|
||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||
) )( __)_(__ __(_____)__ (((_________))) ) ׀ ( |
Sự làm việc là luật thiên nhiên phải tuân theo đặng tự tạo đời sống, tùy khả năng và sở thích của mỗi người. Chẳng phân giàu nghèo, chẳng luận nam phụ lão ấu, ai cũng phải làm việc, để trở nên người hữu dụng vừa cho mình, vừa cho gia đình mình, và cho xã hội.
1.- Hữu dụng cho mình.
a/- Con người thuở còn ấu thơ đã phải lo làm việc rồi, bằng cách vào trường học tập đặng mở mang trí hóa vì bởi “học nhi tri chi” (học mà biết) chớ chẳng phải “sinh nhi tri chi” (sinh ra mà đã biết).
b/- Đến tuổi thành nhơn, một mình bương chải với đời, phải tiếp tục làm việc, còn cực nhọc hơn ở trường, đặng tự sống, chớ không trông ai vùa giúp cho được. Như thế mới khỏi chiều lòng ai, khỏi bị ai nặng nhẹ hà khắc. Như hữu học, thì làm việc bằng trí óc, còn ít học, thì làm bằng tay chơn, không có nghề nào hèn hạ, chỉ có người lười biếng mới hèn.
c/- Tuổi già cũng còn làm việc, không nặng thì nhẹ, đặng giữ gìn sức khoẻ hầu tránh làm khổ nhọc cho con cháu.
d/- Phận nữ lưu, cũng cần làm việc như hạng nam nhi, chẳng nên cho mình là liễu yếu đào thơ, rồi ỷ lại nơi chồng con, mà ngồi không luống sức. Đành rằng lo tề gia nội trợ, là một bổn phận trọng yếu trong tư thất, nhưng ngoài ra còn bổn phận đối với đời, thế nào cho ra người có phẩm vị.
Làm việc có ích cho mình là vậy.
2.- Hữu dụng cho gia đình cho xã hội.
a/- Làm chủ gia đình, phải ân cần trong nghề nghiệp, mới có phương nâng đỡ gia đình, sống vui trong cảnh cơm no, áo ấm. Chẳng những như vậy thôi, mà nhờ có làm mới dư tiền để xây trở phòng khi hữu sự, như quan hôn tang tế, hay lúc phong võ bất kỳ.
b/- Làm chủ gia đình được giàu, thì nên thi ân bố thí bồi lộ tu kiều, cất học đường, tạo cấp cô viện, v.v…
Còn dư giả nữa thì kinh doanh sự nghiệp mở mang kinh tế giúp cho xã hội thêm giàu, cho quốc gia thêm mạnh.
c/- Nếu nghèo thì tùy phận mà xử sự, chớ chẳng vì nghèo mà vị kỷ vong tha hay không giữ gìn nhân vị.
Tổng kết:
Sự làm việc là điều cần thiết của sự sống. Đó là một định luật bất di bất dịch, không ai qua luật ấy mà được toại kỳ chí yên kỳ thân cho lâu dài được.
Cho hay mỗi người đều có phẩm giá cá nhân rất nên quí trọng, thì không vì lẽ nhu cầu đời sống mà không lo hoạt động thế nào cho việc cân xứng với bản năng thuần túy của mình. Vả lại, giữa thời đại văn minh này, sự làm việc của người ta có ảnh hưởng nặng nề vào phẩm chất, và càng đi sâu xa thời ảnh hưởng càng công hiệu. Lẽ dĩ nhiên, để hành động cho được việc, điều có lợi là phải ngó tới việc phải làm, và hình dung trước cái có thể làm, nhiên hậu sẽ làm, hoặc cái không thể làm, nhiên hậu sẽ chừa bỏ.
Đó là điểm để phân biệt người ra khỏi giống thú, là giống không có trí khôn, chỉ hành động theo cảm giác, nhứt thời tha hồ, thì cứu cánh sẽ dẫn đâu hay đó.
Vậy thì cần yếu là trong khi làm việc phải để ý tứ và lương tâm vào đấy, sẽ thấy cái thú vị của đời sống, hầu theo đuổi nhiệm vụ cho đến kỳ cùng mà không biết chán.
Đã nhận định rằng sự làm việc là hữu ích, thì nó không riêng cho người đời mà là chung cho cả người đạo nữa.
Nếu cho rằng đã phủi hết thế sự, đặng vào cửa từ bi cho an nhàn trí não mới yên ổn thân sanh, rồi hằng ngày trầm tư mặc tưởng, không làm gì hết, ấy là lầm. Vì bởi cuộc vay trả nghiệp xưa chướng cũ chưa xong, mong gì giải thoát.
Tuy vẫn trong cửa Đại Đạo không còn những sự tranh danh đoạt lợi, những điều hơn kém, mạnh được yếu thua, nhưng sự làm việc vẫn còn là bổn phận Thiêng Liêng của mỗi người, để lập công bồi đức, và dọn mình cho ra người xứng đáng, để độ đời cứu thế.
Sanh trên cõi trần này, bá nhơn, bá tánh, mỗi người được tự do riêng tạo đời sống theo chí hướng, hoặc sống chung lộn theo người thế gian, hoặc sống tổ hợp với người tôn giáo. Tuy khác quan niệm, giới nào cũng lấy sự làm việc làm căn bản để đạt thành sở nguyện của giới mình. Đây nói về nhà tôn giáo thì chẳng phải phế hết thế sự, tùng cửa Đạo rồi sớm kệ chiều kinh là rồi bổn phận. Người Đạo còn có sứ mạng Thiêng Liêng cao thượng hơn mà người đời không có, là sự hi sinh để làm công quả và lo phổ độ.
Công quả:
Đức Chí Tôn đã dạy:
“Người dưới thế gian này muốn giàu có phải kiếm phương thế làm ra tiền. Ấy là về phần xác thịt, còn muốn đắc Đạo phải có công quả”.
Hai chữ công quả có nghĩa thiển cận là hễ ra công trồng cây thì hằng bữa cố gắng chăm nom săn sóc cho đến ngày đơm bông kết trái, tức là ngày hưởng lộc thì công trồng mới không phải uổng.
Còn suy diễn ra, thì công quả có nghĩa là một mặt để hết tâm tánh giúp ích cho nền Đạo và một mặt dụng công lao làm phương tương công chiếc tội, lấy khổ hạnh làm cứu cánh thoát luân hồi, mới mong có ngày đắc Đạo.
Vả chăng những phẩm tước và quyền hành chỉ là những hình thức bề ngoài, quan hệ về sự đặt ngôi phân thứ, để giữ gìn trật tự nghi tiết, giữa chốn đông người, chớ kỳ trung điều trọng yếu của nó là ở bên trong của từng cá nhân, khuôn luật chuẩn thằng buộc Chức Sắc Thiên phong không được bán đồ nhi phế, mà phải thất đạo tâm. Chừng ấy dầu Chức Sắc lớn bậc cũng chưa ắt giữ còn áo mão.
Trái lại, Đạo hữu tu cam phận nhỏ nhen mà đầy đủ thiện chí, phụng sự không màng cực nhọc khó khăn, quyết lòng tự lập, không cầu nài phong thưởng, nhưng rồi sự phong thưởng tự nhiên, vô triệu nhi lai, nêu gương sáng cho người khác noi theo để bước.
Thiết tưởng cửa Đạo là nơi để cho cả sanh linh được thư thả làm nhà chung, hầu tìm nét yêu thương, hưởng nguồn hạnh phúc, mà được cùng chăng là do công quả nhiều hay ít, và sự thật tâm cùng không của mỗi người nơi đó.
Phổ độ:
Sanh nhầm đương kiêm thời đại, thiên hạ đảo huyền, luân thường suy bại, con người vì nhu cầu vật chất mà không diệt tánh bạo tàn, nên sự yêu thương và nét công bằng đã khuất dạng theo thời gian, đời sống hiện giờ chỉ là đời sống khổ.
Cho hay mối Đạo là mối dây kết chặt tình thương, thì người nhập Đạo là người có bổn phận phổ truyền giáo lý, độ dẫn quần linh, tương trợ tương thân, tránh đường tội lỗi.
Phổ độ chúng sanh bằng cách nầy hay cách khác tức là phương mầu nhiệm để lập vị Thiêng Liêng. Vì vậy nên Đức Chí Tôn buộc mỗi người trong Đạo, từ Chức Sắc đến Đạo hữu lưỡng phái phải độ cho được ít nhứt là 12 người nhập môn (Thánh ngôn ngày 27 tháng 8 năm 1926)
Ví bằng chẳng ra công độ rỗi, thì ngày về Bạch Ngọc Kinh chỉ với hai tay không, bao nhiêu công phu tu luyện ở cõi trần sẽ là công dã tràng.
Tổng luận:
Sự làm việc trong cửa Đạo là cần thiết cho đời sống của kẻ xuất thế ly gia, để phụng sự thiên hạ mà không mất phần mình, tức là mình được “tiên tự giác nhi hậu giác tha” đã có phần công quả lại thêm công phổ độ. Nếu tưởng rằng một khi đã phế nhơn sự lo việc tu hành, rồi cứ mơ tưởng luyện Đạo cho mau thành Tiên tác Phật ấy là lầm. Vì bao giờ công quả còn kém, nhơn sự chưa rồi, và chẳng có một tác động gì gọi là đại chí, thì dễ gì mong đứng ngang hàng với các Đấng Thiêng Liêng cho đặng.
Mang Thiên chức vào thân, vị Chức Sắc Thiên Phong của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ không còn là người của mình hay của gia đình mà là người đã chịu hi sinh làm con tế vật dâng cho Đức Chí Tôn sử dụng để cứu nhơn độ thế.
Vậy thì Chức Sắc Thiên Phong có sứ mạng Thiêng Liêng thể thiên hành hóa, tức có bổn phận đem Đạo giải khổ cho chư quần linh trong thời mạt pháp này.
Nhiệm vụ nầy kiêm cả hai mặt Đạo và Đời. Tuy Đời và Đạo không chung một quan niệm, một chủ nghĩa, Chức Sắc là kẻ ở trung gian sẽ làm dây nối liền cho đôi bên tương đắc. Bằng chẳng vậy thì hoài công phổ độ.
1.- Đối với Đạo:
Chức Sắc cầm quyền không nên dùng cách hành phạt, mà nên dạy dỗ khuyên lơn cho Đạo hữu lỗi lầm biết hồi tâm hướng thiện.
Thiết tưởng Đạo hữu là kẻ ít phước không được thường nghe Thánh giáo, nên cam phận bất thông chơn pháp, thì Chức Sắc bề trên nên tự mình gần gũi đàn em, đặng mở vòng u ám cho chúng dễ bề tu luyện. Nếu cứ ở trên nhìn xuống thấy đồng Đạo thấp hèn, rồi đem lòng khinh bạc, là mình thất Đạo mà không hay đó vậy.
Chẳng giống với quyền Đời dùng nghiêm luật để cai trị, quyền Đạo chỉ lấy công ái để dỗ dành. Vị Chức Sắc cần giữ gìn đức hạnh cho hoàn toàn, chỉ biết bố đức hơn ra oai, thi ân hơn lập pháp mà thôi. Càng thân cận kẻ dưới, người bề trên càng nên rộng lượng khoan dung mà dìu độ.
Đức Chí Tôn đã dạy: “Độ một kẻ hung hăng còn khó hơn độ một nước”. Trong trường hợp này vị Chức Sắc phải nhọc công lắm sức, chẳng tiếc lời khuyên, không thẹn hạ mình hầu làm nên cho kẻ khác. Đặng vậy thì Công mới thành, Ngôn mới chánh, Đức mới rạng.
2.- Đối với Đời:
Người đời vì nhu cầu vật chất, xa hẳn đạo tâm, cứ giữ chặt tánh phàm đặng chiếm phần đắc lợi dám làm tội mà quên phải đền tội.
Để giúp cho kẻ lầm lạc đang sa đắm trong vòng nghiệt chướng, được giải thoát tai nàn, vị Chức Sắc có bổn phận giải rõ chơn giáo cho người đổi tâm hướng thiện. Ấy là bổn phận đối với từng cá nhân ở Thế.
Đối với xã hội, còn cái nhiệm vụ trọng yếu khác là tạo nên tình yêu ái trong khuôn viên đạo nghĩa luân thường. Nhơn hòa tâm hiệp thì tình cảm nảy sanh, vị Chức Sắc ngoan khéo sẽ dụng phương điều hòa các tình cảm cá nhân làm một khối thương yêu của xã hội, thì nơi nầy là nơi người Đời nhờ Đạo được sống hạnh phúc ngoài lề thống khổ.
Phương chước đầu tiên là lấy lễ đãi người, nhiên hậu sẽ dĩ đức phục nhơn là thượng sách.
Sau này vị Chức Sắc còn có trách nhiệm đối với nhà cầm quyền Đời Đạo vì bởi:
Đạo không Đời không sức.
Đời không Đạo không quyền.
Muốn cho dân được giáo hóa trở nên dân lành, biết tuân luật pháp quốc gia thì phải nhờ có Đạo hướng dẫn, nhưng cần phải có quyền Đời giúp sức Đạo mới thành công. Trái lại nếu Đạo không đủ phương tiện giáo hóa, để dân trở nên bạo tàn đạp đổ luân thường đạo lý, khuấy rối an ninh, quyền đời phải can thiệp trấn áp, ắt sanh loạn.
Song thế thường Đời ít khi cộng tác với Đạo mặc dầu là việc hữu ích cho Đời hơn là cho Đạo. Vị Chức Sắc phải làm thế nào cho Đạo Đời tương đắc mới tròn nhiệm vụ.
Tổng kết:
Chức Sắc Thiên phong phải luôn giữ mình cho xứng phận người cầm đuốc huệ soi sáng, cho đời bớt cạnh tranh về vật chất và hướng về tâm linh, mới mong xây dựng được đại đồng thiên hạ.
Cuộc sống ở đời có nhiều hình trạng khác nhau, vì nhơn sự ai nấy sáng, và cách xử sự không ai giống ai, mới xuất hiện những tấn tuồng ai bi khổ não, mà miệng thế gian cho rằng Đời là khổ không phải là quá đáng. Vả chăng Đấng Tạo Hóa háo sanh vô lượng không hề tạo khổ cho ai, thoảng như có khổ là do mình tự triệu. Như có thừa thì xa xí, không đủ thì bỏn sẻn, không ngăn cấm thì hoang dâm, không tiết độ thì hại thân, buông thả lòng dục thì hư hỏng. Đó là những nguyên nhân làm cho nền trật tự xã hội phải chinh lịch, và giá trị con người phải tổn thương, rồi phải bao nhiêu khổ tâm đặng thoát vòng khổ lụy.
1.- Sống đơn giản:
Đơn là đơn sơ, giản là giản tiện, sống đơn giản thì không có điều gì mà phải bất cập hay thái quá.
Đành rằng đối với đời sống, cái ăn và cái ở là cần thiết, nhưng ăn đặng sống, chẳng phải sống đặng ăn.
Sách có chữ “tri túc thường lạc, đa tham tắc ưu”. Nghĩa là biết đủ thường vui, nhiều tham ắt lo. Người tri túc, dầu nghèo hèn cũng vui, tức là trị được cái khó tánh với cái bản ngã. Không tri túc thì dầu giàu sang cũng còn lo, tức là làm tôi cho cái dục vọng mà cái dục vọng thường hay khiến hư, và hư là khổ.
Người sống đơn giản chẳng những tránh được cái khổ nầy là một điều lợi lớn còn thâu thập được nhiều cái lợi khác là khỏi mất thì giờ, khỏi hao tiền của không bận rộn tâm trí.
Một diệu kế để yên vui trong cảnh sống đơn giản là cứ nhìn kẻ dưới sẽ thấy mình đủ. Và đó cũng là phương mầu cho người Đạo áp dụng để răn lòng đừng ham muốn theo thường tình thế sự mà gây oan nghiệt.
2.- Sống thanh bạch:
Thanh là trong, bạch là trắng. Sống thanh bạch là sống trong sạch với sức lực và tài năng của mình mà thôi.
Như đã có của còn làm điều phi nghĩa đặng giàu thêm, hay đã nghèo lại làm chuyện bất minh cho hết nghèo, thì đời sống phải bợn nhơ nhục nhã. Những cái nhơ cái nhục nầy không kíp thì chầy sẽ rửa bằng sự đền tội, hoặc với cách nầy hay cách khác, nhưng không bao giờ tránh khỏi, vì luật công bình vay trả đã định vậy.
Nghĩ vì kẻ tiểu nhân thì vụ lợi, mà người quân tử thì vụ nghĩa, thành thử hai lý tưởng tương khắc và hai hành vi bất đồng, nhưng bao giờ lẽ phải cũng về với cái nghĩa. Bởi trong cái nghĩa đã sẵn chứa lòng nhơn, nên người quân tử ưu đạo bất ưu bần và vẫn sống trong vòng thanh bạch.
Người nhập Đạo rồi không còn ham luyến lợi trần nên thi hành triệt để Tứ Đại Điều Quy khoản 3, về tiền bạc thâu xuất phân minh và mượn vay lo trả, đặng giữ gìn đời sống thanh bạch.
Còn về đời sống đơn giản, thì tùy tiện không xa xí, theo điều thứ 15 Tân Luật là gương xả phú cầu bần xả thân cầu Đạo.
Tổng kết:
Thế sự hay biến đổi, đời người có lúc bỉ cực, có hồi thới lai và để đề phòng bất trắc nên tập trước cho quen sống đơn giản và thanh bạch thì bước đường vẫn được ung dung tự tại, dầu cho hoàn cảnh nào cũng vậy.
Kỷ luật là những phép tắc do những tổ chức xã hội đặt ra để giữ gìn trật tự xã hội và điều hành trách vụ của các phần tử trong tổ chức.
Vả chăng ai cũng có ý thức rằng mình tự do. Ấy là một điều hiển nhiên. Vì bởi có tự do mới có nghĩa vụ ai cũng có nghĩa vụ, bắt buộc lương tâm làm cái này cái kia và chỉ có nghĩa là khi nào lương tâm đó tự do. Có tự do mới có trách nhiệm, mà ta có thể tránh trách nhiệm hay thi hành nếu ta muốn.
Điều cần yếu là chẳng nên có quan niệm rằng hễ tự do là được tự ý hành động lợi mình mà hại kẻ khác, thì sự hành động ấy chẳng những ra ngoài giới hạn tự do của mình mà còn vi phạm quyền tự do của kẻ khác.
Vì vậy mới có kỷ luật để bảo thủ sự tự do trong giới hạn của nó và ngăn ngừa sự tự do thái quá là nguồn sanh loạn trong quần chúng.
Có hai thứ kỷ luật: Kỷ luật khách quan và kỷ luật chủ quan.
1.- Kỷ luật khách quan:
Là kỷ luật do những tổ chức chánh trị bên ngoài cá nhân buộc cá nhân tuân theo. Ấy là luật pháp trong nước bất khả xâm phạm để giữ gìn trật tự cho toàn dân được an cư lạc nghiệp.
Trong các tổ chức xã hội khác như Thương mãi, Nghiệp đoàn, Giáo huấn, Tương tế, v.v... nơi nơi đều có kỷ luật để cho mọi người yên trí làm việc có hệ thống và theo phương pháp khoa học (không mất thì giờ, đỡ tốn phí) đặng tiến triển mạnh mẽ trong nghề và trong vòng trật tự.
Như Quân đội là một cơ quan để giữ gìn trị an trong nước và trật tự xã hội, tức là có phận sự bảo vệ tự do của nước và của dân cũng, phải có kỷ luật đặng trên dễ điều khiển, dưới phải trọn tuân mới đi đến kết quả thành công.
Nếu thiếu kỷ luật trong tổ chức thì người điều khiển dầu có tài năng cách mấy cũng không sao giữ vững nền tảng của tổ chức được.
Còn đã có kỷ luật mà vi phạm, là tự ý phá hoại quyền lợi của tổ chức.
2.- Kỷ luật chủ quan:
Là phép tắc tự cá nhân đặt ra cho mình tuân theo. Nếu vì sự sống, vì quyền lợi cá nhân, mà biết cư xử trong giới hạn tự do của mình, không xâm phạm giới hạn tự do của người khác, ắt tránh được sự tranh giành, đụng chạm thì sự sống và quyền lợi cá nhân không hề bị tổn thương bao giờ.
Kỷ luật trong Đạo:
Trong cửa Đạo là nơi trau dồi tánh dữ hóa hiền, sửa đương lòng ta trở thành tâm chánh, thì Tứ Đại Điều Qui và cách sắp đặt chỗ ăn, chỗ ở nam nữ phân biệt là kỷ luật khách quan.
Những chuẩn thẳng mực thước để tự buộc mình phải thi hành cho nên người xứng đáng hướng dẫn nhơn sanh trên con đường đạo đức là Ngũ Giái Cấm nói chung và nghiêm luật trong Tịnh Thất nói riêng, là kỷ luật chủ quan.
Tổng kết:
Tự do chơn chính phải ở trong kỷ luật, mà phục tùng kỷ luật là không phạm tự do chơn chính. Không phạm ấy là giữ được chữ hòa trong gia đình, trong xã hội luôn cả trong nước. Tinh thần kỷ luật giúp cho mỗi người tạo cái đời sống luân lý và luật pháp, tránh được những điều phiền phức trong xã hội.
Nhơn phẩm là giá trị con người, tức danh giá cá nhân. Giá trị này cao hay thấp, nặng hay nhẹ, vinh hay nhục là tùy hành vi và tánh đức của mỗi người mà nhận định. Những kẻ nhơn từ, nghĩa khí, có bụng yêu đời, sẵn lòng giúp thế, là những người biết tôn trọng nhiệm vụ và nâng cao nhơn phẩm mình. Trái lại làm điều phi nghĩa, vị kỷ vong tha, là tự mình làm mất phẩm giá mình. Vậy thì nhơn phẩm không phải tạo bằng tiền bạc hay bằng chức vị xã hội mà bằng đạo đức luân lý vậy.
Vì bởi có sự trọng khinh nhơn phẩm, nên trong xã hội có hai hạng người: một hạng được người ta tôn sùng và thân cận là hạng quân tử, còn một hạng bị người ta chê bai và xa lánh là hạng tiểu nhơn.
1.- Quân tử:
Cố giữ danh giá cá nhân trong mọi hành tàng không để nhơn phẩm bị tổn hại bởi những cạm bẫy của bả lợi mồi danh. Chẳng những vậy thôi, người quân tử còn tôn trọng nhơn phẩm của kẻ khác trong mọi nơi và mọi dịp, bằng cách tránh cho họ những cạm bẫy ấy.
Thậm chí đến lúc khốn cùng, người quân tử không đổi chí hướng.
2.- Tiểu nhơn:
Vụ ở điều lợi riêng, bất kể phải quấy nhục vinh, kẻ tiểu nhơn không có tánh tình cao quý gì cả. Làm điều phi nghĩa, thất đức tức là tự mình coi rẻ nhơn phẩm mình, hồ dễ bảo ai tôn trọng mình cho đặng?
Nhơn phẩm trong cửa Đạo:
Vào Đạo đặng trước sửa mình sau làm gương cho kẻ khác; việc tu kỷ là bổn phận đầu tiên và càng chuyên cần chừng nào, nhơn phẩm của mỗi người càng thanh cao chừng ấy, và đã là người sống trong vòng mực thước chánh nhơn, hiền hòa, thì không thể phân hạng quân tử và tiểu nhơn trong đại gia đình Đạo được.
Về sự tu kỷ có ba phương pháp để tập rèn nhơn cách là:
Thứ nhứt: Trong khi im lặng, vắng vẻ một mình, nên tập trung những tư tưởng tốt lành, loại trừ những ý nghĩ xấu xa, hầu chế ngự cái tánh buông lung hay xúi giục những hành vi có thể làm tổn thương nhơn phẩm. Vì vậy Thầy Mạnh Tử nói rằng: “Học vấn chi Đạo vô tha, cầu kỳ phóng tâm nhi dĩ hỉ”. Cái Đạo học vấn không có điều gì khác, chỉ có tìm cái tâm đã sổ ra mà thôi.
Thứ nhì: Giữa bạn đồng Đạo cùng chung một nơi ăn, một chỗ ở, như ở giữa một tiểu gia đình, nên dầu muốn dầu không, luôn luôn phải tỏ bày trên gương mặt một nụ cười, một nét vui đặng kết tình thân hữu. Biết đâu chừng cơn vui của một người chia xẻ cho kẻ khác, sẽ lấp được một phần nào cơn sầu của chúng bạn.
Thứ ba: Trong cuộc giao tiếp bất luận với ai, phải thủ tín là điều cần thiết để bảo vệ danh giá, vì một khi mất chữ tín thì nhơn phẩm liền mất theo.
Lại nữa trong lúc đàm thoại chẳng nên nói những điều ta suy ngẫm mà phải suy ngẫm những lời ta nói.
Kết luận:
Người biết quí trọng nhơn phẩm, vốn có một tinh thần thanh khiết và cường kiện, phú quý không mê hoặc được, bần tiện chẳng thay đổi được và oai võ chẳng khuất phục được.
Giữa thế kỷ XX này, tiền tài vi chủ, mạnh được yếu thua, thân con người nếu bị giam hãm trong vòng thống khổ, bởi sự bất công và vô nhơn đạo, thì kiếp sống chỉ là kiếp đoạ đầy không có gì là lạc thú.
Đời sống hạnh phúc con người phải nhờ một chánh sách Công Bình và Bác Ái, làm nền tảng cho nền luân lý thuần túy đã mất từ lâu.
1.- Công bình:
Điều gì mình không muốn người ta làm thì mình đừng làm cho người ta, ấy là lẽ công bình nữa.
Theo thế tình, hễ có vay tất phải có trả, có thọ ơn tất phải có đền ơn, ăn cho đồng chia cho đều, không so hơn tính thiệt, nói tóm là tránh những điều bất công thì không xảy ra những sự bất hòa trong gia đình cùng xã hội. Chừng ấy chốn công đường sẽ hết kẻ kiện thưa, nơi tư thất người người yên sống.
Có công bình lý tưởng và công bình sự kiện.
Lương tâm không cho ta hà khắc kẻ yếu hay xâm phạm quyền lợi của ai, mặc dầu ta là kẻ mạnh, nếu ta xử sự do lương tâm hướng dẫn, ấy là công bình lý tưởng.
Luật pháp của xã hội lập ra đặng giữ gìn tài sản và sanh mạng của mọi người và bảo vệ công lý, luật pháp ấy là công bình sự kiện.
Chẳng những về mặt Đời, có luật pháp để sửa trị những điều bất công, mà về mặt Đạo cũng có chuẩn thằng để bảo vệ công chánh và giữ niềm hòa khí giữa người đồng Đạo. Như Đạo giải thoát của nhà Phật là Đạo Bát Chánh có ấn định luật công bình căn cứ nơi Chánh Ngữ là phải nói những điều đúng chơn lý không nói những điều giả dối xảo quyệt. Chánh nghiệp là chỉ làm những việc ngay chánh công bình không làm những việc tàn bạo gian ác, và Chánh Mạng là cứ sống theo con đường công chánh, không vì lợi lộc mà bỏ nghĩa thân.
Còn luật công bình của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là Tứ Đại Điều Quy, để giúp cho mỗi người được thung dung hành Đạo mà không phạm đến thanh danh quyền lợi của kẻ khác.
2.- Bác ái:
Nếu vì công bình rồi quyền lợi ai nấy giữ, cơm ai nấy ăn, nhà ai nấy ở, việc ai nấy lo, ắt hóa ra một đoàn thể tuy gần gũi nhau, mà thật sự thì cách xa nhau, bởi không ai ngó ngàng đến ai, tức là vong tha ích kỷ, là điều tối kỵ trong gia đình tôn giáo.
Vậy thì công bình phải rút trong nguồn bác ái, mới tạo hạnh phúc cho loài người được. Bác ái là tình thương yêu sâu rộng, và tình thương ấy thực hiện bằng cách bố thí và cứu trợ.
Vả chăng bố thí có nhiều cách: Hoặc chơn thật và quyết lòng trợ khốn phò nguy, hoặc kiêu hãnh muốn làm việc thiện đặng lấy tiếng; nên sự bố thí có giá trị cùng chăng là do cách bố thí. Nó có giá trị cao thượng là khi nào làm ơn không vụ lợi, và hoàn toàn giúp đỡ như anh em một nhà. Em ngã chị nâng, bậu bạn giúp đỡ nhau, người mạnh giúp kẻ yếu, cứu trợ kẻ tật nguyền, v.v... Đó là bác ái tương trợ thật sự.
Làm ơn mà đừng làm giảm giá trị người thọ ơn mới thật là bác ái.
Nên lưu tâm về chánh sách giáo hóa chúng sanh của các tôn giáo, bằng cách cấm sát sanh, chủ ý là khuyên kẻ hung hăng nên chừa tánh dữ. Bỏ dữ theo hiền, tức là gần sự thương yêu. Thương được mới hiệp được. Hiệp được mới lập thành đại đồng thiên hạ, chừng ấy mới cộng hưởng thái bình vĩnh cửu.
Kết luận:
Có công bình mà thiếu bác ái thì trật tự xã hội không bền vững, có bác ái mà thiếu công bình thì hạnh phúc toàn thể không hoàn toàn.
Vì vậy công bình và bác ái là hai đức tánh cần thiết và bổ túc nhau, để cưỡng chế tương tranh và gầy hạnh phúc.
Lễ phép là những quy điều đặt ra để giữ gìn hạnh đức trong sự giao tiếp với người trên và kẻ dưới, thế nào cho có vẻ hòa kính nhau.
Lễ phép cũng còn cái sở dụng để bảo tồn trật tự trong gia đình và xã hội, luôn tới cả một dân tộc một quốc gia nữa.
Nhờ có lễ mới gây thành tình cảm tốt, mới chế tài hành vi con người ta và phòng ngừa những điều rối loạn hồ đồ.
1.- Lễ:
Muốn người ta trọng mình và yêu mình, trước phải trọng người và yêu người. Người trên không có lễ, thì không lấy chi đặng khiến kẻ dưới, kẻ dưới không có lễ, thì không lấy chi đặng đãi người trên.
Người ta ai cũng có lòng muốn, mà lòng muốn người ta không có giới hạn, thì không thể không tranh. Tranh thì loạn, loạn thì khốn cùng. Cho nên chế lễ để chia phận nghĩa cho rõ ràng, chế ngự cái muốn, không để cùng kiệt các vật sở dụng, và cái vật sở dụng không làm kiệt cái muốn, tức là các vật sở dụng với cái lòng ham muốn phù trì lẫn nhau mà sinh trưởng.
Vả lại cái muốn thì nhiều, mà vật sở dụng thì ít nên tránh sao khỏi tranh giành, nên chế lễ để tiết chế cái muốn và bảo tồn các vật mới còn sanh hóa được, cho nên nói Lễ là nuôi là ý đó.
Hễ giữ thì chẳng luận lúc nào hay nơi nào, đều phải cẩn thận từng hành vi từng ngôn ngữ. Như làm một việc gì mà thất lễ thì không làm, nói một lời gì thất lễ thì không nói, xem những sự gì mà thấy vô lễ thì không nghe. Ấy là phép trau dồi đạo hạnh, giữ vững đạo tâm không nhiễm việc xấu, tránh xa tai họa. Vì vậy nên Ông Thái Công bảo: “Siêng cần là của báu vô giá, cẩn thận là lá bùa hộ thân” (Cần vi vô giá bửu, thận thị hộ thân phù) là vậy.
2.- Pháp:
Có lễ tức là có pháp. Pháp là khuôn viên mực thước để răn lòng sửa tánh hầu tránh điều tội lỗi. Trong nhà có lễ pháp thì lớn nhỏ phân minh, ở ngoài có lễ phép thì thượng hòa hạ mục.
Phép nước cũng căn cứ theo lễ, chế ra hình để trị loạn. Bổn phận công dân hễ biết sợ phép nước, thì hằng ngày được vui vẻ (tức là được bình an) còn dể duôi phép công (hay là khi dể quan quyền) thì hằng ngày lo lắng (sợ nay mai bị tội không chừng). Nên cổ ngữ rằng: “Cụ pháp triêu triêu lạc, khi công nhựt nhựt ưu”.
Người có pháp độ không hay nói nhiều, nên được thanh nhàn. Hay tha thứ khoan dung, thì không có kẻ oán. Tránh ganh hiền ghét ngỏ, thì không ai thù. Không tham danh chuốc lợi, thì không mất tự do.
Lễ Pháp trong cửa Đạo là Tứ Đại Điều Quy để cho Thiện Nam Tín Nữ hằng ngày gìn giữ đặng trau dồi đức hạnh.
a.- Về Lễ thì phải tuân lời dạy của bề trên, chẳng hổ chịu cho bậc thấp hơn điều độ. Lấy lễ hòa người. Lỡ làm lỗi, phải ăn năn chịu thiệt. (khoản 1, điều 22, chương V Tân Luật).
Đối với trên, dưới đừng lờn dễ, trên dạy dưới lấy lễ, dưới gián trên đừng thất khiêm cung. (khoản 3).
Trước mặt sau lưng, cũng đồng một bực, đừng kỉnh trước rồi khi sau. (khoản 4).
b.- Về Pháp chớ khoe tài đừng cao ngạo quên mình mà làm nên cho người. Giúp người nên Đạo. Đừng nhớ cừu riêng. Chớ che lấp người hiền. (khoản 2).
Bạc tiền xuất nhập phân minh, đừng mượn vay không trả. (khoản 3).
Đừng thấy đồng Đạo tranh đua ngồi mà xem không để lời hòa giải, đừng lấy chung làm riêng, đừng vụ riêng mà bỏ việc chung. Pháp luật phải tuân, đừng lấy ý riêng mà trái trên dễ dưới. Đừng cậy quyền mà yểm tài người. (khoản 4).
Kết luận:
Lễ Pháp có cái công hiệu phòng ngừa nguồn loạn. Nó có cái vi diệu ngăn cấm không cho phát hiện những điều quấy khiến người cứ gần điều lành, tránh điều tội mà tự mình không hay.
Lòng tha thứ là lòng khoan dung hỉ xả tội lỗi của kẻ khác. Muốn được vậy thì phải có đức lớn, độ lượng cao, thành thật, thương yêu không coi ai là thù nghịch cả. Thoảng như gặp kẻ thất giáo vô lễ, hoặc bị đứa võ phu thị nhục, đại trượng phu không vì đó mà phẫn nộ chinh lòng.
Trái lại, còn tha thứ cho kẻ kia, thì được lợi vừa cho mình, vừa cho kẻ ấy.
1.- Lợi cho mình:
Muốn có lòng tha thứ trước hết phải sẵn có dạ yêu thương. Có biết thương yêu mới gạt bỏ được những điều tội lỗi của kẻ phạm, tất nhiên không còn toan mưu rửa hận, tránh được sự kết oán gây thù, khỏi phải trả vay nghiệp báo về mai hậu.
Nghĩ vì kẻ hạ sĩ có bụng dạ đàn em ưa sanh sự, thì người thượng sĩ có khí tượng đàn anh không đáng tranh giành hơn thiệt, hầu lưu lại mãi mối nhơn tình, đặng ngày sau còn thấy mặt nhau mới tốt. Đó là cái lợi, vừa nhịn người, vừa được an thân, lại không mất niềm giao hảo.
Chẳng những vậy thôi, hễ càng rộng tình tha thứ để bố đức thi ân, thì cái phúc của mình tự nó càng tài bồi. Nên cổ ngữ rằng: “Vạn sự tùng khoan, kỳ phúc tự hậu” thì không mất phần ai cả.
Còn cái lợi khác, nếu gặp những trường hợp chướng ngại nầy kia, người có trí nên tự xét và tìm hiểu những cái khuyết điểm trong cách xử sự của mình hầu bổ khuyết ngay, tức là có dịp để mình liệu bề chánh kỷ. Nuôi lòng lành, điều dữ tự nó tiêu tan, tha thứ lỗi người, không tha thứ lỗi mình, ấy là thượng sách.
2.- Lợi cho kẻ khác:
Kẻ làm điều tội lỗi, hoặc vì dốt nát, hoặc vì mê si, hay bởi tánh hung hăng không ai kiềm chế, hay bởi nhẹ dạ non lòng, dễ nghe lời xúi dục hành động vô ý thức, một khi kẻ ấy được tha thứ, ắt sẽ hồi tâm không tái phạm, nếu được nhiều lần tha thứ nhiều lúc ăn năn, kẻ nghịch kia sẽ trở nên người bạn tốt. Ấy là chuyển họa vi phước, cho kẻ kia nhờ và cũng là bổn phận kẻ sáng suốt, phải hạ mình chiều chuộng khoan dung, đặng dẫn lối người ám muội trên đường chánh kỷ.
Vả chăng Đức Chí Tôn đã ban hành cho mỗi người một điểm linh quang hằng sáng suốt, nhưng vì ngoại cảm xấu xa che lấp nên phải lu mờ, nếu được ngoại cảm tốt lành xâm nhập phá tan màn hắc ám, chuyển hư thành nên, thì dầu cho tiểu nhơn cũng trở thành quân tử.
Kết luận:
Ở trong cảnh giới hổn tạp phong ba nầy, mà muốn lập thân không phải dễ. Vậy cái khuôn phép xử thế phải rộng rãi khoan dung, dầu cho bị đau khổ tâm hồn, cũng xem như đi trên con đường bằng phẳng mới yên ổn được. Không đau khổ làm sao biết thương yêu và tìm ra bản ngã? Bởi vậy cho nên phải hằng nhớ rằng, chi chi cũng phải sẵn có niềm hòa khí, nét yêu thương mới có lòng tha thứ. Thiếu tình thương yêu, ắt mất dạ khoan hồng, rồi thế nào “Dĩ đức phục nhơn” cho được?.
Giữa thời đại văn minh vật chất nầy, tiền tài lợi lộc hay làm cho nhơn tâm nảy sanh những mưu này kế nọ, để cho người gạt người, cho kẻ khôn lường kẻ dại, tưởng không phải là việc lạ. Nhứt là về mặt tín ngưỡng, có những khía cạnh rất dễ khiến kẻ mê tâm muội tánh, dám hi sinh làm dụng cụ cho người khác sử dụng. Và một khi thâm tâm nhiễm về đường tà, thì thành mê tín dị đoan nan giải.
Nguyên nhân: Dân tộc nào cũng vậy, hễ còn xa ảnh hưởng văn minh khoa học, và chưa được đào luyện trong tinh thần khoa học thì không khỏi lầm vào lối mê tín dị đoan.
Mê tín là quá tin tưởng theo những điều gì một cách mù quáng, trước khi tìm hiểu cho ra lẽ phải trái.
Dị đoan là tin chắc tưởng thiệt những điều quá kỳ dị không thể tin được.
Hậu quả: Bị lợi dụng, kẻ mê tín không khỏi mất tiền mất của, thậm chí có thể lụy đến thân là khác.
Như gieo sự bất yên trong số người mê tín, có nhà lo đi xem bói, coi đồng coi cốt, có người nhờ thầy pháp đánh bùa đánh phép chữa bịnh, đó là hành động vô ý thức và thiếu sáng suốt để tiền mất tật còn.
Lâu ngày căn bịnh trầm kha (nếu nói về bịnh hoạn) rốt cuộc phải nhờ lương y điều trị.
Còn nói về tội tình, thay vì ăn năn chừa cải, lại cậy kẻ khác tụng kinh cầu phước, tội kia còn đó, kinh nọ làm gì cho tiêu, nghiệp chướng vẫn còn là nghiệp chướng.
Vì yếu tánh và thất học, kẻ tin dị đoan vừa thấy một viên đá to tướng liền thắp hương khấn vái cầu xin này nọ và cho đó là Đá Thần, có đủ oai linh cầm quyền sinh sát. Người đi biển rủi gặp lượn sóng khổng lồ thì cho là Sóng Thần rồi cũng thắp nhang đèn khấn vái cho biển lặng sóng êm, thay vì lánh nạn nơi khuất gió.
Có nhiều nơi ở gần biển, một khi gặp Cá Ông mắc cạn, chết khô trên bãi, thì dân cư nội vùng xúm lại để tang, lập miếu phụng thờ và cầu an cho bá tánh. Càng kể càng thêm nhiều điều hoang đàng vô lối.
Thử nghiệm kỹ hành vi và tin tưởng như thế đem lại kết quả gì nếu chẳng phải là kết quả làm cho trí óc tán loạn, tinh thần thấp kém thì muôn việc đều hư hỏng.
Phương cứu chữa: Hễ có Mê thì có Ngộ
Mê là đem tâm đeo đuổi theo những cái ảo ảnh vô thường, thoạt có thoạt không, không dựa vào đâu để bảo đảm kết quả chắc chắn theo nguyện vọng của kẻ hữu cầu.
Nếu tinh ý đem tâm quy về cái lẽ chân thật duy nhất không bao giờ mất và dùng lý trí để cứu xét phải trái chánh tà. Phải thì theo, trái thì tránh, chánh thì làm, tà thì hủy. Dốt thì học hỏi nơi người hữu học, ám muội thì noi theo gương kẻ sáng suốt mà đồ theo, chẳng nên nghe lời huyễn hoặc, chẳng nên làm chuyện dị đoan luôn luôn thận trọng mọi sự và mọi dịp.
Ấy là chuyển Mê khải Ngộ là vậy.
Ở cõi phàm này không ai sống cô độc mà hưởng đầy đủ nhu cầu cho được. Không ai có thể tự hào mình làm được trăm việc, tự cung cấp mọi điều cho mình mà không nhờ đến xã hội.
Thử xem một bằng chứng rất minh xác trước mắt chúng ta hằng thấy là một người làm ruộng có lúa ăn mà không có nhà ở nếu không có thợ mộc giúp tay. Còn thợ mộc phải cần thợ rèn mới có dụng cụ hành nghề v.v... Người này nhờ sức người kia mới đủ phương tiện sanh sống, sự liên đới quan hệ giữa các ngành nghề nghiệp trên đây là chỉ cho ta thấy sự giúp đỡ xoay vần về tài lực giữa người trong xã hội có ích là dường nào.
Thiết nghĩ xã hội nào cũng có người bất túc kẻ hữu dư, có người lành mạnh, kẻ tật nguyền, thì tương trợ là điều cần thiết để tạo phúc cho nhau trong khoảng đời thống khổ của mỗi người.
Có nhiều cách tương trợ hoặc bằng lời nói, việc làm hoặc bằng tiền bạc của cải. Ai cũng có thể giúp kẻ khác nếu không với hằng sản thì với hằng tâm. Chớ đừng vị kỷ vong tha mà phải bị xã hội ghét bỏ. Một khi mất đi sự tương trợ của xã hội, thì dầu tung tiền muôn bạc ức để đổi lấy bất cứ thứ gì cũng không được, thì sự giàu sang khi đó sẽ trở nên vô ích.
Nghĩ vì đời thường khổ lại thường gặp nhiều cảnh khổ, như bị hoả hoạn, thủy tai, hay thiên tai địa ách, nên xã hội mới lập ra nhiều tổ chức có tánh cách tương trợ như tương tế, chẩn bần, vừa giúp ích cho cá nhân, vừa giúp lợi cho nước nhà. Bởi đó mới có câu cách ngôn “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước phải thương nhau cùng”.
Nói riêng về phần cá nhân đối với cá nhân, có lời tục rằng: “Khó giúp nhau mới thảo, giàu tư trợ ai màng”. Câu này có ý nhắn nhủ với ai là khách trần tục chẳng nên quên lập nền nhân nghĩa bằng cách tương trợ tương thân và để tình nhân nghĩa cho đúng chỗ, đúng thì, mới thật là có nghĩa tương trợ.
Thêm một mẫu chuyện như dưới đây của một người mù với một người bại, hai người cùng giúp sức nhau để đi hành khất bằng cách người mù không thấy đường thì nhờ cặp mắt sáng của người bại dẫn lối, còn người bại không đi được thì nhờ cặp chân của người mù đặng lần đường. Chuyện này tả cảnh tương trợ giữa người đồng khổ không cảnh nào thiết thực bằng, huống hồ giữa một người khổ với một người ít khổ lại không có sự hộ trì nhau sao?
Sự tương trợ trong cửa Đạo:
Trong cửa Đạo là nơi giải khổ, thì sự tương trợ có nhiều ý nghĩa thâm viễn hơn, mà mỗi người cần lưu tâm, để làm nét chuẩn thằng trên con đường hành Đạo. Thiên về mặt tinh thần người trong bổn Đạo phải trợ giúp lẫn nhau bằng cách giáo hóa trên con đường hạnh đức. Phô bày phương pháp phá mê hầu dìu độ nhau vào nẻo quang minh chánh đại. Ngó về đường vật chất thì Chương Thế Luật trong Tân Luật đã ấn định rành rành chánh sách tương trợ để đi đến chỗ hiệp sức hòa tâm, rút trong nguồn cộng ái. Vả chăng, nên nhớ rằng sự bất tín bất hòa là mầm chia rẽ, là mối nguy nan trong vòng thế sự cũng như trong phạm vi tôn giáo, nếu thiếu tương trợ tương thân thì họa diệt vong hậu kề.
Tổng luận:
Trên đời không có việc chi là khó, mà không làm được là bởi lòng mình không chuyên chú, ân cần đó thôi. Vậy thì thà là tạo nhân đáp nghĩa với ngàn người, chớ đừng kết oán với một người, mà làm hư hỏng một kiếp sanh rất uổng, sống có tương trợ thì sức lực được mạnh mẽ để phấn đấu, tinh thần được tráng kiện để tăng tiến trên đường giải khổ, mới thấy cái thú vị trong cái sống giữa đời phiền lụy khổ não này.
Hi sinh có nghĩa là quên cả sự sống, không kể tánh mạng mình để mưu cầu ích lợi chung cho nhiều người.
Lý tưởng là ước vọng cao xa của một cá nhân mà cá nhân ấy cố đạt cho kỳ được.
Hi sinh cho một lý tưởng tức là quên mình hay là hiến cả thân mình để làm một việc gì theo cái ý nghiệm mà mình cho là cao thượng, là tốt đẹp để tô điểm cá nhân mình và cùng phụng sự cho kẻ khác.
Cho hay kiếp sống con người không phải để ăn uống, nằm ngồi, đi đứng, hầu kéo dài ngày tháng cho tới chết là hết. Như vậy, thì kiếp sống không có nghĩa và không bổ ích vào đâu cả.
Trái lại, sống với một mục đích, một chủ nghĩa hay một lý tưởng gì ngoài mình và cao hơn mình, mới thấy cái lạc thú để sống. Cố gắng theo đuổi cái mục đích ấy và để hết năng lực cùng tinh thần vào đó, cho tới mức thành công sẽ thấy dầu hi sinh đến đâu cũng không tiếc và vui lòng hi sinh là khác.
Do đó mới có trổ mặt những anh hùng liệt nữ, những quân tử hiền tài, nơi nầy nơi nọ mà đời hằng ca tụng sùng bái.
Như Đức Phật Thích Ca có một lý tưởng cao siêu là thoát khổ. Ngài hi sinh cả quyền cao tước trọng, phú quý vinh huê, luôn cả gia đình, rồi hãm mình trong vòng khổ cực, tìm cho rõ nguyên nhân sự khổ và tầm phương diệt khổ. Ngài đắc pháp là nhờ theo đuổi cho đến kỳ cùng cái lý tưởng duy nhứt ấy.
Như Đức Khổng Phu Tử vì theo đuổi cái lý tưởng sửa đời tệ, trị đời loạn, không hề thối bước trước một trở lực nào, mặc dầu ra làm quan giúp nước Lỗ, kế qua Tề, sang nước Vệ, tới nước Tống, nước Trần, nước Tấn, nước Sở rồi trở về nước Lỗ. Không nước nào dung nạp Ngài cho được lâu dài. Mãi đến tuổi về hưu, Ngài còn tiếp tục tạo dựng cho xong một nền luân lý thuần túy cho dân tộc Trung Hoa, thêm viết một bộ sách Xuân Thu để bày tỏ cái Đạo của Ngài về đường chánh trị.
Như Đức Jésus Christ có một lý tưởng chuộc tội cho loài người, vì nhận thấy thời bấy giờ loài người đang đắm đuối trong vòng tội lỗi, Ngài chịu đổ máu trên Thập Tự Giá và đạt thành mục đích.
Như Hai Bà Trưng trong xứ ta, theo đuổi một lý tưởng phải trả thù chồng, bằng cách diệt trừ kẻ tàn bạo và đuổi quân xâm lăng ra khỏi nước. Hai Bà không màng sức yếu quần thoa xông pha trận mạc cho đến lúc thành công mới ngừng.
Sanh ra ở cõi trần này nếu ta chịu khó kiếm hiểu vì sao ta sống, sống để làm gì, ắt ta thấy con người là người của xã hội, và đã là người của xã hội, thì không khỏi có một niềm ưu tư phục vụ cho xã hội. Chừng ấy ta sẽ nẩy nở những tư tưởng cao xa, những quan niệm tốt lành, để tạo được một đời sống vẻ vang cho mình, và hữu ích cho xã hội.
Đứng về mặt tôn giáo mà nói, phải có đại nguyện mới mong thành chánh quả. Đại nguyện là hi sinh, chánh quả là lý tưởng.
Như hiện thời trong cửa Đại Đạo mỗi người trong chúng ta đều lãnh một sứ mạng Thiêng Liêng dìu chúng sanh vào đường đạo đức. Trước hết, chúng ta cần ly gia cắt ái, xả phú cầu bần, rồi kế đó phải gắng công trau dồi hạnh đức cho tới chỗ chí thiện, mới xứng đáng một người truyền giáo.
Sách Đại Học rằng: “Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện”.
Chí thiện là lý tưởng, còn những phương châm đạt thành lý tưởng như trên vừa kể là hi sinh vậy.
Tổng luận:
Đại phàm trong muôn việc có khó mới có nên, thậm chí muốn tới nơi thành tựu của một đại sự, dầu phải phủi hết cái gì của mình mà mình cho là quí báu trọng hậu cũng sẵn sàng hưu hủy. Muốn thâu cái lợi lớn, phải thí cái lợi nhỏ là lẽ hằng xưa nay vậy.
Đoàn kết là hiệp tại nhiều người thành nhóm, thành đoàn cùng theo một chí hướng để thực hiện một mục đích có ích chung hoặc phụng sự cho một chủ nghĩa cao thượng ngõ hầu thâu thập kết quả chắc chắn và tốt đẹp. Trái lại, riêng lẻ một người không thể thành công được.
Có đoàn kết mới có sự liên lạc mật thiết, mới hiểu nhau, mến nhau rồi sẽ giúp nhau, từ việc nhỏ đến việc lớn không bỏ qua một việc nào.
Việc nhỏ như một người lăn không nổi một cây súc, mà năm bảy người phụ lực vào thì lăn rất dễ.
Việc lớn như muốn lấp đất đê ngăn nước, một người làm không xuể, đông người làm chẳng mấy hồi.
Việc lớn hơn nữa như giữ gìn biên cương, bảo vệ quần chúng, có đoàn kết với mọi người mới chung lưng đâu cật, đồng lòng quyết thắng thì quân địch không dám đến hay đến rồi phải thất bại.
Những nghiệp đoàn trong các ngành kinh tế hay chính trị, hoặc binh bị là những hình thức đoàn kết hiệu nghiệm, để bênh vực quyền lợi và giữ vững tinh thần phấn đấu cho ngành mình, mà không mất tình hữu nghị giữa người trong ngành.
Lời ví rằng: “Chia rẻ thì chết, đoàn kết thì sống”. Số đông là số mạnh, đã đông lại thêm đồng một chí hướng thì làm việc gì cũng thành công. Hội nghị Diên Hồng là một đoàn kết lịch sử của Việt Nam vậy.
Sự đoàn kết của những người trong một nhóm, là một việc hay, còn đoàn kết nhóm này với nhóm khác, để tương trợ lẫn nhau trên đường sanh sống, là một việc càng hay hơn thêm cần thiết là khác.
Một xã hội cho đặng sống điều hòa và bình hành thì sĩ, nông, công, thương, phải phù trì nhau, mới cung cấp đầy đủ nhu cầu và tiện nghi được.
Lời Thầy Mạnh Tử về sự đoàn kết rất hữu lý và thâm thúy như vầy: “Không có người Quân Tử (là các quan) thì chẳng ai ra chánh giáo để cai trị dân quê, không có dân quê thì chẳng ai cày cấy lấy lương bổng để cung cấp cho người Quân tử (Vô quân tử mạc trị dã nhân, vô dã nhân mạc dưỡng Quân tử).
Từ cổ cập kim, ở thế hệ nào cũng vậy, đời sống có đoàn kết mới có tiến hóa. Thế hệ này đã qua, để lại cái di sản đoàn kết lại cho thế hệ khác, và cứ lưu truyền từ đời này sang đời nọ, cái di sản ấy chỉ tăng thêm phần tốt đẹp mà thôi. Thảng như di sản đó bị phân chia ra từng mảnh múng, bởi một lẽ gì chẳng hạn, thì vì sự sanh tồn của xã hội ta phải kíp ráp lại cho lành, chuyển hư thành nên, mới khỏi đắc tội với thế hệ sau cũng như với thế hệ trước.
Tổng luận:
Sự đoàn kết giúp cho người ít tổn sức mà lập được đại công. Trái lại thì phí nhiều sức mà thành công dã tràng.
Ở trong cửa Đạo, sự đoàn kết rất hữu ích về phần vật chất cũng như tinh thần. Về vật chất có đoàn kết mới giữ trọn nét yêu thương, để trợ giúp nhau khi hữu sự. Về tinh thần có đoàn kết, mới tận tâm dìu dắt nhau trên đường hành Đạo, mới có đủ năng lực truyền bá chơn truyền cứu nhân độ thế.
Ở thế gian này ngoại trừ những vật vô tri, các vật hữu tri hữu giác đều sống có gia đình có tổ chức có nhóm, có đoàn, mới tiến hóa và tồn tại tới ngày nay và sẽ còn tiếp diễn.
Loài người hồi đời thượng cổ chỉ sống chật hẹp trong tiểu gia đình. Lần hồi vì cuộc mưu sanh cấp thiết, mới nhìn nhau trong kẻ đồng tông và mở rộng đường tiếp tế, bằng cách trao công đổi của. Nhưng vì nhu cầu thân xác, cứ đòi hỏi thêm tiện nghi, mà một nhóm người không thể thực hành cho nên việc. Rút kinh nghiệm trong sự cộng tác đắc lợi của người đồng tông, nhiều tông và nhiều tiểu gia đình khác mới hội hợp lại làm một đại gia đình hay một xã hội. Mục đích là tương trợ khi hữu cầu.
Với mục đích này, xã hội có trách nhiệm nâng cao đời sống của mỗi người, bằng cách bổ túc những nơi nào còn khuyết điểm. Chẵng những vậy thôi còn tìm phương cải thiện đời sống cho tận mỹ hơn, về phần vật thể cũng như về phần tinh thần.
Về phần vật thể thì trợ khổn phò nguy. Lập dưỡng đường, dựng cô nhi viện, tạo dưỡng lão đường, v.v... Về phần tinh thần thì lập trường học, xây nền giáo huấn bách khoa, nâng cao dân trí để phấn đấu cho xã hội được dễ dàng phát triển trên mọi phương diện.
Vả lại, xã hội là nơi quy tụ ý kiến của các bậc nhân tài, là nơi đấu trí của các nhà thông thái, tiện thị là nơi sản xuất những cái hay cái tốt để tô điểm đời sống còn của toàn thể.
Vậy thì công trạng của xã hội đời này là để bảo vệ cái di sản của xã hội đời trước, cũng như sẽ kế truyền cho xã hội đời sau. Hay nói một cách khác, có xã hội mới có văn minh tăng tiến. Cái văn minh đời này đã thành hình từ đời trước, rồi đời này cải thiện cho đời sau thừa hưởng, đời sau còn cải thiện thêm thì nền văn minh (vật chất lẫn tinh thần) không khi nào sút kém.
Thiết tưởng, mỗi một thế hệ đều có một trình độ tiến hóa riêng: nên xã hội của thế hệ này có bổn phận vừa giữ gìn cho nguyên vẹn cái văn minh của xã hội của thế hệ dĩ vãng, vừa nâng cao nền văn minh ấy cho hợp với dân sanh, dân trí đương thời, rồi xã hội của thế hệ tương lai, cũng sẽ do theo nguyên tắc kế truyền mà để bước.
Tổng luận:
Không có xã hội, nhơn loại sẽ yếu thế, và mất thăng bằng trong đời sống của mỗi người. Song le những năng lực của xã hội ở thế kỷ XX này đã đến mức dõng mãnh phi thường, thành thử gây trở lại một nỗi lo âu cho thiên hạ. Nó đoạt được một phần cơ mầu nhiệm của Tạo Hóa, là làm chủ nguyên tử năng, điều khiển khinh khí lực, và còn lên viếng cả cung trăng. Nhưng ngặt nỗi, hiện nay khoa học phần nhiều lại chỉ mạnh tiến về cách sát hại sanh linh, mà ít quan tâm đến bảo toàn sự sống.
Duy những đặc điểm khác của nguyên tử năng hay của khinh khí lực, để tạo hạnh phúc cho nhơn sanh hãy còn trong vòng bí mật. Phải chăng vì loài người chưa quay hẳn về đường đạo đức nghĩa nhân nên tìm chưa ra điểm ấy.
Một số đông người hợp lại để theo đuổi một chương trình hành động, mưu sinh cho toàn thể, gọi là đoàn hay nhóm hay câu lạc bộ. Nhiều đoàn hợp lại, theo đuổi một chương trình rộng rãi hơn, cũng thiên về sự ích lợi chung gọi là xã hội. Mỗi cá nhân là một phần tử của xã hội. Vậy thì xã hội hình thành bởi cá nhân, và được nâng đỡ, duy trì tồn tại cũng do công cán của cá nhân.
Vả lại sự đòi hỏi của đời sống rất phức tạp, nên phải nhiều tay, nhiều trí, nhiều của... bồi đắp nhau mới làm cho thỏa mãn các nhu cầu được.
Thử xem từ thế hệ này đến thế hệ khác, có ai không ước ao ăn ở cho được an ninh, cho có nghĩa tình giữa người đồng xóm, đồng làng, đồng xứ sở? Nào là quyền lợi riêng tư, nào là tự do cá nhân, nào là tiện nghi ăn ở, ấy là những điều kiện muốn thực hành cho hoàn toàn, phải trải qua biết bao việc nhỏ nhặt phiền phức liên đới buộc ràng, từ hạ từng cơ sở đến thượng từng kiến thiết. Nếu không có xã hội đảm đương trọng trách điều khiển mọi hành tàng, và giữ gìn kỷ cương thì sự sống còn của cá nhân không có nền tảng vững chắc, nếu nó không sụp đổ. Đồng thời nhiệm vụ cá nhân đối với xã hội không phải không quan hệ, vì mỗi người tùy khả năng phải tận tâm vùa giúp cho xã hội làm tròn phận sự. Vì đó, sự cố gắng của cá nhân là kết quả thành công của xã hội. Thoảng như rủi có điều gì lầm lỡ của vài phần tử xã hội, thì toàn thể chung chịu trách nhiệm. Nếu không chỉnh đốn cải thiện cấp kỳ, thì cái tệ hại này có ảnh hưởng tới thế hệ tương lai hoặc tới nhiều thế kỷ khác.
Theo luật thiên nhiên sanh hóa của Càn Khôn Vũ Trụ vạn vật phải có biến mới có tiến.
Đây nói về nhơn loại, một khi ngộ biến thì xã hội phải tầm phương giải nạn, và phòng ngừa tai nạn tái lại. Đó là cơ hội cho cá nhân vùa giúp xã hội, chống chỏi với mọi trở lực trên con đường tiến hóa, và một lần thành công là một lần phát triển. Song le muốn đi đến thành công, có khi gặp trường hợp phải chịu nhiều thất bại. Nếu kiên tâm trì chí, và khéo xoay trở đối chiếu, thì có thể chuyển hư thành nên. Sự thất bại sẽ lui bước, nhường chỗ cho sự thành công, là phần thưởng cuối cùng.
Tuy thất bại vẫn là bài học để tiến hóa, nhưng nên nhìn nó là cây thước để đo trình độ dân sanh, và là sự kiện để giúp xã hội canh tân theo kịp thời gian và hợp dân trí.
Tổng luận:
Cá nhân là phần tử tạo dựng xã hội, xã hội là hình ảnh năng lực của các phần tử.
Phần tử tốt thì tạo xã hội tốt, phần tử xấu thì xã hội khó tiến hóa.
Vì vậy mà người ta nhìn xã hội mà đoán quốc vận.
Cổ tích là những vật ghi dấu những hành tàng từ ngàn xưa của các bậc tiền bối và tiêu biểu cho trình độ văn minh của thế hệ đã qua mà người đời nay nhìn vào phải sanh lòng hoài cổ.
Thắng cảnh là những bức tranh thiên nhiên kết thành bởi đỉnh núi đầu gành, non xanh nước biếc, hạc nội mây ngàn, có khí vị quyến rũ tao nhơn mặc khách làm nơi giải trí, xui khiến kẻ lánh chốn phồn hoa làm nơi tịnh dưỡng tinh thần.
Danh lam là những chùa những tháp từ nhiều đời chịu đựng mưa sa nắng táp, lưu lại những dấu tích ngưỡng mộ đạo đức của loài người.
Tác phẩm nghệ thuật và tác phẩm văn chương là những tuyệt xảo sáng tác và tinh hoa trí thức chẳng luận cổ kim có tánh cách dọn đường cho văn minh tấn bộ.
Trên đây là những vật vô tri, tuy không biết nói, không cử động, mà lại có cái vi diệu khêu gợi sự nhớ nhung, quý mến, cũng như sự tôn sùng, ngưỡng mộ, những chuyện xưa tích cũ, để cho đời hậu tấn làm tài liệu cải thiện đời sống cho tận mỹ hơn.
Những vật ấy không thuộc quyền sở hữu của một người nào, mà là của toàn dân toàn xứ. Song le có người không nhận thức cái vẻ đẹp thiên nhiên thắng cảnh, cái giá trị cao cả cổ tích, rồi xem thường và phá phách. Hành tàng như thế là đi ngược vòng học hỏi, chỉ biết thoái chứ không biết tiến. Vì đó mới có những Hội Khảo Cổ, khai thác đất đai tìm cổ tích, những tổ chức mạo hiểm vào hang sâu vực thẳm, lặn bể trèo non, tầm vật lạ thiên nhiên, hầu bổ túc và khuyếch trương khoa học.
Như vậy là người ta biết tôn trọng cổ tích, và cố giữ gìn cho nguyên vẹn, hầu lưu truyền những cái hay, cái khéo luôn cả cái vụng, cái sơ, của đời dĩ vãng cho đời hậu lai lấy cái đó làm kinh nghiệm, hầu phát huy tư tưởng và tô điểm hành tàng thì không phải là điều vô ích.
Nếu chép cho hết những cổ tích, và tác phẩm nghệ thuật từ hồi nguyên thủy đến buổi hiện kim, thì không biết bao nhiêu sách cho đủ. Có điều ta nhận kiếm không sai là trên thế giới này loài người cứ tái diễn những tấn tuồng bất vi thiện, những trò tàn phá đặng rồi kiến thiết. Vì thế mà văn minh vật chất được phát triển còn văn minh tinh thần lại sút kém.
Như vua Neron (Ý Đại Lợi) vì hà khắc người Công giáo làm cho thành La Mã phải xiêu đổ. Tần Thủy Hoàng (Trung Hoa) cho đặng ngăn giặc xây Vạn Lý Trường Thành phải tiêu hao về số sanh mạng. Các vua Ai Cập xây Kim Tự Tháp, chất đá thành non làm nơi cất xác, đó là gương hùng cường.
Thành Jérusalem, thành La Mecque (Trung Đông), sông Hằng Hà (Ấn Độ), xứ Tây Tạng (Trung Hoa) là những nơi có địa điểm tích trữ những sự kiện khi thạnh khi suy của các tôn giáo.
Hiện giờ sau hai trận đại chiến Âu châu và thế giới hay nói một cách khác, sau hai cuộc phá hoại toàn cầu nhân loại lo tái tạo. Đồng thời khoa học đang mạnh tiến và càng mạnh tiến càng đe doạ hòa bình, khiến cho nền luân lý thuần túy khó được phục hưng, thiên hạ cũng nên xem cổ tích và chuyện đã qua rồi suy gẫm cái sở hành nào để chuyển họa vi phước.
Tổng luận:
Vô cổ bất thành kim, và yểm cựu nghinh tân không phải là thượng sách trên con đường học vấn và tiến hóa.
Ở đời có hai con đường để cải thiện xã hội cho mỗi ngày mỗi thêm tiện nghi và tốt đẹp hơn. Ấy là con đường bảo thủ và con đường tiến thủ.
Vả chăng mỗi con đường đều có cái hay và cái dở của nó, chớ chẳng phải trọn toàn, song lẽ tùy sở thích và quan niệm cá nhân, có người xu hướng theo con đường bảo thủ, còn người khác lại theo chiều tiến thủ.
Bảo thủ:
Đành rằng xã hội nào cũng cần tiến hóa về phần vật chất cũng như tinh thần, nhưng có người với ý chí thủ cựu quyết giữ những thành kiến xưa, những phong tục cũ mà thôi. Vì cho rằng đã được xã hội nạp dụng những thành kiến ấy không phải dở, những phong tục ấy không phải hủ lậu. Nếu sửa cải, sợ e dở hơn hoặc hỏng đi chăng. Những người đó còn công kích các sự cải tiến canh tân và chỉ thích những gì hợp với trí thức xưa và cho đó là bất khả di dịch. Họ luyến tiếc cái dĩ vãng và ưa sống trong cảnh an bài, không cần bày biện nầy nọ, cho thêm rộn lại càng lo ngại sẽ thất bại là khác.
Với độ lượng hẹp hòi không có tính cách tiến triển, tinh thần bảo thủ là một trở lực rất lớn trên con đường tiến hóa của xã hội. Nếu không biến cải và cứ ở trong tình trạng đứng chựng hay thụt lùi, thì xã hội chỉ làm nô lệ cho những tư tưởng không có khả năng phát triển.
Tiến thủ:
Một số người khác ngó về tương lai xã hội và thích thay cũ đổi mới đặng cải tiến mà không vững chãi, họ cũng tin rằng sẽ thành công. Nếu thất bại họ vẫn theo đuổi chí hướng đã định cho đến đạt kỳ sở vọng mới thôi.
Hai chữ tiến thủ hàm súc cái ý nghĩa cách mạng và quyết tâm phá đổ cái gì mà người ta cho là dở, là không hạp thời. Nếu trải qua những trận lưu huyết dữ dội, người ta cũng không sờn lòng.
Chí tiến thủ được cái lợi lớn là thúc đẩy văn minh mau tiến hóa.
Sách rằng: “Nhựt tân, nhựt nhựt tân, hựu nhựt tân”, ngày mới, ngày ngày mới, lại ngày mới. Câu nầy khuyến khích cứ mỗi ngày mỗi mở mang trí hóa để đi đến cái hay hơn ngày đã qua và tìm thêm cái hay cho ngày sẽ tới.
Tổng luận:
Nếu dung hòa tinh thần bảo thủ và chí tiến thủ hay nói rõ hơn, nếu hai đức tánh này bổ túc cho nhau thì xã hội sẽ tiến hóa trong vòng trật tự và điều hòa.
Trong cửa Đại Đạo, chúng ta có Tân Luật tượng trưng tinh thần tiến thủ để cải thiện đời sống nhơn sanh trong nề nếp thương yêu và công bình hơn. Còn Cựu Luật của Tam Giáo và Ngũ Chi là bảo thủ để giúp nhơn sanh thoát nơi đỡ khổ, vừa thủ cựu vừa canh tân thì đứng giữa thâu lợi cả đôi bên ấy là doản chấp quyết trung, không còn chi hơn nữa.
Cầm thú là những giống không biết phải trái hư nên, không biết thiện ác là gì. Tuy vậy chúng vẫn biết đau đớn, biết ham sống sợ chết, biết thương yêu đồng loại. Chúng khác với loài người là không có trí khôn và vì đó nên chịu phận thấp hèn để cho loài người tùy ý sử dụng.
Song le chẳng phải vì có quyền làm chủ cầm thú mà loài người không có bổn phận đối với chúng.
Bổn phận loài người:
Cầm thú giúp Đời về nhiều phương diện rất quan trọng như sau này:
1. Trải thân làm thức ăn hằng bữa để nuôi mạng người.
2. Làm công chuyện nặng nề cho người đỡ nhọc trong cuộc nông tang, chuyển vận.
3. Phục vụ khoa học bằng cách để cho các nhà khoa học nghiên cứu cái sở dụng của chúng nó trong những tiện nghi về vật chất, nhứt là về mặt y khoa.
Đối với công trạng như trên, người có bổn phận phải nuôi chúng nó cho tử tế, cho ăn no đủ, cho ở chỗ có vệ sinh. Gặp khi bệnh hoạn có thuốc men điều trị.
Có người không xét công cho chúng nó nhờ, lại dùng chánh sách bạo tàn làm cho chúng nó đau khổ. Chẳng hạn như có kẻ đánh đập con bò, ngựa trong lúc nó làm việc cho đến nỗi nó quị xuống đất mà chịu đau chớ không biết than. Số phận của nó đã đành như thế, duy đáng trách là kẻ ấy lại quên rằng nó đang giúp mình trong kế sanh nhai.
Nếu hiểu rằng thú vật đã mang cái số phận cùng căn mạt kiếp làm nô lệ cho loài người thì hiếp đáp chúng nó chẳng khác nào kẻ trí đấu sức với vật vô tri tức là hạ mình ngang hàng với cầm thú thì còn gì là nhơn phẩm.
Bổn phận người Đạo:
Trong cửa Đạo là cửa rất kỵ những hành động bạo ác, những tính nết hung hăng thì chư thiện tín có bổn phận xem loài cầm thú như kẻ bạn bị xếp vào hàng xấu số hơn mình, không đáng cho chúng ta hành hạ hủy hoại. Trừ khi gặp trường hợp tự vệ phải trị thú dữ, người Đạo nên chú ý về sự sát sanh là điều răn đứng đầu trong ngũ giới cấm vì nó quan hệ hơn cả. Theo luật luân hồi quả báo, vạn vật hữu sanh đều phải trải qua nhiều kiếp mới mong đến kiếp chót là kiếp hoàn toàn thiện mỹ. Trong khoảng thời gian ấy một kiếp thú có thể là hậu quả của một kiếp người bị đoạ cũng như kiếp người có thể là hậu quả của một kiếp thú mãn đoạ. Vậy thì chung quanh chúng ta nói theo lẽ Đạo dầu người hay dầu thú, vì tiền kiếp mà nên hình, cả thảy đều là anh em.
Tổng luận:
Trong những xứ văn minh hiện đại người ta đã tổ chức nhiều hội thảo bảo vệ loài cầm thú cốt ý kêu gọi lòng nhơn từ của loài người cho chúng nó bớt bị hành hạ vô lối.
Kinh Sám Hối cũng có khuyến thiện như sau này mong dành một phần nào hạnh phúc cho chúng nó trong lúc sống còn ở trên cõi trần:
Lòng Trời Đất thương đều muôn vật,
Đức háo sanh Tiên, Phật một màu.
Thượng cầm hạ thú lao xao,
Côn trùng thảo mộc loại nào chẳng linh.
Nó cũng muốn như mình đặng sống,
Nỡ lòng nào tuyệt giống dứt nòi.
Bền công Kinh sách xem coi,
Vô can sát mạng thiệt thòi rất oan.
Chớ kiếm thế gọi ngoan xảo trá,
Lưới rập chim, thuốc cá, đốt rừng.
Thương thay phá noãn lẫy lừng,
Tội căn báo ứng biết chừng nào an.
Trong Càn Khôn Vũ Trụ có Âm Dương nhị khí cùng điều hòa với nhau mà sanh ra vạn vật. Đứng đầu trong vạn vật loài người là phần tinh ba có tính thông minh hơn cả để suy nghiệm các việc của Trời Đất. Vậy thì ai là kẻ quán triệt được cái đức sanh của Đấng Tạo Hóa, sẽ cảm thấy cái kiếp sống ở đời chẳng phải là vô vị, trái lại có nhiều lý thú, chỉ người thượng trí cao minh mới biết thưởng thức để trau dồi và tô điểm bản thân cho hạp với đạo lý.
Vả chăng bao nhiêu khổ trần, đã làm sầu khách tục, chẳng phải do sự sống sanh ra, mà do tư tâm tư dục tạo thành. Như biết sống thuận theo lẽ tự nhiên thì không còn những quan niệm hoạ phước kiềm thúc, còn biết nhận định sự sanh là đức lớn và cũng là mục đích của Tạo hóa, thì việc sống chết không còn là vấn đề nghị luận.
Sách rằng “Thiên địa chi đại đức viết sanh” nghĩa là cái đức lớn của Trời Đất là sanh hóa ra mãi.
Nhưng cần quan tâm rằng đức háo sanh là một việc, còn lẽ công bình Thiêng Liêng là một việc khác. Cho nên chẳng vì hưởng đặng kiếp sanh của Tạo Hóa ban cho, rồi kẻ phàm phu tục tử lại đem vùi nó trong chốn tội tình, thì không khỏi bị Thiên Điều hành khiển. Duy kẻ đạt được cái lý nhiệm mầu của Trời Đất mới vui sống cái đời đáng sống.
Thiết tưởng Đấng Tạo Hóa lúc nào cũng hộ trì cho sự sống được mạnh mẽ tươi tỉnh, thì đời người từ thanh mi chí bạch phát, ví như bốn mùa từ xuân hạ thu đông, mỗi mùa đều có cái vẻ đẹp của nó. Nếu không lưu luyến trong vòng ngũ trược, thì cái thú vị phong phú của đời người, lúc nào cũng xuất hiện nơi thâm tâm để tự mình tịnh tiến.
Có điều không tránh khỏi, là thời đại hay di chuyển, hoàn cảnh sinh hoạt hay đổi xây, thì người khôn không đi ngược trào lưu tiến hóa. Nhưng có khi ẩn hiện, lúc xuất lúc xử, là vì lẽ tùy thời đó thôi. Và dẫu ẩn dẫu hiện, người ta không bao giờ mất cái lạc thú trong lòng.
Những thi gia đa sầu đa cảm hay khóc những cành hoa tàn, những chiếc lá rụng, để tỏ dấu bi ai cho cái bóng phù du của nó. Nhưng mà cành hoa tàn để kết trái, chiếc lá rụng để nhường chỗ cho lộc non, còn thân cây vẫn đứng vững theo thời tiết. Giọt lụy của thi nhơn dẫu đổ, vật hữu thể cứ biến hình biến chất theo cơ sanh hóa.
Trời không riêng thân với ai và thường không phụ người lành (Duy thiên vô thân, thường dữ thiện nhơn) thì việc gì hợp với đức sanh là thiện, còn trái lại là ác.
Tổng luận:
Từ sắt đá cỏ cây, thú vật cho tới loài người, không vật nào không nhờ đức háo sanh của Tạo Hóa mà được tồn tại duy trì phần xác lẫn phần hồn.
Nhược bằng kẻ nào không khám phá được cái sở dụng phàm trần, cùng cái sở dụng Thiêng Liêng của sự sanh thì kẻ ấy lấy làm vô phước.
Con người sanh ra bởi hai yếu tố chánh cấu thành, là xác và hồn. Xác do tinh huyết của cha mẹ biến thể. Hồn do điểm linh quang của Đức Thượng Đế ban cho. Hồn ở trong cái xác hay nói một cách khác xác bao bọc hồn. Hồn thuộc về phần tâm linh tinh thần, xác thuộc phần hữu thể vật chất. Tuy cùng chung lộn trong một vật hữu hình duy nhứt mỗi phần đều có bổn phận và phạm vi riêng biệt. Song lẽ không phải vì thế mà rời nhau được.
Tâm linh hay linh hồn là cái đức sáng tự nhiên của con người. Nhờ đó mà cái trí thông suốt được cả sự vật. Nhưng trí thức kia chưa phải đủ vì nó chỉ là một phần nửa trong cái đạo học làm người. Đi đôi với trí thức còn có tình cảm để bổ túc vào hầu đạt tới cái đạo lý làm người hoàn toàn trong xã hội.
Vả chăng ai cũng có sẵn trí thức và tình cảm nơi mình.
Trí thức nếu không được rèn luyện có thể đưa đến chỗ ngụy biện sai lầm cũng như nó có thể đưa đến chỗ chánh chơn ngay thẳng.
Tình cảm nếu không được rèn luyện, có thể đưa đến chỗ tàn sát lẫn nhau, phá hoại cả nền trật tự giữa nhơn quần xã hội cũng như nó có thể đưa đến chỗ vạn vật đồng nhứt thể cùng Trời Đất hiệp một để tiến hóa trong cuộc sinh thành của toàn thể.
Vậy thì trong phép học tập làm người, cần yếu là phát triển cái năng lực của tinh thần trí thức và tinh tiến cái tình vào nơi lẽ ngay đường chính, vào chỗ phải, chỗ nên và giữ gìn không cho biến nghịch. Nếu trí thức không đạt được tới chỗ thông suốt cả vạn vật và tình cảm không phổ biến tới chỗ đại đồng thì công trình học tập làm người chưa rồi.
Muốn cho hai cái năng khiếu, trí và tình được phát triển và không phá hoại lẫn nhau thì phải tập rèn luyện cho cả hai đều được quân bình đồng điệu.
Cho hay tâm với trí ở về phần tinh thần nhưng cả hai đều bắt nguồn từ sanh lực. Nếu cơ thể con người được đầy đủ sức khoẻ thì nguồn sinh lực được dồi dào. Như sinh lực suy nhược thì trí thức và tình cảm thấp kém còn sinh lực khương kiện thanh tao, thì trí và tình được sáng suốt và thâm thiết.
Ở giữa cõi trần đầy cạm bẫy nào là tiền tài danh lợi nào là sắc tướng thinh âm, thân thể người ta là một trường thể lực hay chuyển biến theo vật dục mà trí thức hay tình cảm là động tác. Nếu biết chế ngự cho những thế lực kia không mâu thuẫn và phản trắc nhau thì tập trung nó vào tình cảm thì tình cảm được phong hậu.
Vả lại trí thức do trình độ tiến hóa của mỗi người là cao hay thấp, sáng suốt hay ám mờ. Nếu quan niệm được chánh đáng, ý tưởng được phân minh thì trí tuệ đi sâu vào sự hiểu biết đến chỗ bí ẩn hay chỗ chánh chơn của vạn vật. Thảm nỗi, ý tưởng do ngoại vật cảm xúc nên thường hay nghiêng đổ thiên mê. Đạo học dạy rằng phải có đủ cương quyết đừng để cho vật dục lôi cuốn tâm trí vào nơi vọng động và giữ gìn cho tâm hồn làm chủ động. Đành rằng có khi tâm linh phải chịu theo thân thể vì điều kiện sinh lý, nhưng làm thế nào cho tinh thần chỉ huy xác thịt mới gần được Đạo.
Hòa là thuận tình thỏa ý, hội hiệp cùng nhau mà không tranh giành hơn thua, cao thấp, giỏi dở, mạnh yếu.
Đồng là kết bầy rập bạn, lập đoàn thể này, tổ chức kia, rồi dắt nhau đi vào một lối đường.
Vả chăng ai ai cũng nhận thức rằng người ta ở đời không thể một mình sống riêng mà dựng nên cơ đồ sự nghiệp cho được. Giá như muốn làm một điều gì mà một mình trơ trọi ắt không rồi, hoặc có rồi cũng không hay. Lẽ dĩ nhiên cần có đông người trợ giúp lẫn nhau, cộng lao, cộng hưởng, thì việc gì cũng đắc thành. Nhơn Đạo cùng chung cộng sự đó, người ta mới có cơ hội phân biệt ai là quân tử, ai là tiểu nhơn. Và phân biệt được hai hạng người đó thì nhờ hai chữ Hòa và Đồng
Rút kinh nghiệm trong phương thiệp thế, người ta thấy rằng người quân tử hòa mà bất đồng, còn kẻ tiểu nhơn đồng mà bất hòa.
Quân tử ví như nấu một thức ăn cần có ngũ vị: Chua, cay, mặn, ngọt, đắng, ngũ vị vẫn không đồng chất lại khác mùi, nhưng cả thảy được điều hòa và bổ khuyết cho nhau làm ra thức ăn ngon lành. Nhờ tương tế cho nhau nên hòa thì hết sức hòa, và không vì lẽ bất đồng chất, hay bất đồng vị mà làm cho nhau tương khắc, tương phản với nhau. Cách cộng sự của người quân tử là thế. Không phân tách hạng người cao kẻ hạ, người giàu kẻ nghèo, người khôn kẻ dại, bậc quân tử tự hạ mình ngang hàng với kẻ khác, và giữ tánh như trước không để làm mất niềm hòa khí giữa mình và thiên hạ. Làm như vậy là vì ích lợi chung, tạo được cái hòa, tức là tạo cái yên cho quốc gia, cho xã hội.
Tiểu nhơn, ví như làm một giống để ăn cũng có ngũ vị nhưng mà mặn không hòa với cay, chua không hòa với đắng, hễ mặn thì dắt nhau thiệt mặn, cay thì hiệp với nhau rất cay. Đồng thì có đồng thiệt mà không hòa được. Cách cộng sự của tiểu nhơn là thế. Chỉ trọng về tư lợi, kẻ tiểu nhơn mượn cái lượng làm thế lực, chớ không san bằng giá trị tuyệt đối của sự vật; cho nên trong cách xử sự hoặc thái quá hoặc bất cập, có thể đi tới bạo phát, nhưng rồi lại bạo tàn vì chỗ bất hòa mà ra.
Xưa nay trong xã hội, sở dĩ bất hòa là nguyên nhân vì bất quân (không cân bằng), và hễ bất quân thì bất yên. Nếu không biết xử sự tiếp vật cho công bằng, thì trong xã hội đó người giàu hiếp người nghèo, kẻ mạnh lấn kẻ yếu, đứa khôn lừa đứa dại, tức giận người giàu, kẻ mạnh, đứa khôn, tất nhiên sinh ra bất hòa. Bất hòa rồi thù oán nhau, mới tìm phương sát hại nhau, thì xã hội hay quốc gia làm thế nào ở yên cho được.
Quân tử sợ loạn nên chuyên chữ hòa, còn tiểu nhân sợ hòa rồi thất lợi. Hai tư tưởng, hai cử chỉ khác nhau mà chung quy phần thắng về quân tử.
Trong cửa Đạo là cửa hằng ngày Hội Thánh quyết sách vận trù để tìm chơn pháp trừ mị diệt tà, hầu dìu dẫn nhơn sanh và quy cả thiện lương vào nơi đại đồng, thì không thể áp dụng cái thuyết “Đồng nhi bất hòa” của “tiểu nhơn” hay “hòa nhi bất đồng” của “quân tử”. Trái lại phải kiêm cả chữ Hòa và Đồng đặng đôi bên phò trì cho nhau mới đi đến đích.
Khác với đời là như thế, và được như thế mới đạt đạo lý làm người trong cửa Đạo. Vậy thì phải thi hành chánh sách gì? Ắt phải cư xử mọi việc cho công bằng ấy là hòa và thương yêu dung chế nhau ấy là đồng.
Hòa thời thật hòa, vì không còn so hơn tính thiệt, ganh hiền ghét ngỏ mưu hại lẫn nhau. Đồng thời thật đồng, coi người như ta, coi ta như người. Không phân giai cấp, không riêng sắc tóc màu da, và chẳng hề rời bỏ nhau cho đặng. Đại Đạo hoằng khai giữa thời đại nhơn sanh tác loạn, chỉ có bấy nhiêu đó thôi.
Tri là biết - Hành là làm!
Trên con đường học vấn, chẳng phải đọc sách cho thuộc học chữ cho làu, gọi là học được. Tất phải phát minh ý tứ của sách ở ngoài mặt chữ mới gọi rằng biết đọc sách.
Học cho rộng hiểu, rèn luyện cho đa kiến, đa văn là về phần Tri, còn cẩn thận từng lời nói, từng việc làm, là về phần Hành. Nói mà không bị người ta chỉ trích chê cười, làm mà không có một điều gì phải ăn năn hối tiếc, ấy là kết quả công trình học vấn.
Muốn thâu thập kết quả ấy, tất cần trau chuốt về phần Tri cũng như phần Hành cho cực hay, cực mỹ mới thôi.
Kinh Thi rằng: “Như thiết như tha, như trác như ma”.
Cứ theo mặt chữ mà thích nghĩa thì Thiết là cắt, Tha là giũa, Trác là xẻ, Ma là mài.
Đã cắt thành miếng rồi còn phải giữ cho trơn cho láng, như thợ làm đồ xương chẳng hạn.
Đã xẻ đá đặng lấy ngọc rồi còn mài ngọc cho sáng cho tinh, như thợ làm đồ trang sức châu ngọc. Cái vật đã tốt còn cầu cho tinh mới nên của quý.
Tuy có 8 chữ trong kinh Thi mà hàm súc ý nghĩa rất cao xa: hễ biết rồi còn tìm cho đến cùng cái sức lực trong việc làm mới thiệt làm. Bởi vậy cho nên càng hiếu học thì càng thêm hiểu rộng, càng dò càng thấy sâu và cứ tiến mãi mới đạt hết lý.
Lấy cái khiếu biết (Tri) mà xem xét sự vật rồi lấy con mắt tinh thần mà xem xét cho đến chỗ tinh thần của sự việc chừng ấy mới thấy rõ chơn hình chơn tướng của sự vật. Quán triệt rồi liền xoay qua phần làm (Hành). Trong sự làm cần yếu là dẹp cái tư tâm, bỏ cái tư dục, thì không bao giờ sai lầm.
Ví dụ bàn về sự giàu nghèo của thiên hạ, Thầy Tử Cống cho rằng: Nghèo mà không nịnh hót, giàu mà không kiêu hãnh (bần nhi vô siểm, phú nhi vô kiêu) là hay rồi. Đến lúc gặp Đức Phu Tử, Ngài vấn về bần phú, Đức Thánh đáp rằng: Nghèo mà vui, giàu mà giữ lễ (Bần nhi lạc, phú nhi hiếu lễ).
Thầy Tử Cống nghe rồi thốt nhiên tỉnh ngộ và phát minh ra được đạo lý dường ấy còn hay hơn nhiều.
Nghèo mà không nịnh hót, đó là Thiết mà thôi, nhưng còn phải vui nghèo nữa kìa, đấy mới là Tha
Giàu mà không kiêu hãnh, đó là Trác mà thôi, nhưng còn phải thủ lễ nữa kìa, đấy mới là Ma.
Thiết với Trác, chỉ là một tầng công phu, còn phải thêm nhiều công phu nữa là Tha với Ma mới đến chỗ tinh mỹ.
Tổng luận:
Tri cái nghèo cái giàu mà Hành, cái nghèo cái giàu cho đến chỗ tinh thần tuyệt diệu của nó mới thiệt Tri và Hành. Chừng ấy người học Đạo mới tịnh tiến con đường tự lập.
Bổn phận làm cha và làm con
Làm cha phải lành (Từ)
Làm con phải thảo (Hiếu)
Vi “nhơn phụ chỉ ư từ”. Chữ Từ (lành) chỉ về nghĩa vụ người làm cha mẹ phải nuôi con cho nên vai, nên vóc, dạy dỗ cho nên người hữu dụng. Người cha mẹ lành cũng khuyên con răn con tức là làm thế nào để cho con biết bỏ cái dở, để theo cái hay chớ chẳng phải lành là để cho con tự do hành động. Tại sao người cha không để cho con tự do hành động? Bởi vì con còn thơ ấu, trẻ lòng non dạ, nói tóm là con chưa đủ sáng suốt để phân biệt phải quấy và chưa đủ tinh thần cứng rắn để vượt qua những trận thử thách những gì vật dục cám dỗ, vậy nên người cha phải dìu dắt con trên đường đạo đức quang minh.
Đối với con, cha mẹ cũng có quyền lợi như nhờ con nuôi dưỡng lúc về già, nhờ con giúp đỡ việc nặng nề. Cổ nhơn nói: Dưỡng nhi đãi lão (Nuôi con nhờ lúc về già). Nhưng cha mẹ muốn dùng quyền lợi ấy trước phải làm xong nghĩa vụ của mình. Trái lại, nếu cha mẹ không làm tròn bổn phận mình mà cứ sai con, mắng con, như thế là thất phận làm cha mẹ.
Vì “nhơn tử chỉ ư hiếu” hiếu thảo là Đạo làm con, chẳng những không ai được từ khước, mà ai cũng phải coi đó là bổn phận chánh của mình nữa. Cổ nhơn nói: “Nhơn sanh bách hạnh, hiếu vi tiên”. Người ta có trăm nết, song hiếu đứng đầu.
Tại sao người ta phải hiếu với cha mẹ.
Ôi! Công sanh thành dưỡng dục kể bao nhiêu cho hết, nào là mười tháng cưu mang, ba năm bú mớm, ẩm bồng, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Còn cha lại phải dày công dạy dỗ và cực nhọc làm lụng cho có tiền để nuôi con dầu trăm cay ngàn đắng, dầu vào cảnh nguy nan, người cha không hề thối bước, công cha như núi Thái Sơn. Công cha nghĩa mẹ như thế, hỏi vậy ở đời có người nào mà chẳng thương mến chăng? Ắt không. Nhưng thương mến chưa đủ, nghĩa vụ bắt buộc người con phải làm cho tròn đạo hiếu.
Thực hành đạo hiếu, trước nhứt phải nuôi cha mẹ, sự nuôi ấy cốt ở lòng thành kính, nghĩa là giàu nuôi theo giàu, nghèo nuôi theo nghèo, ngoài miếng ăn uống, manh quần tấm áo, con phải hết lòng vui vẻ trong phận sự, để cho cha mẹ vừa lòng.
Một hôm Thầy Tử Du hỏi chữ Hiếu, Đức Khổng Phu Tử đáp: “Ngày nay, người ta báo hiếu là biết nuôi cha mẹ, nhưng đến như giống chó ngựa kia cũng có người nuôi. Nếu nuôi cha mẹ mà không thành kính thì lấy gì để phân biệt”.
Xem đó thì đủ biết nuôi cha mẹ quý tại lòng thành kính. Chẳng nên bắt chước câu “Giàu thì đặng thảo ngay, nghèo thì mất trung hiếu”. Lời ấy chẳng qua là nói để che lỗi của mình mà thôi. Trái lại, nên nhớ câu “Nhà nghèo mới biết con thảo, nước loạn mới biết trung thần”. Từ xưa những gương trung hiếu tiết liệt phần nhiều do ở trong những nhà nghèo sanh ra vậy.
Khi ở chung với cha mẹ, chẳng nên làm buồn cha mẹ, nếu mình có việc buồn riêng, và cũng chẳng nên tỏ giận hờn cho cha mẹ thấy nữa. Nếu cha mẹ có quở trách, thì giữ sắc thái điềm nhiên lo xét mình mà chữa lỗi.
Cha mẹ già phải coi chừng sức khoẻ, nghĩa là nuôi cha mẹ phải xem đến chỗ chưa nói kia. Tại sao? Bởi vì có nhiều khi cha mẹ sợ con lo buồn mà chẳng tỏ ra việc người cần đến.
Cha mẹ sanh tiền chẳng đi xa, nếu cần phải vắng mặt thì phải cho biết chỗ, cha mẹ khỏi lo lắng cho mình, và để người ta tìm cho dễ. Khi cha mẹ đau ốm, kẻ làm con phải tận tâm chạy thuốc, chạy Thầy, chính mình phải lo liệu mọi phương. Biết đâu người khác, vì sơ sót, họ làm thêm bệnh cho cha mẹ mình. Bình nhựt cũng xem chừng nếu cha mẹ khoẻ thì mình vui mừng, mệt thì lo lắng.
Lòng hiếu thảo với cha mẹ, ai cũng có nhưng có một ít người ham mê sắc dục, hoặc cậy có tiền của rồi sanh ngỗ nghịch. Vậy ai là người làm con nên thận trọng bổn phận của mình.
Nhưng đạo hiếu không phải nhắm mắt phục tùng cha mẹ, mà trái lại phải xem xét cái gì của cha mẹ đã làm, nếu hay thì theo, còn lầm lỗi thì ôn tồn mà khuyên can, sửa đổi. Nếu cha mẹ không nghe, thì lại kính mà không trái lễ, nghĩa là lẳng lặng lựa cách nói cha mẹ nghe lẽ phải, để sửa đổi, có khi cha mẹ giận mà đánh đập cũng không oán giận.
Khi cha mẹ qua đời thì phải tang chế, Tân Luật Đại Đạo định rằng việc tang chế không nên xa xỉ, không nên để lâu ngày, không nên dùng đồ âm công loè loẹt, không nên đãi đằng rần rộ, mà mất sự nghiêm tịnh và dấu bi ai.
Đức Khổng Phu Tử cho sự thờ cha mẹ rất hiếu “Kính kỳ sở tôn, ái kỳ sở thân, sự tử như sự sanh, sự vong như sự tồn, hiếu chi chí dã” (Kính những người cha mẹ đã tôn trọng, yêu những người cha mẹ đã yêu mến, thờ cha mẹ lúc chết rồi cũng như khi còn sống, lúc mất rồi cũng như lúc còn ấy là hiếu rất mực vậy). Theo đó mà suy ra thì khi cha mẹ chết rồi, kẻ làm con phải chuyên tâm tri ý làm tròn bổn phận cũng như cha mẹ sống tại tiền.
Bổn phận làm anh chị và làm em
Huynh tắc để, đệ tắc cung
Anh em, chị em đồng thọ sanh nơi một cha mẹ, tục ngữ nói: “Một cục máu xắn ra làm năm ba”. Đồng cốt nhục, đồng bào thai cho nên tình thân mật không ai bằng anh em, chị em. Từ lúc nhỏ dại ở chung một nhà, ăn một mâm, nằm một chiếu, vui có nhau, buồn có nhau, nhứt nhứt đều chung cùng với nhau như một. Vậy cái tình thương yêu khắng khít ở giữa anh chị và em không tình nào hơn được.
Muốn giữ gìn cái tình máu mủ ấy mãi mãi thì người anh chị phải biết bổn phận mình là thuận yêu, kẻ làm em phải biết bổn phận mình là cung kính.
Khi cha mẹ vắng mặt, người anh chị có quyền thay thế cha mẹ, nghĩa là người anh chị phải làm tròn nghĩa vụ của mình là thế phụ, tức là thay mặt cho cha mẹ nuôi em, dạy em, cổ nhơn thường khuyên nhau rằng trước phải làm nghĩa vụ rồi sau mới dùng quyền lợi.
Lúc thành nhơn, mỗi người đều có gia đình anh em, chị em cũng phải giữ cái tình cốt nhục duy nhứt ấy, mãi từ khi tóc xanh đến lúc đầu bạc, nghĩa là phải thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau việc nhỏ cũng như việc lớn. Phải tránh những tiếng to tiếng nhỏ của vợ con hay chồng con. Theo thường tình những anh em chồng chị dâu, hay em rể anh ruột, hay chinh nghiêng lẫn nhau trong những việc nhỏ mọn. Bổn phận anh chị hay em phải sáng suốt mà phân định, để tránh cái vạ chia ly. Anh chị em là di hài của cha mẹ, bất hòa là phá hoại cái di hài ấy. Anh chị em như chân tay bất hòa là chia lìa thủ túc.
Người nào xử được đạo hiếu để nghiêm trọng thì người ấy có tinh thần hòa kỉnh. Hiếu thuận là gốc đạo xử thế, ấy vậy nên người trọn thảo thuận thì có lòng trung quân ái chúng.
Bổn phận con cháu đối với ông bà
Ông bà là Đấng sinh thành dưỡng dục cha mẹ, lại là Đấng cha mẹ thương mến quý trọng. Đạo hiếu buộc người làm con phải kính trọng những người mà cha mẹ thâm giao. Ấy đó là những người bàng quan mà còn xử trí như thế huống chi ông bà là ruột thịt của cha mẹ chúng ta mà chúng ta lại dể duôi sao?
Vậy khi ông bà sanh tiền chúng ta phải thay mặt cho cha mẹ chăm nom ông bà, những việc nào mà chúng ta có thể làm được. Còn khi ông bà qua đời thì lại thay mặt cho cha mẹ mà thờ phượng cúng tế ông bà.
Thờ phượng cúng tế ông bà, là lễ tỏ lòng tôn kính nguồn gốc sinh thành dưỡng dục. Lòng tôn kính ấy nơi người Việt Nam theo Nho giáo thường phát biểu với một phương thức trang nghiêm.
Ngày tế tự cả gia tộc về nhà thờ để lo việc tế lễ. Hai ngày tiên thường và chánh giỗ những người họ hàng vui vầy, có khi nhắc lại sự tích Tổ Tiên, có lúc hỏi việc hàn huyên gia tộc. Giờ cúng tế mỗi người đều có lòng thành kính rất mực. Khi ra vào, lúc lại qua trước bàn thờ họ cúi đầu tỏ vẻ sợ sệt, dường như ông bà đang ngự trên chỗ sở tôn. Giờ tế lễ ấy, hoàn cảnh yên lặng, người Trưởng Tộc hành lễ, rồi đến con cháu cứ theo thứ tự vái lạy trang nghiêm.
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ giữ nguyên vẹn các lễ thờ cúng ông bà đó. Vả chăng, Đạo hữu đã sẵn có đạo tâm, nay đem lòng thành kính ấy mà thờ cúng ông bà, thì có lẽ cái phong tục cổ truyền sẽ được tăng thêm phần thuần mỹ nữa.
Bổn phận làm chồng và làm vợ
Chồng hòa vợ thuận
Trai lớn thì có vợ, gái lớn thì có chồng. Người ở đời phải có đôi có bạn rồi sau mới lập được gia đình. Cái định luật ấy từ xưa đến nay vẫn không thay đổi. Trong đạo vợ chồng, có điều tốt nhứt là hai người ấy được thuận hòa, ăn ở với nhau từ tóc xanh đến khi đầu bạc. Mà muốn được vậy, thì mỗi người phải biết bổn phận của mình và phải hành vi trong phạm vi ấy.
Chồng là rường cột của gia đình, phải đảm đương mọi việc bên ngoài, để tạo hạnh phúc gia đình, nghĩa là phải làm lụng cho có cơm, có tiền nuôi dưỡng gia đình no ấm, kế đó sẽ nói đến việc lễ nghi đạo đức, tức là bàn đến việc dạy dỗ. Cổ nhân nói: “Giáo phụ sơ khai, giáo tử anh hài”. Nghĩa là: Phải dạy vợ lúc ban sơ, phải dạy con lúc thơ ấu. Mà muốn dạy người trước phải sửa mình, để làm gương. Giả tỷ như chồng biếng nhác, không lo làm ăn, quanh năm cứ lêu lổng, chơi bời, cờ bạc. Chồng như thế mà bảo vợ nên người, thì không thể được, cha như thế, mà bảo con đừng đánh bài thì cũng không sao được. Người chồng chẳng những phải lo làm lụng để tạo hạnh phúc cho gia đình, mà còn phải có tinh thần hòa ái nữa.
Về tâm lý, nên biết rằng vợ là bạn trăm năm, được cha mẹ lựa chọn, họ là người yếu đuối, nương dựa nơi mình, gởi thân cho mình để cùng nhau chung lo việc trăm năm gia thất. Hơn nữa, vợ chồng lại là người đầu ấp tay gối với nhau, vui chung vui, buồn chung buồn, nghèo chung chịu, giàu chung hưởng. Lòng có nghĩ như thế, thì mới có dạ yêu thương mà đùm bọc nhau.
Người chồng có quyền khuyên lơn dứt bẩn người vợ, nhưng trước phải làm xong nghĩa vụ của mình như đã nói trên, rồi sau mới dụng đến quyền. Tuy nói rằng có quyền nhưng người chồng lúc nào cũng lấy tinh thần hòa ái làm cốt. Nghĩa là có khuyên lơn, dứt bẩn người vợ, thì cũng chỉ trong vòng lễ nghi hòa ái, chớ không phải đang tay đánh đập vũ phu.
Người vợ phải có tinh thần thuận tùng, nghĩa là phải biết dung hòa với chồng, để tạo nên hạnh phúc gia đình. Bát trong sóng còn động, huống chi vợ chồng ăn ở nhau cả đời, làm thế nào tránh khỏi một đôi khi bất đồng ý kiến. Giả tỷ như có xảy ra việc như thế, thì vợ chồng nên nhịn nhục lẫn nhau, chồng nói vợ nghe, vợ nói chồng nghe, để phân trần điều hơn lẽ thiệt. Nên tương ý, tương ý mà sanh sống trong vòng lễ nghi đạo đức. Chẳng nên bắt chước phường hỗn ẩu chồng một lời đi thì vợ dăm bảy tiếng lại. Thế rồi sanh việc bất hòa. Chồng vợ bất hòa thì gia đình tan nát.
Phận gái trọng nhất là trinh tiết, bởi vậy người phụ nữ có thân phải giữ lấy thân, càng ngày phải càng làm tăng giá trị của mình thêm nữa lên cao mãi. Tiên Nho có câu: “Đi ngang đám dưa không nên sửa dép, đi dưới cây lý không nên gãi đầu”. Đại ý câu này khuyên người ta những hành vi ăn nói đứng đi trang hoàng, nhứt là phải tránh cử chỉ nào làm người khác ngờ vực, cũng như đi qua đám dưa không nên sửa dép, hoặc đi dưới cây lý không nên gãi đầu, vì làm như thế người ta ngờ rằng mình bẻ trộm dưa hay hái trộm lý.
Tề gia là bổn phận của đàn bà, cho nên người vợ phải chăm lo việc nhà, thiếu đủ phải biết, còn hết thì phải hay, sắp đặt đâu đó an bài, ăn cần ở kiệm, phải biết trọng tiền của chồng làm ra là cực nhọc, Tục ngữ có câu: “ăn nhịn qua ngày ăn vay mắc nợ”. Của chồng công vợ, chồng vợ cộng tác để tạo hạnh phúc cho gia đình.
Tóm lại, đạo vợ chồng cốt nhứt là phải thuận hòa, chồng chẳng nên ỷ quyền mà hiếp đáp vợ, vợ không nên cậy thế mà hỗn ẩu với chồng. Đồng vợ đồng chồng tát biển đông cũng cạn.
Tân Luật Đại Đạo nói: “Hôn nhơn là việc rất quan trọng trong đời người, phải chọn hôn trong người đồng Đạo, trừ ra khi nào người ngoài ưng thuận nhập môn, thì mới kết làm giai ngẫu". Đó là có ý ngừa sự bất trắc về sau.
Tân Luật lại cấm người đàn ông không được cưới hầu thiếp, rủi có chích lẻ giữa đường mới được chắp nối. Thoảng như vợ lớn không con nối hậu, thì được phép cưới thiếp, song chính mình chánh thê mới đặng. Người Đạo chẳng được để bỏ nhau, trừ ra tội ngoại tình hay thất hiếu với công cô.
Bổn phận đối với cậu cô chú bác
Cậu cô, chú bác là anh em ruột thịt với cha mẹ, kẻ làm cháu chẳng những phải yêu mến, mà còn quí trọng như cha mẹ vậy. Nếu vô phước mồ côi, thì chính cậu, cô chú bác là người thay mặt cho cha mẹ nuôi mình. Đó đủ thấy rằng con cháu phải thương mến quý trọng cậu cô chú bác như cha mẹ.
Khi thành gia thất rồi, tự nhiên ai cũng có cậu cô chú bác bên chồng cũng như bên vợ. Kẻ làm con cháu cũng không vì lẽ gì mà không thân ái với những người ấy.
Ngũ thường là năm đức thường của người ta là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, kế đây sẽ giảng rộng ra.
Nhân: Người ta ai cũng có bẩm thọ của Trời một điểm lành, để làm tự tánh của mình, người đời gọi đó là nguồn Thiên lý ở trong người. Nhân là cái phát động của Thiên lý ấy, cho nên cổ nhơn nói: “Nhân” là hột giống hóa sanh cái đức tính tốt.
Chữ Nhân đem ứng dụng vào đời sống thì nó gồm tất cả nghĩa vụ làm người, thành thử có câu nói: “Nhân là Đạo người” (Nhân giả nhơn dã). Vậy thi hành chữ “Nhân” là áp dụng Thiên lý vào đời sống thực tế. Thế nên muốn làm Nhân thì phải giữ lòng cho sạch, nghĩa là chẳng cho tư dục xen vào Tâm, để cho nguồn Thiên lý ở trong tâm ung dung phát triển theo lẽ tự nhiên của nó, rồi người ta cứ theo đó mà làm cho hết bổn phận của mình, đó là làm “Nhân” vậy. Còn như muốn biết rộng ra nữa thì chúng ta nên xem cổ nhơn dạy phương pháp làm “Nhân” như sau:
Có người hỏi phương thức làm Nhân là thế nào thì Đức Khổng Tử nói: “Kỷ dục lập nhi lập nhơn, kỷ dục đạt nhi đạt nhơn. Năng cận thủ tỷ khả vị nhân chi phương”. (nghĩa là mình muốn lập thân thế nào thì giúp người cùng lập thân như mình, mình muốn thông đạt đến đâu thì cũng giúp người cùng thông đạt như mình. Ai hay làm những điều đó là Nhân vậy).
Chữ Nhân có gồm cái nghĩa thương người, mến vật, cho nên chỗ tác dụng của nó là “Ái” về sau người ta thường dùng hai chữ “Nhân Ái” lẫn nhau.
Vậy thực hành đạo “Nhân” là người và ta thương yêu, giúp đỡ nhau trên đường Đời cũng như trên đường Đạo. hoặc nói: đó là chánh kỷ hóa nhơn cũng được.
Thầy Tử Trương hỏi Nhân, Đức Khổng Tử nói: “Hãy làm năm điều trong thiên hạ là Nhân, rằng: Cung, Khoan, Tín, Mẫn và Huệ”
Cung thì không khinh lờn, Khoan thì được lòng người, Tín thì được người tin cậy, Mẫn thì có công, Huệ thì đủ khiến được người.
Người có nhân lúc nào cũng bình tĩnh, yên lặng tự nhiên như nhiên mà lòng sẵn có một năng lực trực giác mẫn tiệp. Phàm có việc gì đến thì họ biết ngay và họ làm sự gì cũng thích hợp với đạo lý.
Họ thật thà chất phác và giàu tình cảm tốt. Họ hay thương người, hay mến vật, đối với gia đình thì hiếu đễ, đối với xã hội thì thuận hòa. Họ thường thực hành câu: “Việc gì mình không muốn thì chẳng làm với người”. Chữ Nhân đây lại gồm cái ý nghĩa sáng suốt, cho nên cái thương, cái ghét của người có Nhân đều hạp với Thiên lý.
Tóm lại, chữ Nhân bao hàm cả đạo làm người mà rút lại thì thể theo đức lớn của Trời là sự sanh hóa mà làm. Ấy vậy kẻ làm Nhân trên thuận lẽ Trời, dưới an vui cùng chúng vật và sự hành vi lại khích lệ theo nền tảng “Thiên địa vạn vật nhứt thể”. Còn việc giàu nghèo, sang hèn, thì phú cho thiên mạng, chớ không vọng cầu mà thất đạo lý.
) )( __)_(__ __(_____)__ (((_________))) ) ׀ ( |
Thích nghĩa Hành Chánh Đạo:
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ căn cứ trên Pháp Chánh Truyền và Tân Luật làm nền tảng vững chắc để tận độ chúng sanh thoát vòng thống khổ trong đời mạc kiếp này.
Điều trọng yếu của Chánh Pháp hay Pháp Chánh Truyền cũng gọi là Chơn Truyền, là do Đức Chí Tôn giảng dạy thì không một ai dưới thế này được phép sửa cải.
Điều quan hệ của Tân Luật là do nhơn sanh lập thành và Đức Chí Tôn phê chuẩn vốn có hiệu lực ở hạ giới, ngang hàng với Thiên điều ở Thượng giới.
Tự mình lập luật làm mực thước để kềm chế lấy mình trong đường tu luyện, thì nhơn sanh không còn lòng than rằng luật ấy quá nghiêm khắc, rồi chán nản hoặc viện lý do quá rẻ nên dể duôi, song le, vào buổi tương lai nếu cần vì nhu cầu và tiến hóa của nhơn sanh, luật lệ hiện hành có thể gia giảm hay canh tân, nhưng phải có nhơn sanh cầu xin mới được.
Hiện giờ luật pháp càng được quý trọng bao nhiêu, thì Đạo càng thêm trọng bấy nhiêu, và người hành Đạo càng thêm trọng là dường nào. Vậy thì phải giữ gìn và bảo hộ Luật pháp cho khỏi thất kỳ truyền, và đó là trách nhiệm của chư Chức Sắc đảm đương sứ mạng thể Thiên hành hóa, tức là chư vị có chơn trong Hội Thánh đương kiêm cầm quyền Hành Chánh Đạo.
Hành Chánh Đạo phân tích từng chữ có nghĩa là:
Hành: làm (thi hành, tuân hành, phụng hành).
Chánh: góp các việc sắp đặt để sửa trị cho khỏi chênh lệch.
Đạo: các việc sắp đặt trên đây phải thuận theo chơn lý của Đại Đạo.
Hợp nghĩa lại thì Hành Chánh Đạo thì thi hành cho đúng những qui điều đã ấn định trong Chơn Pháp, hầu điều độ chúng sanh quy về cửa Đạo tránh bớt tội tình mà theo đường ngay chánh.
Cầm quyền Hành Chánh Đạo là thi hành cho đúng những quy điều đã ấn định trong Chơn Pháp, hầu điều độ chúng sanh quy về cửa Đạo, tránh bớt tội tình, mà theo đường ngay chánh.
Bảo thủ Chơn Pháp chẳng để cho Chánh Giáo trở nên Phàm Giáo, thuộc về nhiệm vụ của Chức Sắc Hiệp Thiên Đài can hệ về phần tinh thần là phần Đạo.
Thiết nghĩ, Chức Sắc Cửu Trùng Đài được quyền sử dụng những Luật Lệ do nhơn sanh lập thành đặng buộc nhơn sanh phải tuân hành, e có khi hành quyền quá phận mà làm cho nhơn sanh thêm khổ hoặc thất Đạo. Vả lại Hội Thánh Cửu Trùng Đài không nên quên rằng chính mình cũng phải dưới thực lực của Luật lệ ấy, vì nó đã thành Thiên điều tại thế rồi.
Vì chữ quyền, mà có người trong bổn Đạo còn nặng phàm tâm, tưởng rằng quyền ấy cho phép hà khắc là diệu kế để giáo nhơn quy thiện, rồi một khi bất cẩn vụng về, quyền hà khắc phản khắc lại mình, thì trở tay không kịp. Ở đây chữ quyền ở trong phạm vi đạo đức đễ giữ nét công bình, để gieo niềm hòa ái, chớ chẳng làm điều gì khác. Bởi vậy Hội Thánh Hiệp Thiên Đài có trọng trách nhắc nhở và chăm nom hành vi của Hội Thánh Cửu Trùng Đài chẳng để vi phạm chơn truyền mà sanh loạn. Hội Thánh Cửu Trùng Đài nên tương liên mật thiết với Hội Thánh Hiệp Thiên Đài đặng đôi bên tương đắc trên mọi hành tàng trong cơ phổ độ. Được như thế thì vật chất là Đời phù hạp với tinh thần là Đạo, hay nói rõ hơn Cửu Trùng Đài đồng tâm nhất trí với Hiệp Thiên Đài, tức là Đời nương Đạo và Đạo dìu Đời, chừng ấy toàn Hội Thánh Lưỡng Đài dưới sự hộ trì của các Đấng Thiêng Liêng sẽ có đủ năng lực tái tạo đời Thánh Đức.
Phương châm Hành Chánh Đạo gồm có 6 tiết chánh yếu như sau:
1.- Thi hành Tân Luật.
2.- Thi hành Pháp Chánh Truyền và Bát Đạo Nghị Định.
3.- Thi hành Đạo Luật năm Mậu Dần (1938).
4.- Tòa Tam Giáo.
5.- Hội Công Đồng và Thập Hình của Đức Lý Giáo Tông.
6.- Cách hành quyền đối với Đạo và Đời.
Tôn chỉ của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là quy Tam Giáo hiệp Ngũ Chi, hầu làm cho nhơn sanh hiệp đồng, tứ hải nội giai chi huynh đệ. Sở dĩ sự quy hiệp nhứt này là điều cần thiết là bởi nhơn sanh hiện giờ bị nhiều tôn giáo làm cho quan niệm bất đồng, tư tưởng bất hợp, nên sanh nghịch lẫn nhau. Càng nghịch lẫn nhau, càng lôi cuốn nhau vào vòng tự diệt. Nhưng cuộc tuần huờn xây chuyển không để vậy, mới có Đại Đạo hoằng khai, đặng cứu vớt cho kịp những kẻ hữu phần ra khỏi chốn mơ hồ lầm lạc. Lẽ dĩ nhiên cần chấm dứt từ nguồn xuất hiện cái nạn bất hòa giữa người khác tôn giáo như trên kia vừa phân giải, song le, chẳng vì sự thống hợp các tôn giáo mà phải trọn tùng cả Cựu Luật. Tất phải lập nền móng mới với quy điều mới cho phù hợp với dân trí, dân sanh hiện đang mạnh tiến trên đường duy vật, cùng đang mạnh trên đường khoa học. Nền móng mới là Pháp Chánh Truyền và qui điều mới là Tân Luật, cả hai bổ túc cho nhau để mở rộng cửa Đạo, độ dẫn kẻ hữu duyên gần Tiên Phật.
Tân Luật là kim chỉ nam, để cho Chức Sắc cầm quyền Hành Chánh Đạo noi theo đặng phổ thông Chơn Giáo.
Trong đó có ba thiên lớn như sau này:
I.- Đạo Pháp
II.- Thế Luật
III.- Tịnh Thất
I. - ĐẠO PHÁP:
Đạo Pháp có 8 chương và 32 điều.
1.- Chương I: Về Chức Sắc cai trị trong Đạo.
Chương này chú trọng về đường giáo dân quy thiện, và bảo hộ đời sống của nhân sanh trong khuôn viên đạo đức, không để cho chúng sanh phải bị hà khắc bởi luật Đời hay luật Đạo.
Hai chữ cai trị ở đây có nghĩa là trong phận sự hóa dân, Chức Sắc phải giữ gìn trách vụ mình thế nào cho trên đừng phạm quyền dưới, dưới chẳng lấn quyền trên và vùa giúp nhau cho nên phận.
Chức Sắc từ phẩm Giáo Tông trở xuống tới Giáo Hữu đều là người thay mặt cho Đức Chí Tôn tại thế, thì một như mười, mười như một, cả thảy hiệp làm một khối duy nhứt và giữ gìn khối ấy cho tinh anh mới xứng danh là Thánh Thể của Đức Chí Tôn tại thế. (Điều 1 tới Điều 6).
Lễ Sanh chưa phải là Chức Sắc vì là người đang dọn mình đặng bước vào hàng Chức Sắc. Sự không nhứt định số Lễ Sanh nhiều ít là bao nhiêu. Còn số Chức Sắc lại nhứt định có chừng, không hơn không thua trong mỗi bậc là điều rất hay để nâng cao phẩm giá của Chức Sắc.
Nên buộc trước phải vào hàng Lễ Sanh sau mới vào hàng Chức Sắc (điều thứ 7).
Ngoại trừ khi nào Đức Chí Tôn giáng cơ phong thưởng cho ai thì người ấy mới khỏi luật lệ này, kỳ dư muốn thăng phẩm phải tuân theo luật công cử (điều thứ 8).
Công cử là phép lựa chọn người xứng đáng hành quyền mà không mất sự công bình trong khi chọn lựa.
2.- Chương II: Về người giữ Đạo.
Chương này là chương mở rộng cửa Đạo đón tiếp nhơn sanh bằng cách để cho mọi người tùy phương tiện lập công bồi đức.
Đạo không bỏ ai, duy người không theo Đạo hay bỏ Đạo là tự mình liệu lượng.
Nếu người còn ở thế và giữ Đạo mà thôi, thì vào phẩm Hạ thừa. Phẩm Thượng thừa là phẩm dành cho những người đã xuất thế, trọn hiến thân cho Đạo. (điều 9 tới điều 15).
3.- Chương III: Về việc lập Họ.
Lập Họ là qui tụ các người trong bổn Đạo về một nhà chung trong địa phương mình, tức là Thánh Thất sở tại. Những người ấy đặt dưới sự ủng hộ của vị Chức Sắc làm đầu trong Họ. Vị này có nhiệm vụ hằng ngày khuyên nhủ chư Đạo hữu hồi đầu hướng thiện. Người còn có bổn phận binh vực kẻ dưới quyền mình không để cho ai hà hiếp được. (điều 16 tới điều 20)
Có vậy người cùng Họ mới biết nhau, và trợ giúp cho nhau khi hữu sự, ấy là mục đích của Đại Đạo.
4.- Chương IV: Về Ngũ giới cấm.
5.- Chương V: Về Tứ đại điều quy.
Hai chương này góp nhặt những điều trọng yếu, phải tuân hành đặng răn lòng sửa tánh cho nên người hiền lương nhân đức. Ấy là phương diệt trừ tâm phàm và thế vào bằng tâm đạo (điều 20 và điều 22).
6.- Chương VI: Về giáo huấn.
Chức Sắc truyền giáo phải là những người có học thức, mới có khả năng giao thiệp rộng rãi với Đời và Đạo. Vì đó trong Đạo có trường dạy chữ và huấn luyện Chức Sắc (điều 23 đến 25)
7.- Chương VII: Về hình phạt.
Lẽ dĩ nhiên tùng Đạo tức là tránh đường tội lỗi, để theo đường ngay chánh. Nhưng nên nhìn nhận rằng chẳng phải đầu hôm sớm mai rồi rửa sạch bợn trần, phủi hết tà tâm, mà phải lắm công rèn luyện mới được, dầu cho trong các tổ chức của Đời hay các cơ quan của Đạo, hễ có đông người ắt không khỏi xảy ra những việc bất bình, những điều xích mích. Đành rằng trong cửa Đạo chỉ dùng cam ngôn mỹ từ để xử sự cho ổn thỏa, điều hòa, song le khi gặp nghịch cảnh nan phân, thì phải nhờ quy điều răn sửa và ngăn ngừa tái phạm. Ấy là hình phạt vậy.
Hình phạt lập ra để tượng trưng sự nghiêm huấn đặng giữ gìn cộng ái hòa yêu hơn là để thực hành, mà nếu phải áp dụng đến nó là sự bất đắc dĩ đó thôi. Chừng ấy sẽ có Hội Công Đồng và Tòa Tam Giáo phân xử (điều 26 đến 31).
8.- Chương VIII: Về việc ban hành luật pháp.
Luật pháp của Đạo vốn có thực lực cứu nhơn độ thế, tái tạo hòa bình, nên Hội Thánh cần phổ biến cho đến chỗ đại đồng, mới thâu thập kết quả tốt đẹp (điều 32).
II. - THẾ LUẬT:
Thế luật gồm 24 điều, chuyên dạy về phương xử thế tiếp vật. Căn cứ trên nét yêu đương, trên niềm hòa hảo, người cùng chung một Đạo, phải nuôi nấng cái tình thù tạc vãng lai cho ra thiệt tướng và nồng hậu trong mọi dịp và mọi nơi. Chẳng luận trong dịp quan, hôn, tang, tế hay trong khi hoạn họa, tai ương thì cả thảy phải xúm nhau lo lắng như việc của một người. Vui buồn, nặng nhọc, mặn đắng, chua cay đều có nhau và trợ giúp cho nhau, thậm chí sự bảo trợ cho nhau phải phát khởi từ kẻ sơ sanh mới trọn Đạo giữa người cùng một chí hướng. Đấy là áp dụng Nho Tông để làm phương chuyển thế, tạo đời tệ ra đời nên. Làm người dữ thành người hiền, ấy là phục hưng thánh đức.
III. - TỊNH THẤT
Thiên này là thiên đưa người Đạo vào con đường đoạt Đạo. Đường này là đường thi hành những phần tinh ba của Cựu Luật Tam Giáo về mặt siêu hình. (điều 1 đến 8).
Trải qua ba thiên lớn trong Tân Luật của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ chúng ta nhận thấy được trước hết Luật Pháp của Đạo Pháp trọn vẹn tuân y, sau đó là luật lệ xử thế, phải hoàn toàn áp dụng rồi sau rốt mới lo phần tịnh luyện, là phần cao siêu huyền bí của Đại Đạo.
Vậy thì người thật tâm hành Đạo phải làm thế nào cho được đắc Thế rồi đắc Pháp xong mới mong đắc Đạo.
Tịnh thất là nơi cuối cùng để đi đến mức thành công giải thoát.
Pháp Chánh Truyền trong thời kỳ hoằng khai Đại Đạo là một chánh thể về mặt tôn giáo, do Đức Chí Tôn dùng huyền diệu cơ bút lập thành. Có Pháp Chánh Truyền mới dựng nên một Hội Thánh hữu hình để cai trị trong Đạo.
Hội Thánh này gồm có Hội Thánh Cửu Trùng Đài và Hội Thánh Hiệp Thiên Đài. Trong hàng Chức Sắc Cửu Trùng Đài có ba phái: Thái, Thượng, Ngọc tượng trưng Tam Giáo quy nguyên (Phật giáo, Tiên giáo và Thánh giáo).
Đài này cầm quyền thi hành luật lệ đặng chỉ bảo phương tu cho chư thiện tín.
Chức Sắc Hiệp Thiên Đài lãnh phận sự của 3 chi: “Pháp, Đạo và Thế” lo bảo thủ luật lệ và chơn truyền và vùa giúp cho Hội Thánh Cửu Trùng Đài làm tròn nhiệm vụ.
Pháp Chánh Truyền còn là một nền tảng để tạo lập một đại nghiệp cho toàn sanh chúng cộng hưởng hạnh phúc, vật chất lẫn tinh thần, dưới sự chăm nom và bảo hộ của Hội Thánh. Cái siêu việt của Chánh Pháp là tạo phúc cho mọi người, mà không để phạm quyền lợi hay danh thể của một ai, cũng chẳng làm thất thứ loạn hàng, hay mất niềm hòa khí giữa số đông người mà thế thường không tránh khỏi.
Điểm trọng yếu để đi đến sự siêu việt, ấy là từ Chức Sắc Đại Thiên Phong dĩ chí tín đồ, mỗi vị đều có phận sự riêng biệt, nhưng cả thảy phận sự đều có tánh cách liên quan đến nhau, vì ảnh hưởng với toàn thể. Vì trọng trách như thế nên Chức Sắc Lưỡng Đài, Cửu Trùng và Hiệp Thiên cần tương liên mật thiết với nhau trên mọi hành tàng, mới không sơ sót trong sứ mạng. Như vậy, ngọn đèn Đạo mới chiếu khắp nơi, dầu ở nơi hẻo lánh, ở chốn xa xuôi đến đâu đi nữa, không một em út nào phải bị áp bức hay bỏ rơi mà Hội Thánh không hay biết.
Đó là kết giải đồng tâm để dìu độ nhau trên con đường giải khổ.
CỬU TRÙNG ĐÀI (Nam Phái)
I.- Giáo Tông:
Trong Hội Thánh Cửu Trùng Đài có một phẩm tột bậc là phẩm Giáo Tông (1) là anh cả toàn Đạo. Người có quyền thay mặt Đức Chí Tôn, mà dìu dắt chư thiện tín trong đường Đạo và đường Đời, duy chỉ có quyền về phần xác chớ không có quyền về phần hồn. Nói rõ hơn là người có quyền về phần hữu hình là phần Đời, còn về phần hồn là phần Thiêng Liêng hay phần Đạo thì được phép cầu rỗi chớ không có quyền siêu rỗi là quyền tối thượng của Bát Quái Đài. Vả lại sự phân quyền Thiêng Liêng và hữu hình trong thời kỳ khai Đạo lần ba nầy, là một cách độ đời, với phương pháp chí công và linh hiệu.
Chí công vì đời văn minh tiến hóa thường không nhìn nhận những gì bất hợp lý đương nhiên, thì không gì hay hơn là giao cho tay phàm độ dẫn người phàm, và chỉ có quyền về mặt phàm trần.
Linh diệu vì tùy theo công quả trong đời tu ở hạ giới mà Thiêng Liêng định vị ở cõi thượng thiên, không sai một mảy may nào cả. Và cũng tùy theo hành tàng ở thế gian mà định cho linh hồn được siêu thăng hay giáng đọa.
(1) Pháp Chánh Truyền chánh văn: Giáo Tông là anh cả các con. Có quyền thay mặt cho Thầy mà dìu dắt các con trong trường Đạo và đường đời. Nó có quyền về phần xác chớ không có quyền về phần hồn. Nó đặng phép thông công cùng Tam Thập Lục Thiên, Tam Thiên Thế Giái, Lục Thập Thất Địa Cầu và Thập Điện Diêm Cung đặng cầu rỗi cho các con.
II .- Chưởng Pháp:
Như trên đã giải từ phẩm Chưởng Pháp sắp xuống Lễ Sanh trong mỗi phẩm đều có ba phái: “Thái, Thượng, Ngọc, tượng trưng Tam Giáo. Đã quy nguyên Tam Giáo thì pháp luật của Tam Giáo tuy phân biệt nhau song trước mặt Đức Chí Tôn vẫn coi như một. Vậy thì một thành ba, mà ba cũng như một. (P.C.T)
Vì lẽ đó ba vị Chưởng Pháp tuy thay mặt ba Phái khác nhau mà phận sự như nhau và trách nhiệm như nhau.
Chúng có quyền xem xét luật lệ trước buổi thi hành, hoặc nơi Giáo Tông truyền xuống, hoặc nơi Đầu Sư dâng lên. (P.C.T) Như hai đàng không thuận thì Chưởng Pháp dâng lên cho Hộ Pháp đến Hiệp Thiên Đài cầu Thầy giáng xuống sửa lại hay là tùy ý lập luật lại. (P.C.T)
Chẳng những về mặt luật lệ mà luôn cả kinh điển cũng phải dâng cho Chưởng Pháp xem xét trước lúc phổ thông, đặng người loại trừ những kinh luật nào làm hại phong hóa. Thoảng như gặp luật Đời quá nghiêm khắc, người cũng phải can thiệp xin chế giảm cho nhân sinh bớt khổ.
Mỗi Chưởng Pháp phải có ấn riêng và ba ấn phải có trên mặt luật mới đặng thi hành. (P.C.T)
Buộc cả tín đồ phải vùa sức với Chưởng Pháp mà hành sự trước mặt luật Đời. Thầy khuyên các con phải xúm nhau vùa giúp chúng nó. (P.C.T)
III.- Đầu Sư:
Về phần Đầu Sư thì có ba vị, mỗi vị thay mặt một Phái trong Nho, Thích, Đạo.
Đầu Sư có quyền cai trị phần Đạo và phần Đời của chư môn đệ Thầy (P.C.T). Nó đặng quyền lập luật song phải dâng lên cho Giáo Tông phê chuẩn (P.C.T). Luật lệ ấy lại phải xem xét một cách nghiêm nhặc, coi phải hữu ích cho nhơn sanh chăng. Giáo Tông buộc phải giao cho Chưởng Pháp xem xét trước khi phê chuẩn (P.C.T).
Chúng nó phải tuân mạng lịnh Giáo Tông, làm y như luật lệ Giáo Tông truyền dạy (P.C.T). Như thảng Luật lệ nào nghịch với sự sinh hoạt của nhơn sanh thì chúng nó đặng cầu xin hủy bỏ. (P.C.T)
Như luật lệ nào Giáo Tông đã truyền dạy, mà cả ba đều ký tên không tuân mạng, thì luật lệ ấy phải trả lại cho Giáo Tông. Giáo Tông truyền lịnh cho Chưởng Pháp xem xét lại nữa. (P.C.T)
Ba chi tuy khác chớ quyền lực như nhau. Chúng nó có ba ấn riêng. Mỗi tờ giấy chi chi phải có ấn mới thi hành, nghe à! (P.C.T)
Thầy khuyên các con phải thương yêu nó, giúp đỡ nó. Thầy dặn các con như có điều chi cần yếu thì khá nài xin nơi nó. (P.C.T)
IV .- Chánh Phối Sư và Phối Sư:
Phối Sư mỗi phái là 12 người, cộng là 36. Trong 36 vị ấy có 3 vị Chánh Phối Sư. (P.C T)
Ba vị Chánh Phối Sư đặng phép thế quyền cho Đầu Sư, song không đặng quyền cầu phá luật lệ. (P.C.T)
Chiếu Nghị Định thứ hai của Đức Lý Giáo Tông ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (22/11/1930), Chánh Phối Sư thay mặt cho Đầu Sư để cầm quyền Hành chánh mà thôi .
Chiếu Nghị Định thứ ba của Ngài, thì Chánh Phối Sư và Phối Sư phải ở tại Tòa Thánh .
Chiếu Đạo Nghị Định thứ tư thì :
1- Phận sự của Thượng Chánh Phối Sư là xem xét các nơi và chăm nom Đạo hữu, thay mặt cho toàn Đạo mà giao thông cùng Chánh phủ và cả tín đồ. Giáo dục nhơn sanh, Chủ toạ Hội Nhơn Sanh.
2- Phận sự của Ngọc Chánh Phối Sư là sửa trị cả Chức Sắc và cả tín đồ. Buộc Chức Sắc hành sự y theo chân truyền Hội Thánh. Cầm quyền tạp tụng.
3- Phận sự của Thái Chánh Phối Sư là lo về tài chánh. Định lương hướng cho Chức Sắc Thiên Phong và điều độ Chức Sắc hành Đạo tha phương. Chủ toạ Hội Thánh.
V.- Giáo Sư:
Giáo Sư có 72 người, mỗi Phái có 24 người. Giáo Sư là người dạy dỗ chư môn đệ trong đường Đạo và đường Đời. (PCT)
Chúng nó cầm sổ bộ của cả tín đồ. (P.C.T.)
Buộc chúng nó lo lắng cho các con như anh ruột lo cho em. (P.C.T.)
Chúng nó phải chăm nom về sự tang hôn của mỗi đứa. (P.C.T.)
Chúng nó phải thân cận với mọi môn đệ, như anh em ruột một nhà cần lo giúp đỡ, nghe à! (P.C.T.)
Như tại Châu Thành lớn thì mỗi đứa đặng quyền cai quản, cúng tế Thầy như Đầu Sư và Phối Sư. (P.C.T.)
VI.- Giáo Hữu:
Giáo Hữu là người để phổ thông chơn đạo của Thầy. Chúng nó đặng quyền xin chế giảm luật lệ. (P.C.T.)
Ba ngàn Giáo Hữu, chia ra đều mỗi phái là một ngàn, chẳng nên tăng thêm hay là giảm bớt. (P.C.T.)
Chúng nó đặng phép hành lễ khi làm chủ các chùa nơi mấy tỉnh nhỏ. (P.C.T.)
Điều chi của chúng nó xin, thì buộc Giáo Tông phải cần mẫn hơn hết. (P.C.T.)
Như điều chi mơ hồ, thì chúng nó là kẻ sai đi kiểm dượt. (P.C.T.)
Chiếu Đạo Nghị Định thứ ba của Đức Lý Giáo Tông ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (22/11/1930). Giáo Hữu làm Đầu một Họ.
VII.- Lễ Sanh:
Lễ Sanh là đứa có hạnh, lựa chọn trong chư môn đệ để hành lễ. (P.C.T.)
Chúng nó đặng đi khai đàn cho mọi tín đồ (P.C.T.) Thầy dặn các con rằng Lễ Sanh người Thầy yêu mến, chẳng nên hiếp đáp chúng nó. (P.C.T.)
Như đặng hàng Lễ Sanh mới mong được bước qua hàng Chức Sắc, kỳ dư Thầy phong thưởng riêng mới qua khỏi ngã ấy mà thôi, nghe à! (P.C.T.)
Chiếu Đạo Nghị định thứ ba của Đức Lý Giáo Tông ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ. Lễ Sanh làm Đầu một Quận.
VIII.- Chánh Trị Sự, Phó Trị Sự, Thông Sự:
Chánh Trị Sự và Phó Trị Sự là những chức việc do Đức Lý Giáo Tông lập thành.
Thông Sự là chức việc do Đức Hộ Pháp lập thành.
Chức việc là người phụ tiếp công việc của Đầu Tộc trong phần địa phận của Đầu Tộc giao phó cho, và phải tùng lịnh vị nầy mà hành sự.
Bổn phận của Chánh và Phó Trị Sự đã được Đức Lý Giáo Tông chỉ giáo như sau đây:
“Chánh Trị Sự là người thay mặt cho Lão, làm anh cả của chư tín đồ trong địa phận của nó. Lão muốn thế nào cho Lão có mặt “khắp nơi tận ven trời cùng góc bể”.
“Trong nhơn sanh hàng trí thức thì ít, hạng ngu muội thì nhiều, nếu chúng ta không có đủ sức điều đình thì khó mà rải chơn lý Đạo khắp nơi cho đặng”.
“Càng thân cận với nhơn sanh, lại càng chịu nhiều sự khó khăn rắc rối. Chúng ta phải liệu phương nào mà trừ diệt những sự khó khăn ấy, khi mới nảy sanh ra, thì nền Đạo mới khỏi loạn lạc”.
“Vậy Lão xin Hiền Hữu (Hộ Pháp) ban quyền cho Chánh Trị Sự đặng phép xử trị, hầu có thể dạy dỗ sửa răn, thay quyền cho chúng ta trong chốn thôn quê sằn dã”.
Bổn phận của Thông Sự là chăm nom hành vi của Chánh và Phó Trị Sự về luật lệ mà thôi. Người không được để cho nhơn sanh bị áp bức bởi lòng vô nhơn đạo hay lẽ bất công của Chánh và Phó Trị Sự trong phần địa phận của mình.
Chiếu Đạo nghị định thứ ba của Đức Lý Giáo Tông ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (22/11/1930) Chánh Trị Sự làm Đầu một làng, Phó Trị Sự và Thông Sự làm đầu một xóm.
Đạo Phục:
Đạo phục của Chức Sắc Cửu Trùng Đài Nam phái, xin xem chú giải Pháp Chánh Truyền.
LUẬT CÔNG CỬ
Hồi tiền khởi trong thời kỳ khai Đạo, Đức Chí Tôn lập Hội Thánh bằng cách ân phong phẩm vị cho những người có phận sự phổ thông chơn đạo và giáo hóa nhơn sanh cải ác tùng lương, hồi đầu hướng thiện.
Ngày nay luật pháp của Đạo được ban hành khắp nơi thì sự thăng phẩm phải do luật công cử để tuyển tài chọn đức.
Luật công cử định rằng:
Đầu Sư muốn lên Chưởng Pháp thì nhờ ba vị công cử nhau. (P.C.T.)
Phối Sư muốn lên Đầu Sư thì 36 vị công cử. (P.C.T.)
Giáo Sư muốn lên Phối Sư thì 72 vị kia xúm nhau công cử. (P.C.T.)
Giáo Hữu muốn lên Giáo Sư thì nhờ 3.000 vị kia xúm nhau công cử. (P.C.T.)
Lễ Sanh muốn lên Giáo Hữu thì nhờ cả Lễ Sanh xúm nhau công cử. (P.C.T.)
Môn Đệ muốn lên Lễ Sanh thì nhờ cả Môn Đệ xúm nhau công cử. Kỳ dư Thầy giáng cơ cho người nào thì mới khỏi luật ấy mà thôi. (P.C.T.)
Còn Giáo Tông thì hai phẩm Chưởng Pháp và Đầu Sư tranh đặng. Song phải chịu cho toàn Môn Đệ công cử mới đặng. Kỳ dư Thầy giáng cơ ban thưởng mới ra khỏi luật ấy. (P.C.T.)
Về chức việc thì Phó Trị Sự và Thông Sự được tranh chức Chánh Trị Sự còn Đạo hữu trong mỗi ấp thì được tranh chức Phó Trị Sự và Thông Sự.
Luật công cử phải thi hành cho toàn cả Chức Sắc và Chức việc Cửu Trùng Đài Nam phái và Nữ phái.
NỮ PHÁI
Nữ phái do Đức Lý Giáo Tông lập thành. Trước hết Ngài ban sắc phục cho Nữ phái như vầy!
“Hội Thánh nghe Lão ban sắc phục cho Nữ phái, nghe và từ đây xem sắc tốt ấy mà hành lễ theo đẳng cấp”.
Xin xem chú giải Pháp Chánh Truyền.
Kế đó Ngài định quyền hành của Chức Sắc Nữ phái như dưới đây:
Đầu Sư:
“Nữ phái phải tùng Đầu Sư Nữ phái. Song Đầu Sư lại phải tùng quyền của Giáo Tông và Chưởng Pháp”.
“Đầu Sư Nữ phái chịu công cử theo Luật Hội Thánh ban hành. Theo Luật lệ Hội Thánh phân xử về đường Đời và đường Đạo”.
Chánh Phối Sư, Phối Sư, Giáo Sư, Giáo Hữu, Lễ Sanh và Chức việc nữ phái:
Tuy Đức Lý Giáo Tông không dạy về quyền hành của chư vị Chức Sắc và Chức việc Nữ phái từ Chánh Phối Sư dĩ hạ, nhưng nên hiểu rằng quyền hành và phận sự của Nam phái thế nào thì Nữ phái cũng y một thể. Song hành sự dưới quyền Nữ Đầu Sư và chi chi cũng phải tùng lịnh Người mà làm tròn nhiệm vụ.
Cũng như Nam phái, Chức Sắc và chức việc Nữ phái, muốn thăng phẩm phải do luật công cử của Hội Thánh đã định. Duy hai phẩm Giáo Tông và Chưởng Pháp dành riêng cho Nam phái mà thôi.
HIỆP THIÊN ĐÀI
Hiệp Thiên Đài là nơi làm trung gian giữa Bát Quái Đài và Cửu Trùng Đài, hoặc nói một cách khác, là nơi làm trung gian để hiệp Trời và Người. Vì lẽ rất dễ hiểu là Thiêng Liêng (Trời) phải nhờ cơ bút đặng phổ hóa chúng sanh (Người) mà cơ bút xuất hiện nơi Hiệp Thiên Đài.
Nếu không có Hiệp Thiên Đài thì cơ hữu hình là nhơn sanh nhờ đâu mà thọ giáo pháp của cơ vô vi là Trời, nên Đức Chí Tôn lập Pháp Chánh Truyền có chỉ dạy phận sự Thiêng Liêng và phận sự phàm trần của Hiệp Thiên Đài như sau nầy:
A.- Phận sự Thiêng Liêng:
“Hiệp Thiên Đài là nơi Thầy ngự cầm quyền Thiêng Liêng mối Đạo. Hễ Đạo còn thì Hiệp Thiên Đài vẫn còn.” (P.C.T.)
“Thầy đã nói: Ngũ chi Đại Đạo bị quy phàm là vì khi trước Thầy giao chánh giáo cho tay phàm, càng ngày càng xa Thánh giáo, mà lập ra phàm giáo. Nên Thầy nhứt định đến chính mình Thầy đặng dạy dỗ các con mà thôi, chớ không chịu giao Chánh giáo cho tay phàm nữa.” (P.C.T.)
Vì lẽ trên đây chính Đức Chí Tôn cầm quyền Giáo Chủ, dùng huyền diệu cơ bút để mở Đạo kỳ ba, và Chức Sắc Hiệp Thiên Đài là người thủ cơ thọ giáo, rồi truyền xuống cho Chức Sắc Cửu Trùng Đài phổ biến và thi hành.
“Lại nữa Hiệp Thiên Đài là nơi của Giáo Tông đến thông công cùng Tam thập lục Thiên, Tam thiên Thế giới, Lục thập thất Địa cầu và Thập điện Diêm cung để cầu siêu cho nhân loại.” (P.C.T.)
Giáo Tông là người thay mặt cho nhơn sanh muốn cầu siêu cho nhân loại phải nhờ cửa Hiệp Thiên Đài làm mối thông công, chớ chẳng đi nơi nào khác được.
B.- Phận sự phàm trần:
“Thầy đã nói phận sự Thiêng Liêng, Thầy cũng nên nói sở dụng phàm trần của nó nữa.” (P.C.T.)
“Hiệp Thiên Đài dưới quyền Hộ Pháp chưởng quản, tả có Thượng Sanh, hữu có Thượng Phẩm. Phần của Hộ Pháp chưởng quản phần Pháp." (P.C.T.)
“Thầy lại chọn Thập nhị Thời quân, chia ra làm ba:
“Phần của Hộ Pháp chưởng quản về Pháp thì:
Bảo Pháp.
Hiến Pháp.
Khai Pháp.
Tiếp Pháp. (P.C.T.)
Lo bảo hộ luật Đời và luật Đạo, chẳng ai qua luật mà Hiệp Thiên Đài chẳng biết.” (P.C.T.)
“Thượng Phẩm thì quyền về phần Đạo, dưới quyền:
Bảo Đạo.
Hiến Đạo.
Khai Đạo.
Tiếp Đạo. (P.C.T.)
Lo về phần Đạo nơi Tịnh thất, mấy Thánh thất, đều xem sóc chư Môn đệ Thầy, binh vực chẳng cho ai phạm luật đến khắc khổ cho đặng.” (P.C.T.)
“Thượng Sanh thì lo về phần Đời. dưới quyền có:
Bảo Thế.
Hiến Thế.
Khai Thế.
Tiếp Thế” (P.C.T.)
“Thầy khuyên các con lấy tánh vô tư mà hành Đạo. Thầy cho các con biết trước rằng: hễ trọng quyền thì ắt có trọng phạt.” (P.C.T.)
Chiếu Đạo Nghị Định thứ nhất của Đức Lý Giáo Tông, ngày mùng 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (22-11-1930), điều thứ nhứt:
“Cả Chức Sắc Hội Thánh Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài phải tuân y Pháp Chánh Truyền và Tân Luật mà hành Đạo theo trách nhiệm của mỗi người. Lớn chẳng đặng giành quyền nhỏ, nhỏ chẳng đặng lấn quyền lớn”.
Do theo Đạo Nghị định nầy Chức Sắc Hiệp Thiên Đài tuy không cầm quyền cai trị Đạo, nhưng phải tuân y Tân Luật và Pháp Chánh Truyền là Thiên điều tại thế, có hiệu lực về toàn thể Đạo, chớ không riêng về một ai cả. Nếu chẳng vậy thì Chức Sắc Hiệp Thiên Đài không phải là người đảm đương trọng trách bảo thủ Chơn Truyền và Luật Pháp.
Đạo phục:
(Xin xem Chú giải Pháp Chánh Truyền).
Bộ Đạo Luật ngày Rằm tháng Giêng năm Mậu Dần (14/2/1938) do Hội Thánh lập thành, là kết quả của một công trạng đầy dẫy sự hiệp trí hòa tâm, của toàn Chức Sắc hữu trách thời ấy, để xướng xuất những phương pháp thực hành các điều trong Tân Luật và Pháp Chánh Truyền.
Điều trọng yếu của bộ Luật nầy, là dựng nên một Đại Nghiệp Đạo cho thế hệ hiện kim làm nguồn cội di truyền nền Chánh Giáo, và cho thế hệ tương lai quay về định hướng ấy đặng thấu triệt lẽ Đạo.
Trong Đạo Luật năm Mậu Dần (1938 dl) có cả thảy 4 chương như dưới đây:
A.- Chỉnh đốn nền Hành Chánh Đạo cho tận mỹ hơn.
B.- Tạo lập cơ quan Phước Thiện
C.- Tạo lập cơ quan Phổ Tế
D.- Lập Tòa Đạo
A.- HÀNH CHÁNH ĐẠO
Khoản 1.- Cầu phong.
Khoản 2.- Thăng Thưởng
Cầu phong và cầu thăng phải đủ 5 năm công nghiệp và Quyền Vạn Linh công nhận.
Chiếu Thánh giáo Đức Lý Đại Tiên, Nhứt Trấn Oai Nghiêm ngày 21 tháng 2 năm Mậu Tuất (9-4-1958), điều kiện 5 năm công nghiệp chưa phải đủ để cầu phong hay thăng thưởng mà còn phải cập thêm 4 điều kiện sau nầy:
a.- Phương diện hạnh đức.
b.- Trình độ học thức.
c.- Tinh thần phục vụ.
d.- Khả năng giáo hóa nhơn sanh.
Chẳng phải riêng cho Nam Phái, mà sự cầu thăng của Nữ Phái cũng do nguyên tắc trên đây, cho tới ngày Cửu Trùng Đài hoàn toàn thực hiện luật lệ công cử của Đạo.
Khoản 3.- Hàm phong: phải quá lục tuần
Khoản 4.- Truy phong: phải có Quyền Vạn Linh công nhận.
Khoản 5.- Quyền Vạn Linh
Hễ gọi rằng Quyền Vạn Linh sanh chúng, tất thị phải toàn cả Chức Sắc, Chức việc và Đạo hữu Nam Nữ hiệp một mới có quyền ấy.
Vì vậy Đạo Luật buộc phải tổng hợp cả ba Hội Nhơn Sanh, Hội Thánh và Thượng Hội mới đủ điều kiện lập thành Quyền Vạn Linh. Những biểu quyết nào của Quyền Vạn Linh đã định đều có tánh cách chung thẩm, và đầy đủ hiệu lực như một bổn Luật thì toàn Đạo phải tuân hành.
Điều thứ IV đến Điều thứ VIII và nối tiếp Điều thứ XII, XIII, XVI và XVII là những điều ấn định sự tạo tác Tòa Thánh, các Dinh Thự, Hạnh Đường… và chỉ vẽ phương châm hành Đạo cho đắc sách.
B.- PHƯỚC THIỆN
Điều thứ 10 và thứ 11: Nghĩ vì mục đích cao cả của Đại Đạo là tạo mối thương yêu, gây tình thân thiện từ trong tiểu gia đình ra ngoài xã hội, và lan ra cùng vạn chủng, nên Hội Thánh đặt ra cơ quan Phước Thiện có phận sự mở lối đón đường cho kẻ cô đơn yếu đuối, tật nguyền được dễ dàng dựa cửa từ bi làm nơi giải khổ.
Đặc điểm của cơ quan Phước Thiện là chẳng vụ về sự kêu gọi lòng hảo nghĩa của bá gia, để có của nuôi lại bá tánh, mà tự mình phải dụng trí bồi công, làm cho ra của để cứu khổ phò nguy. Vì lẽ đó Hội Thánh dành cho cơ quan này những cơ mưu kinh tế như lương điền, thương mãi, công nghệ, để sanh lợi, hầu làm việc hữu ích cho xã hội trong cơn hoạn nạn.
THẬP NHỊ ĐẲNG CẤP THIÊNG LIÊNG
Không cầm quyền Hành Chánh Đạo, nhưng vì đại công tạo âm chất cứu đời, Chức Sắc trong Cơ Quan Phước Thiện được thăng thưởng theo Thập nhị đẳng cấp Thiêng Liêng và mỗi cấp tương đương với đức tánh của mỗi người. Ai vẹn giữ đức tánh cho tới trọn lành sẽ đoạt Phật vị.
Về thể lệ Hội Thánh và Bàn Cai Quản xin xem bộ Đạo Luật.
C.- PHỔ TẾ:
Theo Đạo Luật năm Mậu Dần, thì trách vụ của cơ quan Phổ Tế là cứu vớt hoặc độ rỗi những kẻ lạc bước lỗi lầm, cùng an ủi khuyên lơn những người bị luật pháp buộc ràng, mà đành phế vong bổn phận.
Vả chăng Chức Sắc trong cơ quan Phổ Tế không có phận sự hành quyền về Hành Chánh Đạo và trách vụ như trên vừa kể lại trực thuộc cơ quan Hành Chánh Đạo nên Hội Thánh Hiệp Thiên Đài, nhơn khi tái thủ phận sự ngày rằm tháng tư năm Đinh Dậu (14/5/1957), quyết định trong phiên Đại Hội tại Giáo Tông Đường ngày 17 tháng 4 năm Đinh Dậu (16/5/1957) Vi bằng số 1 thay thế Cơ Quan Phổ Tế bởi Cơ Quan Truyền Giáo.
Hiện giờ Hội Thánh đang đào luyện Chức Sắc để bổ dụng vào cơ quan nầy và một ngày gần đây sẽ có người đủ khả năng vén màn hắc ám, độ kẻ trầm luân và dẹp lối mơ hồ của kẻ sưu tầm chơn lý.
Nội quy Cơ Quan Truyền Giáo sẽ định sau.
D.- TÒA ĐẠO
Trách vụ của Tòa Đạo là thay mặt Hiệp Thiên Đài giữ lẽ công bình, không để cho ai được phạm luật pháp của Đạo.
Xét vì danh từ Tòa Đạo không được thích hợp với thiệt nghĩa của nó nên sau này sửa lại là Bộ Pháp Chánh. Nhưng Hội Thánh Hiệp Thiên Đài nhận thấy cái cần chỉnh đốn nền tư pháp của Đạo cho được châu đáo hơn, nên tạm giao trách vụ pháp chánh cho Hòa Viện đảm nhận, từ đây Hòa Viện sẽ chiếu theo điều luật sử đoán mà hành sự. Điều luật này đã được ban hành do Đạo Lịnh số 24/ĐL ngày 11 tháng 4 năm Mậu Tuất (29/5/1958).
- Như đã giải trong bài Hành Chánh Đạo số 3 về hình phạt, chư Chức Sắc phạm luật pháp trong Đạo thì đem trước Tòa Tam Giáo phân xử.
Tòa này do Đức Giáo Tông làm đầu, ba vị Chưởng Pháp nghị án, một vị Đầu Sư phái mình về phần dâng biểu buộc tội và một Chức Sắc Hiệp Thiên Đài làm Trạng sư.
Tòa Tam Giáo có quyền xử giáng cấp hay là trục xuất (Tân Luật, chương VII điều 29, 30 và 31).
- Trong bổn Đạo, ai phạm tội trọng hay là tái phạm thì đệ lên cho Hội Công Đồng phán đoán. Hội này do một vị Đầu Sư hay Phối Sư phái mình làm đầu và hai vị Chức Sắc hai phái kia nghị án. Hội Cộng Đồng được quyền trục xuất (Tân Luật, chương VII điều 27).
Chiếu theo điều 27 trên đây những kẻ phạm tội từ hàng Lễ Sanh xuống tới Đạo Hữu đều do Hội Công Đồng phân xử.
Quyền xữ đoán của người làm đầu trong Họ: (Khâm Châu, Đầu Tộc).
Trong bổn Đạo, ai có phạm Luật pháp về mấy khoản nhẹ thì về quyền người làm đầu trong Họ phân xử (Khâm Châu, Đầu Tộc) và răn phạt quỳ hương, tụng kinh Sám Hối (Tân Luật, chương VII điều 26).
Về đường đời, bổn đạo có xích mích nhau cũng phải đến cho người làm đầu trong Họ phân giải (Tân Luật, chương VII, điều 28).
Thập hình của Đức Giáo Tông, là những hình phạt cân xứng với mỗi tội phạm pháp, hay phạm luật của Đạo.
Về Pháp là Pháp Chánh Truyền và Đạo Nghị Định.
Về Luật là Tân Luật và luật lệ Hội Thánh.
A.- Phạm pháp :
Đệ nhứt hình: Trục xuất về các tội:
1.- Không tuân Pháp Chánh Truyền.
2.- Phản loạn chơn truyền.
3.- Chia phe phân phái và lập Tả Đạo Bàn Môn
Đệ nhị hình: Giáng cấp tới Tín đồ hay là buộc hành Đạo ngoại quốc, trừ ra các xứ lân bang Nam quốc về tội,
1.- Thuyên bổ không đi.
2.- Không trọn phế đời hành Đạo.
3.- Bỏ bê phận sự.
Đệ tam hình: Giáng cấp từ 1 đến 2 cấp về các tội:
1.- Làm nhơ danh Đạo..
2.- Mượn danh Đạo tạo danh Đời.
3.- Lợi dụng danh Đạo làm điều bất chánh.
Đệ tứ hình: Ngưng quyền từ 3 đến 5 năm về các tội:
1.- Lấn quyền, giành quyền.
2.- Phạm thượng.
3.- Tự chuyên cải sửa chơn truyền.
Đệ ngũ hình: Ngưng quyền từ 1 đến 3 năm và phạt vào Tịnh Thất về các tội:
1.- Mê hoặc chúng sanh.
2.- Cám dỗ.
B.- Phạm luật:
Đệ nhứt hình: Trục xuất về tội:
1.- Không tuân Tân Luật và các luật lệ Hội Thánh.
2.- Công kích Hội Thánh.
3.- Nghịch mạng.
Đệ nhị hình: Giáng cấp tới Tín đồ hay là buộc hành Đạo ngoại quốc, trừ ra các xứ lân bang Nam quốc về tội:
1.- Tư thông.
2.- Dấy loạn chúng sanh.
Đệ tam hình: Giáng cấp từ 1 đến 2 cấp về các tội.
1.- Tham lam tài chính.
2.- Giả mạo văn tự.
Đệ tứ hình: Ngưng quyền từ 3 đến 5 năm về các tội:
1.- Khi lịnh Hội Thánh.
2.- Lập quyền riêng.
Đệ ngũ hình: Ngưng quyền từ 1 đến 3 năm và phạt vào tịnh Thất về tội: Phạm Ngũ Giới Cấm.
Đệ lục hình: Vào Tịnh Thất từ một tháng đến một năm mà còn hành chánh như thường về tội: Cương ngạnh.
Đệ thất hình: Thuyên bổ đi nơi khác chỗ của kẻ phạm đương hành Đạo về tội: Phạm Tứ Đại Điều Quy.
Đệ bát hình: Triệu hồi về Tòa Thánh học Đạo về các tội:
1.- Bê trễ phận sự.
2.- Biếng nhác.
Đệ cửu hình: Phải ăn năn sám hối, thọ tội cùng chúng sanh, về các tội:
1.- Ganh ghét.
2.- Hung bạo.
3.- Đố kỵ.
4.- Xu phụ.
Đệ thập hình: Hầu người có đức hạnh do Hội Thánh định đặng cầu học Đạo về tội: Phạm Thế Luật.
a.- Gia án: Những vị nào đã bị luật Đời trừng trị tùy theo tội hình nặng nhẹ, Hội Thánh sẽ chiếu theo Thập Hình nầy mà răn phạt thêm nữa.
b.- Ân xá: Những vị nào phạm tội phải mất phẩm vị Thiên phong mà muốn cầu xin phục chức, thì phải nhờ quyền Vạn linh ân xá mới được, sau khi Hội Thánh có đủ bằng chứng kẻ phạm đã biết ăn năn chừa tội và lập được công nghiệp phi thường đáng cho phục chức đoái công chuộc tội.
Nghĩ vì hình phạt đặt ra để ngăn ngừa loạn lạc, nghiêm trị tà tâm, nhưng xét trong Thập Hình Đức Lý Giáo Tông không có hình phạt nào làm phương hại đến hình hài nhục thể của kẻ phạm và chỉ là hình phạt về mặt tinh thần. Song le, chẳng vì đó mà người trong bổn đạo lại khinh thường bổn phận hay bán đồ nhi phế cho đặng.
Điều quan hệ đáng lưu tâm hơn hết là một khi kẻ nào bị trục xuất thì kể như linh hồn kẻ ấy không còn phương siêu rỗi nữa.
Bác ái và công bình là yếu tố của Tạo Đoan hằng sử dụng để điều hành sự vận chuyển của Vũ Trụ trong vòng trật tự của bốn mùa mà phò trị cuộc tấn hóa của nhơn sanh trong khuôn viên đạo đức thanh bình.
Nhơn buổi Đại Đạo hoằng khai, Hội Thánh cũng căn cứ trên nền tảng công bình và bác ái mà làm phương cứu khổ về mặt Đời và phổ truyền Chánh giáo về Đạo.
Với sứ mạng Thiêng Liêng trọng yếu như thế, Hội Thánh phải tổ chức nhiều cơ quan cộng đồng hành sự mới có đủ khả năng truyền giáo và giữ vững Đạo quyền như đã thành lập Cửu viện Nội Chánh, Cơ Quan Phước Thiện, Bộ Pháp Chánh, v.v…
Nên hiểu rằng quyền Đạo là quyền của Đức Chí Tôn ân tứ cho Hội Thánh, để có đủ phương tiện cho Chức Sắc kềm chế lẫn nhau trên con đường Đạo và đường Đời, hầu giữ vẹn Thánh Thể của Đức Ngài tại trần thế. Thoảng như hiểu khác là lấy quyền làm lịnh, trợ oai, đặng buộc tha nhơn quy phục, thì quyền ấy sẽ trở thành một món lợi khí lôi cuốn kẻ lạm quyền ấy vào nơi tội lỗi. Quyền Đạo khác với quyền Đời có bấy nhiêu thôi.
I.- Cửu viện Nội Chánh tại Tòa Thánh:
Như trên kia đã giải, Nội Chánh là nơi tập trung tất cả năng lực của Hội Thánh để xây dựng nghiệp Đạo và điều hành sự tấn hóa của nhơn sanh về mặt tinh thần cùng là đào tạo một đời sống mới là đời sống tri túc về mặt vật chất. Vì vậy nên Nội Chánh gồm có Cửu viện như sau:
1.- Hộ viện.
2.- Lương viện.
3.- Công viện.
Dưới quyền điều khiển của vị Chánh Phối Sư Phái Thái.
4.- Học viện.
5.- Y viện.
6.- Nông viện.
Dưới quyền điều khiển của vị Chánh Phối Sư Phái Thượng.
7.- Hòa viện.
8.- Lại viện.
9.- Lễ viện.
Dưới quyền điều khiển của vị Chánh Phối Sư Phái Ngọc.
Ba vị Chánh Phối Sư ba Phái làm đầu Cửu viện nắm trọn quyền điều khiển trong tay, thì trách nhiệm chia đồng và guồng máy Hành Chánh Đạo được mạnh tiến là nhờ tài đức của ba vị ấy, còn được điều hòa cử động là do tận lực tận tâm của chư vị Thượng Thống, Phụ Thống và Nhơn viên toàn Viện.
II.- Tứ vụ Thánh Thất địa phương:
Thánh Thất địa phương là những Đền Thờ ở các Tỉnh lỵ biểu hiện cho Đền Thờ lớn là Tòa Thánh hay là Tổ Đình tại Thánh Địa (Tây Ninh).
Thể theo những tổ chức Trung ương ở Tòa Thánh trong địa hạt Thánh Thất, Hội Thánh có lập một Ban Tứ Vụ để giúp sức cho vị Đầu Tộc có đủ phương tiện giữ gìn nghiệp Đạo sở tại.
Ban Tứ vụ gồm có:
1.- Lễ vụ lo về lễ nghi cúng kiến.
2.- Công vụ chuyên về tạo tác tu bổ.
3.- Hộ vụ giữ tài chánh.
4.- Lương vụ lo việc ăn cho Chức Sắc và nhơn viên trong Thất.
Ban Tứ vụ đặt dưới sự chăm nom của vị Đầu Tộc. Vị này lựa chọn nhơn viên phụ trách hoặc trong hàng chức việc đã mãn nhiệm kỳ hoặc trong hàng Đạo hữu có đủ hạnh kiểm và tinh thần phục vụ.
III.- Chức Sắc hữu trách tại vùng Thánh Địa:
Châu vi Thánh Địa ngày nay được mở mang trên một diện tích khá rộng, đạt thành 2354 mẫu về phần ngoại ô và 90 mẫu về phần nội ô.
Với một số dân cư toàn là Đạo hữu hơn hai trăm ngàn người và nhiều kiều lộ lưu thông tứ hướng thêm 4 cái chợ trong đó Long Hoa Thị là trọng đại hơn hết, vùng ngoại ô Thánh Địa tự nhiên trở thành một đô thị tôn giáo mà người người đều qui về một lối tu thân hành thiện.
Ngoại ô Thánh Địa đặt dưới quyền vị Khâm Thành làm Đầu và 13 vị Đầu Phận Đạo chăm nom các Bàn Trị Sự của 107 Hương Đạo. Phải đứng vào hàng Giáo Sư mới được đảm nhiệm chức vụ Khâm Thành. Để phụ tiếp Vị nầy về giấy tờ văn kiện có một vị do Khâm Thành lựa chọn trong hàng Giáo Hữu.
Ngoài ra, Hội Thánh còn đặt một Ban Huấn Đạo tới lui thăm viếng chư Đạo hữu và dìu dắt họ vào đường ngay lẽ chánh.
IV.- Chức Sắc hữu trách ở các địa phương:
Cho hay Tôn chỉ của Đại Đạo là độ rỗi nhơn sanh khắp cả hoàn cầu, chớ chẳng riêng về một xứ hay một dân tộc nào, duy Việt Nam là xứ đầu tiên được hạnh ngộ Chơn giáo thì lấy làm may mắn cho Quốc dân cùng Quốc thể. Kế đó Đại Đạo đã được truyền bá ra ngoại quốc và được nhiều nước hoan nghênh tin tưởng như Nhựt Bổn, Trung Hoa Dân Quốc, Miên, Lào, Thái Lan, Pháp Quốc, Bỉ và Thụy Điển. Rồi đây lần lượt cờ Đạo sẽ phấp phới khắp cùng vạn quốc và Tòa Thánh Tây Ninh sẽ là một danh cảnh tôn nghiêm tiếp đón các sắc du khách mộ Đạo hành hương hiến lễ.
Ngộ nghĩnh thay là khi xưa người ta phải khó khăn đi tìm Đạo, còn khi nay Đạo lại phải nặng nhọc đi tìm người, thật là một điều hi hữu. Song le, kẻ nào chê bỏ hay rẻ khinh thì rất rủi cho kẻ ấy, Hội Thánh đã phái Chức Sắc thân hành đến mọi nơi trong bổn xứ hầu gieo mối Đạo Trời. Mang Đạo đi cảnh tỉnh nhơn sanh cải ác tùng lương, chư vị nầy không được để sót một thửa đất nào, dầu xa xăm hẻo lánh đến đâu, mà còn thấp thoáng bóng người chưa biết Đạo. Như vậy cho trọn câu tận độ chúng sanh, trong thời kỳ Đức Chí Tôn phát hạ hồng ân đại xá cho nhơn loại.
Ở các địa phương, vị Khâm Châu là người thay mặt Hội Thánh làm đầu một Tỉnh Đạo. Đầu Tộc là người làm đầu một Quận Đạo và Bàn Trị Sự làm đầu Hương Đạo. Phận sự của ban nầy là phụ tiếp nhị vị Khâm Châu Đạo và Đầu Tộc Đạo về phương diện thường xuyên thân cận với chư Đạo hữu. Thế thì nói riêng về tín đồ không ai mất phần giáo hóa và bảo hộ của Hội Thánh, và nói chung về nhơn sanh, thì không ai còn để lời rằng không biết Đạo. (Nhơn năng hoằng Đạo, phi Đạo hoằng nhơn).
Bộ máy Hành Chánh Đạo từ gốc là Tòa Thánh đến làng mạc là ngành được hoàn thiện cơ cấu như trên là một việc, còn đào luyện Chức Sắc đủ tài đức vận chuyển bộ máy là một việc khác.
V.- Đào luyện Chức Sắc hành quyền:
a.- Bổn phận đối với cá nhân mình.
1.- Trình độ học thức:
Dầu nam hay nữ muốn vào hàng Chức Sắc phải có văn bằng khoa mục từ khi còn giữ chức Lễ Sanh. Tuy đã được đứng vào hàng Thánh thể Đức Chí Tôn tại thế và có văn bằng chứng minh trình độ học thức, vị Chức Sắc còn phải tiếp tục học hỏi thêm hoài. Vì bởi càng theo đuổi sự học, càng thấy mình kém sức thua tài, nên hàng ngày cần xem sách, đọc kinh, sưu tầm chơn lý, đặng trau giồi năng khiếu giác ngộ quần linh trên trường đời phức tạp. Lãnh sứ mạng. Truyền giáo, Chức Sắc sẽ có cơ hội gặp nhiều giới trí thức trong xã hội. Giới này lại tự làm Giám khảo, để cân tài kinh học của kẻ độ đời. Nếu kẻ này bị khuất phục vì kém học thức thì còn gì danh Đạo. Hoặc giả, khi gặp những hạng người thất giáo, hạng này cũng tự làm Giám khảo để cân hạnh đức của người Truyền Đạo. Nếu bị khuất phục vì kém đức hạnh thì còn gì nhơn phẩm.
2.- Tập rèn hạnh đức:
Có tài học thì hay về trí thức, còn có hạnh đức thì hay về tình cảm. Cả hai tài và đức phải đi đôi mới đủ phương dìu độ chúng sanh cải tà qui chánh.
Hạnh đức là hạnh kiểm và đạo đức.
Hạnh kiểm:
Hạnh kiểm rút trong nguồn lễ giáo, tu chỉnh từng nét đi đứng, nằm ngồi, từng cách ăn mặc, nói năng, làm lụng, không để sót một cử chỉ hay một hành vi nào thất nét khiêm cung, mất niềm hòa khí.
Đi đứng: Đi thì tề chỉnh, đứng cho đoan trang.
Nằm ngồi: Nằm có nơi, ngồi lựa chỗ, và giữ bộ tịch cho đừng mất vẽ thanh lịch của người hiểu lễ.
Ăn mặc: Gìn nết na cho thanh nhã khi ăn, giữ y-phục cho trang hoàng sạch sẽ khi mặc. Cấm mặc quần cụt hay quần đùi, dầu trong phòng ngủ cũng vậy.
Trong lúc tiếp tân không nên hút thuốc hay ăn trầu làm mất vẽ từ nhượng của nhà tu hành.
Về ăn uống có vài điểm nên lưu ý như sau này :
Tuy vân, Lễ Sanh được ăn thập trai nhưng một khi đã lãnh trách vụ làm đầu chư thiện tín trong một Quận Đạo, vị Đầu Tộc cần thận trọng thể thống của người thay mặt Hội Thánh ở địa phương bằng cách dùng trai (ăn cơm) luôn tại Thánh Thất hay văn phòng hơn, là vì một vài món đồ mặn rồi chịu lắm tiếng thị phi, dị nghị. Thiết tưởng người đời thường lấy sự trường trai giới sát làm đòn cân để đánh giá người tu, nếu vị Đầu Tộc kia không dè chừng, ắt sẽ bị đời bất phục, luôn cả người đồng Đạo bất tùng. Thoảng như có tùng đi chăng nữa thì chỉ về bề ngoài chứ bề trong vẫn “thầm khi trộm ố”. Còn nói về ngồi quán, ngồi lều lăng xăng, xạo xự giữa các hạng người, rồi nói nói cười cười chung quanh mâm thịt cá, thì đó là những tệ đoan, nếu có, không nên lưu tồn.
Nói năng: Trong khi luận đàm hãy dùng lời dịu ngọt tránh tiếng sỗ sàng. Những lời: Bẫm, dạ, thưa, trình là những ngôn từ để tỏ lòng cung kính, không nên quên trước khi mở lời. Thêm nữa cách chấp tay xá là lễ kĩnh chào nhau của nhà Đạo nói riêng và nhà Nho nói chung, thì nên dùng lễ ấy hơn là dùng cách bắt tay chào hỏi. Tuy không phải khiếm lễ, nhưng theo phong tục phương Tây, người nhỏ phải chờ người lớn đưa tay trước rồi mới bắt tay sau, nếu trái lại là vô phép.
Làm lụng: Đừng nóng nảy vụt chạc và khua động làm rầy.
Đạo đức:
Đạo đức là những tính tốt của con người vẹn giữ để xử sự cho phù hợp với thiên lý.
Đức tốt rút trong nguồn nhân nghĩa của Nho tông và trong bác ái của Phật giáo. Nên nhận thức rằng có tánh thương yêu mới có lòng nhơn. Có lòng nhơn thì hay làm nghĩa và làm nghĩa thì gầy được cảm tình. Có cảm tình mới nghe lời giáo hóa rồi mới tu. Có tu mới nên hiền, được hiền mới có sư có hữu, có hữu mới ra huynh đệ và huynh đệ mới lập đại đồng.
Đấy là mục đích của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ và Chức Sắc là người tự mình quyết sách vận trù tu nhơn tích đức thế nào hầu đạt thành mục đích ấy.
b.- Bổn phận đối với người đồng Đạo:
1.- Công trình phục vụ :
Nguyên tắc vào cửa Đạo là hiến thân phụng-sự cho nhơn sanh về cả hai phương diện vật chất và tinh thần. Dựa theo nguyên tắc ấy Chức Sắc hằng tình nguyện sống về Đạo và chết về Đời, thì một khi đã xả thân hành Đạo, phải đem hết năng lực làm tròn nhiệm vụ, luôn luôn lấy độ lượng quân tử mà dìu dắt đoàn em, thường thường gieo mỹ cảm với mọi người hơn là gieo ác cảm. Không nên quở trách giận hờn trong một lúc, mà làm hư hỏng cả công trình phục vụ bấy lâu gầy dựng. Nếu chất một đống củi đã phí công đốn cả ba năm, rồi để lọt vào một đớm lửa thiêu rụi trong một giờ thì công kia vô ích. Vậy thì trên đường phụng sự cho chúng sanh nên giữ một mực trước sau như nhứt, còn phục vụ Hội Thánh thì tận lực tận tâm chớ khá khi bồi khi lỡ. Như thấy hư phải sửa thấy ngã phải nâng, vị tha chớ chẳng nên vị kỷ.
Cái ngoan khéo của Chức Sắc hành quyền, là cố giữ đừng để mất số Đạo hữu đương có, còn độ thêm người mới là tùy khả năng lập thêm công bồi thêm đức.
2.- Phép dìu độ trên đường Đạo và đường Đời:
Chiếu Tân Luật, chương II, điều thứ 14, Chức Sắc cai trị trong Đạo từ bậc Giáo Hữu sấp lên phải chọn trong phẩm thượng thừa mà thôi. Phẩm này là phẩm nêu gương sáng cho đoàn em bắt chước để sửa mình. Từ lời nói chí việc làm, mỗi mỗi đều căn cứ nơi đức tánh cao độ mà phô bày thiện chí hầu dìu độ chúng nó tránh xa tội lỗi, khỏi phạm chơn truyền, không qua luật pháp. Với sứ mạng trọng yếu dường ấy, vị Chức Sắc hành quyền tự nhiên phải có đủ năng lực đi đến thành công và năng lực ấy tự mình đào tạo.
Vả chăng số người giữ Đạo ở bậc hạ thừa là số thậm đa, không quen khép mình vào cảnh khổ hạnh, thêm chưa dứt hẳn tâm phàm tánh tục, thì hồ dễ đầu hôm sớm mai họ theo chìu nắn uốn trong khuôn viên đạo đức cho đặng. Thành thử họ cố giữ tự do, không muốn bị ràng buộc trong pháp giới. Chỗ nầy là cái khởi điểm khó khăn cho vị Chức Sắc trong nhiệm vụ dìu dắt con cái Đức Chí Tôn trên đường Đạo và đường Đời.
Trên đường đời thì nhiều chông gai khó đi, lắm gập ghềnh khó bước, và cho đặng trang bằng hầm hố, dọn sạch gai chông, nhà hướng Đạo phải sẵn có phương hay chước khéo để ứng dụng khi cần. Nếu gặp những điều nghịch lý, hay đứng trước những cử chỉ bất nhã của kẻ dưới tay, người bề trên phải bình tĩnh lấy trí mẫn đạt chuyển nghịch vi thuận. Nhược bằng ỷ lại nơi quyền hành đương có để hiếp bức kẻ lầm lỡ phạm tội, hoặc dẹp cả độ lượng quân tử một bên, rồi tuyệt giao với kẻ ấy cho bỏ ghét, thì không phải là diệu kế khải mê giác ngộ. Trí không sáng thì hành vi không khỏi trái với lý công của nhà tu hành. Để đối phó với những nghịch cảnh như trên, nhứt diện không nên quên mình là người đương làm phận sự giáo dân quy thiện, nhứt diện quyết thắng cơ mưu của tà quái bằng cách áp dụng phương pháp trị khí dưỡng tâm của ông Hàng Dũ có hiệu nghiệm như sau này:
1.- Nếu gặp kẻ trí huyết cang cường thì lấy điều hòa mà cư xử.
2.- Còn gặp kẻ mưu trí thâm sâu thì lấy điều dễ dàng mà đối phó.
3.- Như gặp kẻ hăng hái kịch liệt thì lấy đạo đức mà đối lại.
4.- Còn gặp kẻ hấp tấp vội vàng thì lấy yên tịnh mà lui nó.
5.- Như gặp kẻ tham lam đê hèn thì lấy chí cao thượng mà kháng cự.
6.- Nếu gặp kẻ không hết lòng phục vụ lại có tánh hay dung túng thì lấy thầy hay bạn tốt mà dạy.
7.- Còn gặp kẻ biếng nhác bầy hầy, thì lấy điều tai họa mà khuyên cáo.
Dụng phép trị khí dưỡng tâm thì được nhứt cử lưỡng tiện: một là giúp sức cho người chỉ giáo thành công, hai là mở trí cho người thọ giáo sửa mình.
Đó là phương dìu độ trên đường đời hầu quay về thuần phong mỹ tục.
8.- Rất may trong giới hạ thừa còn có người vừa thành tâm giữ Đạo vừa được hạnh nết nhu mì tánh tình chơn thật.
Đối với hạng người này thì lấy Lễ Nhạc mà hiệp đó.
Vả chăng Nho giáo thường trọng Lễ Nhạc là điều quan hệ về tâm lý học. Từ trong gia đình ra bên ngoài xã hội nếu không có lễ thì lấy gì mà tài chế những hành vi hồ đồ rối loạn, và dựa nơi đâu mà sắp đặt trật tự cho phân minh.
Còn Nhạc thì nó có cái sở dụng diệu huyền của nó là phát động từ trong tâm hồn khiến kẻ trên người dưới cùng một nhịp hành động thích hạp với Đạo thái hòa của Trời Đất.
Lễ và Nhạc bổ túc cho nhau thì được cái lợi lớn là vừa sửa đổi tâm tánh cho ngay chính ở trong vừa không làm mất sự cung kính ở ngoài bồi dưỡng tình cảm cho thật hậu mà không mất vẻ thanh tao.
Lấy lễ mà đãi người tức là thuận về nghĩa lý, lấy Nhạc mà hiệp với người tức là hòa về tánh tình. Trên hòa dưới thuận, thì đường Đạo sáng rõ không còn chỗ nào cho vọng niệm tà tâm xen vào làm cho lòng người điên đảo được.
1.- Đối với chánh quyền:
Ngày 17 tháng giêng năm Bính Thân (tức là ngày 28/2/1956), Hội Thánh có ký kết với chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa một bản thỏa ước gọi là thỏa ước Bính Thân. Do thỏa ước này chánh phủ nhìn nhận Đạo Cao Đài Tây Ninh được tự do truyền bá và tự do hội họp cúng kiến theo phép Đạo và Hội Thánh nhìn nhận không làm chánh trị trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
Vậy kể từ năm Bính thân (1956) Đại Đạo đã được hợp pháp hóa.
Nhắc đến sự kiện lịch sử này tôi xin chư thiện tín lưu tâm về mấy đoạn trích lục dưới đây trong bài diễn văn của Ngô Tổng Thống đọc tại Tòa Thánh Tây Ninh trong dịp lễ kỷ niệm thỏa ước Bính Thân (7/2/ âl – 18/3/56 dl).
…
“Tôn giáo và Chánh trị là hai vấn đề khác nhau, nhưng Đạo phải có Đời, Đời phải có Đạo.
…
Không có trật tự an ninh thì làm sao cho có tự do truyền giáo, tự do hành Đạo. Nhiệm vụ của Chánh quyền phải giữ trật tự, khuyến thiện trị ác, tôn giáo mới đảm bảo, tự do mới cụ thể.
Tôn giáo chánh đáng chủ trương tôn trọng giá trị phi phàm của nhơn vị, bồi dưỡng thuần phong mỹ tục. Hóa dân thành tục. Như thế là giúp đời một cách hữu hiệu”.
…….
Trên đây là những lời vàng tiếng ngọc khuyên nhủ Đạo và Đời cần tương đắc trên lãnh vực duy trì bảo hộ an ninh, trật tự và tự do. Về phương diện này Chức Sắc hành Đạo ở các địa phương có trách nhiệm giữ mối tương liên với nhà cầm quyền sở tại và vùa giúp cho được dễ dàng trong công cuộc cộng đồng kiến quốc. Về phần Đạo thì mọi hành vi phải chánh đại quang minh, tránh mối hoài nghi, lấy chơn thật mà làm đường giao thiệp.
Vậy thì đắc lịnh hành sự nơi một địa điểm nào, vị Chức Sắc nên ân cần sự viếng thăm nhà chức trách. Khâm Châu Đạo thì viếng thăm Tỉnh trưởng, Đầu Tộc thì viếng Quận trưởng, Bàn Trị Sự viếng Hội đồng xã. Phép lịch sự trong cách xã giao buộc như thế, và đó cũng là chánh sách gây thiện cảm.
2.- Đối với nhơn quần xã hội:
Giữa thế kỷ XX này, bức tranh xã hội hoàn cầu không ngớt đượm màu vui tươi xen sắc buồn tủi, mãi phô bày hết sống còn của nhơn loại trong tiếng khóc pha lẫn giọng cười, cho đến ngày hôm nay bao nhiêu tang thương nơi nầy nơi nọ chưa hồi tỉnh lòng người trần tục.
Nguyên do vì xã hội đang lâm vào tình trạng khốn đốn không đấu tranh lấy gì bảo đảm sự sống còn lại thêm có nhiều lý tưởng tương phản nhau làm cho thiên hạ đảo huyền khiến ra nhơn tình thế thái, đạo lý bỏ rơi, luân thường không giá trị. Vì vậy Đại Đạo ra đời hầu cứu độ sanh linh bớt đồ thán và cho đặng cứu vãn tình thế nguy nan, chúng ta hãy đoái lại số phận từng cá nhân trong xã hội. Xét về phương diện tinh thần thì cá nhân là một vật yếu ớt trong toàn thể, vì bởi đã hấp thụ tập quán, hay tánh tình chung, thì cá nhân rất dễ để cho xã hội hướng dẫn. Như xã hội dung nạp một tín ngưỡng nào thì cá nhân đồ theo một lối đó, không kịp lấy lý trí suy nghĩ trước sau, hoặc bị lôi cuốn mà không đủ sức kháng cự. Một khi tín ngưỡng căn cứ vào tình cảm rồi, thì không ai lấy lý luận mà làm cho lay chuyển nổi, mặc dầu tín ngưỡng ấy không chánh đáng.
Gặp những trường hợp bất khả dụng tài biện thuyết đặng chinh phục nhơn tâm, thì vị Chức Sắc truyền giáo phải khôn khéo thay đổi chánh sách lý luận bằng chánh sách gây tình cảm. Có tình cảm rồi thì phần tử xã hội kia không còn do dự mà không quy về Chánh giáo.
Đấy là cơ hội phải dùng thuật tâm lý, biết người biết ta mới mong thành công trên con đường phụng sự nhơn quần xã hội.
CHUNG
CÁO BẠCHNơi cuối tài liệu nầy có thêm phần “văn thư và bút toán” dành cho khóa huấn luyện Giáo Hữu năm Mậu Tuất (1959). Những tài liệu gồm có các mẫu Tường trình, Phúc sự, các mẫu vi bằng hội nhóm... và Sổ sách kế toán về thu chi ... ứng dụng cho những thập niên 50 và 60 của Thế kỷ XX. Nay gần hết thập niên đầu của Thế kỷ XXI, Hội Thánh đã thay đổi ... Hơn nữa đây là phần việc của các Đầu phòng văn và Hộ vụ, còn các vị Đầu Họ, Đầu Tộc chỉ kiểm soát nhắc nhở mà thôi. Nên chúng tôi xin tạm cắt phần nầy để đỡ bớt chi phí của ấn phẩm. DÃ TRUNG TỬ |
Hiệu đính theo chánh tả hiện hành: Việt Nam Tự Điển của Lê Văn Đức, Lê Ngọc Trụ do nhà sách Khai Trí xuất bản tháng 4 năm 1970.◙
) )( __)_(__ __(_____)__ (((_________))) ) ׀ ( |
MỤC-LỤC
|
|
|||||
Tài liệu kính biếu. |