CAO ĐÀI TỪ ĐIỂN

 

Danh mục vần M

MA

·         Ma

·         Ma chướng quỉ tai

·         Ma chử thành châm

·         Ma Ha Tát

·         Ma Ha thủy

·         Ma hồn quỉ xác

·         Ma khảo

·         Ma kheo

·         Ma vương quái

·         Ma xử

 

MẠC

·         Mạc trắc

·         Mạc thiên tịch địa

 

MAI

·         Mai

·         Mai cốt bất mai tu

·         Mai danh ẩn tích

·         Mai gầy sen nở

·         Mai một

·         Mai tàn tuyết xủ

·         Mai táng

·         Mai thê hạc tử

·         Mai xuân nguyệt cúc vị trà hương

 

MẠI

·         Mại quốc cầu vinh

 

MAN

·         Man trá

 

MÃN

·         Mãn

·         Mãn đường cát khánh

·         Mãn kiếp

·         Mãn kỳ

·         Mãn phần

·         Mãn phục - Mãn tang

 

MANG

·         Mang sao đội nguyệt

 

MÃNG

·         Mãng bào

 

MẠNG (MỆNH)

·         Mạng

·         Mạng căn

·         Mạng chung

·         Mạng danh (Mệnh danh)

·         Mạng pháp

·         Mạng Trời

 

MANH

·         Manh sư

 

MẠNH

·         Mạnh

·         Mạnh nguyệt

·         Mạnh Thường Quân

·         Mạnh - Trọng - Quí

·         Mạnh Tử (372-289 trước TL)

 

MÃO

·         Mão - Các loại mão

 

MẠO

·         Mạo

·         Mạo hợp tâm ly

·         Mạo muội

·         Mạo nhận

·         Mạo vi cung kính

·         Mạo xưng

 

MẠT

·         Mạt

·         Mạt diệp

·         Mạt hậu Thiên khai Huỳnh đạo

·         Mạt học

·         Mạt kiếp

·         Mạt lộ

·         Mạt pháp

·         Mạt thế

·         Mạt vận

 

MÀU

·         Màu thiền

 

MÁY

·         Máy

·         Máy Càn khôn - Máy huyền vi

·         Máy hành tàng

·         Máy linh cơ tạo

·         Máy sâu họa kín

 

MẢY

·         Mảy hào

·         Mảy mún

 

MẮC

·         Mắc mỏ

 

MẶC

·         Mặc

·         Mặc khách

·         Mặc khải - Mạc khải

·         Mặc niệm

·         Mặc phò lê thứ

·         Mặc tuyên đại hóa

 

MẶT

·         Mặt thành càn khôn

 

MẪN

·         Mẫn huệ

·         Mẫn khổ

 

MẬT

·         Mật

·         Mật chỉ

·         Mật chiếu

·         Mật chú - Mật ngữ

·         Mật nghĩa

·         Mật niệm

·         Mật yếu

 

MÂU

·         Mâu thuẫn

 

MẦU

·         Mầu nhiệm

 

MẪU

·         Mẫu

·         Mẫu Hậu

·         Mẫu Nghi

·         Mẫu tử tình thâm

 

MÈO

·         Mèo mả gà đồng

 

·        

·         Mê đồ

·         Mê hoặc

·         Mê luyến hồng trần

·         Mê muội

·         Mê ngộ

·         Mê tân

·         Mê tín - Chánh tín

 

MỆNH

·         Mệnh (Xem: Mạng)

 

MI

·         Mi thanh mục tú

 

MỊ

·         Mị dân

 

·         (Xem: Mỹ)

 

MIÊN

·         Miên miên thái bình

 

MIỄN

·         Miễn lễ

 

MIẾU

·         Miếu đường

 

MINH

·         Minh

·         Minh cảnh đài

·         Minh chánh

·         Minh định

·         Minh đoán

·         Minh đức - Tân dân - Chí Thiện

·         Minh Đường

·         Minh huệ

·         Minh khí

·         Minh Lý Đạo

·         Minh minh như dạ hành

·         Minh oan

·         Minh quang

·         Minh quân

·         Minh sát (Minh xét)

·         Minh sơn thệ hải

·         Minh sư

·         Minh tâm khắc cốt

·         Minh tâm kiến tánh

·         Minh thệ - Lập Minh thệ

·         Minh Thiện Đàn

·         Minh tra

·         Minh triết

 

MỎN

·         Mỏn lòng

 

MỘ

·         Mộ

·         Mộ bi (mộ bia)

·         Mộ chí

·         Mộ cổ thần chung

·         Mộ đạo

·         Mộ khang

·         Mộ phần

·         Mộ xuân

 

MỘC

·         Mộc

·         Mộc ân

·         Mộc bổn thủy nguyên

·         Mộc dĩ thành chu

·         Mộc dục

 

MÔI

·         Môi giới

 

MÔN

·         Môn

·         Môn đệ - Môn đồ

·         Môn đương hộ đối

·         Môn ngoại

·         Môn phái

·         Môn sinh (Môn sanh)

·         Môn thiền

 

MÔNG

·         Mông trần

 

MỘNG

·         Mộng

·         Mộng ảo bào ảnh

·         Mộng điệp

·         Mộng hồn

·         Mộng huyễn

·         Mộng mị

·         Mộng trần

·         Mộng triệu

 

MỤC

·         Mục

·         Mục bất quan phi lễ chi sắc

·         Mục dân

·         Mục hạ vô nhân - Mục trung vô nhân

·         Mục kiến

·         Mục Sư

·         Mục vịnh tiều ca

 

MUỘI

·         Muội tâm

 

MƯA

·         Mưa móc

 

MỰA

·         Mựa

 

MƯU

·         Mưu

·         Mưu chước

·         Mưu đồ

·         Mưu phản

·         Mưu sinh

·         Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên

·         Mưu thâm họa diệc thâm

·         Mưu trí

 

MỸ

·         Mỹ

·         Mỹ miều

·         Mỹ cảnh lương thần

·         Mỹ tục

·         Mỹ vị

 

 

 

 

MA

MA

MA: Những linh hồn và chơn thần người chết chưa siêu thăng hay chưa định phận, còn ở lại cõi trần, thường quanh quẩn bên cạnh người sống hay ở bãi tha ma để phá khuấy người sống.

Td: Ma chướng quỉ tai, Ma hồn quỉ xác.

 

Ma chướng quỉ tai

魔障鬼災

Ma: Những linh hồn và chơn thần người chết chưa siêu thăng hay chưa định phận, còn ở lại cõi trần, thường quanh quẩn bên cạnh người sống hay ở bãi tha ma để phá khuấy người sống. Chướng: ngăn trở. Quỉ: ma. Tai: tai nạn.

Ma chướng quỉ tai là những sự ngăn trở và những tai nạn do đám quỉ ma gây ra để phá hại người tu.

Người tu thường bị bọn quỉ ma tìm cách ngăn trở bước đường tu hành, bằng cách dụ dỗ người tu vào đường tà vạy với những miếng mồi hấp dẫn như: tửu, sắc, tài, khí, hay danh, lợi, quyền, v.v... hoặc bằng cách gây ra những tai nạn như: bịnh hoạn ốm đau, bị chửi bới, bị oan ức,...

Nếu người tu thắng nổi những cám dỗ đó, vượt qua được những khó khăn đó, thì trình độ đạo đức mới tăng tiến, mới có thể siêu phàm nhập Thánh, còn không qua nổi thì phàm vẫn huờn phàm.

DLCK: Nam mô Chuẩn Đề Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, năng trừ ma chướng quỉ tai, năng cứu khổ ách,...

DLCK: Di Lạc Chơn Kinh.

 

Ma chử thành châm

磨杵成針

Ma: mài, mài cho mòn bớt. Chử: còn đọc là Xử: cái chày. Thành: nên. Châm: cây kim.

Ma chử thành châm là mài cái chày thành cây kim, ý nói: có chí thì nên.

 

Ma Ha Tát

摩訶薩

Do phiên âm từ tiếng Phạn: Mahasattva. Phiên âm đầy đủ là: Ma Ha Tát Đóa. Ma Ha: lớn, đại. Tát Đóa: chúng sanh.

Ma Ha Tát, nói tắt của Ma Ha Tát Đóa, là bực chúng sanh lớn, có lòng quảng đại cứu độ chúng sanh.

Bồ Tát Ma Ha Tát là bực Đại Bồ Tát, ngang hàng với Phật, nhưng còn mang danh Bồ Tát để cứu độ chúng sanh. Như Đức Quan Thế Âm là Bồ Tát Ma Ha Tát, nên chúng ta niệm là: "Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát."

 

Ma Ha thủy

摩訶水

A: The Holy water.

P: L'Eau bénite.

Ma Ha: do tiếng Phạn phiên âm: lớn, đại. Thủy: nước.

Ma Ha thủy, nghĩa đen là nước của con sông lớn linh thiêng ở Ấn Độ, đó là sông Gange, tức là Hằng hà. Đây là con sông mà Đức Phật Thích Ca xuống tắm, tẩy trần và đạt đạo.

Trong Đạo Cao Đài, Ma Ha thủy là nước đã được làm phép, dùng trong hai bí tích: Tắm Thánh và Giải Oan.

Trong quyển sách Bí Truyền Chơn Pháp của Ngài Đầu Sư Thượng Sáng Thanh, Ngài dẫn giải về Ma Ha thủy và cách luyện Ma Ha thủy để dùng trong Phép Tắm Thánh và Giải Oan, xin chép nguyên văn ra sau đây:

"Khi Đức Phật Tổ từ ngôi tầm đạo thì người gặp phải manh sư truyền giáo, cố lấy phương ép xác đặng đạt huyền diệu thiêng liêng. Người tập tuyệt thực, ngồi tại hòn núi chịu khổ hạnh 6 năm, thân hình yếu ớt, sức lực hao mòn, đến đỗi ngày cùng tận của Ngài duy có ăn một hạt cơm mà thôi (theo lời kinh nói). Buổi ấy cái thảm tượng sắp chết của Ngài hầu đến, thoạt nhiên có một người tiều phu đến nơi núi của người đang trì định, lần đến bên người, ôm đờn đờn một điệu rất nên hòa nhã thâm thúy không cùng, nhưng có một điều là lên dây đờn quá thẳng, làm cho đến khúc hay thì đứt dây loan. Đứt rồi cột, cột rồi lên thẳng, lên thẳng rồi đờn, đờn rồi đứt, chẳng biết mấy lần, làm cho Phật đang nhập thiền trì định phải bực tức tỉnh hồn, day qua mà than với ông ấy rằng: Ông đờn thì hay mà lên dây chi cho cao quá, mỗi lần hay phải đứt dây, thì cái hay ấy phải hết mùi, tôi rất nên thương tiếc.

Ông tiều ấy liền trả lời rằng: Đờn của tôi cũng giống như cái tu của Phật. Dây đờn của tôi lên cao quá nó phải đứt thì cái hay của nó chẳng hữu ích chút nào, còn cái tu của Phật, nếu cái cao siêu huyền bí của nó mà đạt cơ bất diệt, cái cao của nó cũng phải chết theo Phật, còn chi cứu thế độ đời.

Thốt như thế rồi liền đứng dậy xách đờn mà đi (kinh cho ông ấy là Bồ Tát đến kiến tánh cho Phật).

Mấy lời ấy làm cho Phật tỉnh giác, biết mình lầm theo Tà pháp Bàng môn, liền đứng dậy, vội vàng xuống núi, làm cho bốn vị đệ tử ở hầu hạ bên người, mong cho thấy người đạt pháp, khi thấy Phật xuống núi mong phàm thì ngã lòng thối chí, bỏ Phật không làm môn đệ nữa.

Trước khi Phật xuống núi, nơi xứ của Phật tu có một vị thiện nữ giàu có sang trọng, nuôi thú vật rất nhiều. Ban đêm nằm mộng thấy một vị Bồ Tát dặn rằng: Ngày ấy, giờ ấy, sẽ có Phật tại rừng bồ đề, nàng phải bắt 72 con bò cho ăn bông mai mà thôi, nặn sữa 72 con bò ấy, cho 12 con uống, rồi nặn sữa 12 con cho một con uống, lấy sữa của con ấy đựng vào bình bát vàng đem dâng cho Phật.

Khi Phật bộ hành đến rừng bồ đề vừa chí thì mệt mỏi quá chừng, thân hình rủ riệt, thần kinh lờ mờ, sa vào một cội bồ đề mà chết giấc, nhờ chết giấc ấy mới xuất thần đặng hội diện cùng chư Phật, thấy rõ trước mắt Địa ngục, Niết Bàn. Ấy là giờ của người đạt pháp, duy lạ một điều cả cảnh tượng ấy mịt mịt mờ mờ, người không gần đặng.

Thoạt thấy một vị Bồ Tát dặn ra: Thây phàm xác tục của người và chơn thần của người đã chịu nhiều quả kiếp cho nên ô trược nhớp nhơ, khi tái nhập thế trần, phải đến sông Ma Ha tẩy trược. Trong cơn ấy, người đàn bà bưng bình bát sữa vừa đến rừng bồ đề, tìm chẳng thấy ai khác hơn là một thầy tu nằm dựa gốc cây mà chết, chỉ rờ nơi ngực còn nghe hơi ấm của trái tim, vội vàng biểu tỳ nhi và mình ra tay hô hấp.

Phật vừa tỉnh dậy thì nàng dâng bình bát sữa cho người. Phật uống đặng bình bát sữa ấy rồi trụ Thần, định Khí, mạnh lại như xưa.

Ấy là cơ hiệp Tam bửu: Tinh Khí Thần hiệp nhứt. Tinh là hình hài, Khí là chơn thần, Thần là chơn linh. Nhờ Tam bửu phối tế, người định giác lần lần, thấy đặng cõi hư linh và cảnh phàm trần xa nhau không đầy một sợi tóc.

Thăng thì đến cõi hư linh, đọa thì sa vào phàm tục.

Khi đã định tâm đạt pháp rồi, Phật liền nhớ lời Bồ Tát dặn, nên lần hồi tới bãi sông Gange, nhưng có một điều lạ là chơn thần và xác thịt của Ngài chưa trọn tương liên hòa hiệp, nên người mờ hồ chưa biết chắc mình đã quả nhiên đạt pháp.

Xuống tắm sông Gange rồi lên khỏi bờ, cầm bình bát vu nơi tay mà vái rằng: Nếu quả nhiên tôi đã đặng đạt pháp, xin chư Phật cho cái bình bát vu nầy trôi ngược dòng nước.

Nói rồi, người liệng bình bát vu giữa dòng thì bình bát vu từ từ trôi ngược dòng nước.

Phật mừng quá, ngoắt nó vô bờ, cầm bình bát vu mà nói rằng: Nước sông Gange sẽ rửa sạch oan nghiệt tội tình của kiếp sống (Ma Ha thủy năng hủy oan nghiệt tội chướng chi đọa).

Kể từ ngày tắm nơi sông Gange rồi thì mỗi phen trì định xuất thần, Phật mới đến đặng gần chư Phật, nhập vào đặng Tây Phương Cực Lạc. Ấy là nhờ Phép Giải Oan mà đạt vị."

Cách luyện Ma Ha thủy dùng trong Phép Giải Oan và Tắm Thánh:

"Múc một tô nước lạnh để tại Thiên bàn. Người hành pháp làm như cách hành pháp thường, nghĩa là đến trước Thiên bàn xông hương tay và mặt. Đứng ngay trước Thiên bàn, định thần vẽ bằng con mắt chữ (.) trong con ngươi Thiên nhãn, chơn trái vẽ dưới đất chữ (.), hai chơn đứng trên chữ (.) ấy, ký chữ (.) gọi là đạp Đinh Giáp.

Tay trái bắt ấn Hộ Pháp để ngay ngực, tay mặt cũng bắt ấn Hộ Pháp để trên tô nước, niệm danh hiệu Hộ Pháp, buông ấn ra, con ngón tay giữa vẽ bùa (.) trên tô nước, xòe tay ra úp trên mặt tô, nhắm con mắt truyền thần xuống nước, và niệm câu chú: Ma Ha thủy năng hủy oan nghiệt tội chướng chi đọa.

Định thần, khi thấy Thiên nhãn giáng trên mặt nước thì rút tay ra liền. Ma Ha thủy đã luyện thành."

TNHT: Hứng giọt Ma Ha lau tục lụy.

KGO:  Gội mê đồ, tắm nước Ma Ha.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

KGO: Kinh Giải Oan.

 

Ma hồn quỉ xác

魔魂鬼殼

Ma: Những linh hồn và chơn thần người chết chưa siêu thăng hay chưa định phận, còn ở lại cõi trần, thường quanh quẩn bên cạnh người sống hay ở bãi tha ma để phá khuấy người sống. Hồn: linh hồn. Quỉ: ma quỉ. Xác: thể xác.

Ma hồn quỉ xác là chỉ những người sống mà linh hồn là của ma, thể xác là của quỉ, chuyên đi phá hại người tu, gây hiềm khích chia rẽ trong cửa Đạo.

TNHT:ma hồn quỉ xác nó cứ theo phá khuấy các con là nó muốn phá Đạo đó.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Ma khảo

魔考

A: The trial of the demons.

P: L'épreuve des démons.

Ma: Những linh hồn và chơn thần người chết chưa siêu thăng hay chưa định phận, còn ở lại cõi trần, thường quanh quẩn bên cạnh người sống hay ở bãi tha ma để phá khuấy người sống. Khảo: thử thách khả năng để xem đậu rớt.

Ma khảo là ma quỉ thử thách phẩm hạnh của người tu để xem có xứng đáng đắc đạo cùng chăng.

Sau đây xin chép lại bài Giáo Lý Huấn Luyện Giáo Hữu nói về sự Ma khảo:

"Có trường thi công quả tất có cơ khảo thí theo phép công bình Thiên đạo. Phàm muốn đoạt thủ địa vị nơi trường thi ấy, người hành đạo phải có công lao xứng đáng và phẩm hạnh hoàn toàn. Chịu thử thách mà không sa ngã mới đáng đăng tên vào Tiên tịch.

Vì lẽ công bình, Đức Chí Tôn phải để cho Ma vương cám dỗ. Kẻ nào kém đạo hạnh phải sa vào cạm bẫy.

Thường thường Chánh Tà tương khắc. Hễ Đạo khai thì Tà khởi. Đạo không ma khảo, Đạo khó thành; ma không Đạo khai, ma không được dịp mở cơ thạnh vượng.

Ma khảo có nhiều cách, đại khái như:

1.    Mạo danh Tiên, Phật, dối ban huyền diệu cốt mê hoặc người phải xa chánh giáo.

2.    Giục người thấy sắc đẹp mê sa, thấy tài vật ham muốn.

3.    Hóa việc lạ lùng quái gở cho người sợ bỏ dở công phu.

4.    Chiếu theo sở dục của con người mà cám dỗ, tức là đánh ngay chỗ yếu của người.

5.    Bày bố những khó khăn gay cấn cho người thối chí ngã lòng.

Đức Chí Tôn đã báo cho biết trước:

Chung quanh các con, dầu xa dầu gần, Thầy đã thả một hổ lang ở lộn với các con. Thầy hằng xúi chúng nó thừa dịp mà cắn xé các con, song trước Thầy đã cho các con mặc một bộ thiết giáp mà chúng nó chẳng hề thấy đặng là đạo đức của các con. Ấy vậy, ráng gìn giữ bộ thiết giáp ấy hoài cho đến ngày các con hội hiệp cùng Thầy. Nghe và ráng tuân theo.

Đường đã trải qua, chúng ta thấy rõ tu hành gặp không biết bao nhiêu trở lực. Nào là người hữu ý hay vô tình kích bác, cho đến bà con cật ruột cùng bạn thân yêu buổi trước mà nay thấy chúng ta tu hành, họ cũng đem lòng nhạo báng. Nào là kẻ gây điều khó dễ mong phá hoại việc tu.

Trong khi lập công bồi đức, chúng ta lại gặp nhiều nghịch cảnh: tiền tài thiếu thốn, tật bịnh triền miên, hoặc những nỗi bất bình, những điều thống khổ, để khiến chúng ta ngã lòng thối bước, nếu không nhẫn nại và vững đức tin.

Những chướng ngại trên là sự trạng của cơ Nghịch khảo.

Lại cũng có khi chúng ta sa ngã vì sắc đẹp, vì danh vọng, và lợi quyền, là những cạm bẫy để quyến rũ con người vào đường tội lỗi mà thất đạo. Đó là cơ Thuận khảo.

Tóm lại, cơ Đạo có Nghịch khảo và Thuận khảo, là hai phương pháp trui rèn lòng người tu hành cho ra cao thượng. Vàng không trui lửa, ai biết vàng cao; ngọc chẳng giồi mài, ai hay ngọc quí.

Chúng ta tin chắc rằng, mỗi lần bị khảo mà không ngã là mỗi lần chúng ta được lên một nấc thang tấn hóa đó.

Vậy người tu hành phải chịu luật khảo thí và phải kiên tâm trì chí lướt qua mọi thử thách. Tự tín và bền chí là bí quyết thành công."

"Đạo với Ma là hai con đường đi đôi với nhau. Có Đạo thì phải có Ma. Từ cổ chí kim, chư Phật, Tiên, Thánh đều phải trải qua con đường Ma khảo mới chứng được Đạo. Người tu mà không biết Ma khảo thì chưa phải là người tu hành.

Ma khảo có những tác dụng sau đây:

• Phân chân ngụy.

• Tiêu oan khiên.

• Hóa bẩm tính.

• Định quả vị.

1. Phân chân ngụy:

Thời TKPĐ, cửa Đạo mở rộng, nhưng chân giả khó phân. Có người chơn tu, có người mượn danh Đạo tạo danh đời, làm cho những người chơn tu bị mắc oan. Cho nên các Đấng thiêng liêng mới cho Ma khảo để lựa chọn người chơn tu, loại ra những kẻ giả tu. Kẻ giả tu, sau cơn thử thách thì họ đều hiện rõ cái hình giả tạo của họ. Đức Chí Tôn cũng đã có nói trước rằng: "Thầy làm ra mặt các con coi." Cho nên, nếu không có Ma khảo thì làm sao phân biệt được chơn giả?

2. Tiêu oan khiên:

Người tu hành ít nhiều đều có mang theo oan nghiệt của các kiếp trước. Trong thời TKPĐ, Đức Chí Tôn đại khai ân xá, nên đem Nhân Quả của các kiếp trước dồn vào kiếp nầy để người tu trả dứt các món nợ oan nghiệt mà trởvề cùng Chí Tôn.

3. Hóa bẩm tính:

Con người nơi cõi trần tiêm nhiễm vật chất qua nhiều kiếp, nên lục dục thất tình luôn luôn dấy động. Nhờ có Ma khảo mà biết được chỗ yếu kém của mình để cố gắng sửa đổi, dần dần bản tánh hóa thuần mà hợp với Thiên tánh. Mỗi khi bị khảo, không nên sanh lòng oán hận, mà phải thuận tùng tiếp nhận, nhẫn nại vượt qua, vì mỗi lần khảo là mỗi lần bớt được một số nợ của kiếp trước. Một khi đã vượt qua một cơn khảo đảo thì đường Đạo dễ đi hơn.

4. Định quả vị:

Các Đấng Tiên, Phật đều nói trước rằng:

"Vô ma khảo bất thành Đại Đạo, Đạo bất khảo bất thành Phật."

Xưa, Đức Chúa Jésus, Đức Phật Thích Ca, trước khi thành đạo, phải chịu cho Satan, Quỉ vương khảo đảo đủ cách, khi không lay chuyển được thì Quỉ vương mới chịu phục và mới thành đạo. Đức Khổng Tử cũng bị khảo đảo 7 ngày nơi biên giới nước Trần và nước Thái, Đường Tam Tạng và ba đồ đệ cũng bị 81 tai nạn khảo đảo mới được thành Phật.

Vượt qua được một lần khảo đảo là trình độ tâm linh tiến hóa lên một bực. Cho nên, nhờ Ma khảo mà các Đấng định phẩm vị cho người tu hành.

Về MA KHẢO, có 8 cách khảo:

- Nội khảo, - Ngoại khảo, - Khí khảo,

- Kỳ khảo, - Thuận khảo, - Nghịch khảo,

- Điên đảo khảo, - Đạo khảo.

1. Nội khảo: Khi cầu đạo rồi thì thường hay bị tai nạn, hay bịnh hoạn,... Do đó, nhiều người rất sợ, không muốn vào Đạo và lại còn biếm nhẻ rằng, người tu hành đạo đức mà sao bị tai nạn liền liền. Đức Chí Tôn cũng có dạy trước rằng:

Ức lòng dễ tỏ đặng cùng ai,

Hiền đức mà sao chịu khổ hoài.

Lão nói tỏ tường cho đó hiểu,

Cũng là vay trả luật xưa nay. (TNHT)

Chúng ta tự hỏi tại sao có chuyện kỳ như vậy? Bởi vì các chủ nợ oan nghiệt thấy vị nầy tu rồi, e sau nầy rất khó đòi nợ, nên xúm nhau đến đòi nợ liền liền.

Người tu cần phải lập chí nhẫn nại, cam lòng chịu đựng, trụ vững đức tin nơi Đức Chí Tôn, ráng lo lập đức lập công để tiêu trừ bớt oan khiên nghiệp chướng, vượt qua các cơn khảo đảo. Dần dần, các oan nghiệt sẽ bớt đi, và con đường đạo sẽ được êm chơn tiến bước.

2. Ngoại khảo: Thân nhân phản đối, bạn bè hủy báng, hàng xóm chê cười, quan binh bắt bớ,... đều thuộc ngoại khảo. Người tu phải ráng giữ vững đức tin, ôn hòa và tận tụy giúp đỡ mọi người, nhứt là những người chỉ trích mình, cầu xin Ơn Trên hộ trì giúp sức cho sớm vượt qua cơn Ngoại khảo.

3. Khí khảo: Khí là giận. Bị người lấy oán báo ơn, bị xuyên tạc, bị hàm oan, bị vu khống,.... khiến người tu không nhịn được, nổi giận chống đối quyết liệt. Như thế là người tu bị Khí khảo mà không hay. Khi gặp Khí khảo, phải lấy lòng khoan dung đại lượng để ứng phó.

Như Đức Chúa đã nói: Kẻ nào đánh vào má bên trái của ta, ta đưa má bên phải cho nó đánh chung một lượt.

Đức Phật Di-Lạc cũng có nói: Có người chửi vào Lão chuyết, Lão chuyết cười hì hì; nếu nhổ nước miếng vào mặt ta, cứ để vậy cho nó khô, khỏi cần phí công lau chùi, làm cho kẻ nhổ cũng được vui.

4. Kỳ khảo: Sau khi cầu đạo rồi thì làm ăn thất bại, vợ chồng gây gổ, con cái chia lìa,.... đều thuộc về Kỳ khảo. Ứng phó với Kỳ khảo, người tu phải hiểu thấu suốt lý nhơn quả. Vợ chồng hay con cái đều là duyên nợ, duyên tốt hay xấu, dài hay ngắn, đều là nhân đã kết tập từ kiếp trước. Tiền tài, nhà cửa, ruộng đất, chỉ là thân ngoại vật, sinh ra không mang đến, chết rồi cũng không mang theo được. Hiểu rõ như thế, thì sự vinh hoa, đắc thất như một giấc chiêm bao. Trong lòng cứ thản nhiên như đám mây bay trên trời, hay như dòng nước chảy.

5. Thuận khảo: Có hai mặt: Thánh và phàm.

- Mặt Thánh: Được bậc bề trên khen thưởng, được kẻ hậu học ủng hộ, dần dần trở nên đắc ý hợm mình, rơi vào con đường Danh của đạo mà trở thành ngạo mạn, bỏ quên phần đạo tâm ở sau ót. Khi được bậc trên thương yêu, hậu học xem trọng, thì càng phải tự cảnh tỉnh lấy mình. Tài bao nhiêu, đức bao nhiêu mà được ân sủng như vậy? Trong lòng phải luôn luôn cảm tạ ơn đề bạt của các bậc huynh tỷ bề trên, thương yêu đoái hoài đến đàn hậu học, khiêm tốn nhúng nhường, làm gương mẫu cho đàn em noi bước. Đó là cách biến Thuận khảo thành bậc thang tiến hóa của tâm hồn.

- Mặt phàm: Buôn bán phát đạt, thăng quan tiến chức, thành công mọi mặt, vợ chồng nặng tình ân ái khó lìa. Trong hoàn cảnh hân hoan đắc ý như thế, người tu dần dần trọng phàm khinh Thánh, biến tu đạo thành tu đời, mà quên đi lời Minh thệ lúc ban đầu.

Muốn thoát vòng tục lụy nầy, người tu phải biết rằng, những cái thành công đắc ý đó là do cái nhân tốt mà mình đã gây ra trong kiếp trước. Nếu không lo vun trồng cái nhân tốt ấy, thì chỉ hưởng một thời gian rồi hết. Cho nên càng đắc thế càng giàu sang thì càng phải lo lập công đức, tôn kỉnh Thần Thánh, giúp đỡ mọi người về vật chất hay về tinh thần trong một tình thương yêu chơn thật.

6. Nghịch khảo: có hai mặt: Thánh và phàm.

- Mặt Thánh: Người tu gặp các bậc bề trên vô tình, có công không được thưởng, vô cớ bị chỉ trích, đối với cấp dưới thì không được hậu học kính trọng. Bao lâu khổ công hy sinh lo cho Đạo nghiệp, nay bị nghịch cảnh khảo duợt, làm người tu nãn lòng thối chí. Khi gặp Nghịch khảo như thế, chớ nên sanh lòng căm hờn, mà nên luôn luôn xét lấy mình, vì Đạo thuộc vô vi, tấm lòng son sắt có Trời cao soi xét, việc khen thưởng hay chê bai nơi cõi trần nầy là không đáng kể. Luôn luôn giữ lòng son sắt, càng bị hàm oan, càng chịu đựng trong quyết tâm tu hành thì càng được cao thăng phẩm vị nơi cõi thiêng liêng.

Gương xưa như nàng Thị Kính, rồi Sãi Kỉnh Tâm, chịu hàm oan khổ nhục biết bao nhiêu mà kể, nhưng vẫn quyết lòng tu niệm, mới đắc thành Phật vị.

- Mặt phàm: Khi phát tâm hành đạo, cha mẹ không thích, vợ con ngăn cản,..., việc làm không thuận, cấp trên khinh khi, cấp dưới lờn mặt, đó là Nghịch khảo. Gặp cảnh nầy, ta phải an phận, lấy đức cảm hóa mọi người, rồi dần dần hoàn cảnh cũng thay đổi, trở nên thuận bề vui vẻ.

7. Điên đảo khảo: Căn cơ duyên phận, căn quả tiền khiên của mỗi người đều không giống nhau, cho nên có người gặp Thuận khảo trước rồi Nghịch khảo sau, hay gặp ngược lại, hay có người bị Nội, Ngoại, Khí, Kỳ, khảo luân phiên liên tiếp, làm người tu thất điên bát đảo đến sờn lòng thối chí.

Dù trong hoàn cảnh nào, người tu cần phải giữ vững đức tin, mặc cho mưa gió tơi bời, nhưng rồi đến một lúc nào đó thì cũng gió lặng sóng êm, đường Đạo bớt chông gai, người tu lo tiến bước.

8. Đạo khảo: Có hai loại: Nội và Ngoại.

- Nội khảo: Nội Đạo khảo phát xuất từ trong nội bộ nền Đạo, nhỏ thì tranh chấp về quan niệm tu hành, nghiêm trọng thì tách ra lập chi phái mà lìa gốc Đạo, làm cho các tín đồ không biết phải trái mà theo.

Khi gặp phải Nội Đạo khảo nầy, người tu cần phải thận trọng, đem hết lương năng lương tri của mình ra phán xét, ai là người tôn sư mà không trọng Đạo, ai là người trọng Đạo mà không tôn sư?

Nếu chỉ biết tôn sư, tức là chỉ biết đi theo người thầy lãnh đạo mình mà không trọng Đạo thì đó là tu nhơn tình, không hợp lòng Trời. Nếu chỉ biết trọng Đạo mà không tôn sư, tức là chỉ biết lấy Đạo làm trọng nhưng không nghe lời thầy thì dễ trở nên khi sư mà có thể biệt lập thành chi phái.

- Ngoại khảo: Ngoại Đạo khảo là do Bàng môn Tả đạo đến khảo. Phật độ người có duyên phần, Ma tìm người hám vọng và thích thấy sự huyền diệu. Quỉ Vương mượn danh Tiên Phật, dùng Thần thông biến hóa mà mê hoặc lòng người, nó biết rõ người ham thứ gì thì nó cho thứ đó, khảo thứ đó, để dẫn vào con đường tà, xa rời chánh đạo.

Đạo khảo phần trí của người tu hành nên gọi là Trí tuệ khảo, khảo sự phán xét chánh tà, khảo lòng trung, hiếu, tiết, nghĩa, tức là khảo phần đức hạnh. Đối với người tu chưa được khai huệ thì nên giữ lòng không tham không vọng là cách tốt nhứt để đối phó với phần Đạo khảo.

Phần trên vừa trình bày chi tiết tất cả hình thức Ma khảo người tu, nhưng không phải người tu nào cũng bị khảo qua các trường hợp trên, Ma chỉ khảo chỗ nào yếu kém mà thôi.

Trong các đề tài: Danh, lợi, quyền, nộ, ố, ai, dục, tửu, sắc, tài, khí, người tu yếu về chữ nào thì nó biết nó khảo ngay thứ đó. Người tu nào còn ham tiền thì nó dùng tiền vàng để thử, người tu nào còn ham sắc thì nó dùng sắc đẹp để thử, người tu nào còn háo danh thì nó dùng chức nầy tước nọ để thử, vv . . .

Ma không hình tướng, tùy theo lòng ham muốn của người mà nó hiện ra, nếu thấy sắc dậy lòng tà thì bị con ma sắc thừa cơ làm hại. Nếu chưa làm chủ được tánh nộ thì mỗi khi phát nộ, nghiến răng trợn mắt, đỏ mặt tía tai, nói năng bẩu lẩu,... thì đó là hiện thân của con ma nộ vậy.

Do đó, người tu cần phải giữ hai điều cốt yếu sau đây:

- Giữ vững đức tin, tin tưởng mạnh mẽ nơi Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu, là hai Đấng Cha Mẹ chung thiêng liêng.

- Giữ chặt cái tâm, không cho vọng động, giữ cho an nhiên thanh tịnh, không ham không muốn, không gì hết ráo, thì mọi sự thử thách của quỉ ma chỉ như luồng gió thoảng.

Mỗi lần bị Ma khảo, mỗi lần vượt qua là mỗi lần đạo tâm tiến lên một bực cao hơn, và lần lần tiến hóa lên những bực cao dần, cuối cùng thì được trở về ngôi vị cũ nơi cõi TLHS."

TKPÐ: Tam Kỳ Phổ Ðộ.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

TLHS: Thiêng Liêng Hằng Sống.

 

Ma kheo

摩丘

A: Superior monk.

P: Le moine supérieur.

Ma kheo là từ ngữ nói tắt của: Ma Ha Tỳ Kheo.

Ma Ha là lớn, đại. Tỳ Kheo là tiếng phiên âm chữ Phạn: BHIKSU. Chữ nầy còn được phiên âm là: Bật Sô, Tỳ Khưu, nghĩa là người xuất gia qui y theo Phật giáo, thọ giới cụ túc.

Tỳ Kheo còn được gọi là Khất Sĩ, trên thì Khất pháp (xin cái pháp) của Phật Như Lai để luyện thân, dưới thì khất thực (xin cái ăn) nơi các nhà thế tục để nuôi cái thân.

Còn người hành khất (ăn xin, ăn mày) bình thường thì họ chỉ xin cơm áo mà sống chớ không xin pháp, nên không thể gọi họ là Tỳ Kheo được.

Do đó, từ ngữ Tỳ Kheo gồm 4 nghĩa: - Tịnh khất thực. - Phá phiền não. - Tịnh trì giới. - Năng bố ma (có sức làm cho quỉ ma sợ sệt).

Ma Kheo là Ma Ha Tỳ Kheo, là Đại Tỳ Kheo, bực Tỳ Kheo lớn, tu hành nhiều năm, đức cao, đáng kính.

KCK: Ma Kheo Ma Kheo, Thanh tịnh Tỳ Kheo.

KCK: Kinh Cứu Khổ.

 

Ma vương quái

魔王怪

A: Prince of demons.

P: Prince des démons.

Ma: Những linh hồn và chơn thần người chết chưa siêu thăng hay chưa định phận, còn ở lại cõi trần, thường quanh quẩn bên cạnh người sống hay ở bãi tha ma để phá khuấy người sống. Vương: vua. Quái: quái gở, kỳ quái.

Ma vương quái là vua loài ma quái gở.

TNHT: Thần thông trói chặt Ma vương quái.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Ma xử

魔杵

Ma: Những linh hồn và chơn thần người chết chưa siêu thăng hay chưa định phận, còn ở lại cõi trần, thường quanh quẩn bên cạnh người sống hay ở bãi tha ma để phá khuấy người sống. Xử: còn đọc là Chử: cái chày.

Ma xử là nói tắt của: Giáng Ma xử, nghĩa là cái chày để hàng phục quỉ ma. Đây là bửu pháp đặc biệt của Đức Hộ Pháp.

(Xem: Giáng ma xử, vần G)

KĐT: Chuyển cây Ma xử đuổi tà trục tinh.

KÐT: Kinh Ðại Tường.

 

MẠC

Mạc trắc

莫測

A: Immeasurable.

P: Immesurable.

Mạc: chẳng, không, đừng. Trắc: đo lường.

Mạc trắc là không đo lường để biết được.

KNHTĐ: Linh oai mạc trắc.

KNHTÐ: Kinh Ngọc Hoàng Thượng Ðế.

 

Mạc thiên tịch địa

幕天席地

Mạc: cái màn che, cái mùng. Thiên: trời. Tịch: chiếc chiếu. Địa: đất.

Mạc thiên tịch địa là màn trời chiếu đất.

Nghĩa theo Hán văn là: cao rộng mênh mông.

Nghĩa theo tiếng việt, màn trời chiếu đất là chỉ cảnh sống ở ngoài trời, không nhà cửa, dãi dầu sương nắng.

 

MAI

MAI

1.    MAI: Chôn xuống đất, giấu kín.
Td: Mai danh, Mai một, Mai táng.

2.    MAI: Cây mai, hoa mai.
Td: Mai gầy, Mai tàn, Mai xuân.

 

Mai cốt bất mai tu

埋骨不埋羞

Mai: Chôn xuống đất, giấu kín. Cốt: xương. Bất: không. Tu: việc xấu hổ.

Mai cốt bất mai tu là chôn xương chớ không chôn được tiếng xấu. Ý nói: người chết rồi, thể xác chôn xuống đất nhưng tiếng xấu vẫn còn hoài.

 

Mai danh ẩn tích

埋名隱跡

A: To conceal one's name and to keep out of sight.

P: Se cacher son nom et se dissimuler.

Mai: Chôn xuống đất, giấu kín. Danh: tên. Ẩn: che giấu. Tích: dấu vết.

Mai danh ẩn tích là chôn giấu tên tuổi, che giấu vết tích, chỉ người lánh đời, không muốn cho ai biết đến mình.

Đó là ẩn sĩ lánh đời.

 

Mai gầy sen nở

Mai: Cây mai, hoa mai. Gầy: tàn, héo úa. Sen nở: sen nở hoa.

Hoa mai nở vào mùa Xuân, mà hoa mai tàn là ý nói mùa Xuân đã đi qua. Hoa sen nở vào mùa Hạ, nên sen nở là chỉ đang lúc mùa Hạ.

Mai gầy sen nở là ý nói: mùa Xuân đã qua, mùa Hạ lại tới. Thời gian thấm thoát trôi qua.

TNHT: Lần lượt cúc xủ sương tan, mai gầy sen nở, ngày tháng qua chẳng là bao,....

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Mai một

埋沒

A: To disappear.

P: Faire disparaiâtre.

Mai: Chôn xuống đất, giấu kín. Một: mất hẳn, không có.

Mai một là chôn vùi mất hẳn.

 

Mai tàn tuyết xủ

Mai: Cây mai, hoa mai. Tàn: héo úa. Tuyết xủ: tuyết lạnh rơi xuống.

Mai tàn tuyết xủ là hoa mai đã héo tàn, tuyết lạnh rơi xuống. Ý nói: Cảnh vật tàn tạ, lạnh lẽo.

TNHT: Mai tàn tuyết xủ đời thay đổi.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Mai táng

埋葬

A: To bury.

P: Enterrer.

Mai: Chôn xuống đất, giấu kín. Táng: chôn xác người chết.

Mai táng là chôn xác người chết xuống đất.

 

Mai thê hạc tử

梅妻鶴子

Mai: Cây mai, hoa mai. Thê: vợ. Hạc: chim hạc. Tử: con.

Mai thê hạc tử nghĩa đen là lấy cây mai làm vợ, lấy chim hạc làm con. Ý nói: Người ở ẩn, cao khiết thoát tục.

Điển tích: Lâm Bô, người đời Tống, tự Quân Phục, mồ côi từ nhỏ, rất chăm học, tánh không thích danh lợi, ở ẩn trong núi Cô Sơn vùng Tây Hồ, 20 năm không bước chân ra thị thành. Ông làm thơ rất hay, có tài vẽ đẹp, nhưng làm thơ xong hay vẽ xong thì bỏ đi, không muốn truyền lại. Ông không lấy vợ, sống một mình, trồng mai và nuôi hạc làm bạn.

 

Mai xuân nguyệt cúc vị trà hương

梅春月菊味茶香

Mai: Cây mai, hoa mai. Xuân: mùa Xuân. Nguyệt: tháng. Cúc: hoa cúc. Vị: mùi vị. Trà hương: mùi thơm của trà. Mai Xuân: hoa mai vào mùa Xuân. Nguyệt cúc: Hoa cúc vào mùa Thu. Do chữ: Cúc nguyệt là tháng có hoa cúc nở, mà hoa cúc nở rộ vào tháng tám trung Thu, nên người ta dùng hoa cúc tượng trưng mùa Thu.

Đây là câu đầu trong bài thài Dâng Trà, có nghĩa là: Mùi vị của trà thơm như hoa mai mùa Xuân, hoa cúc mùa Thu.

Mỗi mùa trong năm có một thứ hoa đặc trưng: mùa Xuân có hoa mai, mùa Hạ có hoa sen, mùa Thu có hoa cúc, mùa Đông có hoa đào.

 

MẠI

Mại quốc cầu vinh

賣國求榮

A: To sell one's country and to pursue honours.

P: Vendre sa patrie et chercher des honneurs.

Mại: bán. Quốc: nước. Cầu vinh: mong mỏi vinh hiển. Mại quốc là bán nước. (thường đọc sai là Mãi quốc).

Mại quốc cầu vinh là bán nước để cầu mong vinh hiển.

Chỉ kẻ phản quốc, theo giặc, đem nước nhà bán cho giặc để mong giặc ban cho phẩm tước lớn và trở nên giàu có.

 

MAN

Man trá

瞞詐

A: Dishonest.

P: Malhonnête.

Man: lừa dối. Trá: dối gạt.

Man trá là dối trá, lừa dối.

 

MÃN

MÃN

MÃN: 滿 Đầy đủ, đầy tràn, xong, hết.
Td: Mãn kiếp, Mãn lễ, Mãn tang.

 

Mãn đường cát khánh

滿堂吉慶

Mãn: Đầy đủ, đầy tràn, xong, hết. Đường: nhà. Cát: tốt. Khánh: chúc mừng.

Mãn đường cát khánh là chức mừng phước tốt đầy nhà.

Đây là câu cầu chúc.

 

Mãn kiếp

滿劫

A: To die.

P: Mourir

Mãn: Đầy đủ, đầy tràn, xong, hết. Kiếp: một kiếp sống.

Mãn kiếp là hết một kiếp sống nơi cõi trần, ý nói: chết.

GTK: Mãn kiếp lại còn bị xẻ thây.

GTK: Giới Tâm Kinh.

 

Mãn kỳ

滿期

A: Expiry.

P: Délai expiré.

Mãn: Đầy đủ, đầy tràn, xong, hết. Kỳ: thời hạn.

Mãn kỳ là hết hạn.

TNHT: Đã mãn kỳ, phải giao quyền lại cho Tòa Tam giáo.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Mãn phần

滿分

A: To die.

P: Mourir.

Mãn: Đầy đủ, đầy tràn, xong, hết. Phần: vận mạng mà Trời dành cho mỗi người.

Mãn phần là vận mạng đã hết, tức là chết.

TNHT: Tương mãn phần cũng nơi số mạng tiền định.

(Tương: Nguyễn Văn Tương, thế danh của Ngài Thượng Chưởng Pháp đầu tiên của Đạo Cao Đài.)

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Mãn phục - Mãn tang

滿服 - 滿喪

A: The end of mourning.

P: La fin de deuil.

Mãn: Đầy đủ, đầy tràn, xong, hết. Phục: quần áo tang. Tang: để tang tỏ lòng thương nhớ người chết.

Mãn phục, đồng nghĩa Mãn tang, là hết thời kỳ để tang.

Đạo Cao Đài qui định ngày làm Lễ Đại tường là mãn tang, nên sau khi làm Đại tường xong thì làm Lễ Trừ phục, tức là đốt hết quần áo tang, và khăn tang.

 

MANG

Mang sao đội nguyệt

Mang: đeo vào mình. Sao: tinh tú. Đội: đặt trên đầu. Nguyệt: mặt trăng.

Mang sao đội nguyệt là nói cảnh sống vất vả, dãi gió dầm mưa, không nhà cửa, đồng nghĩa: Màn trời chiếu đất.

TNHT: Bần đạo hỏi bốn Hiền hữu: Có ai đã mang sao đội nguyệt, ăn mật nằm gai, chịu muôn sự khổ hạnh cõi đời để tạo hạnh phúc cho nhơn sanh chưa?

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

MÃNG

Mãng bào

蟒袍

A: Cloak adorned with dragon.

P: Manteau orné de dragon.

Mãng: loại rắn lớn giống hình con rồng. Bào: áo dài.

Mãng bào là áo bào có thêu hình con mãng.

Trong triều đình, Mãng bào là áo bào của vua; Mãng y là áo lễ của các quan có thêu hình con mãng.

Bộ Đại phục của Đức Hộ Pháp, bên trong mặc giáp, ngoài giáp thì choàng mãng bào màu vàng, thế nào bên tả thì giáp, bên hữu thì mãng.

 

MẠNG (MỆNH)

MẠNG

MẠNG: còn đọc là MỆNH.

1.    MẠNG: cái mạng sống, cái vận mạng mà Trời định cho mỗi người theo cái nghiệp.
Td: Mạng căn, Mạng chung.

2.    MẠNG: mệnh lệnh của cấp trên.
Td: Mạng pháp, Mạng Trời

3.    MẠNG: đặt tên, gọi tên.
Td: Mạng danh.

 

Mạng căn

命根

Mạng: cái mạng sống, cái vận mạng mà Trời định cho mỗi người theo cái nghiệp. Căn: gốc rễ.

Mạng căn là cái mạng sống của con người có gốc rễ từ kiếp trước.

Những việc làm thiện ác của kiếp trước tạo thành cái Nghiệp, quyết định cái mạng sống cho kiếp hiện tại.

Vì mạng căn của mỗi người khác nhau, nên địa vị, hoàn cảnh và trình độ của mỗi người cũng khác nhau.

KTT: Trăm năm là tuổi đủ đầy mạng căn.

KTT: Kinh Tắm Thánh.

 

Mạng chung

命終

A: To die.

P: Mourir.

Mạng: cái mạng sống, cái vận mạng mà Trời định cho mỗi người theo cái nghiệp. Chung: hết, cuối.

Mạng chung là cái mạng sống đã hết: chết.

KSH: Lúc chung mạng dứt hơi hồn xuất.

KSH: Kinh Sám Hối.

 

Mạng danh (Mệnh danh)

命名

A: To name.

P: Nommer.

Mạng: đặt tên, gọi tên. Danh: tên.

Mạng danh (Mệnh danh) là gọi tên, đặt tên.

Thầy giáo dạy học được mệnh danh là Kỹ sư tâm hồn.

 

Mạng pháp

命法

A: The order and law.

P: L'ordre et la loi.

Mạng: mệnh lệnh của cấp trên. Pháp: pháp luật.

Mạng pháp là mệnh lệnh và pháp luật.

TNHT: Nếu mình trọn tin mạng pháp thì các Đấng cũng ghi công cho.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Mạng Trời

A: The order of God.

P: L'ordre de Dieu.

Mạng: mệnh lệnh của cấp trên. Trời: Ông Trời, Đức Chí Tôn Thượng Đế.

Mạng Trời là mệnh lệnh của Trời ban ra, hán văn gọi là Thiên mệnh.

TNHT: Mạng Trời đã định, nhưng có sức của các con mới đặng kết quả hoàn toàn.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

MANH

Manh sư

肓師

A: Blind master.

P: Maiâtre aveugle.

Manh: mù, tối tăm. Sư: thầy dạy học.

Manh sư là từ ngữ dùng để đối lại với Minh sư.

Minh sư là là người tu đã đắc đạo, đạt được trí huệ, trở lại dạy cho học trò đắc đạo như mình.

Manh sư là người tu chưa đắc đạo, trí não còn mờ tối mê lầm, mà lại làm bộ tài giỏi, thâu nhận đệ tử và dẫn dắt đệ tử vào đường lầm lạc như mình, chẳng khác chi người đui dẫn đám mù. (Quần manh dẫn quần manh).

 

MẠNH

MẠNH

MẠNH: Lớn, bắt đầu, họ Mạnh.
Td: Mạnh nguyệt, Mạnh Tử.

 

Mạnh nguyệt

孟月

A: The first month of every season.

P: Le premier mois de chaque saison.

Mạnh: Lớn, bắt đầu, họ Mạnh. Nguyệt: tháng âm lịch.

Mạnh nguyệt là tháng đầu của mỗi mùa.

Đó là những tháng âm lịch: tháng Giêng đầu mùa Xuân, tháng tư đầu mùa Hạ, tháng bảy đầu mùa Thu và tháng mười đầu mùa Đông.

 

Mạnh Thường Quân

孟常君

Mạnh Thường Quân là một vị Tướng Quốc của nước Tề thời Xuân Thu bên Tàu.

Ông là một nhà giàu có, lại có lòng nghĩa hiệp, luôn luôn chiêu mộ các anh tài khắp nơi, miễn có tài thì được trọng đãi để theo giúp mình trong công việc an bang tế thế. Tiếng tốt đồn vang khắp các nước chư Hầu thời bấy giờ.

Hiện nay, trong ngôn ngữ Việt Nam, danh từ Mạnh Thường Quân dùng để chỉ những vị giàu có, đầy lòng nghĩa hiệp, ủng hộ tài chánh tích cực đối với các hoạt động xã hội, từ thiện hay các phong trào thanh niên, thể dục thể thao.

Điển tích: Mạnh Thường Quân, người nước Tề, tên thật là Điền Văn, con của quan Tướng Quốc Điền Anh.

Dưới thời vua Tề Mân Vương, quan Tướng Quốc Điền Anh có hơn 40 người con trai, mà Điền Văn là con của một người tiện thiếp, lại sanh nhằm ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch, nên khi mới sanh, Điền Anh bảo người thiếp bỏ đi đừng nuôi. Nhưng người tiện thiếp thương con nên không nỡ bỏ, lén giấu nuôi riêng một chỗ kín. Khi Điền Văn được 5 tuổi, thì người thiếp dắt đến ra mắt Điền Anh, Điền Anh nổi giận vì người thiếp trái mệnh. Điền Văn liền dập đầu thưa rằng:

- Vì cớ nào mà cha nỡ bỏ con?

Điền Anh đáp: - Người đời thường nói ngày mùng 5 tháng 5 là ngày hung, sanh con nhằm ngày ấy lớn lên nó cao bằng cái cổng, sẽ bất lợi cho cha mẹ.

Điền Văn thưa rằng: - Người ta sanh ra thọ mệnh ở Trời, lẽ nào thọ mệnh ở cái cổng. Nếu quả thọ mệnh ở cái cổng thì sao cha không xây cái cổng cho cao lên.

Điền Anh nghe con trẻ nói thế thì không biết trả lời ra sao, nhưng nghĩ rằng đứa bé nầy rất khác thường, nên bắt đầu để ý chăm nom dạy dỗ nó.

Đến khi Điền Văn được 10 tuổi thì đã biết tiếp ứng tân khách. Tân khách rất thích chơi với Văn vì cậu bé rất thông minh và có nhiều tư tưởng lạ. Sứ giả các nước đến Tề đều yêu cầu tiếp xúc Điền Văn. Điền Anh cho Điền Văn là người hiền, nên rất thương yêu, lập làm đích tử, nối dòng Tiết Công, gọi là Mạnh Thường Quân.

Mạnh Thường Quân nối ngôi cha, xây nhà quán xá lớn thêm để chứa những kẻ sĩ trong thiên hạ. Tất cả kẻ sĩ đến đều được thu dụng, không phân biệt sang hèn, giỏi dở.

Mạnh Thường Quân dẫu làm quan lớn hiển hách nhưng vẫn ăn uống giống như tân khách. Có một hôm đãi khách ăn đêm, đèn soi không rõ, có một khách ngờ rằng cơm có hai hạng bèn ném đũa xin đi. Điền Văn tự đứng dậy, đến nơi rọi đèn vào cơm để so sánh, quả nhiên cơm đều như nhau. Vị tân khách ấy than rằng:

- Mạnh Thường Quân đều đãi khách đồng một bực mà ta đem lòng ngờ vực, thật là tiểu nhân, còn mặt mũi nào nhìn ông ấy nữa.

Nói xong thì lấy dao tự đâm cổ chết, không ai ngăn kịp. Mạnh Thường Quân thương khóc thảm thiết. Các tân khách đều cảm động, theo về càng lúc càng đông.

Các nước chư Hầu nghe tiếng Mạnh Thường Quân là người hiền, có nhiều tân khách tài giỏi, nên đều tôn trọng nước Tề, không dám xâm phạm bờ cõi nước Tề.

Bấy giờ, vua nước Tần là Tần Chiêu Vương nghe tiếng Mạnh Thường Quân là người hiền, muốn triệu họ Mạnh sang Tần nhưng biết họ Mạnh đang làm Tướng Quốc nước Tề thì làm sao cầu được. Một vị cận thần tâu:

- Bệ hạ nên đem con em thân tín sang Tề làm con tin rồi dùng lễ vật mời Mạnh Thường Quân. Vua Tề tin Tần, ắt phải cho Mạnh Thường Quân đi. Bệ hạ được Mạnh rồi thì liền phong chức Tướng Quốc, hai nước Tần và Tề giao hảo, rồi cùng bàn mưu thôn tính chư Hầu, chẳng còn khó chi nữa.

Vua Tần nghe theo, cử Kinh Dương Quân qua Tề làm con tin, đổi Mạnh Thường Quân sang Tần. Các tân khách đều khuyên Mạnh Thường Quân không nên đi vì Tần là nước hổ lang trí trá, qua Tần rồi ắt Tần không cho về.

Khuông Chương bèn tâu với Tề Mân Vương:

- Nước Tần đưa con tin sang mà cầu được tiếp kiến Mạnh Thường Quân là ý muốn thân thiện với Tề. Nếu Mạnh Thường Quân không đi thì mất lòng Tần, mà nếu giữ con tin của Tần thì tất không tin Tần. Chi bằng cứ lấy lễ đãi Kinh Dương Quân rồi cho trở về Tần, sau đó sai Mạnh Thường Quân đi sứ sang Tần đáp lễ. Như vậy tất vua Tần tin nghe Mạnh Thường Quân mà hậu với Tề.

Tề Mân Vương cho là phải, làm y theo kế hoạch.

Mạnh Thường Quân vâng mệnh đi sứ, đem theo hơn ngàn tân khách sang Tần. Khi đến Hàm Dương, vào yết kiến vua Tần. Vua Tần xuống tận thềm để đón Mạnh Thường Quân và kể cái lòng yêu mến bấy lâu.

Mạnh Thường Quân có cái áo hồ cừu rất quí, dùng làm lễ vật dâng lên vua Tần. Vua giao áo cho quan giữ kho cất.

Vua Tần định phong Mạnh Thường Quân làm Tể Tướng. Vu Lý Tật sợ vua dùng họ Mạnh thì mình mất quyền, bèn cùng Công Tôn Thích tâu với vua Tần:

- Mạnh Thường Quân là người nước Tề, nay làm tướng nước Tần tất hắn phải lo cho Tề trước rồi sau mới lo cho Tần. Mạnh Thường Quân là người hiền tài, chung quanh lại có nhiều bộ hạ tài giỏi, như vậy thì nguy cho Tần lắm.

Vua Tần hỏi: - Nếu vậy thì cho Mạnh Thường Quân trở về nước Tề hay sao?

Vu Lý Tật tâu: - Mạnh Thường Quân đã ở nước Tần hơn một tháng, khách theo hơn ngàn người, nên đã biết tất cả việc nhỏ việc lớn của nước Tần, nếu nay cho họ về thì ắt hại cho Tần, chi bằng nên giết đi.

Vua Tần còn đang lưỡng lự, bèn tạm cho Mạnh Thường Quân ra ở quán xá chờ đợi. Kinh Dương Quân cảm mến Mạnh Thường Quân nên lén cho hay mưu kế của Vu Lý Tật. Mạnh Thường Quân lo sợ, hỏi Kinh Dương Quân có kế chi giúp mình không. Kinh Dương Quân nói:

- Vua Tần chưa quyết định. Trong cung có nàng Yên Cơ được vua Tần rất yêu, nói gì vua cũng nghe, nếu Ngài có vật chi quí báu, tôi sẽ vì Ngài đem dâng cho Yên Cơ để cầu nàng nói giúp một lời, tất Ngài có thể thoát họa mà trở về Tề.

Mạnh Thường đem dâng đôi bạch bích. Yên Cơ nói:

- Thiếp rất thích thứ áo hồ cừu trắng của Tề, nếu cho thiếp một cái thiếp sẽ nói giúp cho, chớ cái thứ ngọc bích nầy thiếp không thích.

Mạnh Thường Quân thở dài, không biết tính sao, vì chỉ có một cái áo hồ cừu mà đã đem dâng cho vua Tần rồi. Họ Mạnh bèn hỏi ý kiến của các tân khách. Một vị nói:

- Để tôi vào cung vua, giả làm chó đến kho trộm áo hồ cừu đó đem về.

Mạnh Thường Quân túng thế cũng phải cười rồi cho đi. Vị tân khách ấy giả làm chó rất giống, đang đêm chui qua cống nhỏ, lẻn vào trong kho, rình lúc người giữ kho ngủ say, lấy chìa khóa mở cửa kho, lấy áo hồ cừu, khóa cửa lại như cũ, rồi đem áo hồ cừu trở về mà không ai hay biết.

Mạnh Thường Quân mừng rỡ, đem áo giao cho Kinh Dương Quân, dâng cho nàng Yên Cơ. Yên Cơ thỏ thẻ nói với vua Tần cho Mạnh Thường Quân trở về Tề để giữ tình giao hiếu với Tề, được vua Tần bằng lòng và cấp giấy qua các ải cho phái đoàn của Mạnh Thường Quân trở về nước Tề.

Mạnh Thường Quân nói với đám tân khách của mình:

- Ta may nhờ một lời nói của Yên Cơ mà thoát được miệng hùm, nhưng vạn nhất nửa chừng vua Tần đổi ý, Vu Lý Tật tâu vào thì mạng bọn ta còn gì?

Trong đám tân khách có người giỏi làm giấy giả, bèn theo giấy vua Tần cấp cho Mạnh Thường Quân, làm giả một tờ giấy khác, đổi tên họ khác, rồi ngay đêm đó, cấp tốc lên đường trở về, đến ải Hàm Cốc vào lúc nửa đêm. Cửa ải đóng chặt, nếu đợi đến sáng thì e không kịp. Một tân khách giả tiếng gà gáy giống y như thật, bao nhiêu con gà khác trong ải đều gáy theo, quan giữ ải tưởng Trời gần sáng, thức dậy cho lịnh mở cửa ải, khám xét giấy tờ qua trạm rồi cho phái đoàn của Mạnh Thường Quân đi qua.

Vu Lý Tật hay tin vua Tần cho Mạnh Thường Quân trở về Tề thì lật đật vào triều tâu với vua Tần:

- Nếu Bệ hạ tha không giết họ Mạnh thì cũng giữ lại làm tin, chớ sao lại thả cho về Tề?

Vua Tần hối quá, sai quan quân đuổi gấp theo, đến Hàm Cốc quan đòi xem sổ tên các người qua lại thì không có ai tên là Điền Văn. Viên quan tự hỏi: Hay là họ Mạnh đi ngả khác?

Đợi đến nửa ngày không có tin tức gì thêm, mới hỏi quan giữ ải, rồi mô tả hình dáng của Mạnh Thường Quân và số tân khách đi theo, cùng là xe ngựa, thì quan giữ ải nói:

- Như vậy bọn ấy đã qua ải từ sáng hôm kia rồi, chúng đi nhanh lắm, có lẽ đã đi trăm dặm rồi, đuổi theo không kịp nữa.

Toán quan quân trở về tâu lại vua Tần mọi việc.

Vua Tần than rằng: - Mạnh Thường Quân có cái cơ mưu quỉ thần bất trắc, thật là một bậc hiền sĩ hiếm có trên đời.

Nói về Mạnh Thường Quân trở về Tề được bình yên, tiếng tăm lừng lẫy, tân khách đến càng đông. Số hoa lợi nơi Ấp Tiết không đủ chi dùng nuôi tân khách. Mạnh Thường Quân cho dân Ấp Tiết vay tiền để có thêm lợi tức, đến kỳ hạn thì cho người đến thâu tiền lãi. Có một tân khách tên Phùng Hoan xin đi thu các số tiền nầy. Họ Mạnh xét thấy người nầy chơn thực nên bằng lòng cho đi.

Dân Ấp Tiết nghe Mạnh Thường Quân sai Phùng Hoan đến thu nợ thì đem nộp trả khá nhiều. Phùng Hoan liền dùng số tiền nầy mua rượu thịt rồi yết thị dân chúng: Phàm nhà nào có vay tiền của Mạnh Thường Quân, trả được hay không trả được, đều phải đem giấy nợ đến xem xét, đồng thời được chiêu đãi rượu thịt vui vẻ. Trăm họ nghe cho ăn uống và không làm khó dễ người thiếu nợ nên tựu đến đầy đủ. Phùng Hoan nhơn đó dò xét, người giàu thì trả nợ không nói chi, còn người khá mà nhất thời không tiền trả được thì bắt làm tờ hẹn trả, còn người nghèo quá không thể trả nợ được thì Phùng Hoan thu hết giấy nợ đốt bỏ, xóa nợ luôn, rồi phủ dụ:

- Mạnh Thường Quân sở dĩ cho các ngươi vay tiền là sợ các ngươi không có vốn làm ăn, chớ không phải vì lợi. Nhưng Mạnh có mấy ngàn tân khách, bổng lộc không đủ chi dùng nên phải đòi số lãi để phụ vào. Nay người khá có thể trả thì có giấy hẹn trả, người quá nghèo không thể trả thì giấy nợ đã đốt rồi. Mạnh Thường làm ơn cho dân Ấp Tiết như vậy là hậu lắm.

Trăm họ đều tạ ơn và hoan hô Mạnh Thường Quân.

Phùng Hoan trở về báo cáo với Mạnh Thường Quân:

- Tôi đi chuyến nầy, không những vì Ngài thu nợ mà còn vì Ngài thu đức nữa.

Mạnh Thường Quân trách rằng:

- Tôi vì khách những 3000 người, bổng lộc không đủ chi dùng nên phải cho dân Ấp Tiết vay tiền lấy lãi phụ vào, tôi nghe ông đem hết tiền lãi mua rượu thịt đãi họ ăn uống và còn đem đốt bỏ một số giấy nợ nói là thu đức là nghĩa làm sao?

Phùng Hoan thưa rằng:

- Người mắc nợ nhiều, nếu không bày ra ăn uống thì chúng nó không đến đủ mặt, không thể dò xét được ai cùng khổ. Kẻ có khả năng trả nợ thì bắt họ làm giấy khất nợ, còn kẻ cùng khổ thì dầu có đánh chúng cũng không có tiền để trả. Ấp Tiết là Ấp thế phong của Ngài, dân ở đấy là những người cùng chung với Ngài lúc yên nguy, nay đốt giấy nợ kia là tỏ cái đức yêu dân của Ngài, vì thế mà tôi nói thu đức cho Ngài là vậy.

Mạnh Thường Quân nghe nói vậy thì đành bỏ qua.

Lại nói Tần Chiêu Vương, sau khi để Mạnh Thường Quân trở về nước Tề thì hối hận, sợ họ Mạnh làm Tề thịnh lên, bèn dùng tiền bạc sai người qua Tề làm kế ly gián giữa vua và tôi. Tề Mân Vương lầm kế, nghi ngờ Mạnh Thường Quân, nên thâu tướng ấn và đuổi họ Mạnh về Ấp Tiết. Các tân khách cũng lần lượt bỏ đi, chỉ có Phùng Hoan là theo bên cạnh.

Khi Mạnh Thường Quân trở về Ấp Tiết, Phùng Hoan cầm cương xe, dân Ấp Tiết hay tin kéo ra đón rất đông, tranh nhau dâng cơm rượu và hỏi thăm Mạnh Thường Quân. Lúc đó, Mạnh nói với Phùng Hoan:

- Thế nầy tôi mới biết Tiên sinh vì tôi mà thu đức vậy.

Phùng Hoan nói:

- Nay tôi có thể giúp Ngài trở lại làm Tướng Quốc nước Tề, vua Tề càng trọng Ngài hơn, và sẽ cấp đất phong nhiều hơn. Xin Ngài cho tôi một cỗ xe và ít lộ phí để tôi sang Tần.

Mạnh Thường Quân bằng lòng và Phùng Hoan qua Tần.

Phùng Hoan xin vào yết kiến vua Tần, nói rằng:

- Kẻ sĩ đến ở Tần thì muốn cho Tần mạnh và làm sao cho Tề yếu đi. Nước nào mạnh thì được thiên hạ .

Vua Tần hỏi:

- Tiên sinh có kế gì làm cho Tần hùng mạnh không?

- Nước Tề lâu nay được trọng là vì có Mạnh Thường Quân là người hiền. Nay vua Tề nghe lời gièm, thu lại tướng ấn, đuổi Mạnh Thường Quân về Ấp Tiết. Nay nhân lúc Mạnh đang oán Tề, Tần bí mật rước Mạnh về Tần thì Tần trở nên mạnh mà Tề thì yếu đi. Đại vương gấp sai sứ sang Tề, ngầm đem lễ vật đến đón Mạnh Thường Quân đang ở Ấp Tiết. Cơ hội nầy chớ nên bỏ lỡ, vạn nhất vua Tề biết hối, dùng trở lại Mạnh Thường Quân thì Mạnh Thường Quân cũng đã có cái tình cảm tốt đối với Tần rồi.

Bấy giờ nước Tần, tướng Vu Lý Tật mới chết, vua Tần đang thiếu một hiền tướng, nên khi nghe Phùng Hoan nói thế thì vua Tần cả mừng, bèn sai lấy 10 cỗ xe tốt, trăm dật hoàng kim, sai sứ giả đem nghi trượng Thừa Tướng đến Ấp Tiết đón Mạnh Thường Quân về Tần.

Phùng Hoan nói: - Xin Bệ hạ cho tôi về trước báo tin, bảo Mạnh Thường Quân chuẩn bị đi ngay theo sứ.

Phùng Hoan đi luôn một mạch trở về nước Tề, vào yết kiến vua Tề là Tề Mân Vương, tâu rằng:

- Hai nước Tần và Tề mạnh yếu thế nào, Bệ hạ đã biết, được người hiền thì mạnh, mất người hiền thì yếu. Nay tôi nghe vua Tần may gặp lúc Mạnh Thường bị đuổi, liền sai sứ sang đón Mạnh về Tần làm Thừa Tướng. Nếu Mạnh Thường Quân làm tướng cho Tần thì Tần sẽ rất mạnh mà Tề thì rất yếu.

Vua Tề giựt mình, hỏi rằng: - Như vậy thì biết làm sao?

Phùng Hoan đáp: - Nhân lúc sứ Tần chưa đến kịp, xin Đại vương mau triệu Mạnh Thường Quân về triều, giao lại cho tướng ấn, gia tăng bổng lộc, thì chắc Mạnh Thường Quân vui lòng nhận, chừng đó dầu sứ Tần có đến thì cũng không làm được việc gì.

Phùng Hoan tâu xong liền trở về Ấp Tiết, tỏ bày hết các việc cho Mạnh Thường Quân rõ.

Mạnh Thường Quân hoan hỷ nói:

- Văn nầy đối với tân khách không dám có điều gì thất lễ, tự nhiên bị bãi chức, tân khách đều bỏ đi, nay nhờ Tiên sinh mà được phục chức, tưởng các tân khách không còn mặt mũi nào trở lại trông thấy Văn nầy nữa.

Phùng Hoan đáp:

- Vinh nhục, thịnh suy là lẽ thường ở đời. Nếu giàu sang thì lắm kẻ cầu thân, mà nghèo hèn thì chẳng ai nhìn tới. Ấy là thói đời, Ngài không nên phiền muộn điều đó.

Mạnh Thường Quân nghe lời Phùng Hoan, nên khi trở lại làm Tướng Quốc nước Tề thì qui tụ tân khách trở lại, đối đãi như xưa.

Sau đó khá lâu, Mạnh Thường Quân can gián Tề Mân Vương không nên đem quân đánh nhà Châu mà mất lòng các chư Hầu, Tề Mân Vương không nghe, thu lại tướng ấn của Mạnh Thường. Họ Mạnh sợ bị vua Tề giết, liền chạy sang Đại Lương, nhờ Công tử Vô Kỵ, tức Tín Lăng Quân, giúp đỡ.

Về sau nữa, Mạnh Thường Quân trở về Ấp Tiết, vẫn cùng Tính Lăng Quân và Bình Nguyên Quân đi lại rất thân.

Tề Mân Vương mất, Tề Tuyên Vương lên nối ngôi, sai sứ đến đón Mạnh Thường Quân về triều làm Tướng Quốc, nhưng Mạnh Thường Quân xin cáo lão, ở Ấp Tiết dưỡng già và mất tại đó.

 

Mạnh - Trọng - Quí

- -

A: First, Second, Third of a group of three.

P: Premier, Second, Troisième du groupe de trois.

Mạnh: Lớn, bắt đầu, họ Mạnh. Thứ nhứt, khởi đầu.

Trọng: Thứ nhì, ở giữa.

Quí: Thứ ba, ở cuối, út chót.

■ Chỉ về thứ tự 3 tháng trong một mùa, thì: Mạnh là tháng đầu, Trọng là tháng giữa, Quí là tháng cuối.

Thí dụ: Mùa Xuân:

·         Tháng đầu mùa Xuân: Mạnh Xuân,tức là tháng giêng.

·         Tháng giữa mùa Xuân: Trọng Xuân, tức là tháng hai.

·         Tháng cuối mùa Xuân: Quí Xuân, tức là tháng ba.

Tương tự, mùa Hạ, Thu hay Đông cũng gọi y như thế.

■ Chỉ về con cái trong gia đình thì dùng:

·         Quí nam là con trai út.

·         Quí nữ là con gái út.

 

Mạnh Tử (372-289 trước TL)

孟子

A: Mencius.

P: Mencius.

Mạnh: họ Mạnh. Tử: thầy. Mạnh Tử là thầy Mạnh.

Mạnh Tử, tên là Mạnh Kha, tự là Tử Dư, là dòng dõi họ Công Tộc Mạnh Tôn ở nước Lỗ.

Mạnh Tử người gốc ở đất Trâu đời Xuân Thu, thuộc nước Lỗ, nay là huyện Trâu tỉnh Sơn Đông, Trung quốc.

Theo sách Mạnh Tử phả, Mạnh Tử sanh ngày mùng 2 tháng 4 năm thứ 4 đời vua Chu Liệt Vương (372 trước TL) và mất vào ngày 15 tháng 11 năm thứ 26 đời vua Chu Noãn Vương (289 trước TL), thọ 83 tuổi.

 Mạnh Tử

Thời ấu trĩ (Mạnh mẫu trạch lân).

Thời kỳ niên thiếu

Thời kỳ đi chu du các nước chư Hầu

Thời kỳ tuổi già: Dạy học và làm sách Mạnh Tử


1. Thời ấu trĩ: (Mạnh mẫu trạch lân).

Theo Liệt Nữ Truyện, năm Mạnh Kha lên 3 tuổi, đã mồ côi cha, nhà nghèo, ở gần nghĩa địa tại chân núi, thấy người ta đào chôn xác chết, lăn khóc, về nhà cậu bé Mạnh Kha cũng bắt chước đào chôn, lăn khóc.

Bà mẹ của Mạnh Kha là Chương thị (về sau gọi là Mạnh mẫu) thấy thế thì nói:

- Chỗ nầy không phải là chỗ cho con ta ở được.

Nói rồi, Bà dọn nhà ra ở gần chợ. Mạnh Kha thấy người ta buôn bán đảo điên, thêm bớt tiền nong, thì cậu bé Mạnh Kha về nhà cũng bắt chước nô nghịch một cách đảo điên như người ở chợ. Mạnh mẫu thấy thế lại nói:

- Chỗ nầy cũng không phải là chỗ cho con ta ở được.

Bà liền dọn nhà đến ở cạnh một trường học. Cậu bé Kha thấy trẻ nhỏ đua nhau học tập lễ phép, cắp sách vở, tập đọc tập viết. Về nhà cậu bé Kha cũng bắt chước tập lễ phép và cắp sách vở. Bấy giờ Mạnh mẫu mới vui lòng nói:

- Chỗ nầy con ta ở được.

Một hôm, cậu Kha thấy nhà hàng xóm giết heo làm thịt, về hỏi mẹ: - Người ta giết heo làm gì thế?

Mạnh mẫu nói đùa: - Để cho con ăn thịt đấy.

Nói xong Bà lại hối rằng: Ta nói lỡ lời rồi. Con ta còn thơ ấu, trí thức mới mở mang, mà ta nói dối với nó thì chẳng hóa ra ta dạy nó nói dối hay sao? Rồi Mạnh mẫu ra chợ mua thịt heo đem về làm cho con ăn thật.

Lại một hôm, Mạnh Kha đi học, bỗng bỏ về nhà chơi. Mạnh mẫu đang ngồi dệt vải trông thấy bèn đứng dậy, kêu con lại rồi cầm dao cắt đứt tấm vải đang dệt trên khung, nói rằng:

- Con đang đi học mà bỏ học thì cũng như mẹ đang dệt tấm vải nầy mà cắt đứt bỏ đi.

Từ hôm đó, cậu bé Mạnh Kha không dám bỏ học, lại học tập rất chuyên cần, học mỗi ngày một tiến, lại hay tập việc tế lễ.

2. Thời kỳ niên thiếu:

Khi lớn lên, Mạnh Tử theo học với thầy Tử Tư, tức là Khổng Cấp, cháu nội của Đức Khổng Tử.

Mạnh Tử học với Tử Tư hiểu được cái đạo của Đức Khổng Tử, lại có tài hùng biện và sở trường về khoa nói thí dụ. Lời nói của ông chắc chắn và mạnh mẽ, có sức thuyết phục. Mạnh Tử làm điều gì cũng lấy Đức Khổng Tử làm tiêu chuẩn.

Mạnh Tử nói Đức Khổng Tử là bậc Thánh về thời, nghĩa là Đức Khổng Tử có gồm hết các đức tốt của các bậc Thánh khác và ở vào thời nào cũng đều ứng dụng được cả.

Mạnh Tử ở vào thời Chiến Quốc, loạn lạc khắp nơi. Mạnh Tử cũng muốn đem tài học ra cứu đời. Ông muốn bắt chước Đức Khổng Tử định đi chu du các nước chư Hầu để đem cái đạo của Thánh nhân ra ứng dụng.

3. Thời kỳ đi chu du các nước chư Hầu:

Thời Chiến Quốc, thiên tử nhà Chu quá nhu nhược, không thể điều khiển được các vua chư Hầu. Mạnh Tử đành phải giúp vua chư Hầu, những nước nhỏ bé quá thì không thể làm gì được, nên Ông lưu ý đến hai nước lớn là Tề và Lương.

Những nước lớn nầy lại không chịu theo Vương đạo, mà chỉ muốn theo Bá đạo đặng làm Bá chủ thôn tính các nước khác, nên họ cho lời nói của Mạnh Tử là viễn vông, không thiết thực. Cho nên, khi Mạnh Tử đến nước Lương, vua Lương Huệ Vương hỏi Mạnh Tử:

- Ông có thuật gì làm lợi cho nước tôi không?

Mạnh Tử đáp:

- Nhà vua hà tất nói đến lợi, chỉ nên nói Nhân Nghĩa mà thôi. Nếu vua xướng lên nói rằng làm thế nào lợi cho nước ta, thì quan Đại phu cũng bắt chước nói rằng làm thế nào lợi cho nhà ta, kẻ sĩ và thứ dân cũng nói rằng làm thế nào lợi cho thân ta, kẻ trên người dưới tranh nhau điều lợi thì nước nguy mất.

Còn lấy Nhân Nghĩa mà nói, thì người bề tôi đem lòng nhân nghĩa thờ vua, người làm con đem lòng nhân nghĩa thờ cha, người làm em đem lòng nhân nghĩa mà thờ anh. Vua tôi, cha con, anh em, đều bỏ lợi, chỉ đem lòng nhân nghĩa mà tiếp đãi nhau, như thế mà không trị được thiên hạ là chưa có vậy. Vậy hà tất phải nói lợi.

Ý của Mạnh Tử là nếu người ta ai cũng nghĩ đến điều lợi mà quên nhân nghĩa, thành ra người ở đời cứ say đắm vào chỗ lợi lộc riêng thì sẽ tìm cách phá hại lẫn nhau, bởi đó sanh ra biến loạn và chiến tranh. Rốt lại, lợi ấy chính là điều hại.

Còn nói Nhân Nghĩa, tuy không nói đến lợi, nhưng kỳ thực là cái lợi rất lớn, vì mọi người ở với nhau trong xã hội, ai cũng đem lòng lo lợi chung trước mà lợi riêng sau thì trên dưới hòa thuận, thiên hạ hưởng phước thái bình.

Mạnh Tử đem thuyết Nhân chính nói với Huệ Vương:

- Bắt dân làm việc công, đừng bắt vào mùa cấy gặt thì dân trong nước dư lúa ăn. Khuyên dân không được đánh cá ở đầm, ao sâu bằng lưới dầy thì trong nước sẽ thừa tôm cá. Chặt cây trong rừng phải có mùa thì củi gỗ dùng không hết, khiến cho dân trong nước nuôi người sống, táng người chết, không phải phàn nàn thiếu thốn, là bắt dân làm Vương đạo đó. Rồi cấp ruộng đất cho dân, bắt họ chăm cày bừa, làm cỏ, trồng dâu nuôi tằm, khuyên họ nuôi các loài gia súc, lập nhà học ở làng, ở quận, để dạy dân biết hiếu đễ, trung tín, hình phạt thì giảm bớt, thuế má thu nhẹ. Dân đã ấm no lại biết lễ nghĩa thì chỉ cầm gậy mà có thể đánh bại được đạo binh hùng mạnh với giáp dầy giáo nhọn của hai nước Tần và Sở.

Đó là Nhân chính rất hay, nhưng tiếc rằng Lương Huệ Vương không chịu theo.

Mạnh Tử bỏ nước Lương đi qua nước Tề, được vua Tề đãi vào bực khách khanh.

Vua Tề cũng muốn mở mang đất đai, bắt nước Tần và nước Sở phải chầu phục, ngự trị cả Trung nguyên.

Mạnh Tử bảo vua không làm Nhân chính mà lại muốn được như thế kia, chẳng khác gì leo cây mà tìm cá.

Mạnh Tử ở vào thời quân chủ nhưng lại có một quan niệm rất mới, cho rằng thiên hạ là của chung, ông vua không có quyền lấy thiên hạ làm của riêng. Cái quyền cai trị dân là do Trời trao cho, tức là do lòng dân ưng thuận cho ai thì người ấy được. Cho nên Mạnh Tử nói:

- Dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh. Nghĩa là có dân mới có nước, có nước mới có vua. Cái chức vụ của người làm vua là phải bảo dân nghĩa là phải gìn giữ cái hạnh phúc của dân. Làm vua mà không hiểu rõ cái nghĩa vụ ấy là trái lòng dân, tức là trái mệnh Trời.

Vua phải quí trọng kẻ có đức, tôn trọng người có học thức, kẻ hiền ở ngôi, kẻ giỏi ở chức, nước nhà nhàn hạ.

Bởi cái tư tưởng ấy nên trong cái triết lý về chánh trị của Mạnh Tử có tinh thần Duy dân và Bảo dân.

Mạnh Tử là học trò của Khổng Cấp (Tử Tư) nên lấy đạo Trung Dung của Đức Khổng Tử làm căn bản. Lúc bấy giờ có nhiều học thuyết của nhiều nhà xung đột nhau kịch liệt lắm.

- Học thuyết của Dương Chu lấy Vị Ngã làm chủ nghĩa, nhổ một sợi lông của mình mà lợi cho cả thiên hạ thì cũng không làm.

- Học thuyết của Mặc Địch lấy Kiêm Ái làm chủ nghĩa, dẫu nhẵn trán mòn gót mà làm lợi cho thiên hạ thì cũng làm.

Mạnh Tử cực lực bài xích các học thuyết cực đoan nầy để làm sáng tỏ Đạo của Khổng Tử. Mạnh Tử học rộng, lý luận rất chặt chẽ, muốn đem cái sở đắc ra hành đạo nhưng không gặp thời. Ông có công rất lớn trong việc làm sáng tỏ Đạo Nho.

4. Thời kỳ tuổi già: Dạy học và làm sách Mạnh Tử.

Mạnh Tử đi chu du qua nhiều nước chư Hầu, muốn giúp vua chư Hầu thi hành Đạo của Thánh nhân, nhưng không vua nào chịu theo. Đến khi tuổi già, sức đã mỏi, ông xin từ chức quan khanh ở nước Tề trở về quê nhà dạy học trò, và cùng với các môn đệ như: Nhạc Chính Khắc, Vạn Chương, Công Tôn Sửu, sáng lập ra Thuyết Tánh Thiện, đồng thời ghi chép lại những điều mà Mạnh Tử đối đáp với các vua chư Hầu hoặc với bọn môn đệ, cùng những lời Mạnh Tử phê bình các chênh lệch của các học thuyết khác mà làm thành sách, đặt tên là sách Mạnh Tử, gồm 7 thiên, được liệt vào Tứ Thư của Nho giáo. (Tứ Thư gồm: Đại học, Luận Ngữ, Trung Dung, Mạnh Tử).

Đây là chỗ rất giống nhau giữa cuộc đời của Khổng Tử và Mạnh Tử. Đức Khổng Tử cũng ôm tài học bình sanh, đi chu du các nước chư Hầu, thuyết phục các vua chư Hầu chịu áp dụng cái đạo của Ngài để giúp dân giúp nước. Ngài chủ trương Vương đạo mà các vua chư Hầu lại muốn Bá đạo, Ngài thất bại và trở về nhà lo dạy học và làm sách lúc tuổi già. Cuộc đời của Mạnh Tử thì cũng rập khuôn y như vậy. Nhưng nhờ làm sách, dạy học trò, xiển dương cái đạo của Thánh hiền mà đạo Thánh được trường tồn mãi đến ngày nay.

Cái học của Mạnh Tử là chân truyền của cửa Khổng.

Mạnh Tử lãnh hội lời của Đức Khổng Tử nói trong sách Luận Ngữ: Tánh Trời phú cho người ta, ai cũng thiện cả, vì tập nhiễm nên mới có khác nhau. Nếu có thành ra bất thiện là vì người ta không biết giữ cái bổn tâm, chứ cái nguồn gốc của tánh là không thể không thiện được.

Mạnh Tử theo ý ấy mà lập nên thuyết Tánh Thiện, sở dĩ nói cái Tánh Thiện là vì tin có cái Thiên lý chí thiện, mà tánh người là một phần của Thiên lý ấy, tất phải thiện. Sự giáo dục phải lấy cái thiện căn ấy làm căn bản, rồi giữ cho nó không mờ tối và trau giồi phát triển lên để thành người lành người tốt.

Nếu nói rằng người có tánh ác, hay không thiện không ác thì không hợp với cái Thiên lý chí thiện.

Tánh là bổn nguyên của Trời phú cho con người. Tánh bổn thiện thì Tâm cũng bổn thiện. Tâm với Tánh có cùng một gốc, hễ hiểu rõ cái Tâm thì biết rõ cái Tánh, mà khi đã biết rõ cái Tánh thì biết rõ Trời Đất và vạn vật.

Tâm là cái thần minh chủ tể có đủ mọi lý để ứng với vạn sự, Tánh là cái lý hoàn toàn của Tâm, và Trời là nguồn gốc của cái lý ấy. Biết rõ Tánh là biết Nhân và Lễ của cái đức Nguyên và đức Hanh của Trời, Nghĩa và Trí là cái đức Lợi và đức Trinh của Trời. Biết rõ bốn đức Nguyên Hanh Lợi Trinh ấy là đạt được cái diệu dụng của Trời.

Trời cho ta cái Tâm ấy để làm chủ con người của ta, thì Tâm ấy với Trời cùng một thể. Đó chính là cái đạo nhất quán của Đức Khổng Tử.

Mạnh Tử đại biểu cho khuynh hướng lý tưởng của Nho giáo, chủ trương Duy Tâm, nên đã đạt được cái Tâm học cao thâm huyền diệu của Nho giáo, trở thành một vị thầy đứng sau Khổng Tử. Do đó, người ta tôn Mạnh Tử là bực Á Thánh, tức là bực Thánh đứng hàng thứ nhì dưới Khổng Tử, và được truy phong là Trâu Quốc Công (Trâu là đất Trâu, sanh quán của Mạnh Tử) , được phối hưởng nơi miếu thờ Đức Khổng Tử.

 

MÃO

Mão - Các loại mão

A: The head-dress - The kinds of head-dress.

P: La coiffure - Les sortes de coiffures.

Mão: chữ Hán là Mạo là cái mão dùng để đội lên đầu trong bộ Đạo phục của Chức sắc CTĐ và HTĐ.

Có rất nhiều loại mão tùy theo phẩm tước Chức sắc.

I. Các loại Mão của Chức sắc CTĐ

      1. Mão của Đức Giáo Tông

      2. Mão của Thái Chưởng Pháp

      3. Mão của Thượng Chưởng Pháp

      4. Mão của Ngọc Chưởng Pháp

      5. Mão của Đầu Sư, Chánh Phối Sư,

          Phối Sư ba phái

      6. Mão của Giáo Sư phái Thái

      7. Mão của Giáo Sư phái Thượng và Ngọc

      8. Mão của Giáo Hữu ba phái

      9. Mão của Lễ Sanh ba phái

II. Mão của Chức sắc nữ phái CTĐ

      1. Mão của Nữ Đầu Sư

      2. Nữ Chánh Phối Sư, Nữ Phối Sư, Nữ Giáo Sư

      3. Nữ Giáo Hữu

      4. Nữ Lễ Sanh

III. Mão của Chức sắc HTĐ

      1. Mão của Đức Hộ Pháp

      2. Mão của Thượng Phẩm

      3. Mão của Thượng Sanh

      4. Mão của Thập nhị Thời Quân

      5. Mão của Chức sắc HTĐ dưới Thời Quân

IV. Mão của Thập nhị Bảo Quân

V. Mão của Chức sắc Bộ Nhạc

VI. Chức sắc CQPT

VII. Mão của các Chức sắc khác

      1. Hộ Đàn Pháp Quân và Tả, Hữu Phan Quân

      2. Mão của Lễ Sĩ và Giáo Nhi

      3. Mão của Đầu Phòng Văn và Bảo Thể

      4. Chức sắc Ban Thế Đạo


I. Các loại Mão của Chức sắc CTĐ:

1. Mão của Đức Giáo Tông:

- Mão Đại phục: là mão Bát quái 5 từng (thể cho Ngũ Chi Đại Đạo), toàn màu vàng, ráp tròn lại, bít chính giữa, trên chót mão có để chữ Vạn, giữa chữ Vạn có Thiên nhãn Thầy bao quanh một vòng minh khí. Nơi ngạch mão phải chạm 3 cổ pháp (Long Tu phiến, Phất chủ, Thư Hùng kiếm) cho rõ ràng y như hai bên cổ áo.

- Mão Tiểu phục: là Hiệp Chưởng mạo, làm toàn bằng hàng trắng, bề cao 3 tấc 3 phân 3 ly (0,333 mét), may giáp mối lại cho có trước một ngạnh, sau một ngạnh, hiệp lại có một đường xếp (ấy là Âm Dương tương hiệp), cột dây xếp hai lại. Nơi bên tay trái có để hai dải thòng xuống, một mí dài, một mí vắn (mí dài bề ngang 3 phân, dài 3 tấc). Trên mão, ngay trước trán có thêu 3 vạch liền song song là cung Càn.

2. Mão của Thái Chưởng Pháp:

- Đại phục thì đội mão Hiệp Chưởng của Hòa Thượng.

- Tiểu phục, không đội mão mà bịt khăn đóng vàng 9 lớp chữ Nhứt.

3. Mão của Thượng Chưởng Pháp:

- Đại phục thì đội mão Hiệp Chưởng trắng, y như mão Hiệp Chưởng của Đức Giáo Tông.

- Tiểu phục, không đội mão mà bịt khăn đóng trắng 9 lớp chữ Nhứt.

4. Mão của Ngọc Chưởng Pháp:

- Đại phục thì đội mão Văn Đằng màu hồng, trên mão ngay trán có thêu Thiên nhãn Thầy bao quanh một vòng Minh khí và trên có sao Bắc Đẩu Tinh Quân.

- Tiểu phục, không đội mão mà bịt khăn đóng hồng 9 lớp chữ Nhứt.

5. Mão của Đầu Sư, Chánh Phối Sư, Phối Sư ba phái:

Mão Đại phục là Bát Quái mạo, có thêu 8 cung Bát quái xung quanh bằng hán tự: 乾坎艮震巽離坤兌

Mão có màu vàng, xanh hay đỏ tùy theo sắc phái: Thái, Thượng hay Ngọc. Phái Thái thì áo mão đều màu vàng, phái Thượng thì áo mão đều màu xanh da trời, và phái Ngọc áo mão đều màu đỏ hồng.

- Tiểu phục, không đội mão, mà bịt khăn đóng 9 lớp chữ nhứt, có màu tùy theo sắc phái.

6. Mão của Giáo Sư phái Thái:

- Đại phục thì đội mão Hiệp Chưởng nhà thiền, hai bên có thêu Thiên nhãn Thầy và8 cung Bát quái bằng hán tự.

- Tiểu phục, không đội mão mà bịt khăn đóng màu vàng 7 lớp chữ Nhơn.

7. Mão của Giáo Sư phái Thượng và Ngọc:

- Đại phục đội Thiên Nguơn Mạo Bát quái, chung quanh có thêu đủ 8 cung Bát quái, trên chót mão có một hột Minh Châu Lý, màu của mão tùy theo phái Thượng hay Ngọc.

- Tiểu phục, không đội mão mà bịt khăn đóng 7 lớp chữ Nhơn có màu theo sắc phái.

8. Mão của Giáo Hữu ba phái:

Giáo Hữu chỉ có một bộ Đạo phục, đều đội Ngưỡng Thiên Mạo, có màu: vàng, xanh hay đỏ tùy theo sắc phái. Mão ấy có bề cao 15 phân, ngay trước trán có thêu Thiên nhãn Thầy bao quanh ba vòng vô vi.

9. Mão của Lễ Sanh ba phái:

Lễ Sanh chỉ có một bộ Đạo phục, đều đội Khôi Khoa Mạo màu trắng, phái nào cũng vậy, trên mão giữa trán có thêu Thiên nhãn Thầy bao quanh một vòng minh khí.

II. Mão của Chức sắc nữ phái CTĐ:

Chức sắc nữ phái CTĐ không phân chia ra Thái Thượng Ngọc, và chỉ có một bộ Đạo phục, nên Đạo phục và mão của nữ phái đều toàn màu trắng.

1. Mão của Nữ Đầu Sư:

Đầu đội Ni Kim Cô bằng hàng trắng, y như các vãi chùa, có thêu bông sen, bao quanh đầu một cái Kim Cô bằng vàng, trên Ni Kim Cô ấy phải choàng một cái mão Phương Thiên, nghĩa là cái choàng bằng hàng cho thiệt mỏng, trên chót thêm một cái mũ bằng vàng chụp trọn đầu tóc, chính giữa ngay trước mặt có chạm Thiên nhãn Thầy, bao quanh một vòng minh khí. Cái choàng của mão PhươngThiên phải cho thiệt dài, 3 thước 3 tấc 3 phân, vì mỗi khi lên ngự trên ngai phải có hai vị Lễ Sanh nữ phái theo sau, nâng đỡ chẳng cho phết dưới đất.

2. Nữ Chánh Phối Sư, Nữ Phối Sư, Nữ Giáo Sư:

Ba phẩm nầy đều đội Ni Kim Cô bằng hàng trắng, phải cho dài từ đầu cho tới gót.

3. Nữ Giáo Hữu:

Đầu để trần, trên đầu tóc có giắt một cái bông sen trắng, giữa bông sen có thêu Thiên nhãn Thầy.

4. Nữ Lễ Sanh:

Trên đầu thì choàng ngang một đoạn vải mỏng cột ra sau ót, thả một mí dài và một mí vắn, xuống cho khỏi trôn, ngay đầu tóc có giắt một cái bông sen trắng trơn chớ không có thêu Thiên nhãn như của Nữ Giáo Hữu.

III. Mão của Chức sắc HTĐ:

1. Mão của Đức Hộ Pháp:

- Mão Đại phục gọi là mão Kim Khôi, làm bằng vàng, trên Kim Khôi có thể Tam sơn tượng trưng Chưởng quản Tam Thiên bên Tây Phương Cực Lạc.

- Mão Tiểu phục gọi là Hỗn Nguơn Mạo màu vàng, bề cao một tấc, ngay trước trán chính giữa có thêu Cổ pháp Hộ pháp: gồm 3 cổ pháp của Tam Giáo là: Bát vu, Phất chủ, Xuân thu, ngay trên ba cổ pháp có đề chữ Pháp (chi Pháp).

2. Mão của Thượng Phẩm:

- Khi Đức Thượng Phẩm mặc Đại phục thì không đội mão, đầu để trần.

- Mão Tiểu phục là Hỗn Nguơn Mạo màu trắng, ngay giữa trán có thêu Cổ pháp Thượng Phẩm: gồm Long Tu phiến và Phất chủ, nhưng Phất chủ nằm trên đầu và ngay giữa Long Tu phiến, trên Cổ pháp có đề chữ Đạo (chi Đạo).

3. Mão của Thượng Sanh:

- Khi Đức Thượng Sanh mặc Đại phục, đầu không đội mão mà bịt một Thanh Cân, tức là một bao đảnh màu xanh.

- Mão Tiểu phục là Hỗn Nguơn Mạo màu trắng, y như mão Tiểu phục của Thượng Phẩm, nhưng ngay trước trán có thêu Cổ pháp Thượng Sanh: gồm Thư Hùng kiếm và Phất chủ, ngay trên Cổ pháp để chữ Thế (chi Thế).

4. Mão của Thập nhị Thời Quân:

- Mão Đại phục là Nhựt Nguyệt Mạo, thường gọi là Mão Quạ, làm bằng hàng trắng. Cái vòng tròn úp lên đầu là thể Nhựt hình, hình bán nguyệt bên trên là thể Nguyệt tượng.

- Mão Tiểu phục là Hỗn Nguơn Mạo màu trắng, y như Hỗn Nguơn Mạo của Thượng Phẩm và Thượng Sanh, tùy theo chi của mình mà để Cổ pháp.

Về sau, Đức Phạm Hộ Pháp có cho thêm một kiểu mão Tiểu phục nữa gọi là Tam Quang Mạo (Tam quang là Nhựt, Nguyệt, Tinh). Mão Tam Quang là kiểu mão của Đức Khổng Tử trị thế ngày xưa, màu trắng, có thêu chỉ kim tuyến vàng, trước mão thêu Nhựt ở giữa, Nguyệt bên hữu, Tinh bên tả, trong vòng minh khí, mặt Nhựt có cổ pháp của mỗi chi, mỗi bên hông mão có thêu 6 đường linh khí và 6 ngôi sao tám góc.

5. Mão của Chức sắc HTĐ dưới Thời Quân:

Các phẩm: Tiếp Dẫn Đạo Nhơn, Chưởng Ấn, Cải Trạng, Giám Đạo, Thừa Sử, Truyền Trạng, Sĩ Tải, Luật Sự:

- Mão Đại phục là Nhựt Nguyệt Mạo màu trắng, hai bên mão có dấu hiệu Tam giáo (tức là Tam sắc đạo: vàng xanh đỏ) và Cổ pháp Hộ Pháp (tức là Cổ pháp Tam giáo), trên Cổ pháp có Cân công bình. Riêng phẩm Luật Sự thì gắn dấu hiệu Tam giáo và Cổ pháp ở hai bên vai áo.

- Mão Tiểu phục là Khôi Nguyên Mạo, trước mão có thêu Thiên nhãn, dấu hiệu Cổ pháp Hộ Pháp, trên Cổ pháp có Cân Công bình, và hai chữ Phẩm cấp của mình bằng quốc tự.

Riêng hai phẩm Chưởng Ấn và Tiếp Dẫn Đạo Nhơn, thì không đội Khôi Nguyên Mạo, mà đội Hỗn Nguơn Mạo màu trắng, trước mão có thêu Cổ Pháp Hộ Pháp và chữ chỉ phẩm cấp của mình bằng quốc tự.

IV. Mão của Thập nhị Bảo Quân:

Thập nhị Bảo Quân đều đội Nhựt Nguyệt Mạo màu trắng, giống như mão của Thập nhị Thời Quân, nhưng các chi tiết có phần khác hơn tùy theo chức vụ:

- Nhựt Nguyệt Mạo của Bảo Văn Pháp Quân có kết mỗi bên hông mão một bông sen năm cánh ở chính giữa, trên bông sen có thêu Thiên nhãn. Ngay đường giữa mão cũng có kết một bông sen nhưng không thêu Thiên nhãn, cả thảy là 3 bông sen trên mão.

- Nhựt Nguyệt Mạo của Bảo Sanh Quân, ngay giữa mão, từ bìa lên 4 phân thêu một Thiên nhãn, hai bên mão thêu hai Thiên nhãn nữa, cả thảy là ba. Vòng theo vành mão cột một sợi dây Tiên thằng (bề ngang 8 phân, bề dài 2 thước) buộc thế nào chừa Thiên nhãn ngay giữa mão ra, cho hai mối thòng xuống hai bên vai.

- Đạo phục của những vị Bảo Quân khác, các Đấng sẽ giáng cơ chỉ dạy sau.

V. Mão của Chức sắc Bộ Nhạc:

- Mão Đại phục: giống như Ngưỡng Thiên Mạo của Giáo Hữu, nhưng thấp hơn, cao chừng 12 phân, toàn màu đỏ, ngay trước trán có Tam sắc đạo (vàng xanh đỏ), ngay trên Tam sắc đạo thêu hình một cây đàn Tỳ bà gác xéo.

- Mão Tiểu phục: gọi là Bán Nguyệt Mạo, giống như cái calot, màu trắng, ngay giữa trán có Tam sắc đạo (vàng xanh đỏ), ngay trên Tam sắc đạo thêu hình cây đàn Tỳ bà gác xéo.

VI. Chức sắc CQPT:

Chức sắc CQPT chỉ có một bộ Đạo phục, đầu không đội mão, chỉ đội khăn đóng có số lớp và màu tùy theo phẩm cấp:

- Hiền Nhơn đội khăn đóng vàng, 9 lớp chữ Nhứt.

- Chơn Nhơn và Đạo Nhơn đội khăn đóng màu trắng 7 lớp chữ Nhơn.

- Chí Thiện, Giáo Thiện sắp xuống, đội khăn đóng đen 7 lớp chữ Nhơn.

Chức sắc nữ phái PT khi mặc Đạo phục thì đầu để trần.

VII. Mão của các Chức sắc khác:

1. Hộ Đàn Pháp Quân và Tả, Hữu Phan Quân.

- Mão Đại phục: là Nhựt Nguyệt Mạo, giống như các Chức sắc HTĐ.

- Mão Tiểu phục: giống như Hỗn Nguơn Mạo của Tiếp Dẫn Đạo Nhơn và Chưởng Ấn, nhưng trước mão có thêu Thiên nhãn trong vòng minh khí.

2. Mão của Lễ Sĩ và Giáo Nhi:

- Mão của Lễ Sĩ giống như Khôi Khoa Mạo màu trắng của Lễ Sanh, nhưng không có Thiên nhãn ngay trán, mà chỗ đó gắn một bông mai năm cánh.

- Giáo Nhi, trên đầu choàng ngang một đoạn vải mỏng màu trắng cột ra sau ót, giống hệt như Nữ Lễ Sanh, nhưng không có giắt bông sen.

3. Mão của Đầu Phòng Văn và Bảo Thể:

- Mão của Bảo Thể là cái calot màu trắng.

- Mão của Đầu Phòng Văn giống cái calot trắng của Bảo Thể, nhưng trước mão có huy hiệu tròn, nền xanh, trên có 2 cây bút bó lại, một cây chỉ lên, một cây chỉ xuống.

4. Chức sắc Ban Thế Đạo:

- Hiền tài, Quốc Sĩ: đội khăn đóng đen 7 lớp chữ Nhơn.

- Đại Phu, Phu Tử: đội khăn đóng đen 9 lớp chữ Nhứt.

Chức sắc nữ phái của Ban Thế Đạo đều để đầu trần.

HTÐ: Hiệp Thiên Ðài.

CTÐ: Cửu Trùng Ðài.

CQPT: Cơ Quan Phước Thiện.

 

MẠO

MẠO

1.    MẠO: Dáng mặt, ngoài mặt.
Td: Mạo hợp tâm ly.

2.    MẠO: Làm giả, giả mạo.
Td: Mạo nhận.

 

Mạo hợp tâm ly

貌合心離

Mạo: Dáng mặt, ngoài mặt. Hợp: hòa hợp nhau. Tâm: lòng. Ly: xa cách.

Mạo hợp tâm ly là ngoài mặt thì hòa hợp nhau, còn trong lòng thì xa cách nhau.

 

Mạo muội

冒昧

A: Rash.

P: Téméraire.

Mạo: Làm giả, giả mạo. Muội: tối tăm, không hiểu việc.

Mạo muội là không hiểu việc mà làm càn, nên sơ suất và lầm lẫn. Mạo muội cũng có nghĩa là liều lĩnh mà làm.

 

Mạo nhận

冒認

A: To assume falsely.

P: Reconnaiâtre faussement.

Mạo: Làm giả, giả mạo. Nhận: lãnh, chịu.

Mạo nhận là nhận càn là người khác để đánh lừa.

TNHT: Các tên chư Thần, Thánh, Tiên, Phật bị mạo nhận mà lập nên Tả đạo.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Mạo vi cung kính

貌為恭敬

Mạo: Dáng mặt, ngoài mặt. Vi: làm. Cung kính: kính trọng.

Mạo vi cung kính là ngoài mặt làm ra vẻ cung kính.

 

Mạo xưng

冒稱

A: False declaration.

P: Fausse déclaration.

Mạo: Làm giả, giả mạo. Xưng: xưng hô.

Mạo xưng là giả mạo danh hiệu của người khác mà xưng hô.

 

MẠT

MẠT

MẠT: Cái ngọn, cuối, hết, hèn mọn.
Td: Mạt kiếp, Mạt pháp.

 

Mạt diệp

末葉

A: The last period.

P: La dernière période.

Mạt: Cái ngọn, cuối, hết, hèn mọn. Diệp: đời, thời kỳ.

Mạt diệp là thời kỳ cuối cùng.

 

Mạt hậu Thiên khai Huỳnh đạo

末後天開黃道

Mạt: Cái ngọn, cuối, hết, hèn mọn. Hậu: sau. Thiên: Trời, Đấng Thượng Đế. Khai: mở. Huỳnh đạo: đạo vàng, chỉ Đạo Cao Đài.

Mạt hậu Thiên khai Huỳnh đạo là sau nầy, vào thời kỳ cuối cùng, Thượng Đế mở Đạo Cao Đài.

Đây là câu sấm tiên tri rất lâu đời, từ bên Tàu truyền qua VN, tiên đoán sự khai mở Đạo Cao Đài vào thời Mạt hậu.

 

Mạt học

末學

Mạt: Cái ngọn, cuối, hết, hèn mọn. Học: học thức.

Mạt học là người học thức kém cỏi. (Lời nói tự khiêm).

 

Mạt kiếp

末劫

A: The last existence.

P: La dernière existence.

Mạt: Cái ngọn, cuối, hết, hèn mọn. Kiếp: một đời từ lúc sinh ra đến lúc tiêu diệt.

Mạt kiếp là thời kỳ cuối cùng của một kiếp.

Kiếp ở đây là cái kiếp của quả địa cầu 68, hay cái kiếp chung của nhơn loại trên quả địa cầu nầy, tức là kể từ lúc nhơn loại được sanh ra cho đến lúc nhơn loại bị tiêu diệt.

Như vậy, Mạt kiếp là thời kỳ cuối cùng của nhơn loại, trước khi nhơn loại bị tiêu diệt, tức Tận Thế.

Trong thời Mạt kiếp, trước khi Tận Thế có Đại Hội Long Hoa, tuyển phong những người có trình độ đạo đức cao để lập đời Thượng Nguơn Thánh đức.

TNHT: Dương thạnh thì hay đời mạt kiếp.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Mạt lộ

末路

A: To be on one's last legs.

P: Être aux abois.

Mạt: Cái ngọn, cuối, hết, hèn mọn. Lộ: đường.

Mạt lộ là cùng đường, hết lối thoát, không còn cách nào để tiến lên.

TNHT: Thiên cơ mạt lộ chờ đôi lúc.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Mạt pháp

末法

A: The last age of Buddhism.

P: Le dernier âge du Bouddhisme.

Mạt: Cái ngọn, cuối, hết, hèn mọn. Pháp: giáo lý của một nền tôn giáo.

Mạt pháp là thời kỳ cuối cùng của một nền tôn giáo mà lúc đó, giáo lý bị sửa cải sai lạc, thất chơn truyền, làm cho người tu lầm lạc và không thể đắc đạo.

Theo Phật giáo, Giáo pháp của Đức Phật Thích Ca sẽ trải qua ba thời kỳ: Chánh pháp, Tượng pháp và Mạt pháp.

1. Thời kỳ Chánh pháp: kể từ lúc Đức Phật nhập diệt cho đến 500 năm sau. Giáo pháp của Phật được các đệ tử giữ gìn nguyên vẹn, nên số người tu đắc đạo rất nhiều.

Trong Luật Tạng có ghi mấy lời của Đức Phật Thích Ca như vầy: Nền Chánh pháp của ta đáng lẽ trụ thế 1000 năm hoặc lâu hơn nữa, nhưng trót vì ta đã cho hàng phụ nữ xuất gia, nên nền Chánh pháp bị giảm bớt, chỉ trụ thế 500 năm mà thôi. (Trích Phật Học Từ Điển I của Đoàn Trung Còn, trang 375)

2. Thời kỳ Tượng pháp: (Tượng là giống)

Trong khoảng 1000 năm tiếp theo sau thời kỳ Chánh pháp là thời kỳ Tượng pháp, giáo lý của Phật có bị sửa đổi nhưng vẫn còn giống với giáo pháp ban đầu, nên số người tu đắc đạo khá nhiều, nhưng ít hơn thời kỳ Chánh pháp.

3. Thời kỳ Mạt pháp:

Trong khoảng 1000 năm tiếp theo sau thời kỳ Tượng pháp là thời kỳ Mạt pháp, giáo lý của Phật lần lần bị sửa cải nên sai lạc gần hết, không còn giống với Chánh pháp ban đầu. Người tu không biết sai lạc chỗ nào, cứ theo đó mà tu nên đi vào chỗ lầm lạc, tu nhiều mà đắc đạo rất ít.

"Trong Kinh Luật có ghi ba thời kỳ: Chánh pháp, Tượng pháp, và Mạt pháp, đặng cho biết rằng:

- Trong thời kỳ Chánh pháp, dễ tu chứng và rất nhiều người tu chứng vì Chánh pháp đương thạnh hành.

- Trong thời kỳ Tượng pháp, hơi khó tu chứng và số người tu chứng ít hơn vì đạopháp mường tượng với Chánh pháp.

- Đến thời Mạt pháp, rất khó tu chứng và rất ít người tu chứng, vì là lúc cuối cùng của nền Đạo."

Sau thời kỳ Mạt pháp là thời kỳ diệt vong.

Hiện nay đang là thời kỳ Mạt pháp của Tam giáo: Phật giáo, Lão giáo và Nho giáo.

Đức Chí Tôn mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ trong thời kỳ Mạt pháp của Tam giáo là để chấn hưng Tam giáo trở lại cho hoàn toàn.

TNHT: Thời kỳ Mạt pháp nầy, khiến mới có Tam Kỳ Phổ Độ, các sự hữu hình phải hủy phá tiêu diệt.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Mạt thế

末世

A: The last time.

P: Le dernier temps.

Mạt: Cái ngọn, cuối, hết, hèn mọn. Thế: đời, thời đại.

Mạt thế là thời đại cuối cùng, đời cuối.

 

Mạt vận

末運

A: Misfortune.

P: Adversité.

Mạt: Cái ngọn, cuối, hết, hèn mọn. Vận: số mạng.

Mạt vận là lúc xui xẻo, khốn đốn.

 

MÀU

Màu thiền

A: The colour of Buddhism.

P: La couleur de Bouddhisme.

Màu: màu sắc. Thiền: chỉ Phật giáo. (Xem chữ: Thiền)

Màu thiền là màu áo của các tăng ni Phật giáo. Nhuộm màu thiền là ý nói qui y vào cửa Phật để lo tu hành.

TNHT: Màu thiền ấy buổi nhuộm cân đai.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

MÁY

MÁY

MÁY: Chữ Hán là Cơ: bộ máy, chỉ tất cả hoạt động nào có tính cách tuần hòan và liên tục.
Td: Máy Càn khôn, Máy hành tàng.

 

Máy Càn khôn - Máy huyền vi

A: The mysterious mechanism of the nature.

P: Le mécanisme mystérieux de la nature.

Máy: Chữ Hán là Cơ: bộ máy, chỉ tất cả hoạt động nào có tính cách tuần hòan và liên tục. Càn khôn: Trời Đất, Âm Dương. Huyền vi: mầu nhiệm.

Máy Càn khôn là máy Âm Dương, bộ máy của Trời Đất, chỉ toàn thể bầu vũ trụ, trong đó các quả tinh cầu và địa cầu luôn luôn chuyển động quay tròn điều hòa liên tục, không bao giờ ngừng nghỉ.

Máy huyền vi là bộ máy mầu nhiệm của Thượng Đế.

Máy Càn khôn hay Máy huyền vi là chỉ Càn Khôn Vũ Trụ của Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế.

TNHT: Thầy nắm máy huyền vi, hằng lấy cân thiêng liêng mà day trở máy Càn khôn.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Máy hành tàng

Máy: Chữ Hán là Cơ: bộ máy, chỉ tất cả hoạt động nào có tính cách tuần hòan và liên tục. Hành: làm, hiện rõ ra thấy được. Tàng: việc làm ẩn kín, không thấy được.

Máy hành tàng là máy Trời, bởi vì trong bộ máy nầy, có những cái mắt phàm thấy được và có những cái mắt phàm không thấy được.

TNHT: Hư thiệt, thiệt hư, đâu qua máy hành tàng của Tạo hóa.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Máy linh cơ tạo

A: The divine mechanism of God.

P: Le mécanisme divin de Dieu.

Máy: Chữ Hán là Cơ: bộ máy, chỉ tất cả hoạt động nào có tính cách tuần hòan và liên tục. Linh: thiêng liêng, huyền diệu. Cơ tạo: bộ máy của Tạo hóa.

Máy linh cơ tạo là bộ máy thiêng liêng của Đấng Tạo hóa, tức là của Đấng Thượng Đế.

KXH: Cứ nương dưới máy linh cơ tạo.

KXH: Kinh Xuất Hội.

 

Máy sâu họa kín

Máy: Chữ Hán là Cơ: bộ máy, chỉ tất cả hoạt động nào có tính cách tuần hòan và liên tục. Sâu: sâu xa huyền diệu. Họa: tai họa. Kín: không để lộ ra cho người thấy được.

Máy sâu là bộ máy huyền diệu của Trời.

Họa kín là cái tai họa không để lộ ra cho thấy, tới chừng tai họa đến thì mới thấy, mới biết.

Ý nói máy Trời huyền diệu, con người không thể thấy biết hết được.

KSH:

Phải hiểu biết máy sâu họa kín,

Thánh Thần đâu tư lịnh bỏ qua.

KSH: Kinh Sám Hối.

 

MẢY

Mảy hào

A: A tiny bit.

P: Un tantinet.

Mảy: một chút xíu, một phần rất nhỏ. Hào: sợi lông nhỏ.

Mảy hào là một phần nhỏ xíu.

KSH: Xét xem công quả chẳng ly mảy hào.

KSH: Kinh Sám Hối.

 

Mảy mún

A: A very small quantity.

P: Un petit peu.

Mảy: một chút xíu. Mún: vụn nhỏ.

Mảy mún là một phần vụn vặt rất nhỏ.

TNHT: Các con đặng hạnh phúc ấy là do học đặng mảy mún nơi Thầy.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

MẮC

Mắc mỏ

A: Complicated.

P: Compliqué.

Mắc mỏ là rất phức tạp, rất hiểm hóc, không thể phân giải hay hiểu biết mau chóng được.

TNHT: Lão đã lắm phen thấy điều khó khăn mắc mỏ của phần ấy,...

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

MẶC

MẶC

1.    MẶC: Lặng lẽ, nín lặng, không nói.
Td: Mặc khải, Mặc niệm.

2.    MẶC: Mực, màu đen, họ.
Td: Mặc khách.

 

Mặc khách

墨客

A: Literary man.

P: Homme de lettres.

Mặc: Mực, màu đen, họ. Khách: người.

Mặc khách là người thường sử dụng bút mực, chỉ khách văn chương, nhà văn.

Thường nói: Tao nhân mặc khách, chỉ những người có tài về văn chương.

 

Mặc khải - Mạc khải

默啟 - 漠啟

A: The revelation.

P: La révélation.

Mặc: Lặng lẽ, nín lặng, không nói. nín lặng, không nói. Khải: mở ra. Mạc: yên lặng, thanh tịnh.

Mặc khải là mở ra cho biết một điều thiêng liêng mầu nhiệm trong sự tĩnh lặng mà lý trí con người không thể giải thích được. Td: Sự mặc khải của Thượng Đế.

Mạc khải là sự tác động trong yên lặng của Thượng Đế bộc lộ những điều vượt tầm hiểu biết của con người.

Hai từ ngữ: Mặc khải và Mạc khải đồng nghĩa, nhưng Thiên Chúa Giáo chỉ sử dụng từ ngữ "Mạc khải".

"Vì sao phải Mạc khải? Chính vì Thiên Chúa trổi vượt vô cùng trên tư tưởng và ngôn ngữ loài người. Ngài là Thiên Chúa giấu ẩn, không thể nào đến gần được, huống chi một khi tội lỗi đã làm con người không còn thân mật với Ngài nữa. Ý định của Ngài là một mầu nhiệm. Ngài hướng dẫn bước đi của con người mà chính họ lại không hiểu đường lối. Trong cuộc sống, con người gặp phải những bí nhiệm về cuộc đời không thể tự tìm thấy ánh sáng cần thiết. Con người phải quay về với Đấng làm chủ các điều bí ẩn, để Ngài tỏ bày những bí mật không thể hiểu thấu, để Ngài cho thấy vinh quang Ngài.

Nhưng trước khi con người quay về với Ngài, Thiên Chúa đã khởi xướng mà nói với họ rồi." (Điển Ngữ Thần Học Thánh Kinh)

Chỉ có những Đấng Giáo Chủ hay những Nguyên căn lớn có nhiệm vụ cứu đời mới có thể nhận được những Mặc khải của Thượng Đế.

 

Mặc niệm

默念

A: The silent meditation.

P: La méditation silencieuse.

Mặc: Lặng lẽ, nín lặng, không nói. nín lặng, không nói. Niệm: tưởng nghĩ tới.

Mặc niệm là lời cầu nguyện bằng tư tưởng trong im lặng.

TĐ ĐPHP: Khi Bần đạo thấy nín hết, buổi đó, đem hết tinh thần trụ lại, dâng lời mặc niệm ấy vào BQĐ.

TÐ ÐPHP: Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp.

BQÐ: