nhục: không đành chịu nhục.
Ninh vi kê khẩu, vật vi ngưu hậu
寧為雞口,勿為牛後
Ninh: Thà là, cam đành. Vi: làm. Kê: con gà. Khẩu: miệng. Vật: chớ. Ngưu: con trâu. Hậu: sau. Ngưu hậu: đuôi trâu.
Ninh vi kê khẩu: thà làm miệng con gà.
Vật vi ngưu hậu: chớ làm đuôi trâu.
Tô Tần Liệt truyện viết: Thà làm đầu gà chớ không làm đuôi trâu. Nay phía Tây gần với nước Tần mà phải thờ Tần thì có khác gì làm đuôi trâu!
Đời sau dùng câu nói nầy làm thành ngữ để nói lên cái ý muốn độc lập tự chủ: Thà làm vua một nước nhỏ còn hơn làm quan đại thần của một nước lớn.
NỊNH
Nịnh thần
佞臣
A: Flattering courtier.
P: Courtisan flatteur.
Nịnh: nịnh hót làm người trên vui lòng. Thần: bề tôi.
Nịnh thần là kẻ bề tôi gian nịnh, nên nịnh thần cũng là gian thần.
TNHT: Phất chủ quét tan lũ nịnh thần.
TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.
NÓI
Nói hành
A: To speak ill of.
P: Médire.
Nói hành là dùng lời nói làm cho người nghe phải đau khổ tinh thần.
Nói hành cũng là một hình thức Vọng ngữ.
TL: Ngũ bất vọng ngữ: là cấm xảo trá láo xược, gạt gẫm người, khoe mình, bày lỗi người, chuyện quấy nói phải, chuyện phải thêu dệt ra quấy, nhạo báng, nói hành kẻ khác,....
TL: Tân Luật.
Nói tội
A: Venomous tongue.
P: Mauvaise langue.
Nói tội là nói ra lời nói tội lỗi.
Đó là lời nói ác độc, có ý đe dọa, làm người nghe lo sợ, tuy chỉ nói chớ không làm nhưng phải bị khẩu nghiệp nặng nề.
TNHT: Thà là các con làm tội mà chịu tội cho đành, hơn là các con nói tội mà phải mang trọng hình đồng thể.
TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.
NON
Non bồng nước nhược
A: The fairy land.
P: Le pays des immortels.
Non bồng: dịch chữ Bồng sơn, là núi Bồng Lai nơi cõi thiêng liêng. Bồng sơn ở trên một hòn đảo gọi là đảo Bồng Lai. Tương truyền, Bát Tiên ở trong 8 động trên núi Bồng Lai.
Nước nhược: dịch chữ Nhược thủy là nước yếu. Nước nầy không đỡ nổi một hạt cải, nghĩa là bỏ hạt cải trên nhược thủy thì hạt cải chìm xuống. Tương truyền, chung quanh đảo Bồng Lai là biển nhược thủy.
Non Bồng nước nhược là chỉ cõi Tiên, cảnh Tiên.
Non Côn
Non Côn là núi Côn lôn. Theo truyện Phong Thần, Đức Lão Tử và Đức Nguơn Thủy Giáo chủ Xiển giáo ở núi Côn Lôn, còn Thông Thiên Giáo chủ Triệt giáo ở Động Bích Du.
Do đó, núi Côn lôn là chỉ Xiển giáo, tức Chánh đạo; động Bích Du chỉ Triệt giáo, tức Tà đạo.
TNHT: |
Ngọc sáng non Côn đà gặp nẻo,
Lối mòn động Bích chớ lầm đường. |
TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.
Non Kỳ reo tiếng phụng
Non Kỳ: núi Kỳ sơn thuộc đất Tây Kỳ thời Phong Thần nước Tàu. Phụng: con chim phụng, một loài trong Tứ Linh.
Non Kỳ reo tiếng phụng là phụng gáy Kỳ sơn, là điềm lành báo cho biết có Chúa Thánh ra đời tại đất Tây Kỳ, mở ra một thời thanh bình và thạnh vượng cho dân chúng.
Điển tích: Vào thời vua Trụ, tại đất Tây Kỳ, khi vua Châu Văn Vương ra đời thì có chim phụng đến đậu trên núi Kỳ sơn gáy reo lên. Mọi người cho đó là điềm lành, báo cho biết, vua Văn Vương là chúa Thánh. Quả thật, Văn Vương là vị minh quân, trọng hiền đãi sĩ, thương dân như con đẻ, rước Khương Thượng đang câu cá ở Bàn Khê về triều, phong làm Thừa Tướng, lấy đức cai trị muôn dân.
Thành ngữ: Non Kỳ reo tiếng phụng, Phụng gáy Kỳ sơn, chỉ điềm lành, có Thánh nhân ra đời, lập đời thanh bình thạnh trị.
TNHT: |
Kìa lóng non Kỳ reo tiếng phụng,
Nầy xem nước Lỗ biến hình Lân. |
TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.
Non thẳm
A: Distant mountain.
P: Montagne lointaine.
Non: núi. Thẳm: xa lắm, xa mút tầm mắt.
Non thẳm là núi ở chỗ xa xôi hoang vắng.
TNHT: Sanh nhằm đời có một Đạo chánh chẳng phải dễ, mà bước lên con đường chông gai, lần vào non thẳm kiếm ngọc lại càng khó.
TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.
Non Thần
A: Mountain of immortals.
P: Montagne des immortels.
Non: núi. Thần: ý nói các vị Thần Tiên.
Non Thần là núi có các vị Thần Tiên ở, chỉ cảnh Tiên.
TNHT: Non Thần vẹt ngút tới tìm phương.
TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.
Non xế nhành thung
A: At the old age.
P: À la vieillesse.
Non xế: cảnh núi về chiều, ánh sáng đã xế qua đầu. Nhành thung: cành cây thông.
Non xế nhành thung là cảnh núi về chiều, mặt trời đã xế bóng đến cành cây thông, ý nói lúc tuổi già.
TNHT: |
Non xế nhành thung oanh nhặt thúc,
Rừng tà đảnh hạc khách trông mong. |
TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.
NỘ
Nộ khí xung Thiên
怒氣衝天
A: The towering rage.
P: La colère s'élève jusqu'au ciel.
Nộ: giận. Khí: hơi. Xung: xông lên. Thiên: Trời.
Nộ khí xung Thiên là khí giận xông lên tới Trời, ý nói: sự tức giận dữ dội lắm.
NỘI
NỘI
NỘI: 內 Trong, bên trong, trái với Ngoại.
Td: Nội khảo, Nội luật, Nội nghi.
Nội bất xuất - Ngoại bất nhập
內不出 - 外不入
Nội: Trong, bên trong, trái với Ngoại. Bất: không. Xuất: đi ra. Ngoại: bên ngoài. Nhập: đi vô. Bất nhập: không đi vào.
Nội bất xuất: Cấm người ở trong đi ra ngoài.
Ngoại bất nhập: Cấm người ở ngoài đi vào trong.
Nội dung - Ngoại dung
內容 - 外容
A: Content - External aspect.
P: Contenu - Aspect extérieur.
Nội: Trong, bên trong, trái với Ngoại. Ngoại: ngoài. Dung: sức chứa, hình dáng.
- Nội dung là những điều chứa đựng bên trong.
- Ngoại dung là hình thức phô diễn bên ngoài.
Đối với một nên tôn giáo:
- Nội dung là những điều chứa đựng bên trong của tôn giáo, gọi là Nội giáo vô vi, như Bí pháp Tâm truyền.
- Ngoại dung là những hình thức bên ngoài của tôn giáo, gọi là Ngoại giáo công truyền, như: Nghi lễ, Kinh kệ, Giáo lý.
CG PCT: Mỗi phái là một vị, mà ba đạo vẫn khác nhau, nội dung, ngoại dung đều khác hẳn, luật lệ vốn không đồng, chỉ nhờ Tân Luật làm cơ qui nhứt.
CG PCT: Chú Giải Pháp Chánh Truyền.
Nội giáo vô vi - Ngoại giáo công truyền
內敎無為 - 外敎公傳
A: The Esoterism - The Exoterism.
P: L' Esotérisme - L' Exotérisme.
Nội: Trong, bên trong, trái với Ngoại. Giáo: dạy. Vô vi: thuộc về vô hình.
Ngoại: ngoài. Công: chung. Công truyền: truyền bá rộng rãi cho người đời.
Bất cứ một nền tôn giáo nào cũng đều phải có hai phần:
· Phần Bí pháp, còn gọi là Nội giáo Vô vi.
· Phần Thể pháp, còn gọi là Ngoại giáo Công truyền.
1. Nội giáo Vô vi: là dạy ở bên trong những Tâm pháp bí truyền để luyện đạo. Phần nầy được thực hiện trong Tịnh Thất. Phần Nội giáo vô vi thuộc trách nhiệm của HTĐ, mà người nắm Bí pháp của Đạo là Đức Hộ Pháp.
Nội giáo vô vi là phần Thiên đạo, dành cho bực tu thượng thừa cầu giải thoát, sau khi đã hoàn thành phần Nhơn đạo. Người thọ Tâm pháp bí truyền luyện đạo phải ở trong Tịnh Thất, dưới quyền của một Tịnh chủ, và không được truyền pháp cho một người nào khác nếu không có phép của Tịnh chủ.
Nhờ Nội giáo vô vi, Tâm pháp bí truyền, người tu có thể luyện được Kim đơn, đắc thành Tiên, Phật tại thế.
2. Ngoại giáo Công truyền: là dạy rộng rãi cho nhơn sanh bên ngoài về đạo đức, độ người bước chân vào Đạo tu hành, để các tín đồ nương theo đó mà tu thân và lập công quả. Đó là Thể pháp nên cần có âm thanh sắc tướng, áo mão cân đai, phô diễn ra ngoài, giục lòng sanh chúng, ưa thích tu hành, dẫn dắt vào đường đạo đức, tu phần Nhơn đạo, chuẩn bị bước đường Thiên đạo sau nầy.
Như vậy, Ngoại giáo Công truyền là phần phổ độ chúng sanh, thuộc về trách nhiệm của CTĐ và Cơ Quan Phước Thiện.
Ngoại giáo công truyền như là cái cửa, phải đi vào cái cửa nầy rồi thì mới gặp được Nội giáo Vô vi, Tâm pháp bí truyền mà luyện đạo, thành Tiên tác Phật tại thế.
"Cao Đài Đại Đạo thuộc về phần Tiên Thiên Vô vi tức là Nội giáo vô vi, Tâm pháp bí truyền, chỉ cách tu tánh luyện mạng mà phản bổn hoàn nguyên, siêu phàm nhập Thánh. Cao Đài Đại Đạo chỉ rõ chơn lý căn cơ của Trời Đất để chọn lựa riêng (phần ít) những người có tánh cách nguyên nhân chán đời tầm đạo, gác vòng danh lợi, phế dẹp tình đời, không lưu luyến hồng trần, cầu bất sanh bất tử. Đó là khoa Nội giáo tâm truyền khẩu thọ, luyện đạo tu đơn.
Còn Cao Đài Tôn giáo tức là Ngoại giáo công truyền, để phổ thông đạo đức, độ người mới bước đầu tiên vào tầm chơn lý, nên chi còn dùng hình thức bề ngoài mà giục lòng sanh chúng, có áo rộng mão cao, tước phẩm Chức sắc Thiên phong làm cho vẻ vang trật tự. Thầy hay vừa lòng chúng sanh, muốn món chi Thầy cho món nấy: đứa thì ham ăn ngọt, đứa lại thích món chua. Nào ngọt nào chua, cay chát, con nào dùng món nào Thầy cũng sắm sẵn cho các con món ấy.
Đạo là vô vi vô hình, còn tôn giáo là cái cửa. Mỗi người muốn thành Phật Tiên, phải chun qua cái cửa ấy rồi vô trong mới tới Đạo.
Nhưng Thầy thấy phần nhiều các con lấy làm ngạc nhiên về lẽ đó. Sao lại chia nhiều phái nhiều chi, chỗ lại thích vô vi, nơi thì dùng hình thức? Đó là cái cơ tấn hóa của nhơn sanh. Thầy để chọn Thánh phân phàm, lọc lừa sàng sảy, nhưng cũng tại lòng dục vọng của các con ham món nầy, muốn vật kia, ưa pháp lạ, mới chia ra Tịnh Thất, Tịnh đường, chi nầy phái nọ, thấp cao tranh biện.
Sự ấy là giả, bào ảnh bề ngoài, mà dầu cho thật đi nữa, các con luyện thành bửu pháp thì các con cũng không thể làm cho các con thoát khỏi luân hồi. Muốn luyện thành pháp nhiệm thần thông, trước hết phải tu thân, chánh tâm cho chí thiện chí mỹ, mà hễ luyện đặng chí thiện thì mới đoạt chí linh.
Đạo Thầy là vô vi, không huyền diệu thần thông chi cả, cốt dạy người nên đạo đức hoàn toàn, thành Phật, Tiên, chớ không truyền bửu pháp như bên Tả đạo. Hễ thấy môn đệ, bất cứ ai cũng ban, chớ không lựa chọn người hạnh đức, hiền lương. Trao như vậy có phải là phá đời hại chúng không?" (ĐTCG)
HTÐ: Hiệp Thiên Ðài.
CTÐ: Cửu Trùng Ðài.
CQPT: Cơ Quan Phước Thiện.
ÐTCG: Ðại Thừa Chơn Giáo.
Nội khảo - Ngoại khảo
內考 - 外考
Nội: Trong, bên trong, trái với Ngoại. Ngoại: ngoài. Khảo: khảo đảo, thử thách để biệt phân phàm Thánh.
- Nội khảo là người trong nhà khảo đảo với nhau, hay người cùng một đạo khảo nhau.
- Ngoại khảo là người bên ngoài khảo đảo người bên trong, hay người ngoài đời khảo đảo người trong đạo.
Sự khảo đảo nầy là cần thiết để xác định trình độ đạo đức của người tu. Hễ vượt qua được một lần khảo thì trình độ đạo đức tiến cao một bực. (Xem chi tiết nơi chữ: Ma khảo, vần M)
Nội luật
內律
A: Interior rules.
P: Règlements intérieurs.
Nội: Trong, bên trong, trái với Ngoại. Luật: luật lệ, phép tắc.
Nội luật là các phép tắc đặt ra cho một cơ quan mà mọi người trong cơ quan phải tuân theo để công việc của cơ quan tiến triển trật tự và tốt đẹp.
Luật lệ trong một cơ quan lớn thì được gọi là Nội Luật, còn trong cơ quan nhỏ thì gọi là Nội Qui. Thí dụ như: Nội Luật của Ban Thế Đạo, Nội Qui của Đạo Đức Học Đường.
Nội Luật của một cơ quan ấn định các chức vụ trong cơ quan, nhiệm vụ, quyền hạn, nhiệm kỳ của mỗi chức vụ, cách tổ chức, việc khen thưởng và trừng phạt.
Nội nghi Ngoại nghi tựu vị
內儀外儀就位
Nội: Trong, bên trong, trái với Ngoại. Nghi: cái bàn dùng làm nghi thức tế lễ. Ngoại: ngoài. Tựu: tới, đến. Vị: vị trí, chỗ đứng. Tựu vị: đến đứng tại vị trí của mình.
Nội nghi: cái bàn đặt bên trong, làm nơi thờ phượng Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng.
Ngoại nghi: cái bàn hương án đặt bên ngoài, nhưng vẫn ở trong phần chánh điện, dùng làm mức cho Lễ sĩ điện lễ, dâng cúng phẩm từ Ngoại nghi vào Nội nghi.
Khi Lễ xướng: "Nội nghi Ngoại nghi tựu vị" thì các Chức sắc có phận sự quì nơi Nội nghi và quì nơi Ngoại nghi đến đứng tại vị trí của mình.
Nội Ô - Ngoại Ô
內塢 - 外塢
A: Urbain areas - Outskirts.
P: Zône urbaine - Zône suburbaine.
Nội: Trong, bên trong, trái với Ngoại. Ngoại: ngoài. Ô: cũng đọc là Ổ: cái dinh có xây tường thành bao quanh.
Nội Ô là khu vực trong thành, nên còn gọi là Nội thành.
Ngoại Ô là khu vực ngoài thành, nên gọi là Ngoại thành.
Nội Ô Tòa Thánh là phần đất rộng 96 mẫu, tọa lạc tại làng Long Thành, cách Thị xã Tây Ninh chừng 5 km, nơi đó có cất Tòa Thánh và các cơ quan trung ương của Đạo Cao Đài.
Chung quanh Nội Ô Tòa Thánh có xây tường rào bao quanh chắc chắn, có 12 cửa ra vào, cất theo kiểu cửa Tam quan, bên trên có mái cong cổ kính. Các cửa được đánh số từ 1 đến 12 để gọi tên. Trong số 12 cửa nầy, có một cửa lớn nhứt, theo hướng Tây trước Tòa Thánh, gọi là Chánh Môn, và cửa nầy cũng là nơi khởi đầu của Đại lộ Chánh Môn.
Trong Nội Ô, có những con đường thẳng tắp, rộng rãi, theo hướng Nam Bắc và Đông Tây, ngang dọc như bàn cờ. Tên của các con đường nầy là Thánh danh của các Chức sắc tiền bối có đại công với Đạo. Trong Nội Ô có hai Đền thờ lớn: một là Tòa Thánh để thờ Đức Chí Tôn, hai là Báo Ân Từ để thờ Đức Phật Mẫu. Ngoài ra Hội Thánh còn xây dựng rất nhiều dinh thự để làm các cơ quan trung ương điều hành nền Đạo.
Phần Ngoại Ô của Tòa Thánh là Châu Thành Thánh Địa do các tín đồ khai khẩn và cư ngụ. (Xem chi tiết phần nầy nơi chữ: Châu Thành Thánh Địa, vần Ch)
Nội ưu ngoại hoạn
內憂外患
Nội: Trong, bên trong, trái với Ngoại. Ưu: lo lắng. Ngoại: ngoài. Hoạn: lo buồn.
Nội ưu ngoại hoạn là trong thì lo lắng ngoài thì buồn rầu.
NÔNG
Nông trang
A: To urge.
P: Presser.
Nông trang (tiếng nôm) là nôn nóng thúc giục làm việc cho mau kết quả.
TNHT: Quí anh quí chị coi bộ ráng nông trang hành đạo.
TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.
Nông viện
農院
A: Institute of Agriculture.
P: Institut d'Agriculture.
Nông: việc làm ruộng làm rẫy. Viện: tòa sở lớn.
Nông viện là một trong Cửu Viện CTĐ, có nhiệm vụ tổ chức, đôn đốc việc trồng tỉa các loại cây lương thực để sản xuất lúa gạo, ngũ cốc, nuôi Chức sắc và các nhân viên công quả hành đạo.
Đứng đầu Nông Viện là một Chức sắc phẩm Phối Sư, có các vị Phụ Thống, Quản Văn phòng và Thơ ký giúp việc.
Nông Viện thuộc hệ thống trực tiếp của Thượng Chánh Phối Sư.
CTÐ: Cửu Trùng Ðài.
NỮ
NỮ
NỮ: 女 Phụ nữ, đàn bà, con gái.
Td: Nữ công, Nữ đức, Nữ trung.
Nữ công - Nữ đức
女工 - 女德
A: Feminine works - Feminine virtues.
P: Travaux féminins - Vertus de femme.
Nữ: Phụ nữ, đàn bà, con gái. Công: công việc. Đức: phẩm chất tốt đẹp.
Nữ công là các công việc dành riêng cho phụ nữ trong gia đình như: may vá, thêu thùa, bếp núc, bánh trái.
Nữ đức là những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ.
Nữ đức gồm có 4 đức, gọi là Tứ đức: Công, Dung, Ngôn, Hạnh. (Xem chi thiết nơi chữ: Tam Tùng - Tứ đức, vần T)
Nữ Đầu Sư
女頭師 |