|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
Tham chiếu quý Thánh thơ số 16/ÐS ngày 12-6-1970.
Kính Hiền Huynh, Theo đề nghị của Hiền Huynh tôi chấp thuận cho Ban Ðạo Sử xuất bản để phổ biến những Bài Thuyết Ðạo tại Tòa Thánh của Ðức Hộ Pháp từ năm 1946 đến năm 1955. Những bài giảng được chọn để ấn hành phải có sự kiểm duyệt của Ban Kiểm Duyệt Kinh Sách. Nay kính, TÒA THÁNH, ngày 14 tháng 5 năm Canh Tuất. Thượng Sanh
Lời TựaNhững bài Thuyết Ðạo trong quyển sách nầy là lời vàng tiếng ngọc của Ðức Hộ Pháp, một vị Giáo Chủ của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, một bậc vĩ nhân của thế hệ, nên một Ủy Ban sưu tầm và biên tập thành lập có Ðức Thượng Sanh chấp thuận, để xúc tiến việc sưu tầm biên tập và ấn tống các bài Thuyết Ðạo ấy. Nay cuộc sưu tầm và biên tập đã có kết quả mỹ mãn, nên Ủy Ban đem ra ấn tống cho toàn Ðạo được thưởng thức lời vàng tiếng ngọc nói trên. Trong Ban Ðạo Sử của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ đã có sẵn một Thư Viện tàng trữ các loại Kinh Sách cổ kim và Ðông Tây cho các nhà khảo cứu và toàn Ðạo có thêm tài liệu. Những quyển "Lời Thuyết Ðạo" của Ðức Hộ Pháp cũng sẽ lưu trữ vào Thư Viện nầy để chư đọc giả đến xem. Ðức Hộ Pháp là một trong các vị tiền bối khai sáng nền Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, đã thực hiện trước hết chủ thuyết Tam Lập: "Lập đức, lập công, lập ngôn". Về lập đức, thì Ðức Ngài là người đầu tiên đã nghe theo tiếng gọi thiêng liêng mà khai sáng mối Ðạo cho toàn sanh chúng được chung hưởng hồng ân của Ðức Chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Ðế. Về lập công, thì Ðức Ngài vừa lập đức vừa lập công trong việc khai sáng. Từ cái không mà làm ra cái có, bắt gió nắn hình tạo thành một đại nghiệp Ðạo ở cõi thế nầy. Nếu Ngài không phải là một đại đức thì làm sao thành công được? Về lập ngôn, thì Ðức Ngài lưu lại lời vàng tiếng ngọc trong các bài Thuyết Ðạo mà chúng ta đang thưởng thức và còn nhiều lời giáo huấn cao siêu khác nữa mà chư quí đọc giả và toàn Ðạo nên lưu ý. Nhơn danh Hiến Pháp Hiệp Thiên Ðài kiêm Trưởng Ban Ðạo Sử, tôi xin trân trọng giới thiệu cùng đọc giả bốn phương quyển sách quí giá nầy đáng được lưu niệm mãi mãi. Trân trọng kính chào. Hiến Pháp TRƯƠNG HỮU ÐỨC
Lời Trần Thuyết của Ban Tốc KýMỗi lần ly loạn là mỗi lần thư tịch bị làm mồi cho binh lửa. Nhìn vào lịch sử, những vụ "Phần Thư", những vụ chiếm đoạt thư tịch đã xảy ra như một hệ luận trước những biến cố. Tình trạng nầy đã kéo dài qua các thời đại ấy là biện pháp của những kẻ mạnh nhắm vào mục đích thực hiện chính sách ngu dân và đồng hóa triệt để. Những kinh nghiệm đau thương ấy là nguyên nhân thúc đẩy chúng tôi cố gắng thực hiện công việc sưu tập những tài liệu nầy. Chúng tôi nghĩ: Nếu tài liệu kinh sách chỉ được tập trung tàng trữ vào một chỗ tránh sao cho khỏi bị hủy diệt khi kẻ cường quyền cướp đến phá. Do đó chúng tôi quyết định quây ra làm nhiều bản để gởi đến và ký thác vào những tâm hồn trung kiên với Ðạo, những người dám chết để bảo tồn những tiếng nói của Ðấng thay Trời dạy Ðạo. Nếu một mai thời cuộc lại biến thiên, có thể các cuộc "Phần Thư" lại diễn thì thiết tưởng trong số tài liệu nầy vẫn còn có nhiều người nhiệt tâm gìn giữ được vẹn toàn. Ðây không phải là việc làm của cá nhân hay một đoàn thể nhưng là một sự đóng góp chung của những người vô danh, nguyện đem hết năng lực của mình để phụng sự cho lý tưởng bảo tồn truyền thống giáo lý của Ðạo. Trong khi quyển tài liệu nầy đến tay quí vị thì cũng đã có người vì quá hăng say trong công việc thực hiện lý tưởng mà phải lao tâm kiệt sức hóa ra người thiên cổ. Việc làm của chúng tôi không phải là một ý nghĩ nông nỗi của một sớm một chiều, nhưng là một hoài bảo trong suốt thời gian ly loạn. Chúng tôi hằng cầu nguyện Ðức Chí Tôn và Phật Mẫu ban bố phước lành sớm gặp dịp may để thực hiện hoài bảo ấy. Ngày nay chân trời đã rạng tỏ, ý nguyện đã đắc thành. Chúng tôi xin hiến dâng trọn vẹn cho Hội Thánh tất cả những tài liệu mà chúng tôi đã ghi chép, góp nhặt sau bao nhiêu năm theo đuổi mục đích bảo tồn những lời vàng tiếng ngọc của Ðức Hộ Pháp. Từ đây bản quyền nầy sẽ tùy thuộc hoàn toàn của Hội Thánh. Kính xin Hội Thánh kiểm duyệt và ấn hành, để cho mọi người đều được nghe lời dạy dỗ đầy yêu ái của Ðức Hộ Pháp, đã dành cho chúng ta trong thời gian Ðức Ngài còn tại thế. Tòa Thánh, ngày rằm tháng 6 năm Bính Ngọ (1966) Ban Tốc Ký
Q.1/01: Lời Tiên tri của Ðức Lý Giáo Tông.
Thuyết đạo tại Báo Ân Từ, đêm rằm tháng 9 năm Bính Tuất (1946)
Trong năm Bính Dần (1926) Ðức Chí Tôn giáng trần khai Ðạo phổ hóa chúng sanh làm lành, lánh dữ, tức là Cơ Quan Cứu Thế. Khi mà Ðạo đã truyền bá khắp các Tỉnh rồi, qua đến ngày Rằm tháng 6 năm Ðinh Mão (1927) Ðức Lý Giáo Tông cấm cơ bút, thì chư vị Chức Sắc Ðại Thiên Phong không rõ tại sao, nhứt là Ðức Quyền Giáo Tông có lòng sở mộ về cơ bút đã trải qua một thời gian lắng nghe lời Thánh Giáo, nên Ðức Quyền Giáo Tông định cầu Diêu Trì Kim Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương đặng học hỏi về Ðạo đức. Ðến ngày 14 tháng 11 năm Ðinh Mão, Ðức Lý Giáo Tông mới giáng cơ thì xem hình như Ngài có đại nộ, mà chẳng hiểu Ngài giận việc chi, Ngài mới cho một bài Thánh Giáo như vầy: "Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư chúng sanh, hảo hội hiệp. Thảm cho nhơn loại, khổ cho nhơn loại! Ðời quá dữ, tội tình ấy, hình phạt kia cũng đáng đó chút. Lão vì thương yêu nhơn sanh hội 10 ngày nơi Bạch Ngọc Kinh cải cho qua nạn nhơn loại, nhưng luật Thiên Ðình chẳng dễ chi sửa đặng. Nạn tiêu diệt hầu gần, hết chém giết lẫn nhau, đến buổi bịnh chướng sát hại. Lão thấy hình phạt phải châu mày, nhưng ôm lòng rán chịu, lạy lục khẩn cầu; chư Ðạo Hữu đâu rõ thấu, ngơ ngơ ngáo ngáo như trẻ không hồn, thấy càng thảm thiết. Lão tưởng chẳng cần nói chi một nước nhỏ nhen đã đặng danh Thánh Ðịa là Nước Nam nầy, mà Lão xin không đặng tội cho Thành Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Ðịnh, Huế, Hải Phòng, Hà Nội... Thảm! Thảm! Thảm!" Ðây là lời tiên tri đã trải qua 20 năm trường đến ngày nay kết quả vẹn toàn trước mắt nhơn sanh đều thấy rõ. Ðức Lý Giáo Tông, Ngài định phạt Ðức Quyền Giáo Tông 10 hương, Hộ Pháp 5 hương, ông Phối Sư Bính 5 hương, xét kỹ ra là Ðức Ngài giận ai chớ chẳng phải giận anh em tôi đâu. Tiếc thay cho nhơn sanh, chớ chi trong thời kỳ Ðại Ðạo hoằng khai, mà để tâm tín ngưỡng chung thờ một Tôn Giáo, tròn giữ theo Luật Pháp của Ðạo, lo trau giồi đức hạnh, làm phải làm lành, liên lạc thương yêu, thuận hòa cùng chung, thì nay đâu có lâm nạn đao binh như thế. Trái lại, Chức Sắc Thiên Phong là người cầm phướn chiêu hồn dìu dắt chúng sanh thoát khổ, mà đi đến đâu đều bị họ chê bai, biếm nhẻ, kích bác, hân hủi đủ thứ, Chức Sắc Hội Thánh đem hồng ân của Ðức Chí Tôn rải khắp các nơi cho nhơn sanh chung hưởng, mà họ coi như vật thường, không có giá trị gì, họ đã mài miệt chạy theo khoa học, chú trọng về văn minh vật chất, chớ không hấp thụ được đạo đức tinh thần, họ đeo đuổi theo nguồn tranh đấu là cơ tự diệt, chớ nào rõ biết cơ bảo tồn qui cổ là gì, mãi đến ngày nay mà họ cũng chưa tỉnh. Còn nói về phần chư Môn Ðệ của Ðức Chí Tôn, từ buổi đem thân vào cửa Ðạo trong lúc nhập môn đã quì trước Bửu Ðiện có bàn Ngũ Lôi, mà lập minh thệ rằng: "Từ đây tôi biết một Ðạo Cao Ðài Ngọc Ðế, chẳng đổi dạ đổi lòng, hiệp đồng chư Môn Ðệ, gìn Luật lệ Cao Ðài, như sau có lòng hai thì thiên tru địa lục". Than ôi! Cho những người thề như vậy, mà cũng không để trọn đức tin nơi Chí Tôn lại thối bước ngã lòng, cổi áo Ðạo, dẹp khăn tu, mong mãi xu hướng theo con đường tục lụy, cho nên mới gây tạo ra con đường lằn súng mũi đạn ngày nay. Vậy, ai là người thất thệ với Chí Tôn thì phải sớm thức tỉnh tâm hồn, ăn năn sám hối, cầu xin Ðại Từ Phụ cùng các Ðấng Thiêng Liêng, từ bi ân xá tội lỗi tiền khiên, họa may đặng chung hưởng ân huệ của Ðức Chí Tôn ban cho sau nầy. Ngày nào toàn thể nhơn sanh đều biết hồi đầu hướng thiện, nhìn Ðạo Trời là một Cơ Quan Cứu Thế, thật hành chủ nghĩa thương yêu cho ra thiệt tướng thì ngày ấy mới đặng hưởng hòa bình đại đồng thế giới.
Phụ ghi:
Q.1/02: Vấn đề Nho Giáo.
Báo Ân Từ, đêm 30 tháng 9 năm Bính Tuất (1946) hồi 12 giờ khuya
Nhắc lại Thầy Mạnh Tử khi qua yết kiến Vua nước Lương, ông Huệ Vương hỏi Ðức Mạnh Tử: Lão già chẳng nệ đường xa muôn dặm sang đến nước Quả nhân có chỉ giáo điều chi hữu lợi chăng? Thầy Mạnh Tử đáp rằng: Tôi chỉ biết nói đến nhơn nghĩa mà thôi, chớ không nói về lợi, nếu trong nước mà dục vọng về sở lợi, thì đình thần có trăm hộc lại muốn có thêm ngàn hộc, thượng hạ đại phu có ngàn hộc lại muốn có muôn hộc, còn vì Thiên Tử đã có dư muôn hộc, lại muốn có thêm triệu hộc. Nếu trong nước mà cầu lợi như thế, thì bá tánh phải chịu lao lung, muôn dân đồ thán, trong nước thế nào bình trị được? Còn như trong nước biết chú trọng đạo nhơn nghĩa, thì toàn thể quốc dân đặng chung hưởng mọi điều hạnh phúc, lạc nghiệp âu ca. Thầy Mạnh Tử thuyết minh đủ mọi điều lợi, hại rồi thì Vua Huệ Vương chịu nạp dụng. Hiện nay là buổi kim tiền, ưu thắng liệt bại, mạnh đặng yếu thua, khôn còn dại mất, con người trên mặt thế đều bôn xu theo quyền lợi chẳng kể gì nhơn nghĩa đạo đức, tinh thần, nên mới có nạn chiến tranh tương tàn, đồng chủng giết hại lẫn nhau, hằng ngày diễn ra nhiều tấn tuồng thảm thương, bi kịch, xem thôi mỏi mắt, nghe đã nhàm tai, khiến cho giọt lụy thương tâm của khách ưu thời mẫn thế không thể nào ngưng được. Chức Sắc trong Ðạo đem hột giống nhơn nghĩa gieo khắp các nơi, mà nhơn sanh không ưng nạp, bởi họ không biết cái năng lực của họ mạnh mẽ thế nào, không cần để ý đến, chớ chi họ trọng dụng đạo nhơn nghĩa thử một thời gian coi có hiệu quả gì chăng? Nhắc lại lời Thánh Giáo của Ðức Chí Tôn có dạy về chữ Nhơn... Nhơn là đầu hết các hành tàng, Ngày nào toàn thể quốc dân mà biết thực hành hai chữ nhơn nghĩa cho ra chơn tướng, thì chẳng luận là xã hội nào cũng được hưởng mọi điều hạnh phúc, đời chiến tranh sẽ trở nên thái bình an cư lạc nghiệp.
Phụ ghi:
Q.1/03: Vấn đề Bác Ái Từ Bi.
Báo Ân Từ, ngày rằm tháng 10 năm Bính Tuất (1946)
Từ xưa đến nay các nhà Tôn Giáo đem chữ từ bi bác ái phổ hóa nhơn sanh, cốt yếu là để bảo tồn sanh mạng của quần chúng, gầy lại sự hạnh phúc cho đời chung hưởng. Chữ từ bi bác ái chẳng lạ gì. Bần Ðạo nói ra thì chư Chức Sắc nam, nữ Chức Việc Ðạo Hữu cũng đều hiểu rõ. Cái nghĩa lý của bốn chữ từ bi bác ái cũng không phải là sâu xa mắc mỏ gì, từ lớn chí nhỏ làm được tất cả mà tiếc thay cho nhơn sanh không chịu thực hành. Từ bi là gì? Bác ái là gì? Bần Ðạo xin được giải chữ Từ bi ai ai cũng đều có sẵn trong tâm, trẻ con nên năm bảy tuổi thì nó đã biết sự thương yêu cha mẹ, thương yêu anh em là người thân tộc gần gũi của nó, khi nó đã trưởng thành có vợ con, bậu bạn thì nó lại thương yêu rộng ra hơn nữa, một khi đã thấy sự đau khổ hoạn nạn, tai ương của quần chúng thì nó cảm hóa xúc động đến tâm thương yêu lan tràn ra, không biết đâu là giới hạn, ấy là tánh từ bi đó. Còn Bác ái là thể theo lòng Trời Phật thương yêu toàn cả chúng sanh không biết đâu là bờ bến, thấy chúng sanh làm được việc gì có đạo đức nhơn nghĩa, thì Trời Phật vui mừng thương yêu chẳng xiết, ấy là Bác ái. Hiện nay nhơn loại thiếu sự từ bi bác ái cho nên tạo ra trường tranh đấu, quyết chiến với nhau, sát hại đồng bào tương tàn cốt nhục, Ðức Chí Tôn giáng trần hoằng khai Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ là cốt yếu đem chủ nghĩa từ bi bác ái làm tôn chỉ, để cho nhơn sanh theo đó mà làm một cơ quan bảo tồn tánh mạng và bảo an quốc thể được hòa bình. Ngày nào toàn cả quần chúng, đồng bào biết giác ngộ, tu tỉnh hiệp nhứt tâm thực hành chủ nghĩa từ bi bác ái cho ra chơn tướng, thì nhơn sanh sẽ đặng chung hưởng mọi điều hạnh phúc, chẳng luận quốc dân nào, xã hội nào mà toàn cầu thế giới cũng được thọ hưởng cái hạnh phúc ấy.
Phụ ghi:
Q.1/04: Tự Tín, Tha Tín, Thiên Tín.
Báo Ân Từ, đêm 10 tháng 11 năm Bính Tuất (1 giờ 46)
Ðức tín chia ra làm ba phương diện:
1/. TỰ TÍN là gì? Là mình tin nơi sở sanh của mình có thể bảo đảm được sanh mạng cho mình. Con người từ buổi ấu thơ đã biết ăn, biết nói thì biết thương cha mẹ anh em. Ðến lúc trưởng thành cha mẹ dạy bảo công việc làm ăn, cho đến sự ở đời, giao thiệp cùng xã hội nhơn quần, việc nào lợi, điều nào hại, cha mẹ đã chỉ vẽ phân minh cũng như có một quyển sách lập thành để làm căn bản. Ngoài ra hằng ngày ta đã nghe và thấy các tấn tuồng của đời diễn ra từ lớp, hay dở tốt xấu, lành dữ, hư nên ta mới lấy đó mà kinh nghiệm kỹ càng rồi mới lọc lược cái hay, cái khéo ở trong đó mới lập lại làm với một quyển sách của cha mẹ dạy ta từ thử, rồi ta mới đem lên trên Linh Ðài, ta sẽ do theo đó mà làm mực thước cho sự hành vi của ta và ta đủ đức tin nơi đó, là cơ bảo tồn lấy thân ấy gọi là tự túc nơi đó tự tín nghĩa là tu thân. 2/. Còn THA TÍN nghĩa là gì? Là ta biết quan tiền vũ hậu, ta tin nơi ông Thầy dạy ta học các bài vở để lập thân cho nên người cao quí, lại có nhiều người trong xã hội chẳng phải họ cố ý dạy ta học, nhưng cái sở hành của họ, mọi điều phải trái lành dữ tội phước, thì nó thường hiện ra trước mặt ta, đó là một bài học, nên chú ý, rồi ta mới gồm tất cả mọi sự hành vi của người đời, ta sẽ lập lại làm quyển sách thứ nhì nữa, ta mới cân phân, lừa lọc, tuyển chọn điều hay lẽ phải, ta đem để lên Linh Ðài (tức là khối óc của ta) đặng làm phương pháp bảo vệ trường tồn tánh mạng của ta ấy là Tha tín. 3/. Tự tín và Tha tín chưa đủ hoàn toàn phải có THIÊN TÍN là trọn đức tin nơi Chí Tôn có đủ quyền bảo hộ sanh mạng của ta và toàn thể chúng sanh nơi mặt thế. Nếu để trọn đức tin nơi Chí Tôn và tuân theo bài học của Ðức Chí Tôn dạy từ bi bác ái, nhơn nghĩa thuận hòa, và tất cả đem vào hai quyển sách nói trên hiệp lại thành một khối đức tin đặc sắc, ta mới dựng lên để tên Cao Ðài rồi ta do đó mà thi hành cho chu đáo, ấy là cơ bảo tồn trường cửu của ta và tất cả nhơn loại. Nếu có cái Tự tín và Tha tín là cái năng lực hữu hình, mà không có Thiên tín là Huyền pháp vô vi, thì cái năng lực ấy nó sẽ cuốn lôi theo cơ tự diệt, vì vậy nên ta phải có đủ đức tin nơi Chí Tôn, phải trọng mạng sống của con người, bởi Ðức Chí Tôn hóa sanh một người là một vật báu của Ngài. Nếu ai tàn sát cho tiêu loài vật báu ấy thì phạm Thiên điều tức là đại tội. Ngày nào toàn thể nhơn loại trên mặt thế giới nầy, mà có đủ đức tin nơi Chí Tôn và thật hành y theo chủ nghĩa "Từ Bi, Bác Ái, Nhơn Nghĩa" cho được hoàn toàn thì mới mong chung hưởng đời thái bình hạnh phúc, ấy là gầy lại đời Minh Ðức, Tân Dân tái lập Tân Thế Giới.
Phụ ghi:
Q.1/05: Ðãi tiệc công thợ, giải nghĩa về con đường thứ ba Ðại Ðạo.
Khách Thiện Từ trước bữa đãi tiệc công thợ.
Muốn đi con đường thứ ba phải tập mình đừng ham muốn chi cho mình nữa, hành tàng của Chí Tôn là phận sự của mình, phải yêu ái hiếu hạnh cùng Chí Tôn và Phật Mẫu. Cái yêu ái và hiếu hạnh ấy phải là phi thường do tâm linh điều khiển, phải thương yêu nhơn sanh và vật loại hơn mình và coi đồng thể, đồng sanh với mình. Phải tạo dựng cố thủ Thánh tâm cho nên Chí Thánh, và đạt cho đủ ba ngàn công quả thì sẽ đi đến, lướt đặng và vững vàng thắng muôn điều trở ngại.
Phụ ghi:
Q.1/06: Phát thưởng cho học sinh.
Huấn từ nhân lễ bãi trường và phát thưởng cho học sinh trường Lê Văn Trung (1946)
Về nhiệm vụ của người con dân lúc quốc gia hữu sự, một điều quan trọng mà tất cả các thanh niên học sinh cần phải biết, đó là quốc thể của một nước, tức là sự tập hợp của một khối cá thể của những cá nhân nước ấy. Vậy thì, mỗi công dân một nước phải có một cá thể đã. Cá thể của một người tức là nhân cách và nhân phẩm của người đó vậy. Mà muốn cho cá thể xứng đáng thì ông cha chúng ta đã để lại cho hai chữ vô cùng quí báu ấy là Tu Thân vậy.
Q.1/07: Khai Hội Nhơn Sanh.
Ngày 1 tháng chạp năm Bính Tuất (1946)
Thưa cùng chư Nghị Viên và Hội Viên Lưỡng Phái, Ðã trót 5 năm dư, Bần Ðạo bị đồ lưu nơi hải ngoại, thì đã từng chịu biết bao nhiêu là sự đau khổ tâm hồn, nỗi lo cho tương lai của Ðạo, nỗi sợ cho vận nước tránh không khỏi nạn chiến tranh loạn ly, nặng nơi lòng một tình thương nhớ cả con cái của Chí Tôn trót triệu chơn linh của Người giao gìn giữ. Bần Ðạo chẳng cần minh tả thì chư Hiền Hữu, Hiền Muội cũng rõ từ trước ta đã chán thấy nhãn tiền rằng: Chỉ có thương một người mà năng lực tình ái ấy cũng đủ làm cho phải hủy mình mà tùng mạng lịnh của nó. Ôi! Cái mãnh lực tuy vô hình mà nó oai quyền rất dữ, Bần Ðạo nếu chẳng đủ tinh thần cường liệt nương lấy đức tin thì e nó đã giết hẳn mạng sanh của Bần Ðạo một triệu lần mới phải. Hễ cùng chia đau thảm nghèo khổ, hèn tiện có bao nhiêu thì cường lực tình ái càng tăng nhiệt độ thêm cao hơn nữa. Bần Ðạo đã quyết thắng, thắng đặng sống, sống vì Thầy vì Ðạo vì yêu con cái của Người. Bần Ðạo thiệt là người đã phục sanh với một quyền Chí Thánh đó vậy. Về tổ quốc sau khi đã chịu đủ vị thảm sầu, tưởng đã đủ cớ phô bày cho cả chúng sanh thấy đặng rõ ràng chơn tướng của Ðạo, đã nung chuốt với sự thảm khổ vô hạn của mình đặng vẽ vời giọt huyết lệ, hai chữ nhơn nghĩa cho đời; nào dè trái lại thấy chan chán trước mặt một tấn tuồng bi thảm, nước mất nhà tan, xương chồng máu đổ. Một trường sát khí bao trùm toàn quốc, gươm tử thần vùn vụt khắp nơi, làm cho con cái không cha, tớ không thầy, vợ không chồng, cốt nhục tương tàn, nhân dân đồ thán. Con hạc lạc hồi quê, nhìn không nhớ tổ, xem nước non đổi vẻ thay màu, thảm thiết nơi lòng tuôn châu đổ ngọc, sắp muốn kêu cùng cuối một tiếng nỉ non giục kẻ tri âm hồi đáp. Ôi! Dưới bức thê lương nầy ai là tri kỷ, tri âm cùng Bần Ðạo, ngoài ra chư Hiền Hữu, Hiền Muội thì Bần Ðạo đã kiếm đặng ai. Tưởng khi các bạn cũng có lẽ tội nghiệp cho con hạc bịnh nầy, mà để tai lóng tiếng. Ôi! Cái khối sanh của Chí Tôn đã xiêu lạc nơi nào mà để hai sắc con yêu ái của Người phải chịu nạn tương tàn như thế!... Bần Ðạo ngày nay hiển nhiên đứng trước mắt các bạn mà còn ngỡ là giấc chiêm bao. Vậy Bần Ðạo cúi mình cậy các bạn một điều rất nên yếu thiết là: Hòa giọng đau thương cùng con hạc lạc nầy đặng giục lòng bác ái một cảnh an nhàn thiêng liêng cho toàn sanh chúng. Bần Ðạo đã nhiều lo ngại cho căn số con cái của Chí Tôn trong buổi phiêu lưu nơi hải ngoại, e ra vì nhẹ dạ của đôi phần tử Thánh Thể của Thầy, nên vừa để gót về đất Tổ Ðình thì đã quên hẳn mảnh thân tiều tụy hao mòn, vội cầm quyền của Ðạo đặng sửa đương cho đẹp vẻ chơn truyền, rồi lại tìm phương hiểu tận những điều khuyết điểm, hư hại hầu giồi mài thêm nữa, nên tức cấp mở Hội Nhơn Sanh đặng phục vụ quyền Vạn Linh như trước. Bần Ðạo để trọn tín nhiệm nơi các bạn, Bần Ðạo xin mở Hội.
Phụ ghi:
Q.1/08: Khai mạc Ðại Hội Phước Thiện.
Ngày rằm tháng chạp năm Bính Tuất (1947)
Ngày nay, nhóm Ðại Hội Phước Thiện cũng là một Hội trong quyền Vạn Linh, Bần Ðạo cần giải rõ cái nhiệm vụ rất trọng yếu của Phước Thiện cho Chức Sắc, chư Phái Viên và Nghị Viên được hiểu. Từ thử Thiên Phong nam, nữ Phước Thiện chỉ hiểu mảy may cái trách nhiệm tối cao tối trọng của mình chớ chưa hiểu cùng tột. Bởi cớ cho nên nhiều người không hiểu phận sự, hành Ðạo không đúng theo chơn truyền, sái hẳn giá trị của Cơ Quan Phước Thiện, việc làm của chư vị không ra gì hết, thành thử Cơ Quan Phước Thiện chưa có kết quả chi, lại còn theo lối giành giựt nhau. Hội Thánh có hai Cơ Quan: Hành Chánh và Phước Thiện thường tương khắc nhau, song chưa tìm chơn lý để hòa nhau, ngày nào chưa hòa nhau là còn thất sách, bất lực thì không thi thố phận sự trọng yếu cho ra thiệt tướng được. Mấy em cũng dư biết Ðạo Cao Ðài sản xuất có một Chơn Lý tối cao, tối trọng nên đời buổi nầy khao khát đợi chờ như hạn trông mưa, những kẻ tội tình trong bể khổ khát khao đợi giọt Cam Lồ của Ðức Chí Tôn chan rưới cho bớt sự đau thảm. Ðức Chí Tôn đến tạo Ðạo giải khổ tâm hồn cả con cái của Ngài, Ðức Chí Tôn lại tạo ra hình ảnh Thánh Thể của Ngài, mượn tay các em và các bạn làm hình thể của Ngài, giải khổ cho đời về phần xác. Phước Thiện lại có nhiệm vụ tối cao, tối trọng của Ðức Chí Tôn: Giải khổ vừa xác vừa hồn, Ngài mượn mấy em nuôi nấng con cái của Ngài, nuôi đói, nuôi khát, bảo trợ giúp đỡ cho kẻ nghèo nàn cô độc. Chừng nào cả Cơ Quan khóc hại của loài người mình gánh vác hết thì mới đúng cái nhiệm vụ của Chí Tôn phú thác, mấy em thử tự hỏi: Hồi nào đến giờ làm nên những gì chưa? Chỉ lo bảo bọc anh em trong Ðạo mà thôi, có đâu ngó đến ngoài Ðời. Các vật loại đều là con cái Chí Tôn, chớ không phải nội trong cửa Ðạo mà thôi, như thế có đủ đâu? Cơ Quan giải khổ của Chí Tôn cậy nhờ mấy em lo, nuôi mấy em còn chưa rồi. Từ ban sơ Qua chịu nhọc nhằn hẩm hút, ăn từ miếng tương rau hiệp cùng nhau gầy dựng lập Phạm Môn, Qua chịu khó nhọc như mấy em cho đến ngày Cơ Quan Phước Thiện ra thiệt tướng, đã tạo đủ lực lượng cho mấy em thi hành nhiệm vụ. Tuy vân, lúc nọ mấy em có phương thế lắm mà mấy em chỉ có tâm vị kỷ, trót năm năm, Qua đi vắng đến khi Qua trở về, Qua còn thấy có kẻ đói không ai nuôi, rách rưới không ai bảo dưỡng, thất lạc nơi nầy nơi khác, đoàn em Qua gởi gấm đã xiêu lạc, thủ phận Ðạo không được, nên phải tìm đôi bạn sống theo Ðời, vì nếu ở thủ phận theo Ðạo thì cũng chẳng ai nuôi. Ngoài nữa, Qua còn nghe, trong lúc Qua đi đứa nào có thế thì tự vi chủ, giành lấy cam một mình để toại hưởng vậy thôi. Hỏi vậy mấy em có nghĩa hay không? Nếu Qua cho Tòa Ðạo minh tra thì không có một người nào có thể đứng trước mặt Qua mà xưng là đại công được, cái đói khó cùng khổ của các em nó tố cáo mấy em không còn chối cải được. Qua nói thật, thể Ðạo chưa rồi thì có mong gì tạo thành chơn tướng của Ðạo. Phải chi mấy em biết nghe lời, Qua mở cửa Bát Quái Ðài cho mấy em làm bạn với các Ðấng Thiêng Liêng thì không đến nổi nầy. Ngày nay cửa Ðạo được mở rộng đây cũng nhờ các Thánh Tử Ðạo, nếu không thì vẫn còn đóng cửa. Nếu mấy em xem đáng, thì Qua mở cửa cho các Ðấng Thiêng Liêng dìu đỡ mấy em. Qua nói cho mấy em hay, Qua đang ngồi đây các Ðấng ở Bát Quái Ðài còn đợi mấy em và chính Qua sẽ dìu dắt, kêu cửa Bát Quái Ðài cho mấy em về làm bạn thân yêu của các Ðấng Thiêng Liêng. Nếu mấy em làm phận sự không tròn và còn một mảy phàm tâm, thì cõi Hư Linh không đem mấy em vào bảng công nghiệp vĩ đại bao giờ. Các em có làm trọng trách đối với con cái Chí Tôn, thì Bát Quái Ðài mới hiệp một cùng mấy em vậy. Mấy em chưa nắm được hoàn ngọc thì chưa đủ bảo toàn Vạn Linh con cái của Chí Tôn. Qua nói Qua sẽ mở cửa Bát Quái Ðài dìu dắt mấy em mà mấy em có đến được cùng chăng là do tâm lý của mấy em đó. Ấy vậy mấy em phải rán sức, định tâm lấy tinh thần vi chủ nêu gương cho mấy em sau nầy đi theo. Nếu khối phàm còn trong óc mấy em thì không bao giờ đoạt mục đích tối cao, tối trọng được, phải có khối óc thiêng liêng mới mong thay hình Thánh Thể Chí Tôn đối với con cái Ngài là quần linh. Ðến đây Qua xin mở Hội, để trọn quyền Hội Thánh Phước Thiện đủ sáng suốt làm việc và Bần Ðạo để trọn tín nhiệm về việc cầu phong, thăng thưởng một cách chánh đáng và công bằng.
Phụ ghi:
Q.1/09: Sự cầu nguyện.
Báo Ân Từ, đêm 24 tháng chạp năm Bính Tuất (1947)
Sự cầu nguyện có cảm ứng với Chánh Trị Thiêng Liêng tức là các Ðấng Vô Hình đều rõ biết mọi sự hành tàng nơi cõi thế, triết lý về hình thể của con người, thọ tinh cha huyết mẹ sản xuất ra, thì có sự cảm giác thiêng liêng đối cùng nhau rất mật thiết, cho nên một người con lúc đi làm ăn xa nhà, khi cha mẹ có bịnh hoạn hay xảy ra điều gì tai biến, thì thân thể của người con sẽ có điềm máy động; giựt thịt, máy mắt, hoặc là ứng mộng thấy rụng răng và các điều khác..v.v... đó là về phần tinh khí hình thức của con người, còn về phần linh tánh thì do nơi Ðức Chí Tôn ban cho nhứt điểm lương tâm, nó có cảm giác cùng Chí Linh, cho nên khi ta hữu sự thì thành tâm cầu nguyện. Nền Ðạo là một điều cảm ứng rất mầu nhiệm vô cùng, có câu: "Nhơn tâm sanh nhứt niệm, Thiên địa tất giai tri". Từ đây chư Chức Sắc và Chức Việc cùng Ðạo Hữu nam, nữ gắng thành tâm cầu nguyện cho nền Ðạo và cơ Ðời được an ninh trật tự, kể từ ngày nay cho đến Tân Xuân đầu năm Ðinh Hợi thì sẽ thấy sự tiến hóa phi thường và huyền linh mầu nhiệm, nếu toàn cả quốc dân mà đủ lòng tín nhiệm với quyền hành Chánh Trị Thiêng Liêng, hiệp nhứt tâm cầu nguyện, thì cơ loạn lạc sẽ trở nên an ninh trật tự, Ðời sẽ được cộng hòa chung hưởng mọi điều hạnh phúc...
Phụ ghi:
Q.1/10: Lễ thượng cờ tại sân vận động & Ý nghĩa lá cờ Quân Ðội Cao Ðài.
Ngày 8 tháng giêng năm Ðinh Hợi (1947)
Ngày hôm nay lá cờ của Chi Thế ra mặt với đời cùng cây Thư Hùng Kiếm của nó, y theo lời hứa của Ðức Chí Tôn lập cho nước Việt Nam một nền Quốc Ðạo, cơ quan cứu sanh cho vạn loại. Vì do sở định thiêng liêng và huyền diệu của Ngài nên người đời dễ chi biết được. Quân Ðội Cao Ðài là một đội binh thiêng liêng của Chí Tôn lập ra để bảo vệ cơ quan của Ngài. Tuy với mắt thường thấy cơ quan binh bị như thế nầy, chớ trong đó có đủ thiên binh, thần tướng vì mục đích bảo tồn thiên hạ mà biến ra vậy. Cái sở vọng của Bần Ðạo là Quân Ðội Cao Ðài có một tinh thần kiểu mẫu của những đội binh trên thế giới, có mục đích bảo toàn cho nhơn loại dựng lại hòa bình. Quân Ðội Cao Ðài không phải vì quyền lợi riêng mà tàn sát làm tiêu diệt thiên hạ. Bần Ðạo có lời yếu thiết căn dặn toàn Quân Ðội nên nhớ rằng: Lực lượng chúng ta dầu mạnh đến đâu cũng không thể chống lại lực lượng tàn sát phá hoại của bom nguyên tử được. Quân Ðội Cao Ðài phải hiểu cái mạnh của mình, mạnh vì lòng nhơn nghĩa và tánh nghĩa hiệp cứu đời. Vậy muốn dẹp được cái mạnh của bom nguyên tử thì chúng ta chỉ dùng cái mạnh của nhơn nghĩa và tính nghĩa hiệp mà thôi. Quân Ðội Cao Ðài ra thật tướng ấy là ý Thầy muốn cho Quân Ðội Cao Ðài làm kiểu mẫu những Quân Ðội Quốc Tế mà thành hay không do quyền năng của Chí Tôn. Vậy Quân Ðội Cao Ðài phải giữ gìn thanh gươm nghĩa hiệp, lá cờ nhơn nghĩa cho vững vàng. Ðược như thế thì quyền năng của Chí Tôn lúc nào cũng có trong Quân Ðội Cao Ðài vậy.
Giảng tiếp ý nghĩa tượng trưng của lá cờ Quân Ðội.
Nền vàng cốt yếu thuộc về Quốc Gia huỳnh chủng, gốc xanh da trời là lòng bao la quảng đại, trong có bánh xe lửa chín chia gọi là pháp luân thường chuyển, lại có ý nghĩa là Cửu Thiên Khai Hóa. Trong lá cờ có ba màu: vàng, xanh, đỏ ấy là Tam Giáo qui nguyên, Ngũ Chi phục nhứt, gọi là Bảo Sanh Kỳ (Lá cờ Bảo Sanh). Quân Ðội Cao Ðài có trách nhiệm thiêng liêng, làm cho đời được an ninh trật tự, đào tạo hạnh phúc cho nhơn sanh chung hưởng cốt yếu làm khuôn mẫu cho sự hòa bình, làm gương cả lân bang ngoại quốc. Hiện thời các nước liệt cường dùng khí cụ tối tân, cho đến bom nguyên tử, chỉ có tàn sát với nhau mà thôi, còn Quân Ðội Cao Ðài tức là một "Ðạo Thiên Binh" được toàn thắng, chỉ lưỡi gươm kiếm hiệp khử tà tôn chánh, diệt giả phò chơn, nương theo lá cờ bảo sanh mà thật hành nhơn nghĩa, thủ thắng về mặt đạo đức tinh thần, chẳng làm gì trái với lương tâm. Tóm lại, Quân Ðội Cao Ðài tức là một Cơ Quan Hòa Bình Thế Giái.
Phụ ghi:
Q.1/11: Lễ rước quả Càn Khôn.
Ðền Thánh, ngày 8 tháng giêng năm Ðinh Hợi (1947)
Ngày nay đã dời quả Càn Khôn về Ðền Thánh, Ðức Chí Tôn đã ngự nơi Ngai của Ngài, chúng ta nên mừng cho nhơn loại được ảnh hưởng nơi Ðền Thánh nầy mà tiến hóa mãi lên. Ðền Thánh kể từ đây không còn ai xem nó là vôi, cát, xi măng nữa, mà là một khối đức tin của toàn con cái của Ðức Chí Tôn đã tượng nên hình vậy. Nhờ những bàn tay khéo léo của mấy em, mấy con, thợ hồ, thợ mộc đã chịu đói rách khổ cực hơn 10 năm trường mới dày công đào tạo nên. Từ đây một sắc dân nào có đủ đức tin nơi Chí Tôn là Chúa Tể vạn loại thì dầu ở nơi phương trời nào, họ sẽ hướng về Ðền Thánh mà cầu nguyện hàng ngày hàng giờ để mong hưởng phước lành của Ngài. Ðền Thánh làm xong, nền Ðạo đã vững vàng, chúng ta sẽ dẹp lần cái bạo tàn của đời để dìu dắt nhơn loại đi vào con đường gầy dựng lại trật tự hòa bình cho cái năng lực nhơn nghĩa, chúng ta sẽ đem hạnh phúc lại cho thiên hạ trong buổi chuyển thế nầy. Chúng ta nên mừng vì nhơn loại sẽ nhờ khối đức tin của chúng ta mà hưởng ân huệ của Ðấng Chí Tôn. Bần Ðạo nhắc lại, Ðức Chí Tôn đã hứa với con cái của Ngài những gì ngày nay chúng ta đã thấy, Ngài cho chúng ta y theo lời hứa, Bần Ðạo đứng tại tòa giảng đây chứng chắc như thế, bởi những công nghiệp phi thường tạo thành trong thời gian qua để làm bằng chứng. Vì quốc dân Việt Nam ta còn kém đức tin nơi Ngài, nên cơ quan cứu khổ để giải thoát cái ách nặng nề của chúng ta phải còn muộn màng đến ngày nay, mà trước mắt chúng ta còn thấy cái thảm trạng tương tàn tương sát rất đau đớn thương tâm, phải chi quốc dân ta tin thử và cầu nguyện thử đi, rồi coi Ðức Chí Tôn sẽ cho chúng ta y như lời hứa không.
Phụ ghi:
Q.1/12: Ðại Lễ Ðức Chí Tôn.
Ðêm mồng 9 tháng giêng năm Ðinh Hợi (1947)
Quốc dân Việt Nam có một phần người thiếu đức tin về Ðạo Cao Ðài, họ chẳng tin rằng Trời khai Ðạo để tạo Ðời, lập Minh Ðức Tân Dân, tức là một Cơ Quan Cứu Thế, làm cho vạn loại hòa bình càn khôn an tịnh, tránh khỏi sự cạnh tranh giết hại lẫn nhau. Hiện giờ cái họa chiến tranh, khói lửa lan tràn khắp nơi, nhơn sanh thống khổ, cốt nhục tương tàn là vì có một phần người không tin có Trời, chẳng noi theo luật công bình của Tạo Hóa, cho nên mới gây ra một trường náo nhiệt như thế. Ngày nào nhơn sanh biết nhận định Ðạo Trời là phương châm giải khổ lập thành Quốc Ðạo trong nước Việt Nam, đem lại sự an ninh trật tự cho nhơn loại cộng hưởng hòa bình, thì ngày ấy là ngày của Ðức Chí Tôn rưới giọt hồng ân cho nhơn loại gội nhuần hạnh phúc.
Phụ ghi:
Q.1/13: Tam Bửu.
Ðền Thánh, ngày rằm tháng giêng năm Ðinh Hợi (1947)
Lễ Thượng Ngươn giảng về vấn đề Tam Bửu. Hiến lễ Ðức Chí Tôn là: Bông, Rượu, Trà, thể theo Tam Bửu của con người là: Tinh, Khí, Thần, ấy là vật báu nhứt của thế gian, khi chúng ta hiến lễ cho Ðức Chí Tôn thì phải trau giồi tô điểm ba vật báu ấy cho tinh khiết, chẳng nên để nó nhiểm lấy bụi trần ô uế, thì vật báu ấy trở nên vô giá trị. Vậy Chức Sắc, Chức Việc nam, nữ cần phải trau tria thân thể và trí não tinh thần cho được trong sạch. Mỗi khi hiến lễ ta cần dâng các bửu vật ấy cho Thầy để làm hột giống tốt đặng gieo trồng cho nhơn sanh nhuần gội chung hưởng ân huệ của Thầy ban. Vậy điều cần yếu là Chức Sắc vào hàng Thánh Thể, phải trọng tu dưỡng ba vật báu của mình cho thanh bạch, hầu hiến lễ Ðức Chí Tôn.
Phụ ghi:
Q.1/14: Hội Yến Diêu Trì.
Ngày 30 tháng giêng năm Ðinh Hợi (1947)
Hội Yến Diêu Trì là cơ quan đắc Ðạo tại thế. Ðức Kim Mẫu cùng Cửu Vị Nữ Phật đã giáng trần Hội Yến với chư Chức Sắc, xướng họa thi phú và dạy Ðạo. Ấy là Hội Chư Tiên tại thế. Ðức Chí Tôn thuộc về Phật, Ðức Diêu Trì Kim Mẫu thuộc về Pháp, nếu có Ðức Chí Tôn mà không có Ðức Diêu Trì Kim Mẫu thì trong vũ trụ nầy không có chi về mặt hữu vi, còn nhơn loại là Tăng. Ta nhìn có Ðức Chí Tôn khai hóa, nhưng có sanh hóa càn khôn cũng như cơ sản xuất nhơn loại tại thế cũng do nơi âm dương tương hiệp mới phát khởi vạn vật, cho nên con người gọi cha mẹ là Tiểu Thiên Ðịa, còn nhiều ý nghĩa rất sâu xa nói chẳng tột.
Phụ ghi:
Q.1/15: Thờ Ðức Phật Mẫu tại Báo Ân Từ.
Báo Ân Từ, ngày mồng 1 tháng 2 năm Ðinh Hợi (1947)
Từ đây chúng ta rất hân hạnh thờ Phật Mẫu tại Báo Ân Từ. Buổi mới mở Ðạo Bần Ðạo biết công nghiệp của Phật Mẫu thế nào, Ngài và Cửu Vị Nữ Phật dìu dắt con cái của Ðức Chí Tôn từ ban sơ đến ngày đem chúng ta giao lại cho Thầy. Ngày mở Ðạo, vì cái tình cảm ấy, các vị Ðại Thiên Phong buổi nọ xin thờ Phật Mẫu ở Ðền Thánh, thì Phật Mẫu cho biết rằng: Quyền Chí Tôn là Chúa còn Phật Mẫu là tôi, mà tôi thì làm sao ngang hàng với Chúa, chúng ta thấy Phật Mẫu cung kính Chí Tôn đến dường ấy không gì lường được. Cả cơ quan tạo đoan hữu tướng, thảy đều do Phật Mẫu tạo thành. Khi ta đến cõi trần mang mảnh thi hài, cái chơn linh khi đến, khi về cũng do nơi tay Phật Mẫu mà sản xuất. Phật Mẫu là mẹ của linh hồn, nếu chúng ta biết ơn nặng ấy, thì ta càng cảm mến cái công đức hóa dục sản xuất của Ngài vô cùng. Chúng ta ngày nay trên đường tu tiến, đắc Ðạo hay không cũng do bà Mẹ Thiêng Liêng ấy nâng đỡ ấp yêu, vì không có ai cưng con hơn là Phật Mẫu. Nếu chúng ta biết đặng cơ quan Tạo Hóa Càn Khôn sản xuất hữu hình của Phật Mẫu, thì chúng ta sẽ có tình cảm kính trọng yêu thương Phật Mẫu đến ngần nào. Con cái của Ngài xin đem vào thờ ở Ðền Thánh, thì Ngài lại từ chối mới biết cái cung kính của Phật Mẫu đối với Ðức Chí Tôn ở thế gian nầy được đáo để đến dường ấy. Còn Nữ phái nên coi tánh đức của Mẹ mà làm gương tu tỉnh, lạ gì những tánh thường tình thế gian, đàn bà ăn hiếp chồng, thất kính với chồng, bỏ con trẻ bơ vơ, chẳng qua là họ không thọ bẩm cái tình thương yêu nồng nàn của Mẹ vậy. Bây giờ nói về tại sao có Phật Mẫu trước khi có Ðức Chí Tôn là đấng không mà có,(*1) nếu nói có tất cả là không, ấy là đấng vô hình, vô ảnh ở trong cảnh vô tướng, Ðức Chí Tôn vì mộng tưởng chẳng khác kẻ phàm, sanh ra lớn lên lại muốn tạo nghiệp, muốn tưởng Ðức Chí Tôn là nguồn cội cả Bí Pháp nên gọi là Phật. Trong Bí Pháp buổi ban sơ phân tách ra âm dương, phần âm là Phật Mẫu sản xuất cả cơ hữu vi của vũ trụ. Bởi thế nên quyền năng của Phật Mẫu là Mẹ khí thể của ta, nên ta có ba hình thể là Tam Bửu đó vậy. Tam Bửu là ba khí chất tạo nên hình hài xác thịt, cái xác là con kỵ vật, thiên hạ lầm tưởng hễ xác chết là mất, vậy thì thử hỏi Trời Ðất vạn vật một khi đã hoại thì tan nát không còn sanh hóa nữa hay sao? Bởi mang xác thịt mắt phàm không thể thấy, chớ nếu có huệ nhãn thì thấy trong cái xác của người có ba thể: Thể thứ nhứt là xác hài, thuộc vật chất khí biến sanh; thể thứ nhì là chơn thần do tinh ba của vật chất khí mà sản xuất, từ phẩm Ðịa Thần đến Thiên Thần; thể thứ ba là ngươn khí do chơn linh mà có, từ bực Thánh đổ lên. Chúng ta đạt pháp do chúng ta có ba thể tương liên đừng tưởng chúng ta không đạt được. Chúng ta hễ đi được thì đi hoài, đâu cũng có đường hết thảy. Song muốn đạt được pháp thì phải luyện. Ban sơ mới khai Ðạo chúng ta phải thi hành thể pháp nếu sau nầy không đạt được chơn pháp thì cũng như con người có quần mà không có áo vậy. Từ khi cơ quan hữu tướng của Mẹ đã tạo thành, thì Ðức Chí Tôn không cho Mẹ thấy nữa. Phật Mẫu thì biết tôn sùng và sợ sệt chớ không thấy Ðức Chí Tôn được, nên bây giờ Mẹ thì vui cùng con cái, an ủi nhờ con cái. Lạ gì tình thương của đàn bà, có mặt chồng thì ít thương con, ít ấp yêu, còn đến khi vắng mặt chồng thì mới biết thương yêu con cái vậy. Phật Mẫu khi thấy con cái đến ngày qui liễu, bỏ cái áo xác thịt nầy về với Ngài, Ngài rất vui lòng tiếp rước con cái, như người đàn bà gặp được đứa con yêu dấu cách biệt từ lâu. Ðền thờ nầy là nơi lễ bái Ðức Phật Mẫu trong buổi nhơn đạo mãn sang hồi cựu vị.
Phụ ghi:
Q.1/16: Quốc Sự Vụ.
Phiên nhóm Bộ Quốc Sự Vụ ngày mồng 9 tháng 2 năm Ðinh Hợi (1947) (*1)
Hôm nay chúng ta bàn giải về Quốc sự, vậy trước khi bàn đến vấn đề Quốc sự, tôi có mấy điều đưa ra trước để chúng ta vạch một con đường mà chúng ta sẽ đi hay nói là sẽ làm, vì chúng ta phải có mục đích rõ ràng. Chúng ta cũng dư hiểu, hiện giờ các liệt cường như các nước Pháp, Anh, Mỹ, Nga mỗi nước đều có một chế độ chánh trị riêng. Nói đến chánh trị, chúng ta nên hiểu rằng, chế độ chánh trị là do một mục đích, một chủ nghĩa, một tinh thần của quần chúng tạo ra. Như xưa kia, nước Pháp còn dưới chế độ Quân chủ độc tài làm cho dân Pháp chịu không nỗi sự bất công tàn bạo của nhà vua, nên trong quần chúng có nhiều nhà triết lý cao thâm như: Jean Jacques Rousseau, Montesquieu, họ muốn đem lại công lý dân quyền, nên ngồi bóp trán suy nghĩ tạo nên một tinh thần chánh trị dân chủ, mà một khi đã phát sanh một tinh thần dân chủ rồi thì mới lập thành một chế độ chánh trị dân quyền. Chế độ nầy phát sinh ra rồi thì quần chúng Pháp nhìn nhận nó là một chủ nghĩa dân quyền, phải tìm phương thi hành cho kỳ được, để đả đảo chế độ quân chủ độc tài. Nước Nga cũng thế, trước kia dân Nga bị oằn oại bóp chẹt dưới chế độ quân chủ độc tài nên Lénine cũng ngồi suy nghĩ tìm tòi phát sanh ra một tinh thần dân chủ và do tinh thần dân chủ đó nên lập thành một chế độ dân quyền Cộng Sản. Tóm lại, quần chúng của mỗi nước vì cái nạn độc tài của quân chủ hay của một ông Thủ Lĩnh mà phát sanh ra một tinh thần cách mạng, rồi thì quần chúng lại tạo ra chế độ dân quyền. Nếu đã có tinh thần chế độ chánh trị dân quyền rồi, thì quần chúng coi đó là một chủ nghĩa phải theo đuổi để bài trừ một chế độ không hợp lòng dân. Ðến đây tôi xin để một câu hỏi? Vậy chớ quần chúng phải làm thế nào để bài trừ cái chế độ chánh trị tàn bạo kia hầu áp dụng chế độ dân quyền. Theo tôi thấy thì quần chúng dùng hai phương pháp sau nầy: Phương pháp thứ nhất: - Tranh đấu về tinh thần như biểu tình phản động, hoặc ngoại giao tranh đấu, hoặc bất hợp tác hay dùng kinh tế mà tranh đấu để bóp chẹt, đánh đổ một chế độ mà quần chúng cho là bất hợp thời. Phương pháp thứ nhì: - Vì tranh đấu theo phương pháp trên, quần chúng bị binh vực đàn áp, thế nên quần chúng hiệp lại thành khối, tạo nên một lực lượng binh bị tương đương làm hậu thuẩn đối phó lại để ủng hộ cái chủ nghĩa của mình. Nói đến đây chư vị cũng dư hiểu rồi, vì ủng hộ cho một chủ nghĩa nên quần chúng tạo thành quân đội, để ủng hộ cái chủ nghĩa hay mục đích của mình vậy. Nếu đã biết rằng vì ủng hộ một chủ nghĩa, nên chủ nghĩa đó tạo ra quân đội để làm hậu thuẩn, thì chúng ta phải nhận định rằng chánh trị tạo ra quân đội chớ quân đội không khi nào tạo ra chánh trị. Cũng như chúng ta ngày nay, hỏi vậy chúng ta theo đuổi chủ nghĩa nào? Có phải chúng ta theo đuổi chủ nghĩa Cao Ðài không? Nếu đúng như thế thì chủ nghĩa Cao Ðài vì muốn tồn tại nên phải lập ra quân đội. Như vậy quân đội là của chánh trị lập thành, nên quân đội phải tuân theo nguyên tắc chánh trị. Như thế quân đội phải do chánh trị điều khiển vì chúng ta làm chánh trị. Làm chánh trị là làm Quốc sự, nên nước nào cũng có Bộ Quốc Sự . Bộ Quốc Sự muốn đạt thành con đường chánh trị của mình thì quân đội là cơ quan tạo nên để ủng hộ chánh trị đó vậy. Xin chư vị thử nghĩ coi có phải thế không? Nếu phải thì chúng ta nên nhìn nhận rằng: Quân đội phải chịu quyền điều khiển của chánh trị để chúng ta làm quốc sự. Chúng ta có Bộ Quốc Sự để làm chánh trị thì quân đội phải tuân hành theo những qui tắc chánh trị, còn về việc điều khiển quân đội khi hành binh thì do Bộ Tham Mưu quân đội được trọn quyền và được quyền đòi hỏi những vật liệu chiến tranh nơi Bộ Quốc Sự. Tóm lại, chúng ta đã xác định rằng: Bộ Quốc Sự phải ban hành những qui tắc chánh trị để điều khiển quân đội hầu Bộ Quốc Sự đủ lực lượng và đủ điều kiện làm chánh trị. Cũng như cổ kim lập triều đình, định chánh thể rồi, muốn ra nguyên tắc lập quân đội, quân đội không tuân hành đi nghịch lại mạng lịnh của triều đình thì triều đình bất lực nảy sanh loạn lạc. Bất cứ một ai trong nước mạnh đặng yếu thua, giựt giành thì không còn gì chánh trị nhân nghĩa nữa. Trên đây là một sự thật của lịch sử tiến hóa chánh trị hay là một phương pháp làm chánh trị. Quần chúng vì làm chánh trị để tranh đấu lợi quyền nên lập ra quân đội làm hậu thuẩn cho chánh trị. Như vậy thì quân đội của quần chúng chớ không phải quần chúng của quân đội hay nói với sự hiểu rộng thì triều đình lập ra quân đội vậy. Chúng ta ngày nay vì làm chánh trị nên phải có quân đội, ngày nào nếu chúng ta không làm chánh trị nữa thì quân đội phải giải tán. Song thời cuộc bắt buộc chúng ta phải làm chánh trị, nên chúng ta đã bỏ thăm công nhận thành lập Bộ Quốc Sự rồi để thay mặt quần chúng làm Quốc Sự, cứu vãn sanh mạng và quyền lợi của họ vậy. Như thế chúng ta nên triệt để ủng hộ Bộ Quốc Sự của Hội Thánh để chống lại cái nạn chánh trị khốc hại của chế độ bốc lột hay nói là Ðế quốc chủ nghĩa. Một bằng cớ trươc mắt chúng ta là ông D'Argenlieu sang Ðông Dương để lại cái trách vụ của Nội Các Pháp phú thác cho, hỏi vậy cái trách vụ ấy là những gì? Có phải là những Huấn Lịnh, những nguyên tắc, những điều kiện về chánh trị buộc D'Argenlieu phải tuân hành không? Còn ngày nay chúng ta xem sao, chúng ta thấy rằng nước Pháp muốn áp dụng xứ nầy một chánh trị liên bang để thu hoạch cho được cái mục đích quyền lợi của họ, nên Nội Các Pháp sai ông Bollaert là một nhà chánh trị có biệt tài sang Ðông Dương mang theo những Huấn Lịnh, những điều kiện, những qui tắc chánh trị để tranh thủ với cái mục đích chánh trị của dân chúng Ðông Dương mà nhứt là dân chúng Việt Nam. Bởi thế nên quân đội Pháp ở Ðông Dương phải chịu dưới quyền điều khiển của ông Bollaert, nghĩa là ông Bollaert có quyền định đoạt sự chiến hay hòa, hoặc kháng chiến, hoặc đánh với đối phương nào và những chỗ nào quân đội không được đụng chạm tới. Như thế thì chúng ta rõ rằng ông Bollaert qua đây làm chánh trị, làm quốc sự chớ không phải qua đây chỉ có một lịnh chiếu. Thử hỏi, nếu ông Bollaert không làm chánh trị thì chiến đấu để làm gì? Cho mục đích chánh trị nào? Bây giờ chúng ta lo làm quốc sự để đạt thành chủ nghĩa của chúng ta nên mới có Bộ Quốc Sự chuyên lo vạch con đường chánh trị sáng suốt để bàn định và giải quyết với cái chánh trị sáng suốt của ông Bollaert mang từ Pháp sang đây, vì theo tin tiếp được thì ông Bollaert và Thủ Tướng Hoạch sẽ đến Tòa Thánh nay mai. Ngày nay chúng ta trên con đường phụng sự quốc gia phải tranh đấu về chánh trị để thâu hoạch lại những cái gì mà chúng ta có quyền hưởng một cách xứng đáng. (*1) Trước kia trong Ðạo có cơ quan Quốc Sự Vụ.
Phụ ghi:
Q.1/17: Tam Bửu: Tinh, Khí, Thần.
Ðêm rằm tháng 2 năm Ðinh Hợi (1947) tại Ðền Thánh
Phàm con người có ba báu: Tinh là xác thân của cha mẹ sanh ra, liên quan với xác thân (corps astral) là hơi, nó tiếp xúc liên quan bảo trọng sự sống. Sự sống là nuôi nấng lấy hình hài chúng ta bằng sanh quang do nơi Phật Mẫu tạo mà có, liên quan với linh hồn ta là của Chí Tôn ban cho mà có. Ba thành một, một thành ba gọi là Tam Bửu: Tinh, Khí, Thần. Chí Tôn lại chọn lựa vật quí báu là Bông (Tinh), Rượu (Khí), Trà (Thần) là ý nghĩa Ngài muốn đòi hỏi con cái của Ngài những món quí mà ta có để sống ấy hiến cho Ngài, tức là Ngài muốn toàn con cái của Ngài sống mãi với Ngài đó vậy. Muốn cho khỏi phụ lòng Chí Tôn thì ta phải đào luyện cho đệ nhị xác thân ấy đặng tinh khiết nhẹ nhàng. Muốn được vậy, ta chỉ có hai điều là phải trai giới, chỉnh tu cho cái đệ nhị xác thân được tráng kiện hoạt bác, tùng khuôn viên thiện đức. Ðệ nhị xác thân ta khi còn sống ở quanh mình ta, bảo hộ về sanh quang tiếp với đệ tam xác thân là linh hồn. Khi lìa khỏi xác thúi hôi hữu hoại thì nó trực tiếp ngay với linh hồn nếu nó được thanh khiết. Bằng nó nghiệc ác thì nó phải dính líu với cái xác thúi hôi nầy mà phải chịu lìa xa cái linh hồn thì thần tử sẽ rước đi mà phải đọa là vậy. Bởi cớ Chí Tôn ban cho ta cái Bí Pháp (phép xác) cắt đứt dây oan nghiệt cho nó rời hẳn với đệ nhứt xác thân được khinh phù nhập một với linh hồn tức là hằng sống vậy. Loài người quá xảo quyệt khôn khéo tiềm tàng sự sung sướng xác thịt nầy, tại do đó mà gây nên biết bao nhiêu thần sầu quỉ khóc, chiến tranh không ngớt, là do nơi lòng tham lam tiến triển văn minh, cơ khí tối tân như là bom nguyên tử để giết người. Hiện tại nơi Mỹ Châu, Cổ Tàng Viện của họ có đến 200 triệu quyển sách. Cứ bổ đồng một ngày xem một quyển thì phải sống đến mấy đời mới đọc hết được. Chí Tôn biết rõ loài người tiến hóa tột bực mà tự đắc tự tôn, chỉ biết lo cho xác thịt mà thôi, không chuyên lo cho đệ nhị xác thân và tinh thần, nên Chí Tôn đến khai Ðạo là cố ý giáo hóa cho loài người biết rõ câu tội phước, giồi luyện cho con người tận thiện đến hiệp cùng Ngài. Nếu chúng ta biết được vậy thì toàn thể thế giới nầy những điều tinh ma quỉ quái sẽ tiêu diệt, thần tử không hề đến ta được. Nếu ta thấy được cõi Hư Linh kia, cái tinh của vạn loại bị giết chóc một cách tàn nhẫn, bởi loài người kết oán thù thâm với nó, chực chờ thù ghét, vì vậy mà có vay trả luân hồi mãi mãi đọa đày, bất năng thoát tục. Mong sao chúng ta từ đây phải biết trọng lấy lẽ ấy mà luyện đệ nhị xác thân cho đủ đầy sự tinh khiết, là phải thương loài vật, phải thương tất cả để chấm dứt cái oan nghiệt ấy mà truyền bá cái hườn thuốc linh đơn nầy là đạo đức của Chí Tôn, để cứu vớt quần sanh thoát vòng đọa lạc hoàn toàn. Cả thế gian nầy biết được vậy thì chắc chắn không còn cảnh thảm khổ nầy tái diễn lại nữa. Loài người do một nguyên căn mà thôi, bởi do tâm lý và tập quán của các nước, của các sắc dân, vì cái khác ấy mà chia phôi nhau, nghịch lẫn nhau, thù địch nhau, mà tranh tranh đấu đấu không ngừng. Vậy Thánh Ý của Chí Tôn khai mở Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, Tam Giáo Qui Nguyên, Ngũ Chi Phục Nhứt là muốn dung hòa tâm lý toàn cả con cái của Người để cứu vãn trọn 92 ức nguyên nhân, vì thế mà phải bị sa đoạ nơi đây. Chí Tôn đã đại từ đại bi chỉ rõ căn nguyên và ban ơn cho ta, dạy dỗ cho ta để đạt đạt ngôi vị là phải trau luyện cho Tinh hiệp với Khí, Tinh Khí hườn Thần là cơ huyền bí để mà đắc Ðạo vậy. Trong giá của Tam Bửu mà Chí Tôn ưa chuộng để dâng Ðại Lễ cho Ngài là nguyên nhân chấm dứt cái họa tranh thù mà gây nên trường oan nghiệt cho toàn thế giới. Ấy vậy, muốn duy trì sự hòa hiệp đại đồng nầy cũng do nơi gốc Bí Pháp đó mà thôi, dầu triết lý thâm uyên đạo đức mà tôn giáo nào cũng không qua lẽ ấy; mà nếu không đạt được thì toàn lẽ ấy là đệ nhị xác thân của toàn thể ô trược tội tình, thì thế giới sẽ điêu tàn tiêu diệt mà chớ.
Phụ ghi:
Q.1/18: Tam Bửu: Tiên thiên khí, Hậu thiên khí và Vật chất khí.
Ðền Thánh, ngày rằm tháng 2 nhuận năm Ðinh Hợi (1947)
Hôm nay Bần Ðạo giảng tiếp về Tam Bửu, Bần Ðạo lần lượt giảng Tam Bửu trước là vì Ðức Chí Tôn lấy Bông, Rượu, Trà mà tượng hình ba thể chất, tạo nên vạn loại. Chơn linh mới thiệt là ta, còn Chơn thần là do tinh ba của vật khí biến hình. Chơn linh ta mượn cơ quan hữu hình để thân mật cùng cả cơ quan tạo đoan võ trụ. Ta đến mang mảnh hình hài như thế nầy đặng chi? Nguyên do nơi nào mà đến, rồi Bần Ðạo lần lượt giảng vì sao mà ta phải Tu. Tu có ích gì, do nguyên lý nào mà phải Tu. Bần Ðạo sẽ giảng nguyên do con người là gì, rồi mới tiếp giảng đến Cửu Thiên Khai Hóa, Ðức Chí Tôn tạo Bát Quái Ðài là gì? Bây giờ Bần Ðạo giảng về Tam Bửu, ba cơ quan tạo nên hình thể con người, Chơn linh ta do nguyên khí mà có, nguyên khí là Tiên thiên khí; Chơn thần do Hậu thiên khí kết thành, còn xác thịt thì do vật chất mà nên. Hỏi vậy ta muốn sống đây do cơ quan nào? Ấy là nhờ chơn linh mới có sự sống. Chơn linh có một quyền năng vô đoán, chưa có khoa học nào tra cứu rõ thấu được. Cái quyền năng của nó là của Ðức Chí Tôn ban cho. Quyền năng của chơn linh không giới hạn, nó là quyền năng bảo trọng đường sống của vạn loại, của xác hình. Chơn thần là Hậu thiên khí, nó bảo trọng vật chất khí. Trong ba khí chất ấy, tạo ra hình hài chúng ta, chơn linh là nhứt điểm linh quang do Chí Tôn mà có để bảo trọng cái sinh mạng, cái sống của thi hài. Ðến ngày giờ nào niên kỷ đã định hết khối sinh quang rồi thì cái quyền năng ấy ra khỏi xác, thì xác phải hoại, chúng ta gọi là tử. Ấy vậy, ta kiếm thử coi Tiên thiên khí, Hậu thiên khí và Vật chất khí là gì? Chúng ta sẽ thấy bất kỳ vật hữu hình nào cũng có ba thể chất: Vật chất thì mắt ta thấy. Ba khí chất nầy tượng ra hình hài của con người, vật chất mùi vị, năng lực thế nào thì loài người thế ấy, vì chúng ta thấy một hột gạo, nấu ra cơm, ăn vào để lấy cái tinh ba của nó là Hậu thiên khí phục nguyên khối sanh quang của ta được tồn tại. Tinh ba của vật chất nó vào mình làm cho xác hài có năng lực tráng kiện. Ta thấy khi đói bủn rủn tay chơn là thiếu sanh khí đó vậy. Chơn thần là Hậu thiên khí, ta không thấy mà chớ nên tưởng rằng không có, ta ăn hột cơm vào bụng, lọc lấy cái tinh ba làm huyết khí để nuôi lấy khối sanh vật nầy. Ta biết có mà không thấy được. Chơn thần chúng ta, thiên hạ kêu là phách, vía cả thảy đều có. Người hay sợ ma là tại sao? Vì họ thấy hình ảnh của khí chất biến hình, năng minh năng ẩn, mà sự ẩn hiện ấy lấy làm lạ và trái với mắt phàm thường thấy, nên làm cho họ sợ. Một khi ta thấy một vong linh hiện hình mà ta có phước gần gủi đặng họ sẽ thương yêu mình hơn kẻ phàm lắm vậy. Kẻ phàm mang xác hài hay có thất tình, lục dục, nên có sự phân cách về thể chất hữu vi làm cho thiếu sự thương yêu vì ta sợ. Ngày nào ta về cảnh vô hình sống trong khối tạo đoan chừng đó ta mới biết Ðạo là có phận sự bảo trọng chúng sanh, khuyên lơn dạy dỗ và giục thúc cho các đẳng linh hồn tăng tiến trên đường tấn hóa. Ta chỉ đặng phép thương yêu binh vực chớ không ai đặng mưu hại giục hư. Bần Ðạo giảng cõi Hư linh, nếu ta đạt pháp xuất ngoại xác thân, tương hội cùng các bạn cõi vô hình thì ta thấy khác hẳn theo tánh chất phàm tâm tưởng tượng. Cõi Hư linh các bậc cao trọng, Thánh, Tiên, Phật chỉ có mơ ước thiết thực nhất một điều là làm thế nào giúp ích cho chúng sinh. Các đấng ấy rất may mắn gặp những dịp để an ủi tâm hồn chúng sanh, hằng giờ hằng buổi không thiếu tình thương. Chúng ta đến làm người, cốt yếu đạt cho được cơ tạo đoan trở nên Chí linh chí Thánh, một kiếp học thêm một bực, để ngày kia mong mỏi làm Trời. Các bạn biết Phật Thích Ca xưng là Bổn Sư, người tu gọi là Thầy, nếu các chơn linh ấy gặp được, thấy được gần được Phật thì đối với Phật không ngoài mức bạn thân ái. Ở thế nầy dầu một vị Phật cũng không chê ai, không hạng nào chê, hạng nào khen, vì Phật đã biết con đường đi trước kia, dầu ai phàm, dầu ai lạc hậu cũng tới sau, họ chỉ biết một điều là chỉ từ nẻo quanh co, vui vẻ chỉ cho bạn đi cùng đường đạt lên Phật vị. Họ không dám chê ai, chẳng phải đối với loài người mà thôi mà đối với tất cả vạn loại, chúng sinh chỉ là anh em còn lạc hậu đó vậy. Con vật mà ta thấy bị giết được là vì nó vô cô không phương bảo vệ, ngày nay giết nó mà ăn thịt, biết đâu sau nầy các bạn lạc hậu ấy tiến hóa đến phẩm người trở lên, rồi chúng ta sẽ gặp nó bên mình, khi ấy nó ngó ta mà cười và hỏi: "Xưa kia Ðức Phật có ăn tôi một lần". Nghĩ tưởng chẳng gì sỉ hổ thẹn thuồng bằng. Thế nên ta phải ăn chay. Chưa có ai nhẫn tâm giết người đặng ăn thịt, cũng không có ai đặng quyền giết các bạn lạc hậu ấy để ăn. Ta đến đây làm bạn cùng vạn vật chúng sanh, vạn vật giúp ta học cho thấu đáo huyền vi cơ Ðạo, tạo chí linh nối nghiệp Ðức Chí Tôn. Thầy có nói: Thầy dành sẵn gia nghiệp phẩm vị cho chúng ta, Thầy không khi nào lấy lại, trừ ra kẻ nào từ bỏ bởi Ðại Từ Phụ mà không tin sao? Ông cha phàm kia còn yêu ái con, trước buổi nhắm mắt còn tính để lại cho con một phần gia nghiệp hương hỏa. Một điều là ông cha phàm làm với phạm vi nhỏ phương pháp nhỏ theo phàm. Còn ông Cha Thiêng Liêng không lẽ thua ông cha phàm? Thầy nói: Thầy dành sẵn gia nghiệp ngôi vị thì Thầy không quyền cho kẻ khác, trừ khi mình bỏ. Bần Ðạo tưởng, nhứt là phái Nam, thanh niên vũ chức (*1) nếu mấy em biết cơ quan ấy thì không hạnh phúc nào hơn là dám hủy mình vì Chí Tôn. Bần Ðạo dám chắc Thầy không hề chịu thiếu ai và Thầy không hề quên mối nợ tình ái của con cái của Ngài. Nếu Thầy không thường món nợ ấy thì Hộ Pháp hứa sẽ tái kiếp luân hồi bồi thường cho đủ. Vì những kẻ dám đem mình làm tế vật cho Thầy để lập nên một Quốc gia Thiên định tại thế nầy, Bần Ðạo chắc Quốc gia ấy phải thành. Ðức Chí Tôn tạo cho con cái của Ngài một cửa nhỏ tuy khó đi mà Bần Ðạo chắc rằng, những hạng con cái dám chết vì Ngài thì chúng nó dám đạp văng cửa ra chúng nó đi sấn đến. Nếu chúng ta có con mắt thiêng liêng, ngày nào họ đi ngang qua thì ta sẽ thấy các Ðấng dầu chư Thần, Thánh, Tiên, Phật tức là các chơn linh cao trọng cũng phải cúi đầu. Thầy sẽ trả bao nhiêu món nợ tình ái của con cái của Ngài thì không biết, chớ không khi nào Ðức Chí Tôn trả cho một mà phải trả nhiều hơn là hẳn vậy. Xin cho toàn Ðạo nam nữ sao lục nguyên văn để phổ thông chơn lý. (*1) Thanh niên có chức phận trong Quân đội Cao Ðài.
Phụ ghi:
Q.1/19: Tam Bửu: Nho, Thích, Ðạo.
Ðền Thánh, đêm rằm tháng 3 năm Ðinh Hợi (1947)
Hôm nay, nhơn Bần Ðạo làm phép Giải Oan cho một người anh em của chúng ta là Hồ Tấn Khoa, nên Bần Ðạo giảng tiếp về Tam Bửu. Giảng tiếp về vấn đề ấy lại, Bần Ðạo tuyên bố cho toàn Ðạo nam, nữ và chư Chức Sắc Thiên Phong Nhị Hữu Hình Ðài được nghe rõ. Ðối với cơ quan đời biến chuyển, từ ngày Bần Ðạo bị đồ lưu hải ngoại đến khi về tới nay tính lại đã gần tám tháng, Bần Ðạo thấy tình hình quốc gia của chúng ta mà cả thảy ai ai cũng biết chẳng cần phải lập lại, vì Bần Ðạo đã thuyết minh nhiều lần rồi. Bây giờ thử hỏi chơn truyền của Ðức Chí Tôn mở Ðạo là một nền chánh giáo, tôn chỉ bảo chúng ta làm gì? Và Ðạo Cao Ðài phải đi theo con đường nào? Chúng ta thấy Ðại Từ Phụ lấy ba Tôn Giáo: Nho, Thích, Ðạo làm cơ quan duy nhứt, dầu về phần thiêng liêng hay hữu hình cũng vậy, để làm bí mật chơn truyền dìu dắt linh hồn và thi hài của chúng ta và là một phương pháp đoạt kiếp giải thoát linh hồn. Nho lấy nhơn nghĩa làm căn bản, Ðạo lấy công chánh làm căn bản, Thích lấy bác ái từ bi làm căn bản. Ba triết lý ấy hiệp lại vừa lo phần Ðời và phần Ðạo, xác hồn chúng ta đi đến tận con đường mà Ðức Chí Tôn đứng chờ đợi các con cái hiệp một cùng người. Nhơn nghĩa là gì? Người có nhơn thì không oán, nghĩa thì không bạc. Công chánh là gì? Có công thì không phụ, có chánh thì không tà, không chối cái điều chơn thật được, còn có từ bi thì có khoan hồng dung thứ, có bác ái mới có thể bảo thủ và thân mến toàn thiên hạ, nếu chiếu theo chơn truyền của Ðức Chí Tôn khuyên bảo chúng ta thế nào, thì chúng ta phải tuân theo thế ấy, chúng ta phải khoan hồng, tha thứ, biết yêu ái, phải có công bình chánh lý, chúng ta giữ được cả chơn truyền ấy thì không ghét ai, oán ai. Trái lại, Ðại Từ Phụ buộc chúng ta phải thương yêu kẻ nghịch, kẻ thù của chúng ta nữa. Chiếu theo chơn truyền ấy, đối với đời, với quốc gia chủng tộc toàn đạo phải xử thế nào? Chẳng lẽ Ðạo Cao Ðài phải nhượng bộ hạ mình trước đảng phái, vì cái tinh thần của Ðạo còn chẳng nhượng ai, huống phải hạ mình làm nô lệ cho đảng phái. Quyền tự chủ ấy là quyền của Chí Tôn ban cho, Thầy đã không làm tớ ai, nên quyền Ðạo nó chỉ làm Thầy. Nó tự có một năng lực, mà cái năng lực ấy không tùng năng lực của ai cả. Nó có một quyền hành sở hữu, chớ không tùng ai và không theo đảng phái nào. Nó phải lập quyền yêu ái công chánh từ bi, nó có phận sự tạo nghiệp cho đời chớ không phải làm tôi mọi cho đời. Ðời đang phải chịu vòng nô lệ thì con cái của Ðức Chí Tôn bây giờ phải theo tôn chỉ nào? Phải biết rằng có Thiên mạng con cái của Ðức Chí Tôn là Thánh Thể, ông Trời tại thế nầy. Trời đã không nhường ai, không làm tôi tớ ai, thì con cái của Ðức Chí Tôn cũng chỉ có phận sự giúp đỡ thiên lương của con cái Ngài, vì thiên lương ấy là căn bản tạo quyền cho thiên hạ, là con cái của Ngài, lẽ đương nhiên chúng ta phải biết phận sự đối với quốc gia xã hội, chúng ta đang ở trong tình thế bại hoại. Chúng ta chỉ biết nhìn một quyền dân Việt Nam mà thôi. Thời buổi loạn lạc dân không có quyền, trong nước đảng nầy phái kia, chia năm chia bảy, nên buộc chúng ta phải kiếm một cái quyền của nhà Vua, Vua và dân hai quyền ấy nó tương liên với vận mạng nước Việt Nam, tìm cái kia không phải tìm cái nọ, cái quyền sở hữu nào chúng ta thấy thì chúng ta phải cầm lấy, giúp Vua để lập quyền cho nước, cho quốc gia xã hội. Vì vậy chúng ta phải đem nhà Vua lại để lập quyền cho dân, quyền là chánh sách Ðạo Cao Ðài giúp quân chủ tạo dân quyền. Bởi thế Bần Ðạo đã công khai cùng Chánh phủ rồi. Bần Ðạo sẽ công khai cho toàn thiên hạ biết rằng: Chúng ta sẽ hướng ra Quân chủ Dân quyền để tạo tương lai cho quốc vận. Chúng ta không thấy còn con đường nào khác nữa, chỉ một con đường duy nhứt cao thượng nầy mà Ðạo phải làm cho thành tựu, Bần Ðạo xin cả thảy nghe và tìm hiểu chơn lý ấy rồi hằng đêm cầu nguyện để quyết định tương lai vận mạng nòi giống của chúng ta.
Phụ ghi:
Q.1/20: Quyền năng của đức tin.
Ðền Thánh, đêm 29 tháng 2 nhuần năm Ðinh Hợi (1947)
Bần Ðạo giảng về quyền năng của đức tin. Hôm nay vì có hàng Quân Ðội Võ Chức, nên Bần Ðạo cần giải rõ cái quyền năng ấy cho toàn Ðạo nam nữ rõ. Thời buổi nầy là thời buổi toàn con cái của Ðức Chí Tôn đưa tay lên cùng nhau nâng đỡ và vãn hồi quốc vận, nên Bần Ðạo giảng về cái quyền năng của đức tin, để cả thảy trụ tinh thần cầu nguyện Ðại Từ Phụ ban ơn nền Quốc Ðạo sớm được hoàn thành, hầu cứu vớt cả giống nòi Việt Nam chúng ta thoát nạn tương tàn, tương sát. Toàn Ðạo nên để trọn đức tin nơi Người, thì mới mong nền Quốc Ðạo mau thành tướng. Ðức Chí Tôn tạo cơ quan cứu sanh nầy mà gặp phải những điều trắc trở, nguy hại không sớm giải quyết được, là bởi toàn thể quốc dân ta không biết cầu nguyện nơi Người. Bần Ðạo lập lại lời nói của Ðức Chúa Jésus nói cùng Môn Ðồ của Người rằng: "Hỡi các Môn Ðồ, Ðức Chúa Cha ta trên Trời dạy rằng: Nếu toàn thể các ngươi có một cái đức tin bằng hột mè thì nó cũng đủ sức xô ngã núi, nó đi không gì ngăn cản nổi". Ấy là Ngài nói cái đức tin bằng hột mè mà toàn thể quốc dân đều có, thì đâu có phải chịu cảnh trạng thương tâm thế nầy. Hại thay! Dân 25 triệu, đã tự xưng là con Rồng cháu Tiên, tự biết giống nòi do một căn nguyên chí Thánh cao trọng, có máu Tiên Rồng, mà cái đức tin lại không bằng hột mè hay sao? Nếu mỗi người Việt Nam ta đều có một cái đức tin bằng hột mè mà thôi, cũng đủ dời non vét bể được. Bần Ðạo nói thật, buổi Chí Tôn đến tạo Quốc Ðạo cho nòi giống Rồng Tiên nầy, chính Ngài cầm cơ đi đến các Tỉnh, kêu từ nhà gọi từ đứa con, cho không biết bao nhiêu bài khuyến dạy, tạo thành một nền Tôn Giáo Cao Ðài là Quốc Ðạo, Bần Ðạo tưởng chưa có người nào đem cả tinh thần, tâm đức mà thi ân cho ai dường ấy. Ðức Chí Tôn đến độ rỗi, lập giáo rồi lại bắt minh thệ. Hỏi tại sao Ngài lại bắt minh thệ buộc con cái phải hiệp đồng cùng nhau. Mỗi người có một chút đức tin, Thầy bảo qui đức tin ấy lại, phải có tâm đức tin tưởng yêu ái lẫn nhau. Phải nhìn nhận có Thầy, có đức tin nơi Thầy. Hại thay! Có nhiều đứa con của Ngài cũng nghe, cũng tìm Ðạo, cũng thọ giáo, cũng minh thệ đủ phép tắc. Biết bao nhiêu, khi mới đến cùng Thầy, quì dưới chơn Thầy mà hễ ra khỏi chơn Ngài rồi thì lại phản phúc Ngài và con cái của Ngài. Bần Ðạo định quyết rằng: Cái tai nạn của giống dân Việt Nam đến cảnh tượng nầy chúng ta phải nhìn nhận tội của chúng ta vì thiếu đức tin nơi Ngài mà ra vậy. Phải chi trước kia biết nhìn nhận Ðấng đến dìu dẫn yêu ái nâng đỡ, để đức tin nơi Người, nghe theo Người thì cái nạn đổ máu tương tàn, tương sát giống nòi không hề có đặng. Cái hại về sự lưu huyết nầy Bần Ðạo xin nói là do cái tội bất tín nhiệm cùng Ðại Từ Phụ đó vậy. Ôi! Nếu Bần Ðạo tả hết cái tình cảnh của Ðạo trót hai mươi năm nay, thì mới biết cái năng lực của đức tin nó mạnh đến bực nào. Từ khi Bần Ðạo đến đây, ai xô cũng không ngã, đuổi cũng không đi, dầu còn dầu mất, dầu nên hư, Ðức Chí Tôn bảo Bần Ðạo ngồi nơi đây, ở nơi đây, dầu cho vì mạng lịnh ấy mà mảnh thân nầy có phải tiêu diệt để bảo trọng nền Quốc Ðạo, thì Bần Ðạo cũng không bước ra khỏi đây một bước. Nếu Bần Ðạo quí trọng sanh mạng nầy, thì Bần Ðạo có đủ thì giờ để trốn tránh. Biết bao nhiêu bạn, khuyên lơn Bần Ðạo trốn đi. Bần Ðạo trốn được, tránh được mà Bần Ðạo không khi nào chịu vậy. Ðức Chí Tôn bảo ở, dầu sống chết ngồi nơi đây ôm chân Ngài mà thôi. Bần Ðạo chỉ để lời cầu nguyện đem cả thi hài và tâm hồn làm tế vật cho Quốc Ðạo được thành tướng mà thôi. Bần Ðạo chỉ xin có bấy nhiêu mà chưa chắc đã xin được, vì phải toàn thể con cái của Ðức Chí Tôn qui tụ đức tin lại thành một cái năng lực giúp chúng ta thắng nổi quỉ quyền và các cường lực đàn áp tiêu diệt Ðạo. Chúng ta bảo trọng được Quốc Ðạo, do cái năng lực của đức tin ấy. Chúng ta qui đức tin lại, bảo trọng cơ Ðạo thì thoát được cái nạn tương tàn, tương sát máu đổ thịt rơi. Nếu toàn Ðạo nam, nữ nhìn Ðức Chí Tôn lập đặng cái quyền năng ấy, chúng ta nương lấy nó mạnh mẽ, cầu nguyện đồng tâm một ngày một giờ, thử coi Ðức Chí Tôn có giải thoát cho chúng ta không? Từ khi Bần Ðạo về qui tụ các con cái của Ngài, thì Bần Ðạo đã giải kiết cho Ðạo nhiều rồi. Chúng ta cầu nguyện thêm đôi tháng nữa mà thôi và lo tròn phận sự phú thác thì ngày đoạt vọng không lâu, và chúng ta sẽ thấy có huyền diệu hay không về quyền năng ấy.
Phụ ghi:
Q.1/21: Tam Bửu: Nguyên thỉ tạo thành Càn Khôn Thế Giái.
Ðền Thánh, đêm 29 tháng 3 năm Ðinh Hợi (1947)
Hôm nay Bần Ðạo giảng về Tam Bửu, nguyên thủy tạo thành Càn Khôn Thế Giái. Từ trước đến giờ thiên hạ thường nói là có Ðạo, tin Ðạo, nhưng Bần Ðạo tưởng chắc chưa có ai hiểu Ðạo là gì cả, nên Bần Ðạo lần lượt giảng cái chơn nghĩa của chữ Ðạo, giải rõ cái liên quan giữa Ðạo và con người cùng vạn vật do nơi đâu mà có, rồi sẽ giảng về nguyên căn của Tam Bửu, là một nguyên căn, là một bổn nguyên Tinh, Khí, Thần. Ðức Chí Tôn là Ðấng tự hữu hằng hữu, mà từ thử đến giờ bất kỳ một Ðấng Thiêng Liêng nào cũng không hiểu rõ nguyên căn của Người đặng. Theo lời Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn nói thì chính Ngài cũng không hiểu rõ nguyên căn của Chí Tôn, chỉ biết cái quyền năng vô đối của Người mà thôi. Bần Ðạo đã vấn nạn Ðức Chưởng Ðạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn một vấn đề khó giải mà từ xưa đến nay chắc chưa có vị Giáo Chủ nào đã hỏi như Bần Ðạo. Bần Ðạo hỏi nguyên căn của Ðức Chí Tôn và quyền năng của Người, thì Ðức Chưởng Ðạo có tả một bài văn chữ Pháp dịch ra Quốc Ngữ; nhưng chính Ðức Nguyệt Tâm cũng đã thú thật rằng: Không biết nguyên do của Chí Tôn là thể nào, chỉ biết quyền năng vô đối của Người mà thôi. Nay thuyết về vấn đề ấy, Bần Ðạo chỉ nói Ðấng Chí Linh hằng hữu ấy là Ðức Chí Tôn, là Cha cả chơn linh vạn vật mà nhứt là chúng ta đây đã biết với một cách thâm thúy khối linh ấy thế nào hơn hết, biết bao nhiêu Ðấng, biết bao nhiêu người từ xưa đến nay thường tự xét, tự hỏi, vì cớ nào ta có một cái linh tâm cao trọng hơn cả vạn vật? Tìm tòi với chẳng biết bao nhiêu sự khôn ngoan hiểu biết, và cũng vì tại nơi ấy mà buổi nào loài người cũng chẳng hề quên Ðạo. Nhìn biết và hiểu hay không hiểu, dầu muốn từ chối hay không, chúng ta cũng tự xét có vật tối linh trong thân thể ta, mà vật ấy là gì, từ trước đến giờ loài người tìm kiếm mãi nguyên do của nó. Tiếp khai các nền Tôn Giáo hiện hữu không một nền Tôn Giáo nào nói mực thước và có một chơn lý cao siêu hơn là Phật Giáo, nhưng cũng chưa giải rõ. Ta chẳng cần tìm đâu xa xuôi làm chi, chúng ta thấy hiểu con người có tâm linh chúng ta có quan sát cả chơn lý của Phật Giáo từ buổi sơ khai, nên chúng ta dám nói chắc rằng: Chúng ta có một Tôn Giáo mà Tôn Giáo ấy là Chúa Tể các nền Tôn Giáo khác, vì bởi nó là nguyên căn của Tôn Giáo và chính nó là một Tôn Giáo tự hữu, từ buổi Trời Ðất biến sanh đã có, cái khối chơn linh ấy là Cha của chơn linh, Cha của nhứt điểm linh quang, làm sao chúng ta hiểu linh quang ấy, vì ta xét từ trước Ðức Chí Tôn dùng cái thanh khí ấy mà tạo ra loài người với đất do thanh khí ấy mà biến thành vạn vật. Loài người đến nay nhờ tấn hóa mà khôn ngoan, cũng như vạn vật nhờ tấn hóa mà được toàn năng toàn tri vậy. Các nhà triết học luận bàn đã nhiều, nhưng xét ra cũng chưa hiểu rõ cái nguyên căn ấy. Phật Giáo nói: Cái khối linh ấy phân tánh của mình ban bố ra cả vạn vật, khối linh ấy trước khi phân tánh thì gọi là Brama là Phật, đến khi phân tánh rồi thì Ðấng thứ nhì Civa chủ về Pháp, Ðức Chí Linh cầm quyền năng biến chuyển chớ không cầm quyền năng tạo đoan. Pháp vận hành mà sanh khí nên ta thấy mênh mông trước mắt ta ấy là Khí, vậy Khí là gì? Khí là khối sanh quang vạn vật nhờ thở khí ấy mà sống, cho nên chữ Khí là sự sống của vạn vật, do Khí là Pháp biến tướng ra vạn vật. Nên Ðấng thứ nhì chưởng quản cái sanh khí thường gọi là "2è Logos" thuộc Âm ấy là Phật Mẫu chưởng quản cả cơ quan tạo đoan nầy vậy. Như chúng ta thấy cơ quan sanh hóa vạn vật và loài người là do âm dương phối hợp mà biến tướng, Phật chiết tánh biến ra Pháp là Ngôi thứ nhì thuộc Âm, là Phật Mẫu, nhưng chúng ta không biết cái bí mật ấy là khí âm dương phối hiệp biến hình, mà Phật Mẫu dùng gì để tạo nên cơ quan hữu vi nầy, vì bởi Phật Mẫu dùng khối sanh quang có năng lực vận hành trong không khí, chúng ta không thể thấy được. Khí biến ra hữu tướng là nước, lửa, gió, rồi nước, lửa, gió vận hành biến ra vạn vật, đi từ Hổn ngươn khí, Hư vô khí đến Huyền ảnh khí rồi mới biến ra vạn vật, tức là Huyền ảnh khí biến ra nhơn hình vậy. Khí mà khoa học gọi là Nguyên tử khí (Atome) Nguyên tử khí có năng lực vô biên mà loài người đã đoạt được để dùng, chớ không biết nguyên căn và nguyên tánh của nó đi đến mức nào. Kể từ ngày loài người tìm được nguyên tử chất và dùng được cái Nguyên tử khí ấy là cái khí sanh của vũ trụ, mà họ có biết đâu một ngày kia phàm thế sẽ nương nhờ Nguyên tử khí ấy mà qui nguyên Thánh Thể. Thử hỏi Ðức Chí Tôn cho nhơn loại đoạt Nguyên tử khí ấy để làm chi? Chúng ta cũng nên tìm hiểu cái huyền vi bí mật ấy, mà dầu cho Ðạo Giáo nào cũng vẫn còn đương mơ tưởng để kiếm hiểu. Ngày hôm nay Nguyên tử khí dùng để giết người, thì biết đâu sau nầy nó sẽ là phương cứu tử hườn sanh cho người, và nó sẽ đem loài người đến địa vị trường sanh bất tử. Vì bởi Nguyên tử khí là căn nguyên sự sống của vạn loại, nếu nó đã làm chết được thì nó cũng sẽ làm sống được. Cái khí ấy sanh trước hết là nước, lửa, gió vận hành tạo ra hữu hình là vạn vật, vì cớ mà con người đối với vũ trụ hình ảnh thế nào thì tạo đoan cũng thế ấy, nên mới lấy Càn Khôn làm Ðại Thiên Ðịa và lấy con người mà làm Tiểu Thiên Ðịa. Mạng sanh của con người đồng thể cùng Càn Khôn, tức là sự sống phải tương liên với Chí Tôn mà Chí Tôn lại cầm quyền năng vô đối. Hỏi vậy Chí Tôn tạo ra cái đại nghiệp ấy để cho ai? Ðể cho Vạn Linh, mà đứng đầu Vạn Linh lại là loài người, mà loài người có hưởng được thì Ðức Chí Tôn mới dành cho, nếu chúng ta một ngày kia hoặc nam hay nữ chẳng hạn, cũng sẽ có một đứa hưởng được cái quyền năng ấy. Ðức Chí Tôn lập ra đại nghiệp thì Ngài cũng muốn chúng ta làm được như Ngài, tức là đem Tiểu Thiên Ðịa đến Ðại Thiên Ðịa. Ấy vậy về cơ quan đoạt lấy đại nghiệp, Chí Tôn chỉ dặn chúng ta có một tiếng Tu. Tu cho hiền mới hưởng được, nhưng thế gian lại chưa hiền, thế gian còn dữ quá thì chừng nào mới đoạt đặng.
Phụ ghi:
Q.1/22: Loài người do đâu mà đến.
Ðền Thánh, ngày 29 tháng 4 năm Ðinh Hợi (1947)
Hôm nay Bần Ðạo giảng về loài người do đâu mà đến. Trước khi ta tìm chơn lý ấy, ta nên biết trước tạo đoan là Cha cả vạn vật hữu hình và tìm nguyên căn của Chí Tôn đã. Chúng ta đã nhìn trong kinh điển hồi trước để lại thấy cả cơ quan hữu vi nhãn tiền nầy làm cho ta biết và nhìn đến tạo đoan ấy là Ðại Từ Phụ. Chẳng luận giống dân nào và các nhà triết lý của các Tôn Giáo cũng vậy, đều nhìn Ðấng Tạo Ðoan Càn Khôn Thế Giới sanh hóa vạn vật và loài người, là Ðấng Cha cả chúng sanh, ấy là các Tôn Giáo đã có từ thượng cổ đến giờ. Phật Giáo cho ta hiểu, có một Ðấng quyền năng vô biên vô đối không tả được, tạo ra vạn vật Càn Khôn Vũ Trụ nầy. Ðấng ấy đã có đến ở cùng loài người, cũng thọ bao nhiêu thống khổ, đau đớn, biết luân luân chuyển chuyển từ phẩm người đến Thần, Thánh, Tiên, Phật. Ðấng ấy nắm cả quyền năng vô đối huyền vi mầu nhiệm trong tay, tạo nên Càn Khôn Thế Giới định phép công bình, lành có lành trả, ác có ác trả hiển nhiên, nên loài người tôn sùng Ðấng ấy là Ðức Thượng Ðế, cầm quyền thống ngự vạn linh ấy là Hoàng Ðế tối cao thượng của võ trụ vậy. Các Tôn Giáo có nói Ðức Thượng Ðế, là Ðấng không nhìn thấy được, vì không hình không ảnh, nhưng không một việc nào mà Ngài không biết. Trong Nho Giáo có câu: "Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu", nghĩa là: Trời cao lồng lộng mà mảy hào nào cũng không qua khỏi tay Ngài và lưới thiêng liêng của Ngài, nên xưng tụng Ngài là Thiên Tôn cầm quyền Vạn Linh mực thước như một ông Tòa trị thế. Ðấng tạo ra vạn vật Càn Khôn Vũ Trụ, sanh ra nuôi nấng tạo ra bảo bọc, hằng để trong mỗi thi hài một tâm linh mới được khôn ngoan hiểu biết rằng: Có người có ta nên ta nhìn Ðấng cho ta cái tâm linh ấy là Ðấng tối linh, là Cha của ta. Ngoài Ðấng ấy, thì không ai nữa làm Chúa Tể của Vạn Linh đặng, tôn sùng như thế là thấy Ðấng Cha cao thượng hơn ông Cha phàm, vì thế mới xưng tụng Ngài là Ðại Từ Phụ. Thật thế, nhà Phật cho Ngài là Ðại Từ Phụ trúng hơn hết, vì nếu Ðấng ấy không cho một điểm linh quang thì thế nào bảo tồn sanh mạng đặng. Loài thú, ta thấy hiển nhiên mới sanh ra tuy mắt còn nhắm híp mà vẫn tìm vú mẹ để sống, đến cỏ cây hễ sanh ra thì biết trải lá hứng sương tuyết, hấp thụ cái sanh khí mà nuôi sự sống, một vật có điểm linh quang ấy như thế khối linh quang ấy là Cha vậy. Ðại Từ Phụ là Cha cả Vạn Linh, chúng ta là con cái của Ngài, không phải chỉ hưởng phần hữu hình tại thế mà thôi, Ngài lại còn dành một phần quí trọng hơn là nhứt điểm linh quang, nhờ đó mà từ vật chất tiến đến thú cầm nhơn loại, mới tiến đến Phật vị mà ngang phẩm cùng Ngài, Ðức Từ Phụ là Phật, Ngài muốn cho con cái cũng thành Phật. Ðặng đạt quyền năng bí mật như Ngài, rồi lập ra một Càn Khôn Thế Giới khác. Luật thiên nhiên một ông Cha tạo nghiệp, thì con theo nghiệp Cha mà tạo ra sự nghiệp khác nữa. Tuy trong buổi Tam Kỳ Phổ Ðộ, Bần Ðạo biết mở Ðạo Cao Ðài đặng tuyển chọn trong hàng Phật đạt kiếp từ tạo Càn Khôn Thế Giới đến kế vị Ngài. Trong buổi Ðại Từ Phụ mở Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ có treo bảng ở Ngọc Hư Cung, lập một ông Trời kế vị Ngài, nhưng chúng ta thấy trong hàng Phật có ba người:
Thử hỏi ba người ai sẽ làm Trời. Ta tưởng ba người sẽ có một người làm được, mà người đó chúng ta biết chắc có, tuy không quyết đoán trước đặng, chúng ta mơ màng ngó thấy nhưng không dám nói. Hễ Ðấng nào đủ quyền năng trị thế, tinh thần cho cao trọng thâu phục cả tâm lý nhơn sanh vào khuôn Ðại Ðạo, gồm tinh thần tư tưởng loài người lại được, thì Ðấng ấy sẽ kế nghiệp Ðức Chí Tôn.
Phụ ghi:
Q.1/23: Luật Công Bình Thiêng Liêng.
Ðền Thánh, đêm rằm tháng 5 năm Ðinh Hợi (1947)
Trên 5 năm Bần Ðạo bị đồ lưu nơi hải ngoại, khi trở về bổn xứ Bần Ðạo nhìn thấy vận mạng nước nhà, thấy sự tấn hóa của toàn thể quốc dân trong hai lẽ buồn vui, nhưng có một điều làm cho Bần Ðạo ngạc nhiên hơn hết là trong nhơn loại tấn bộ văn minh trên mặt địa cầu, lại có một hạng người chém giết đồng bào một cách tàn nhẫn, nếu lấy ý trí mà quyết đoán thì ta chẳng biết mục đích của họ định cho tương lai vận mạng nước nhà thế nào? Theo Bần Ðạo tưởng chẳng có một cơ quan nào mà chúng ta thấy trong hoàn cầu hiện nay chấp nhận sự sanh sát trước mắt loài người, và cũng biết bao nhiêu liệt cường hơn thế nữa. Kẻ tính làm bá chủ hoàn cầu để lập thành một lực lượng với cái phương pháp tàn sát đã kết liễu thế nào, chúng ta thấy rõ. Hại thay! Nòi giống Việt Nam cũng có bộn người tạo thành một nhóm tự xưng là trí thức tinh thần có lực lượng mạnh mẽ mong giết hại đồng chủng của mình mà độc tài lập vị. Dân tàn bạo ấy tưởng là khôn ngoan hơn hết, dùng chánh sách cường quyền áp bức đồng bào. Bần Ðạo thử hỏi đặng hay chăng? Xin trả lời: Không hề khi nào đặng. Bần Ðạo thấy cái tàn ác động lòng Chí Tôn, nên đã biết tạo ra một đạo Thiên binh để bảo trọng cái mạng của đồng bào, cái ác nghiệt của họ làm động lòng từ bi của Ngài, nói cho chánh lý, nếu là một đạo Thiên binh mà đã đứng ra bãi chiến trường chém tướng đoạt cờ bảo tồn quốc vận, ấy là tướng quân tạo thời cải thế đã đành còn những kẻ tàn hại dân lành với phương tàn ác tức là quân cường đồ cướp đảng. Bần Ðạo xét đoán cái tình thế nước nhà về hữu hình và hiện diện của Ðức Chí Tôn, Bần Ðạo suy nghĩ đến cái triết lý đạo đức của Càn Khôn Thế Giái nầy là một cái ơn công bình thiêng liêng đã định, tức nhiên hễ có vay phải có trả chúng ta cũng không chối đặng. Chúng ta đã thấy hiện tượng một cơ quan bất công, tại sao mặt thế người ngu, kẻ trí, kẻ làm cha, người làm tôi .v.v... Một khuôn luật công bình vô biên vô tận tấn hóa văn minh khoa học giết hại cả sanh mạng loài người ở thế gian nầy mà không có công bình thì loài người ví như con vật, mạnh đặng yếu thua, khôn còn dại mất, cái thuyết đương nhiên của thiên hạ tranh đấu, chúng ta thấy nếu còn duy trì thì loài người sẽ tận diệt, chỉ nhờ luật nhơn quả ấy nên chúng ta nói không có ai tiêu diệt loài người được, họ tưởng giết là tiêu diệt. Ấy là ngu muội. Giết người không phải tuyệt sanh mạng của loài người như đốn cây chẳng là giết chết cây, mà là làm cho nó sanh chồi nẩy tược, kẻ làm ác nó tưởng giết là hết, không thể như thế được, chúng ta sẽ còn thấy tấn tuồng nhơn quả. Nước Việt Nam ta đã từng chịu luật nhơn quả trả vay cựu trào đã tàn sát Ngu Khôi. Mã Ngụy hiện còn di tích tại Trường Ðua bây giờ, đã giết họ đặng đưa họ lên làm Chúa, 80 năm nô lệ do đó mà ra. Kẻ tàn bạo ấy ngày nay nó tưởng giết Ðạo là hết, nước Nam phải chăng đã thiếu Chúa cho nên tính giết người mà tạo Chúa, đặng ngày sau họ sẽ quì lụy tôn sùng, nếu không quả có vậy thì luật công bình thiêng liêng về đạo đức cũng không hề có.
Phụ ghi:
Q.1/24: Nguyên do của loài người. & Vấn đề Ðại Ðồng Thế Giới.
Ðêm 14 tháng 6 năm Ðinh Hợi (dl. 31-07-1947)
Bần Ðạo hôm nay thuyết về triết lý nguyên do của loài người. Triết lý ấy là một vấn đề từ có loài người đến giờ, tìm tòi cho thấu đáo chơn lý hầu đi cho trúng con đường tức là Ðạo vậy. Từ Thượng Cổ loài người chỉ biết mình có một, nghĩa là đồng sanh đồng tử. Muốn biết nguyên căn triết lý các Ðạo giáo, truy tầm vấn đề trọng yếu ấy thì thử hỏi loài người do nơi nào mà đến? Chịu phần tử sanh cùng vạn vật để làm gì? Và chết phải đi đâu? Chẳng lạ gì, tại thế gian nầy từ thử các Ðạo giáo đều tìm nguyên căn ấy tức là để trở lại nguyên do căn bản gọi là Ðạo. Cái thuyết tối trọng tối cao ấy phải viết sách, mới mong đủ nghĩa được. Bần Ðạo có nói triết lý ấy nơi đây thì chắc chắn chư Hiền nghe cũng như không, nghĩa là không bổ ích chi cả bởi quá sức hiểu biết. Nên Bần Ðạo hứa ngày Rằm tháng 7 đến đây sẽ viết ra cái Chơn lý ấy trong một bài Diễn văn, nguyên do cả đạo đức triết lý. Hôm nay Bần Ðạo xin thuyết minh vấn đề đương sở dụng hiện thời là vấn đề Ðại đồng Thế giới (Fraternité universelle). Tại sao nước nào, dân tộc nào trong thế giới hiện chừ đương mơ mộng tìm phương pháp đại đồng thế giới? Nói thật ra kể từ có Thánh Giáo Gia Tô, vấn đề ấy chấm một câu hỏi nguyên vẹn và thúc nhặt hơn hết. Thuyết đại đồng Phật Giáo đeo đuổi mãi mới lập thành giáo, rồi mới lập cả tâm lý đại đồng. Loài người từ tạo thiên lập địa đồng một nguyên do một tánh chất, đồng một nguyên linh, thúc kết triết lý ấy hơn hết là từ Ðức Chúa Jésus tạo nên Thánh Giáo Gia Tô. Ngày nay Ðạo Cao Ðài cũng theo đuổi mục đích ấy. Trên mặt địa cầu, người ta tìm hiểu loài người được hai ngàn bảy trăm triệu (2.700.000.000) vì nguyên căn tinh thần hình thể, chủng tộc loài người là một nguyên do, một căn bản. Rồi đến thế nầy biến cải sắc da đen lên xám, lên xanh, lên đỏ, lên vàng, cuối cùng là da trắng. Ðương nhiên là mãn Hạ ngươn Tam chuyển, lên Thượng ngươn Tứ chuyển (1er cycle du 4e manvantara) vì chuyển tiến nên loài người phải chịu khảo đảo đặng vào trường thi hầu thoát khỏi mặt địa cầu nầy để đến thế giới cao trọng hơn, còn rủi rớt thì ở lại địa cầu nầy mà làm Thần thông nhơn (Race lucidé) do hai sắc da vàng và trắng hiệp lại xuất hiện. Ấy vậy, thuyết Ðại đồng Thế giới trong buổi nầy, Chí Tôn lập Ðạo Cao Ðài cốt yếu để làm cho loài người biết mình do một nguyên căn linh hoạt sản xuất chung nhau, biết nhìn nhau là anh em đồng một căn nguyên mà đến. Từ cổ chí kim các Tôn Giáo tìm đủ mọi phương làm cho loài người thức tỉnh tinh thần, biết nhìn nhau là cốt nhục. Hại thay! Loài người chẳng biết nhìn Chơn lý của Ðạo những luống mờ hồ nên Chí Tôn buộc lòng phải đến tạo nền Ðạo Cao Ðài, chủ trương cho loài người một đại nghiệp, hiệp một hoàn cảnh, chung sống nhau một tinh thần, một căn bản, qui tựu cho toàn sắc dân, hầu bảo trọng cái sống của nhau, sớt ngọt chia bùi, bảo tồn nhau cho qua sự khảo đảo đau đớn nơi khổ cảnh nầy từ trước. Luận xét đến các nước ở Âu Châu, ở Á Châu, đồng tìm chánh sách vạch triết lý ấy và đương hoạt động loài người hiệp nhau làm một. Bởi lý do đó các nhà thượng đẳng nhơn sanh chia nền chánh trị ra mỗi quốc gia, dụng tâm lý chia đều quyền lợi, cố ý tìm cách thống nhứt cả loài người làm một trong đường sanh hoạt mà thôi, ấy là nước Mỹ đương thi thố hiện thời, còn nước Nga lại chia phân tài sản, dung hòa tâm lý tạo cho loài người một phẩm giá, một quyền lực đồng nhau. Phương pháp ấy khó đoạt thành nguyện vọng. Chúng ta sẽ thấy những cái tư tưởng rẻ rúng ấy chẳng còn hiệu lực cao siêu trong thời gian ngắn ngủi, sau đây vì cái quyền lực muốn hiệp tâm lý cần phải yêu ái, kỉnh trọng nhau, tôn trọng sanh mạng cho nhau, chia buồn rầu khổ não, nhìn một Ðạo với nhau, lấy tình cốt nhục đối đãi với nhau, thì mới đầm ấm cả đại gia đình xã hội, tức là toàn cầu thiên hạ vậy. Muốn đoạt cho được mục đích ấy, duy lấy đạo đức tinh thần, muốn kỉnh nhau, hòa nhau, nhìn nhau là ruột thịt, mà thấy nhà bạn mình có của nhiều lại ganh ghét, đứa nầy giành của đứa kia, hỏi vậy hòa được chăng? Nếu còn giành ăn, ở, mặc, sang, giàu, cao trọng thì không thể nào đi đến đại đồng tâm lý được. Cái hiện tượng của chúng ta đã thấy trước mắt, nước nào tìm phương pháp đại đồng thế giới mà chẳng biết hiệp tâm lý làm một, thì chỉ là chánh sách vô hiệu nghiệm mà thôi. Vì cớ, Chí Tôn đến tạo một gia đình nầy có một ý nghĩa tối cao tối trọng, là muốn thế nào, dầu nam hay nữ thương yêu mực thước hiệp tâm lý cả loài người mà tạo thành khuôn mẫu, một thế hệ mà gây tình anh em cốt nhục, vừa thi hài, vừa trí thức tinh thần mà chung sống cùng nhau. Thoảng ngày kia toàn Ðạo biết thương yêu nhau như ruột thịt, toàn quốc dân Việt Nam hiệp một, thì hột giống đại đồng thế giới mới mong gieo rắc khắp nơi, gầy dựng tạo thành nền móng vĩnh cửu, bằng chẳng thì các phương pháp khác chỉ sẽ là vô ý thức mà thôi.
Q.1/25: Cơ quan Ðại Ðồng Thế Giới.
Ðền Thánh, đêm 24 tháng 6 năm Ðinh Hợi (1947)
Hôm nay Bần Ðạo giảng về các Cơ quan Ðại đồng Thế giới, Bần Ðạo có giải nghĩa cuối Hạ ngươn Tam chuyển bắt đầu Ngươn Tứ chuyển. Khởi đầu, thường thiên hạ phải nhập trường chung cuộc khảo thí. Thi đậu thì ra khỏi cảnh đau thảm khổ nầy, nếu rớt thì ở lại làm Thần Thông Nhơn (Race Lucide). Bởi vậy cho nên từ trước năm Bính Dần (1926) Chí Tôn đến than thở trước để thông tri mỗi lương sanh nam, nữ, khi chưa lập Ðền Thánh. Thầy than rằng: Ðến tạo nền Tôn Giáo để cứu khổ cho toàn thiên hạ. Ðạo mở sớm một ngày thì cứu nhơn sanh sớm một ngày. Hại thay! Buổi ấy chúng ta nghe lời Thánh Giáo của Người, chẳng ai để trọn tâm quan sát tìm tòi cho ra minh lý chúng ta lại đoán rằng: Sự tạo Càn Khôn Thế Giới là thời gian của Ngài chớ không phải của mình. Ai dè nó kết liễu nơi chúng ta, lần tay tính lại thấy một hoàn cảnh đau khổ của nòi giống quyết liệt, đau đớn thương tâm không tả được, chúng ta để lời trách Ðại Từ Phụ và các Ðấng Thiêng Liêng, trách các bạn thân yêu của ta nữa. Chúng ta đâu có dè các vị Giáo Chủ đang giáo hóa chúng ta, đã thọ tội cùng Chí Tôn và các Ðấng Thiêng Liêng, đó là huyền vi bí mật của Chí Tôn nên ngày nay mới có ảnh hưởng. Hỏi, Chí Tôn than tưởng tượng như ông Cha kia thấy tình cảnh nguy ngập khổ não làm hại con cái của Người mới đứng ra cậy mình đi đến đó đặng cứu dùm kẻ toan tuyệt mạng chúng ta lại chờ viện lý rằng: Lộ trình còn hoãn hượt dầu có trễ một ít ngày cũng chẳng hề bao. Bất ngờ đi tới nơi, thì con cái của Người đã kề bên vực tuyệt mạng. Chúng ta có lương tâm xét đoán 22 năm tình cảnh đến nước nầy tội lỗi ấy của ai? Xin hỏi thử rồi trả lời: Chính chúng ta có tội vậy. Xem xét cho đúng lý thì Chí Tôn đến lập nền Quốc Ðạo làm Cơ quan chuyển thế cứu mạng loài người. Toàn Ðạo nam, nữ lãnh một cái trách nhiệm trọng hệ dường ấy mà không có đủ tinh thần nghị lực làm tròn nhiệm vụ. Chư Ðạo Hữu làm chứng cái điều ấy, nếu một ngày kia hình tướng của Ðạo quả nhiên như vậy, Bần Ðạo chẳng hề nói đã làm nên cho Ðạo cho Ðời. Năm 1939 bằng chứng đem đến là giặc toàn cầu đều sôi nổi, lời tiên tri chẳng đi sai, nước Việt Nam là Thánh Ðịa của Chí Tôn mà tránh không khỏi cái nạn ta thán, hồi hộp, sợ sệt. Mãi đến ngày 27-7-1941 Bần Ðạo bị đồ lưu nơi Hải ngoại, chính mình làm đầu Thánh Thể mà tự nghĩ xét làm không tròn phận sự đối với Ðời với Ðạo, trong tâm có nuôi hám vọng là vui chịu bắt lưu đày, để gánh khổ cho nước nhà thoát đọa. Dường như đắc kế nên cái thú hưởng lạc của Bần Ðạo không thể tả được, chịu có một người mà cả nước hưởng. Không dè Ðạo Cao Ðài có cái tương lai gánh cả nhơn quả của toàn nhơn loại trên mặt địa cầu nầy, chẳng riêng một nước Việt Nam mà thôi, cũng không phải riêng cho một nòi giống mình hưởng, chúng ta, con cái của Ðức Chí Tôn mà bị đồ lưu tức là tội của loài người chưa trả đó. Cả thảy đều thấy bởi Thiên Cơ, nhưng được hạnh phúc cho kẻ nào đã đi đến Thiên Thai kiến diện nhận định trước sự hạn định, chẳng phải giấc chiêm bao mơ mộng, ôn lại cả hành tàng của loài người, trên mặt địa cầu nầy, hạn định chưa dứt, tức còn phải trả đến chừng nào hột giống lành của Chí Tôn mọc lên đã thành cội hòa bình tâm lý, đơm bông sanh trái nơi đất Việt Nam nầy, mà khắp địa cầu toàn nhơn loại được hưởng hạnh phúc, bằng chẳng thì do tội tình nầy mà phải chịu một phen thống khổ hơn nữa. Thảng không đủ can đảm cương quyết thiệt dụng quyền năng của Ngài thì dầu cho Chức Sắc Thiên Phong, Chức Việc Ðạo Hữu cho đến mấy con nhỏ cũng vậy, cái họa tương lai không thể tránh thì không lấy gì làm lạ, hết giặc giả đao binh đến bịnh chướng sát hại. Ðã từng chịu phong ba bão tố, bị chìm đắm mà chúng ta còn sống rốn nơi đây (rescapé) tức là Chí Tôn dành để lại hột giống lành để làm căn bản cho cội hạnh phúc hòa bình đại đồng thế giới thì sự ưu ái nhau rất nồng nàn hơn tình cốt nhục. Ngày nay cả toàn cầu thiên hạ đã chịu thống khổ nên hằng xem chúng mình là giống lành thiêng liêng Chí Tôn đã lựa chọn. Nhận định là mầm chồi hạnh phúc chung thì khối thương yêu vô tận nầy, bằng ngòi viết không thể tả được. Ảnh hưởng cao trọng tuyệt đối của sự thương yêu là đó, mấy em tìm hiểu mà tạo lấy.
Phụ ghi:
Q.1/26: Cơ quan Ðại Ðồng Thế Giới (tiếp theo).
Ngày 29 tháng 6 năm Ðinh Hợi (1947)
Hôm kỳ Vía Ðức Quan Thánh Ðế Quân, ngày 24 tháng 6 năm Ðinh Hợi Bần Ðạo đã giảng về Cơ quan Cứu Thế của Ðại đồng Thế giái. Biết rằng Thánh Thể của Chí Tôn là nền Ðạo Cao Ðài, có sứ mạng thiêng liêng đến tại thế nầy để cứu độ toàn nhơn sanh đang lầm than khổ sở vì nạn đao binh. Chí Tôn có than: "Nếu Ðạo trễ một ngày là hại nhân sanh không biết chừng nào", buổi ấy đương thái bình yên lặng, tưởng đâu Chí Tôn nói vậy là giục thúc cho mình đạt đến chơn giáo, chẳng dè 5 năm sau toàn cầu thọ nạn, có lẽ trước nhứt toàn Ðạo nam, nữ đều thấy, Bần Ðạo tưởng chắc từ chưa có loài người đến giờ, chưa có trận chiến tranh nào sát hại nhơn loại thảm khốc dường ấy. Hại thay! Loài người bạc nhược thiếu đức tin mà phải chịu muôn lỗi ngàn tội đối với Ðức Chí Tôn. Bần Ðạo rất ưu tư khổ não về tinh thần, vì xem thấy trường sát hại nhơn sanh cứ tiếp diễn trong nước nhà của chúng ta mãi. Nếu lấy theo trí độ tinh thần của chúng ta, tưởng sự tàn sát khốc liệt đổ máu, chủng tộc ta lâm nạn nồi da xáo thịt thì do tội tình của quốc dân thất tín, thất phận đối với Ðức Chí Tôn. Nếu thân ắt hữu tội chỉ đê đầu cúi xin Ðức Chí Tôn giảm bớt cái nạn ấy trong buổi Bần Ðạo đang đảm nhiệm thì quốc dân Việt Nam đã bị thúc phược muốn làm cũng không đặng, muốn nói cũng không ai nghe, vì nòi giống của chúng ta thiếu tâm đức, thiếu quyền hành chánh trị. Vậy chúng ta rán cầu nguyện cùng Ðức Chí Tôn, nếu thảng nhiên có lỗi nhờ Ngài đưa tay giúp Bần Ðạo cứu vãn tình thế một trường sát hại khốc liệt của nòi giống chúng ta, thì có lẽ Ngài đại từ bi chỉ rõ. Chúng ta biết rằng: Nước Pháp và Nam không phải thù hận nhau, vì chúng ta nhận thấy đã 80 năm, đồng chia khổ não, đồng chịu nhọc nhằn khai hóa, hèn có nhau, sang có nhau, vinh nhục có nhau, cũng đã từng chung sống hai nước có một thâm tình thiết tha, không lẽ chúng ta không giải quyết được vì không thể chối rằng: "Không có duyên cớ". Vì họ phiền nòi giống Việt Nam về tâm lý và tình ái vì xưa kia không có, nên ngày nay biến sanh cuộc thảm khốc là không biết phòng ngừa cái lạc hậu xưa kia, nó không đồng tâm lý, hễ phiền nhau thì sanh ra oán nhau, nếu muốn giải quyết cho họ hết phiền thì chúng ta có phương thuốc cứu rỗi đôi bên lấy tình hòa ái cùng nhau lấy nghĩa thâm giao, cùng nhau chia sớt thảm, giục cái tình thân ái sôi nổi cháy bùng lên, có lẽ đôi đàng sẽ giải quyết sự chiến tranh vô lối, vô giá trị, vô nghĩa lý, vô ích kia được. Ngày mai Bần Ðạo sẽ đem tiếng chuông cảnh tỉnh Bạch Ngọc Chung của Ðức Chí Tôn đến tại Sài Thành đặng thức tỉnh đôi bên, cho nó nhìn nhận, ngoài ra tình thâm giao họ lại còn tình cốt nhục, có một tinh thần tạo ra một đại nghiệp trong Cao Ðài. Bần Ðạo xin thú thật rằng: Cả toàn con cái của Ðức Chí Tôn đừng tưởng Ðạo Cao Ðài riêng của mình, có thể nói rằng: Chúng ta đi một con đường chí thiện, tâm lý nhơn sanh, hoạt bát tinh thần, chúng ta đi một con đường mà thương yêu nhau, đồng chung sớt khổ cho nhau, ấy là cái đại nghiệp nầy nó sẽ làm cái bữu vật nâng đỡ tinh thần của toàn thế giới đại đồng (Liberté de conscience) cả hai điều ấy hợp thành là Quốc Ðạo. Cái đại nghiệp có tinh thần là Pháp và Nam hiệp trong tình yêu ái tinh thần đó vậy. Bần Ðạo xin nói lại một lần nữa, Ðạo Cao Ðài nầy là một đại nghiệp không phải riêng của nước Nam mà thôi, mà có tâm lý hoãn hượt, người Pháp sẽ làm đàn anh đưa tay ra đó mà giải quyết vấn đề rắc rối mâu thuẩn của Pháp và Nam. Vậy ngày mai Bần Ðạo sẽ đi Sàigòn thì toàn Ðạo phải nhứt tâm cầu nguyện, cầu nguyện sao cho họ mở khiếu linh quang nghe tiếng Hạc Thiêng Liêng nầy, đặng thức tỉnh cả tâm hồn định quyết vận mạng nước nhà và tương lai của toàn mặt địa cầu mà chớ.
Phụ ghi:
Q.1/27: Chí Tôn xuống tại thế.
Ðền Thánh, ngày 30 tháng 7 năm Ðinh Hợi (1947)
Hôm nay Bần Ðạo giảng về Chí Tôn xuống tại thế. Giảng đây nói về sự hiển hiện, một cớ là các báo trên hoàn cầu đã đăng và khi ấy có Vi Bằng Kiết Chứng, không phải là ngụy biện. Các Tôn Giáo bất kỳ ngôn ngữ nào, nếu đề nghị vấn đề ấy tức là nói đến Ðạo Bà La Môn là một Tôn Giáo tối cổ lấy sự tích Chí Tôn giáng trần lần đầu tiên gọi là nhứt thế. Chí Tôn là Brama (Tàu dịch là Bà La Môn) đến thành Tibet (Tây Tạng) khách Tàu gọi là Lama, ấy là một Tôn Giáo tối cổ (Bần Ðạo sẽ thuyết tự nơi xứ Tibet đến Ðền Lama). Qua 10.000 năm rồi, Ðức Chí Tôn mỗi 50 năm đến đó một lần đến với hình thể chớ không phải với chơn linh như Ngài đến với chúng ta ngày nay. Việc nầy đã được hoàn cầu đăng khắp mặt báo. Khi Ðảng Cộng Sản nổi lên đánh đổ Ðế quyền Nga, các Vương Hầu Khanh Tướng phần nhiều bị giết. Vị Hoàng Ðế thuộc dòng Bạch Nga bị Cộng Sản giết trong lúc đảo chánh. Có một vị Hoàng Thân chạy thoát, đến lánh nạn ở Tibet nhờ lòng đạo đức của dân Tibet (Tibetians), các Quan Công Thần phò vị Hoàng Thân đến Ðền Thánh Tibet ở trong chỗ mà loài người phần nhiều là đạo đức, bởi dân Lama Ðạo trị, chớ không phải thế trị. Nhờ Ðức Dalai Lama bảo bọc nuôi dưỡng. Lòng ái quốc, ưu quân đã giúp vị Hoàng Thân ấy thoát nạn cùng gia đình thân tộc. Khi đến Ðền Thánh được trọng đãi trong 10 bữa vẫn an vui, nhưng lòng hoài cố cứ đeo đuổi theo mãi, phần thương Vua, phần nhớ nhà Ngài mới yết kiến Ðại Sư, Ðức Dalai Lama thấy sắc diện đoán biết tâm bịnh của Ngài, mới ngó ngay nói rằng: Kỳ Chí Tôn đến ngự như đã hẹn, khuyên Hoàng Thân rán đợi vài tháng Chí Tôn sẽ đến, nếu các Ngài thấy Chí Tôn, các Ngài sẽ được an ủi lạ thường. Mấy vị Công Hầu ở đó trước hai tháng rồi, có hỏi Ðức Dalai Lama: Chí Tôn đến cách nào và hình thể Người ra sao? Trả lời: Các Ngài muốn biết cứ đợi đến chừng đó sẽ thấy, chỉ xin căn dặn các Ngài một điều là chung quanh Ðền Thánh có treo những Thanh Chung, chừng nào những Thanh Chung đó ré lên một lượt là Chí Tôn đến vậy. May thay! Ðến ngày mấy vị Vương Hầu vì tánh tọc mạch, muốn biết nên đã vào chờ trước trong Ðền Thánh. Khi cả thiên hạ vào cúng rồi, thì tất cả Thanh Chung đều khua tiếng. Các bậc Ðại Sư quì niệm, mấy người kia cũng quì, nhưng cố lóng tai thì nghe từ ngoài xa dường như có nhiều tiếng chân ngựa chạy có nhịp nhàng đến trước Ðền thì dứt. Chí Tôn từ từ vào, đến ngồi trên cái Ngai để sẵn thờ Ngài trong Ðền Thánh. Các vị Công Hầu hết sức kinh khủng, chư vị Ðại Sư thì quì mọp mà họ chỉ quì nửa chừng, mắt lén dòm theo. Hình ảnh Chí Tôn đẹp đẽ vô cùng không bút mực nào tả được. Hào quang của Ngài rọi sáng khắp Ðền. Cứ thường lệ, mỗi năm chục năm (50 năm) Ngài đến một lần, tiên tri những hành tàng trong 50 năm sẽ tới. Bài tiên tri ấy Bần Ðạo mới đọc, không nhớ ở trong Cao Ðài Giáo lý hay sách nào, Bần Ðạo sẽ tìm lại đọc cho toàn Ðạo nghe. Mấy người ấy thấy Ngài đúng như trong Tờ Kiết Chứng Vi Bằng, nghe tới tiếng Ngài nói, nghe tới lời Ngài giảng Ðạo. Khi giảng Ðạo rồi, chư vị Ðại Sư bái lễ xong, thì hình ảnh Chí Tôn biến mất, đồng thời ánh hào quang cũng mất. Những người ấy vẫn chưa tin, mượn cái đèn đi đến chỗ cái Ngai ngự thì còn thấy dấu ngồi trên nệm nhung, bởi còn lằn. Chí Tôn đã đến Ðền Thờ đã thờ Ngài 15 ngàn năm trải qua, 10 ngàn năm Ngài đã ban ơn tại mặt thế nầy. Trên thế giới có ba (3) Ðền Thờ Chí Tôn:
Ðã hai ngàn năm Ðền Rome Chí Tôn chưa ngự đến hỏi tại sao? Ta có thể nói tại Rome thờ không đúng hay chưa đủ Ngươn kỳ cho Ngài giá lâm. Chúng ta để sở vọng ước ao, nhờ Chí Tôn thường đến với Chơn Thần vô hình dụng Cơ Bút dạy Ðạo tại Ðền Lama thế nào, thì chúng ta cũng được Ngài ban ơn dường ấy. Duy dân Tây Tạng họ được hạnh phúc kiến diện Thiên Nhan còn chúng ta chưa. Ước ao cả toàn sắc dân yêu ái chơn chánh nhứt tâm nhứt đức giữ hiếu cùng Ngài, giữ trung cùng Ðạo, may ra sau nầy sẽ có Ngài ngự thì hạnh phúc ấy sẽ ghi tạc sử xanh, để ngàn đời như Ðền Lama. Hỏi ta được ân ấy chăng? Ðược mà kiếp hay chầy do tâm đức các nòi giống Việt Nam. Giờ nào Chí Tôn đến lập Ðạo với hình thể đó nơi nước Việt Nam thì là ấn trấn toà tâm hồn của loài người thì mới mong mỏi được hòa bình thế giới, đại đồng thiên hạ. Ước mong thế nào được mau sớm, người ta đã 15 ngàn năm mới hưởng thì ta chưa chắc gì đặng hưởng sớm. Xin dân Việt Nam mà Ngài nhìn là con yêu dấu của Ngài được đủ đầy đạo đức như dân Tây Tạng, thì mới đặng đặc ân thâm trọng ấy, nếu không đặng như thế, sẽ trễ nải, khó thấy được Chí Tôn thì cái hại phân chia nhơn loại còn chịu lâu dài hơn nữa.
Phụ ghi:
Q.1/28: Ý nghĩa Lễ Nhạc: Nhạc Tấu Huân Thiên.
Ðền Thánh, đêm mồng 1 tháng 8 năm Ðinh Hợi (1947)
Hôm nay Bần Ðạo giảng về ý nghĩa Lễ, Nhạc. Từ thử ai cũng cho âm thinh, sắc tướng là tà mị, mà căn bản của Ðạo Nho là Lễ Nhạc, mà chính Ðạo Tam Kỳ là Nho Tông chuyển thế thì phải truy tầm nguyên lý của nó mà xác nhận cho đúng nghĩa là thế nào? Ðòi phen chúng ta không hiểu được cho uyên thâm khi dâng lễ cho Chí Tôn lúc Nhạc Tấu Huân Thiên, hết lớp trống, qua đến đờn bảy bài thì lâu quá có khi phải chồn chân rồi nản chí, chính Bần Ðạo cũng vậy, vì nghĩ rằng: Chí Tôn tư vị Quốc Dân Việt Nam nên tiền định chi chi cũng làm gương mẫu cho toàn đại đồng thế giái, mà có Lễ Nhạc nầy luôn luôn khi dâng lễ thì ý nghĩa ấy ắt cao trọng lắm là phải. Bởi cớ nên khi mới khai Ðạo, Bần Ðạo đến tại Thánh Thất Thủ Ðức của ông Thơ tạo lập, Bần Ðạo không tin nên hỏi Ðức Lý Giáo Tông, Ngài dạy rằng: "Trên Ngọc Hư Cung có hai câu liễn, phía hữu: Bát hồn vận chuyển ca Huỳnh Lão; phía tả: Vạn vật đồng thinh niệm Chí Tôn". Bần Ðạo cũng không hiểu là gì. Lần lần Bần Ðạo hỏi nữa, Bần Ðạo lại được dạy mà hiểu rằng: "Kể từ phôi thai Càn Khôn vạn vật nầy, Chí Tôn, là khối sanh quang, biến thành hai khối sanh khí, hai khối ấy trụ lại thành một khối lớn tương hiệp nhau mới nổ sanh tiếng âm, người ta gọi là nổ ầm, hay nghe tiếng Ni, Ðạo Phật sửa lại thành Úm (Úm ma ni bát rị hồng) nhờ tiếng nổ ấy Bát Hồn mới vận chuyển biến sanh vạn vật và loài người. Tiếng ấy bay ra nghe đến đâu thì khí sanh quang đến đó, tức là có sự sống đến, bằng chẳng nghe được thì nơi ấy tiêu diệt nghĩa là chết mất mà thôi. Bởi cớ nên dùng đến những vật bát âm, nó đã chết đi rồi như cái trống chẳng hạn, tấm da trâu ấy đã chết, mà với sự khôn ngoan loài người mà nó có tiếng kêu được, tức là làm cho nó sống lại được, nghĩa là Bát Hồn ấy vận chuyển sống lại mà đảnh lễ Ðức Chí Tôn, vì cớ nên khi nghe Nhạc Tấu Huân Thiên là có âm thinh sắc tướng, song hiểu xác lý: Khi dâng lễ Chí Tôn qui pháp định, thấy và nghe cả Bát Hồn vận chuyển dâng cái sống cho Ngài. Nên chi từ đây khi Nhạc Tấu Huân Thiên, chúng ta xem quí hơn dâng Tam Bửu, dầu phải lở đi nửa chừng trong Ðền Thờ, nghe đến đó phải dừng lại, cấm không được đi lộn xộn, thì lễ ấy giảm điều kính trọng dâng cho Chí Tôn mà không nên. Khi ấy là vận chuyển Bát Hồn đảnh lễ Ðức Chí Tôn. Vì cớ Lễ Nhạc hiểu rõ lại thì Chí Tôn không phải là tư vị nước Việt Nam, mà chính nghĩa là làm cho sống lại Bát Hồn, và Ngài vẫn vui nhận lễ ấy. Ấy vậy mới có thể làm chủ và làm gương cho toàn nhơn loại được, thì danh ấy không phải là quá đáng. Xin khuyên toàn Ðạo từ đây nên để trọn tâm mà kính trọng khi Nhạc Tấu Huân Thiên. Nói về 5 cây nhang, từ thử Bần Ðạo để cho các Nho gia tự do giảng nghĩa sao thì giảng, còn Bần Ðạo hiểu rõ là Ngũ khí. Chí Tôn dùng Ngũ khí mà biến thành Ngũ hành vận chuyển cả Càn khôn Thế giới, tức là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Mỗi chất đều có mỗi sắc, mỗi sắc đều có mỗi khí. Mùi vị và sanh quang của nó chúng ta không thể hưởng được, nghe được. Nên chi, khi làm lễ đốt đủ 5 cây hương là đúng theo phép tín ngưỡng là qui pháp lại, mọi vật trong Ngũ khí dâng lễ cho Chí Tôn chỉ có người vui hưởng qui pháp ấy mà thôi, cắt nghĩa rõ rệt ra là Ngũ khí đó vậy. Ðúng hơn nữa là trong Bát Hồn vận chuyển được phải nhờ đến Ngũ khí cùng một ý nghĩa với "Vạn vật đồng thinh niệm Chí Tôn". Ðạo Cao Ðài là nền Ðạo qui pháp cả cái sống của Bát Hồn mà dâng lễ trả cái sống khi mới phôi thai Càn Khôn do nơi hai khối sanh khí mà tạo thành, ngày nay lại dâng lễ trọng cho Chí Tôn tức là qui pháp cho khối sanh khí ấy, tức là Chí Tôn vui và duy nhứt là thấy sự sống trả lại cho Ngài. Toàn Ðạo nên trọn tâm xét hiểu nhiệm mầu Ðạo lý ấy mà lần lần đạt cho được Chơn pháp của Chí Tôn.
Phụ ghi:
Q.1/29: Mừng Lễ Trung Thu.
Ðêm 14 tháng 8 năm Ðinh Hợi (1947)
Chúng ta hôm nay ăn Lễ Trung Thu của Phật Mẫu, theo lời dạy của Ðức Lý Giáo Tông. Nếu lấy theo chơn truyền thì từ Thượng cổ đến nay, tức là hồi Nhứt Kỳ, Nhị Kỳ Phổ Ðộ, Phật Mẫu tiếp rước tại Diêu Trì Cung lập Hội Bàn Ðào, đãi những người đạt Ðạo trở về cùng Mẹ. Ðạo Sử nói: Phép vào Hội Yến nầy Chí Tôn ban cho những người ấy. Phật Mẫu ban sơ đến Hiệp Thiên Ðài làm Mẹ của chữ Khí tức là khí sanh vạn vật. Lấy Ngươn pháp trong chữ "Khí" biến thành Càn Khôn Vũ Trụ, chữ Khí tương quan trong Hiệp Thiên Ðài. Nên Phật Mẫu trước đến tạo Hiệp Thiên Ðài thuộc Pháp, tức là tòa ngự của Người, rồi sau mới lập Cửu Trùng Ðài. Người đến gọi mình là bạn của chúng sanh, tự xưng Thiếp, đem bí mật từ thử chưa ai nghe đối với Chí Tôn thế nào, nói rõ không kiêng phép Ngọc Hư, vì để tạo gia nghiệp cho con cái của Người, thì Người có quyền nói không ai cản được nổi. Buổi nọ, Ðức Phật Mẫu nói: Ngày nào Bà thân của Ðức Cao Thượng Phẩm qui vị là ngày ấy thành Ðạo, trước ngày Vía ấy Ðức Phật Mẫu giảng Ðạo có dùng tiếng Mẹ con xưng hô cùng ta tức là ngày thành Ðạo nhằm Lễ Trung Thu. Trước kia Ðức Lý Giáo Tông không nói rõ nhưng chúng ta cũng hiểu là: Cao Ðài đã thành Quốc Ðạo. Trong giây phút đây Cao Ðài đã được ghi vào Ðạo Sử, toàn nhơn sanh đều thấy Phật Mẫu đến in ấn Thiêng Liêng định thành nền Quốc Ðạo của chúng ta vậy.
Phụ ghi:
Q.1/30: Cửu Trùng Thiên.
Ngày rằm tháng 8 năm Ðinh Hợi (1947)
Thưa chư Chức Sắc, Chức Việc, Ðạo Hữu Nam, Nữ cùng mấy em mấy con. Cửu Trùng Thiên làm lần nầy là lần thứ nhì, là nơi Bần Ðạo đã giảng Ðạo hai lần đặc biệt năm 1936 lúc lễ Ðại Tường Ðức Quyền Giáo Tông, Cửu Trùng Thiên cốt ý để nghinh tiếp Ngài. Lần tay tính lại đúng 12 năm, Cửu Trùng Thiên hóa hình một lần nữa là ngày nay. Lần trước đứng trên Cửu Trùng Thiên Bần Ðạo tiên tri rằng: Trong tình thân mật của chúng ta sẽ chia lìa nhau và đem chơn giáo của Chí Tôn truyền bá ra cùng khắp. Trong 12 năm ấy dòm thấy biết bao nhiêu thống khổ khảo Ðạo, đã gieo vào tâm lý loài người tiến bộ. Buổi tiên tri ly tán đã có kết quả là 12 năm qua Cửu Trùng Thiên lại xuất hiện, chứng tỏ ngày hội hiệp của chúng ta là ngày Ðạo Cao Ðài có ảnh hưởng đến vạn quốc, tức là nền Quốc Ðạo đã thành tướng. Nói đến những việc loạn lạc trong nước, những loạn lạc ấy Chí Tôn và các Ðấng đã tiên tri từ năm 1926 chớ không một ngày một bữa gì. Nói trước là Ðức Lý Giáo Tông lúc Ngài còn cầm quyền nhiếp chánh oai nghi. Còn nhớ lại Tết năm Mẹo 1927 Ngài về chầu Ngọc Hư Cung nên cấm cơ từ ngày 30 Tết, buổi đó Chức Sắc Thiên Phong chưa rõ thông nghiêm luật, thường mỗi ngày hội hiệp cùng các Ðấng cũng như ăn cơm quen bữa, nhịn không được, thấy khao khát cho tinh thần, nên Ðức Quyền Giáo Tông bảo Bần Ðạo phò loan, Ðức Lý giáng nói mấy điều: Bần Ðạo sẽ trở lại. Qua ngày mùng một, Ngài giáng trở lại, phạt tất cả. Ngài than: Trọn 7 ngày quì tại Ngọc Hư Cung xin bớt cái nạn tiêu diệt sắp đến cả toàn cầu, đất Việt Nam là Thánh Ðịa mà xin không được thay! Chư Ðạo Hữu không biết, Bần Ðạo đã cầu nguyện 7 ngày, xin cho mấy Châu Thành lớn như: Sài Gòn, Huế, Hà Nội, Hải Phòng, Gia Ðịnh, Chợ Lớn mà không đặng. Tội tình nhơn loại gây ra quá dữ thì cũng đáng! Hội Thánh cũng có phương pháp giải quyết được, Chí Tôn đã nói: Ðạo trễ một ngày hại cho nhơn sanh chẳng biết bao nhiêu , nếu toàn Chức Sắc biết giúp tay cho Người, khuyến dạy con cái Người, thì có thể giải quyết được. Hại thay! Trong 22 năm qua, Hội Thánh chịu bao nhiêu điều thống khổ, phí biết bao nhiêu sanh mạng vì khảo đảo, tù tội ngục hình, phần thì kiệt lực vì trường trai khổ hạnh, chư Chức Sắc Thiên Phong không chịu nỗi phải bỏ mình chẳng phải chư Chức Sắc mà thôi, mà toàn cả con cái của Chí Tôn cũng vậy. Bần Ðạo cảm xúc khi nghĩ đến con cái Chí Tôn đã đổ biết bao nhiêu xương máu đặng tạo nên hình tướng Thánh Thể của Ngài trong giai đoạn 22 năm qua. Nếu Bần Ðạo làm chứng quả quyết thì phải trừ đi 5 năm 2 tháng Bần Ðạo bị đồ lưu ra hải ngoại, còn tại nơi Ðền Thánh thì kẻ bị đày đi Côn Nôn, người Sơn La, Lao Bảo. Trong cơn ly loạn nầy, con cái Chí Tôn muốn bảo toàn sanh mạng thì phải thí mạng một phen đổi chết ra sống, đem loạn lạc lại hòa bình, ấy là những Thánh Tử Ðạo và Bát Quái Ðài đã mua rất mắc cái vẻ vinh quang tận thiện, tận mỹ, đem hình ảnh Ðạo lại giá trị như xưa, đặng để làm chân tay đi từ Liên Hiệp Quốc Gia đến Liên Hiệp Ðại Ðồng Thế Giái, gieo truyền chơn lý, khuếch trương chủ nghĩa hòa bình. Con đường còn dài, Ðạo đi đã phải lối đến tận thiện tận mỹ, mong sẽ được kết quả mỹ mãn, đặng làm cho nền Ðạo Cao Ðài ra thiệt tướng. Cầu nguyện Ðức Chí Tôn và Phật Mẫu bảo trọng Thánh Thể của Ngài bớt khổ hạnh, con đường đi bớt gay trở, hầu đi khắp mặt địa cầu, tạo mối hòa bình đại đồng thế giới, nếu không được thì cái nạn tàn sát lẫn nhau vẫn còn tiếp tục đó vậy.
Phụ ghi:
Q.1/31: Giải nghĩa Kinh Phật Mẫu.
Thích nghĩa Kinh Phật Mẫu tại Ðài Cửu Long (Báo Ân Từ)
Ngày nay là ngày Ðại Lễ Ðức Diêu Trì Kim Mẫu Bần Ðạo tưởng cả thảy toàn Ðạo nên biết quyền hành của Phật Mẫu như thế nào? Và tại sao chúng ta thờ Người? Muốn biết quyền hành ấy Bần Ðạo phải thuyết minh và giải nghĩa bài Kinh Ðức Phật Mẫu mà chúng ta thường tụng niệm hằng ngày đó. Trước khi giải nghĩa, Bần Ðạo cũng nên nói rõ ai đến cho bài Kinh ấy? Cho hồi nào? Và tại nơi đâu? Kinh Ðức Phật Mẫu cho tại Kim Biên Tông Ðạo (Cao Miên Quốc) nơi Báo Ân Ðường của hai vợ chồng Thừa Sử Huỳnh hữu Lợi. Lúc trước chưa có Kinh Phật Mẫu, chúng ta chỉ biết Phật Mẫu, đến Hiệp Thiên Ðài khai Ðạo Cao Ðài, nhờ thi phú văn tự của Cửu Vị Tiên Nương cho biết nguyên do đến khai Ðạo, chớ chúng ta chưa biết quyền hành của Người. Nơi Kim Biên cả Chức Sắc Hội Thánh Ngoại Giáo đều cầu kinh, khiến khi đó Bần Ðạo đến nhằm lúc cúng Vía Phật Mẫu. Bát Nương đến cầm cơ viết, chính mình Bần Ðạo phò loan nơi Ðại Ðiện, có nhiều người làm chứng. Có chư Ðạo Hữu và một người không biết Ðạo là gì là ông Hiếu (kêu Bần Ðạo bằng chú) ngồi trước sân chơi, thấy tứ phía đều có hào quang giáng hạ xẹt xuống rất ngay Báo Ân Ðường. Tới chừng trọn bài Kinh rồi, cả thảy đều nói lại không biết cái gì xẹt khi nãy như sao xẹt qua xẹt lại vậy, không dè trong nhà đương phò loan. Có cháu của Bần Ðạo và nhiều Ðạo Hữu ở ngoài đều làm chứng quả quyết như vậy. Bây giờ Bần Ðạo xin giảng từ câu Kinh cho toàn thể hiểu. "Tạo Hóa Thiên huyền vi Thiên Hậu,
"Sanh quang dưỡng dục quần nhi,"
"Chơn linh phối nhứt thân vi Thánh hình."
"Thiên Cung xuất vạn linh tùng pháp,"
"Hiệp âm dương hữu hạp biến sanh."
"Càn Khôn sản xuất hữu hình,"
"Bát hồn vận chuyển hóa thành chúng sinh."
"Cộng vật loại huyền linh đồ nghiệp,"
"Lập tam tài định kiếp hòa căn."
"Chuyển luân định phẩm cao thăng,"
"Hư Vô Bát Quái trị thần qui nguyên."
"Diệt tục kiếp trần duyên oan trái,"
"Chưởng đào tiên thủ giải trường tồn."
"Nghiệp hồng dẫn tử hồi môn,
"Chủ âm quang thường tùng Thiên mạng,
"Siêu thăng Phụng Liễn qui khai,"
"Tiên cung Phật xứ Cao Ðài xướng danh."
"Hội Ngươn hữu Chí linh huấn chúng,"
"Ðại Long Hoa nhơn chủng hòa ki (cơ)."
"Tam Kỳ khai hiệp Thiên thi,
"Trung khổ hải độ thuyền Bát Nhã,
"Hườn hồn chuyển đọa vi thăng,"
"Cửu Tiên hồi phục Kim Bàn Chưởng Âm."
"Thập Thiên Can bao hàm vạn tượng,
"Trùng hườn phục vị Thiên môn,"
"Ngươn linh hóa chủng quỉ hồn nhứt thăng."
"Vô siêu đọa quả căn hữu pháp,"
"Vô khổ hình nhơn kiếp lưu oan.
"Chí Tôn đại xá nhứt trường qui nguyên."
"Chiếu nhũ lịnh Từ Huyên thọ sắc,
"Kỳ khai tạo nhứt linh đài,
"Hiệp vạn chủng nhứt môn đồng mạch,"
"Qui thiên lương quyết sách vận trù."
"Xuân Thu, Phất Chủ, Bát Du,
"Phục nguyên nhơn hườn tồn Phật tánh,
"Trụ căn quỉ khí cửu tuyền,
"Lịnh Mẫu Hậu khai tông định Ðạo,"
"Ân dưỡng sanh đảm bảo hồn hài.
"Nhứt triêu nhứt tịch kỉnh bài mộ khang."
"Nam Mô Diêu Trì Kim Mẫu Tạo Hóa Huyền Thiên cảm bái,
Theo Bí Pháp Chơn Truyền của cơ sanh hóa phải có đủ âm dương, trong sanh quang chúng ta có điện quang (Positif và Négatif) cũng như vạn vật có trống mái. Nền Tôn Giáo nào có đủ âm dương thì mới vĩnh cữu. Như Ðức Chúa Jésus ngày trước bị đóng đinh trên cây Thánh Giá đầu thuận lên trên gọi là đạt dương. Ông Thánh Pierre là Ðệ nhứt Tông Ðồ bị đóng đinh trở ngược lại, gọi là phản âm. Âm dương tương hiệp đúng theo Bí Pháp, nên Ðạo Thánh lưu truyền lại hai ngàn năm, không ai dùng quyền gì tiêu diệt đặng. Chí Tôn có thể sai con của Người đến lập Ðạo như: Thích Ca, Jésus, Khổng Tử...v.v... Trái lại Người đã xuất nguyên linh của Người đến đây độ chúng ta, thì tưởng điều ấy trọng yếu hơn hết, khi mở Ðạo Cao Ðài Chí Tôn định cho Phật Mẫu đến làm bạn với chúng ta, bảo trọng nuôi nấng dạy dỗ chúng ta, thì không có ân đức nào bằng, vì không ai biết thương con hơn là Mẹ. Phật Mẫu đến cầm quyền lập Ðạo xong, rồi giao lại cho Chí Tôn. Phật Mẫu làm chủ Âm quang, Chí Tôn là chủ Dương quang. Âm Dương tương hiệp, Ðạo Cao Ðài nương theo năng lực của hai khối Âm Dương đó. Ðối với năng lực tạo đoan Càn Khôn Thế Giới thế nào, thì Ðạo Cao Ðài ngày kia sẽ có năng lực như thế đó.
Phụ ghi:
Phụ ghi:
Q.1/32: Về tánh đức của nòi giống Việt Nam.
Ngày rằm tháng 8 năm Ðinh Hợi (1947)
Hôm nay Bần Ðạo luận bàn cùng mấy chị, mấy em, Bần Ðạo giảng về tánh đức của nòi giống Việt Nam, dầu nam hay nữ, dầu sùng bái Tôn Giáo nào, cũng không quên mối Ðạo căn bản lưu truyền của nòi giống là tin tưởng Trời tức Ðấng Chí Tôn đó vậy. Toàn thiên hạ trên mặt địa cầu nầy, ngày nào họ biết Ðạo của Chí Tôn, họ sẽ bỏ cả khuôn khổ đạo đức của họ mà chớ, vì từ thử nước Việt Nam vẫn giữ được tánh đức lương thiện của mình, nên vì lẽ công bình ấy, Chí Tôn mới đến hoằng khai Ðại Ðạo, định đem tánh đức hướng thiện của nòi giống Việt Nam gieo truyền vào tánh đức của thiên hạ. Tôi sinh trưởng tại Tỉnh Tây Ninh, ông cha tổ phụ đều ở tỉnh Tây Ninh thì có chi vui vẻ và hạnh phúc hơn được mở mang mối Ðạo nơi xứ sở yêu quí nầy. Ngồi trầm ngâm suy tưởng tôi xin thú thật, phần nhiều mấy anh mấy chị nơi quê hương của tôi, hẳn đã biết tôi từ thuở bé, anh chị thấy tôi truyền giáo tưởng tôi mê hoặc chúng sanh. Nghĩ rằng: Không ai dám đứng lên hoạt động mà tôi hăng hái đứng lên phổ thông nền Ðạo, cho đến ngày nay được đạt thành nguyện vọng, các bạn tôi lấy làm lạ, cho rằng ngày trước nó là bạn của ta, nó không có gì đặc biệt mà ngày nầy bước chân đến nền Cao Ðài thì thấy có sự thay đổi lạ lùng. Bởi vì tôi đã lấy khuôn khổ đạo đức tinh thần phù hạp với phong hóa lễ nghi, có ảnh hưởng đắc lực với dân chúng thi thố chơn truyền của Ðức Chí Tôn cho ra thiệt tướng, cho bạn đồng hương của tôi được thấy ân huệ thiêng liêng ban bố cho nòi giống ta giá trị cho tỉnh Tây Ninh biết bao nhiêu. Cầu nguyện ơn trên ban bố hồng ân để dìu dắt mấy chị, mấy em đến đây, đến Ðền Thờ Chí Tôn là nơi Chí Tôn đã tạo nổi hình tướng của Ðạo. Mấy chị đừng ái ngại cứ bước lên làm gương mẫu cho kẻ đi sau, Chí Tôn đến đây lập đại nghiệp thiêng liêng cho toàn thiên hạ. Bần Ðạo tin tưởng Người chỉ làm việc hữu ích cho đời. Ðối lại hỏi chúng ta đã làm gì ra giá trị? Gia Tô Giáo của kẻ nghèo nàn đói khổ, của một vị Giáo Chủ hành khất, còn nên được đại nghiệp, chúng ta làm bao nhiêu như bọt nước bèo trôi. Một tiếng nói, một việc làm trong gia đình không phải là đủ, có thể nói tỷ dụ như một ống truyền thanh thường trong gia đình chỉ đủ cho gia đình đó nghe thôi. Tôi tưởng muốn tạo dựng cả tinh thần nòi giống nước nhà cần phải tăng gia năng lực thêm nữa. Ngày nay không phải như trước kia, cửa nầy mấy chị, mấy em có thể ra vào thong thả được, mở ra con đường tiến hóa của nòi giống. Ngày nay mấy chị đã đến trong nền Ðạo nầy tôi xin để lời cám ơn toàn mấy chị mấy em.
Trích bài đêm 30 tháng 9 năm Ðinh Hợi (dl. 12-11-1947).
.... .... .... Tạo đoan vạn vật tức là Phật Mẫu. Tinh thần của Chí Tôn, hình thể của Phật Mẫu, trí não của Cha, hình hài của Mẹ, cả thảy đều thấy, hễ vô Ðại điện Ðức Ðại Từ Phụ, nào chức nầy chức kia, mão cao áo rộng, còn vô Ðiện Thờ Phật Mẫu thì trắng hết, không ai hơn ai cả.... .... ....
Phụ ghi:
Q.1/33: Lễ Bãi trường Ðạo Ðức Học Ðường.
Ðạo Ðức Học Ðường, ngày 16 tháng 8 năm Ðinh Hợi (1947)
Mời mấy vị Giáo viên và ân nhân của trường Ðạo Ðức Học Ðường vào trước mặt Thầy. Lời Tiên Nho chúng ta đã nói: "Gia bần tri hiếu tử, quốc loạn thức trung thần" hoàn cảnh khó khăn làm cho Thầy khó định tâm cảm xúc vô hạn, thấy tinh thần mấy em đối với đoàn hậu tấn tức là tương lai vận mạng nước nhà, Ðạo ngày sau cũng nhờ đám nầy. Cả thảy thống khổ của mấy em, Chí Tôn và Hội Thánh đều nhận thấy cả yếu lý. Hại thay! Gặp buổi loạn lạc, khuôn khổ phong hóa nước nhà bị tiêu hủy, đời xu hướng theo vật hình bỏ rơi đạo đức. Chúng ta có trước mắt kẻ thù, đối phương có năng lực khả dĩ tiêu diệt chúng ta là Cộng Sản đệ tam, đã làm cho tâm lý loài người bải hoải tiêu tan, xu hướng vật hình là tranh đấu. Hễ tranh đấu tức nhiên còn trường tiêu diệt, có cơ quan tiêu diệt tức là có cơ quan bảo tồn, chẳng phải mình ta là đủ. Chí Tôn mở trường dạy con cái của Ngài, là lo làm sao bảo tồn sanh mạng cho nhơn loại, chẳng phải kiếp nầy mà đời đời kiếp kiếp. Phận sự tối trọng Ngài giao cho Ðạo, chúng ta chỉ mới vẽ một nét đầu mà thôi, kết quả không phải trong buổi nầy mà trong tương lai đoàn hậu tấn. Mấy em nhận định được điều ấy, chẳng kể vì danh vị, chẳng kể hoàn cảnh khó nhọc, chẳng nài đói khó, khổ não chẳng tủi hờn cái cảnh mấy em chịu đói rách với Ðạo, tạo đầu óc cho mấy em nhỏ, thì không ân nào trọng hơn nữa. Ðài Tần đảnh Hớn, từ thượng cổ đến giờ còn ghi, đó là cơ quan hữu hình, cả khối tinh thần chúng nó do mấy em tạo sẽ trường cửu, không có năng lực nào đối phó đặng. Mấy em như là "Kiến trúc viên" vẽ từ nét coi từ điều, quan sát tất cả mọi hay dở mà sửa đổi cho tận thiện tận mỹ, cái thành trì Chí Tôn giao cho mấy em kiến trúc đó sẽ tạo lập thành quách tương lai mà chớ. Bần Ðạo cám ơn và tin cậy mấy em.
Phụ ghi:
Q.1/34: Kinh Tế Lý Tài.
Ngày 16 tháng 8 năm Ðinh Hợi (1947)
Ðể trả lời bài Diễn Văn của ông Trưởng Ban Kinh Tế Lý Tài vừa đọc với những lời trong tâm lý thật thà. Nếu thiên hạ biết đảm nhiệm thi hành theo thì bước tương lai sẽ vững vàng. Nền kinh tế của mỗi nước có tương liên với quốc tế, nền kinh tế lý tài vững thì quốc tế mới vững. Hại thay! Nước ta trước kia chưa bị chiếm cứ và sau 80 năm bị Pháp quốc thống trị, nền kinh tế vẫn không có gì hết. Nếu chúng ta nhìn vào sự thật, khởi đoan ta có kinh tế từ khi tẩy chay gốc cà phê của Ðường Nhơn. Dân ta từ xưa tới nay có cái bịnh lưu truyền xu hướng theo quan trường, nên nền kinh tế đều phí bỏ cho ngoại quốc may là mình phú thác cho Ðường Nhơn là anh em cùng nòi giống với mình, nếu vào tay người khác màu sắc thì cái hại không biết chừng nào. Nay biết rằng toàn quốc dân cũng đều hiểu Kinh Tế Lý Tài là vận mạng của nước nhà thì mơ mộng của tôi sẽ đắc thành. Nhờ Ðường Nhơn chỉ từ trước đem hết năng lực từ thử rao lại cho chúng ta nếu họ nhìn chúng ta là đồng chủng, tìm phương thế giúp ta lập nền kinh tế thì nên việc được. Năng lực của Trung Hoa có phương lập nên cho chúng ta về kinh tế trong nội địa Việt Nam nầy mà thôi. Lấy theo bảng thống kê chót (dernier recencement) trong năm 1935 là một triệu tám trăm ngàn (1.800.000) có lạc loài cũng còn được 1.000.000, phần nhiều là nhà canh nông tư bản. Ta khởi làm cái trứng thương mãi trong Ðạo, nếu nó sống được, biết đâu hột giống của Ðạo tạo ra sẽ sanh bông trổ trái, chẳng những cho quốc dân hưởng, mà cho đến toàn cầu nữa. Nền Ðạo Cao Ðài, do văn minh tối cổ Á Ðông mà Trung Hoa và Ấn Ðộ đều chịu ảnh hưởng, có hai dân tộc đó nâng đỡ thì sau nầy về mặt kinh tế mình vững lắm vậy. Phỏng theo tình thế mà đoán nếu nền kinh tế ta có năng lực khéo hay, đặng hiệp với Trung Hoa và Ấn Ðộ thì nên được mà thôi. Chúng ta đem hột giống ấy gieo xuống không thấy mọc, nếu mọc được rồi khéo tìm cách trồng xuống đất địa phì nhiêu là Trung Hoa và Ấn Ðộ thì chúng ta đủ sống.
Phụ ghi:
Q.1/35: Nguyên do Ðạo Cao Ðài xuất hiện.
Vía Ðức Lý Giáo Tông, ngày 18 tháng 8 năm Ðinh Hợi (dl. 02-10-1947)
Hôm nay Bần Ðạo giảng: "Nguyên do nào có Ðạo Cao Ðài sản xuất buổi nầy." Theo Bí Pháp Chơn Truyền thì mỗi chuyển của địa cầu là một nước tăng tiến. Mỗi chuyển có 36 ngàn năm, chia làm ba ngươn, mỗi ngươn có 12 ngàn năm. Chiếu theo Pháp Phật trong mỗi chuyển Thượng Ngươn hay là Khai Ngươn thuộc quyền Phật, Trung Ngươn thuộc quyền Tiên, Hạ Ngươn thuộc quyền Thánh. Nhận định Bí Pháp thiêng liêng của Chí Tôn, nhỏ có người dạy, lớn học hành lập thân danh, thành nhơn rồi tự trị lấy mình. Phật thì dạy, Tiên đào luyện, Thánh thì trị. Hạ Ngươn thuộc Thánh, nhơn sanh tranh đấu cho sự sống còn, ấy là Ngươn tranh đấu mà triết lý cốt là trị được sản xuất cơ quan bảo tồn cho loài người. Nay Hạ Ngươn Tam Chuyển hầu mãn khởi Thượng Ngươn Tứ Chuyển địa cầu chúng ta lạc hậu nhiều lắm vậy. Ðã ba ngàn năm xa xuôi đã thua Thủy đức, Kim đức, và Mộc đức Tinh quân trong số bảy địa cầu (Système solaire. Les sept planètes solaires) người ta đã bảy chuyển, mình mới tới Ðệ tứ chuyển, vì vậy nên Chí Tôn mượn các đẳng chơn linh ở các địa cầu kia đến làm bạn với chúng ta. Chẳng những Hóa nhân mà đến Nguyên nhân, Chí Tôn cũng mượn họ đến tại địa cầu nầy làm bạn giáo hóa chúng ta. Không biết số bao nhiêu theo Phật Pháp thì được 24 chuyến thuyền Bát Nhã chở họ đến, không chừng 100 ức. Phật Tổ độ 6 ức, Lão Tử độ 2 ức, còn lại 92 ức đến Hạ Ngươn nầy cũng chưa thoát khổ, vì cớ Chí Tôn mới đến khai Ðạo Cao Ðài. Thượng Ngươn về phần Phật giáo hóa thì khởi Ngươn Tứ Chuyển cũng về Phật. Ta tìm hiểu triết lý nầy, vì Thánh bất lực thì Phật phải đến chớ có gì lạ đâu, để đánh thức nhơn sanh độ rỗi họ vào con đường hoạt bát tinh thần, thức tỉnh họ trong trường hổn độn nầy, cho họ nhớ lại rằng chơn linh của mình đều do nơi khối chơn linh của Chí Tôn và phải nên nhớ đến chơn linh, đừng quá chạy theo tánh chất mà bị đọa lạc luân hồi, tức là Phật qui nhơn sanh qui hồi nguyên bổn vậy. Dở sám truyền xem mỗi phen có đến Brama, Civa, Christna, đến cầm quyền năng trị thế cũng đủ. Ta thấy trước mắt như vậy, nắm quyền trị không thì chưa đủ vai tuồng, vì dầu có đủ quyền năng để trị cũng không thể nắm cả quyền hành linh tâm thiên hạ được. Phải có giáo hóa, vì giáo hóa là căn bản của trị, nếu chỉ trị mà không giáo hóa thì thất sách. Phật thuộc về giáo hóa. Thánh thì trị. Hại thay! Thế gian nầy chỉ có chánh trị thôi. Quan sát khắp Âu Châu có người tu Phật đến bậc siêu việt, có thể xuất Thần thiên ngoại vân du, xem xét các Pháp, nhận thấy nền chánh trị Chí Tôn chia ra hai mặt:
Họ làm chứng quả quyết như vậy. (Le gouvernement se compose de deux sections: 1. Gouvernement 2. Enseignement). Chúng ta thấy hiện tượng Chí Tôn mở Ðạo Cao Ðài. Tại sao gọi là Ðạo Cao Ðài? Thuở trước cổ nhơn muốn cầu chư Tiên, Phật phải cất một cái đài thật cao bằng tranh lá gọi là Thảo Ðài. Ngày nay Chí Tôn lập Cao Ðài để làm Tòa ngự của chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đến hồng trần nầy làm bạn cùng Người, hiệp cả loài người làm một, bất luận sắc dân nào, màu da nào, dầu tinh thần bất đồng thể cũng đều do nơi Luật Luân Hồi cầm quyền. (Pouvoir seigneurs de la loi Karmique gouvernement). Cá nhân cũng như xã hội loài người đều đặt dưới Luật Quả Báo. Cá nhân hay quốc gia cũng dưới quyền ấy. Quả nhẹ thì tấn mau nặng nề thì chậm chạp, hễ nặng mang quả kiếp tức tấn bộ chậm chạp. Ðối với nước Pháp chúng ta đã thấy tinh thần cao trọng do tại chỗ nào, có làm tội tức có làm phước. Có việc ta thấy trước mắt là tội, nhưng trong đó có phước. Ví dụ: Thấy ai đau khổ bần hàn nhắm mắt đi ngang qua thì không sao, nếu để tâm ái tuất thương sanh, bồng ẵm họ đi đến bước cao xa rộng rãi, sung sướng hạnh phúc hơn, thì có ơn mà tức cũng có oán. Như trong trường thầy giáo dạy học trò, bỏ lơ thì làm biếng, nghiêm phạt thì nó oán ghét ấy là lẽ thường. Nhắm mắt đi qua thì dễ, sửa nên hư của người thì cũng có cái phải và cái quấy. Thầy giáo đánh nói ác, không đánh thì không học, mà học chưa phải cho Thầy nhờ. Nước Pháp chịu ảnh hưởng của Thánh Giáo Gia Tô, đủ đức tánh thiêng liêng , dạy dỗ các sắc dân lạc hậu , tạo thành cơ thể đại đồng thế giới. Óc phụng sự đó có sẵn sàng trong trí não của người Pháp, khi đến nước nầy nước khác, dạy dỗ nhơn sanh không nghe, đánh thì ghét, chỉ ưa thong thả tức là phải đi bậy, có làm tội mà cũng là có làm phước. Tội với phước đem cân lấy cái lời ấy góp thành gia nghiệp của Pháp, nhờ qui tụ các quốc gia làm một. Âu Châu nhờ có Ðạo Thánh Gia Tô nên 2.000 năm sau hưởng ân huệ thiêng liêng không ai bằng. Thánh bên ta là Khổng Phu Tử thì hiền, ai làm thì làm không buộc, không như ông Thánh bên Tây ép phải làm. Bần Ðạo nghĩ rằng: Ép buộc đắc lợi hơn. Chí Tôn đến mới nói đại đồng thế giới đã làm rồi, nhưng không thành, Chí Tôn đến làm cho thành, đem nhơn loại qui một bổn nên mở Ðạo Cao Ðài làm nguồn cội. Thượng Ngươn là Ngươn của Phật, Thánh trị không được thì Phật đến độ rỗi, cũng như hễ có người nghiêm khắc thì có người nhơn từ, hễ trị không được thì cũng có thể dỗ dành khuyên lơn mới được, nên Ngươn Tứ Chuyển đúng theo chơn pháp thuộc về của Phật đó vậy.
Q.1/36: Cơ quan chuyển thế.
Ðền Thánh, ngày mồng 1 tháng 9 năm Ðinh Hợi (1947), lúc 12 giờ trưa
Bần Ðạo nhớ buổi Chí Tôn mới đến tỏ danh hiệu Ngài. Người hứa với các Môn Ðệ của Người buổi đầu tiên về cơ quan chuyển thế làm phân vân biết bao nhiêu nhà trí thức, tìm hiểu hai chữ chuyển thế là nghĩa gì? Theo triết lý học định nghĩa chữ chuyển thế là: Xoay đổi thời đại hiển nhiên ra thời đại khác hoặc không phù hạp, hoặc quá khuôn khổ, nề nếp nên quyết đoán thay đổi lập trường thiêng liêng vì thời đại nầy đã định. Chuyển, nghĩa là sửa đổi cũ ra mới, lấy nghĩa lý đã định hẳn ra, tức nhiên chúng ta nhận thấy các khuôn luật đạo đức từ trước đến giờ để lại đều bị biếm trách cả, bởi vì đời quá hung tàn bạo ngược vô nhơn luân, tinh thần đạo đức không qui định, tâm lý loài người không tương quan cùng nhau, mất cả luật đồng sanh làm căn bản của loài người, luật đồng sanh gần như bị hủy bỏ, bởi thấy tấn tuồng trước mắt, nào giặc giã chiến tranh, giành sống mà giết hại lẫn nhau, oán kết thâm thù, loài người do nơi ấy mà biến sanh tàn ác, cái phương sanh sống đến một giai đoạn rất khó khăn và chúng ta thử xét đoán trong các Kinh điển Ðạo giáo để lại là "Mưa dầu nắng lửa". Trận mưa dầu nắng lửa sẽ có hiện tượng y như trong Kinh đã nói. Cũng vì sự sanh hoạt khó khăn mà loài người giết hại lẫn nhau. Trên mặt địa cầu, nếu lấy con số hiểu biết người ta định hai ngàn năm bảy triệu sanh mạng, không kể mấy trận giặc tàn khốc đã qua, hiện giờ làm giảm bớt rất nhiều trong số ấy. Ðời sống đến giai đoạn khó khăn hơn nữa, những phẩm vật nuôi sống loài người càng giảm bớt thì nhân loại còn quyết liệt chiến đấu hơn nữa. Bần Ðạo tìm hiểu, định nghĩa hai chữ "chuyển thế" là thay đổi thời thế. Ðem Kinh Luật ra quan sát thấy mỗi thế kỷ, mỗi Ngươn từ trước đến giờ nhiều giai đoạn cũng giống nhau một cách lạ lùng, những tấn tuồng nầy giống tấn tuồng trước, không ngoài khuôn viên ấy. Trước hết bắt đầu là sắc dân da đen là dân (Brahma) tức là dân Ấn Ðộ. Chí Tôn giao vận mạng địa cầu nầy cho dân da đen, vì dân da đen là con Trưởng nam của Ðức Chí Tôn, Ðức Chí Tôn giao cho dân da đen nắm giữ về tinh thần lẫn hình thể, không ai hân hạnh hơn dân da đen. Nước Ấn Ðộ có Ðạo đầu tiên hơn hết, làm Chúa cả địa cầu nầy. Ðã được hữu hạnh cao trọng quyền năng hơn hết nhưng rồi phân chia nòi giống, biệt lập tương tranh, tận diệt tất cả nòi giống khác, chính mình chúng ta hôm nay, cũng ở trong khuôn khổ đó vậy. Vì thế mà mất quyền hành, Ðức Chí Tôn mới đem dân da xám là dân Bengalis (Bénarés) lên làm chủ quyền, chuyển giao lại cho dân da xám sửa đời, trị thế. Chí Tôn đem Ðạo Brahma để dân da xám làm chủ, làm Chúa, sửa Ðời lập Ðạo, trái lại dân da xám không làm nên phận, các tấn tuồng hung ác mãi diễn lại, buộc Chí Tôn phải cho dân Olivâtre cầm quyền làm Thầy nơi địa cầu nầy đặng trị thế, nhưng rồi sắc dân Olivâtre cũng không làm nên phận, nên mới có nạn tiêu diệt mà chúng ta đã thấy khuôn khổ đó là khoảng đất Á Ðông nầy thuộc dân bán đảo Malacca cũng bị hành pháp đó, cho nên bị biển tận diệt sát hại, chỉ còn lại Presqu'ile de Malacca. Ðức Chí Tôn mới giao cho sắc dân da đỏ, sắc dân nầy là dân xứ Egypte (Ai Cập) tức là nòi giống của thế giới mới. Pérou cũng là con cháu sắc dân ấy. Lúc trước thế giới mới chưa có, xung quanh vòng xích đạo (Equateur) lúc bấy giờ là toàn biển cả hóa cồn như vùng sa mạc Sahara ngày nay, nơi dân Atlantéenné tối cổ. Thấy dân Pérou, Egypte mà ngày nay ai cũng phải cúi đầu trước sự văn minh của họ. Nhưng đến nay họ không còn tồn tại đẹp đẽ như trước, vì làm Chúa mà giết người, làm Anh, làm Thầy không xứng đáng. Ðức Chí Tôn thấy nhơn loại không giữ vững thiên lương đức tánh mới làm ra trận Ðại Hồng Thủy, cho nên mới có thế giới mới ngày nay. Ðến da vàng (Asie Iranienne) là nước Tàu, đừng tưởng nước Tàu do một sắc dân mà ra, họ gồm nhiều sắc dân hiệp lại thành nước Tàu, thành thử tiếng nói thì khác chỉ có chữ giống nhau mà thôi, nước Nam ta gốc cũng ở nước Tàu, giống da vàng cũng thất Ðạo nên Ðức Chí Tôn để quyền cho giống da trắng gần Mongol hiệp với Race Caspienne (Afghanstan, Yougoslavie) ở Cận Ðông tràn qua Âu Châu lập quốc rồi chiếm đoạt Âu Châu. Ðức Chí Tôn để quyền cho da trắng làm chủ, thay vì dân da trắng lo sửa đời trị thế, trái lại để cho thế giới tương tàn tương sát lẫn nhau, nếu cơ quan chuyển thế đổi quyền thì mặt địa cầu còn thay đổi. Dân da trắng rồi cũng như cảnh tượng Hoàng Ðồ nước Tàu vậy. Cơ quan chuyển thế mà Ðức Chí Tôn lập trước mắt sẽ dữ dội lắm, tấn tuồng đó vẫn còn tiếp diễn chưa dứt. Bần Ðạo quả quyết rằng: Sẽ còn đại động dữ dội một phen nữa nơi mặt địa cầu nầy, đặng chi? Ðặng giống da trắng giao quyền cho sắc dân mới nữa là giống dân Thần Thông Nhơn (Race Lucide) làm chủ, cầm giềng mối toàn mặt địa cầu nầy. Hại thay! Luật Thiên nhiên chiếu theo Kinh Luật thượng cổ để lại quan sát hẳn hoi, dở sách ra coi thấy thế nào, sau thế ấy, bánh xe tiến hóa vẫn đi, xây một hướng một chiều. Bần Ðạo e cho loài người mài miệt tội lỗi đó càng nguy hại cho loài người hơn nữa, nên Chí Tôn lập Ðạo Cao Ðài là Ðền Thờ cao trọng đức tin to lớn, ngự trước thiên lương loài người mới có thể thắng cơ quan Thiên điều định trước. Chúng ta, Thánh Thể của Ngài, giúp Ngài giải quyết được chăng? Nếu thoảng không được, cái hại nầy còn duy trì nữa. Ngài muốn Việt Nam nầy là Thánh Ðịa cho nhơn loại biết rằng: Nhờ đây mà giải quyết cứu thế bảo tồn nhơn loại là do con cái của Ngài, do nơi chúng ta. Nếu bất lực chúng ta có phần lỗi đó vậy.
Phụ ghi:
Q.1/37: Ðức Chí Tôn hứa với loài người.
Ðền Thánh, ngày rằm tháng 9 năm Ðinh Hợi (1947)
Hôm nay chúng ta làm lễ buổi trưa, giờ Ngọ rảnh thì giờ giảng về triết lý của Ðạo. Mỗi hành tàng của chúng ta nhập vào Thánh Thể của Ðức Chí Tôn. Sự tìm hiểu hầu chúng ta đi đến mục đích và phải biết cho chắc rồi mới vững bước không bợ ngợ thất tâm, vì biết sự chơn thật. Chí Tôn hứa với loài người: Ngài sẽ đến giao nền Chơn Ðạo dạy dỗ với sự chơn thật cho con cái của Ngài, dựa theo chơn lý, dùng lý trí đặng tiềm tàng hiểu biết tận tường chơn lý ấy. Hôm thứ sáu tuần rồi, Bần Ðạo đặng nghe trong máy truyền thanh, Liên Hiệp Quốc đã hội hiệp nhau trù hoạch phương châm lập nền chánh trị hoàn cầu, chẳng những thống nhứt cả quốc gia làm một, mà còn qui tụ nòi giống loài người làm một. Luật thuyết ấy có đủ lời lẽ rất nên hiển nhiên để lập một nền chánh trị có hiến pháp có chánh giới, có quân bị , đủ như nền chánh trị quốc gia kia vậy. Vị đề xướng ấy luận rằng: Cả loài người còn mờ hồ nói không thể nào đạt đến đặng. Nhưng họ phải nghĩ lại như buổi trước kia, nếu nói người ta lấy nước có thể vận hành cả địa cầu thay đổi, ta không tin, bây giờ đã thấy có chiến hạm chở nổi 80.000 tấn chạy cùng khắp trên mặt biển. Người ta không tin có điển khí, và hiện giờ đã có điển khí ấy nó chiếu sáng khắp cùng trên mặt địa cầu. Trước kia nói vô tuyến điện, và loài người bay và nghe thấy được dọ dẫm trên không trung. Thiên hạ không tin, thì ngày nay nó đã hiện tướng mà loài người đã đạt đến, Bần Ðạo tin chắc chắn rằng: Họ sẽ thành tựu mà lời hứa của Chí Tôn sẽ hẳn đúng. Chí Tôn đến đặng hiệp con cái lại một nhà của Ngài. Trong Thánh Ngôn Ngài còn quả quyết đó, Ngài đến tạo ra Tân Thế Giới làm cho nhơn loại đại đồng. Nếu sự tiềm tàng sắp đặt không đặng kết liễu thì Chí Tôn sẽ thất hứa với con cái của Ngài mà chớ! Bần Ðạo dám chắc rằng: Ngài không bao giờ thất hứa, vì đã đạt được 99 điều rồi Ngài đã thật hành vẹn hứa, không lẽ còn một điều nữa mà Ngài làm không đặng . Bần Ðạo tiềm tàng kiếm luật tương đối hữu vi đương nhiên của toàn thiên hạ và cả chúng sanh trên mặt địa cầu nầy. Luật tương đối ấy là gì? Có hai luật: Hữu tướng (Loi de ralativité physique) và vô tướng (Loi de ralativité spirituelle) tương đối khắp cả Càn Khôn Vũ Trụ nầy. Do luật thiên nhiên ấy tạo thành càn khôn, xã hội nhơn quần. Dầu cho xã hội, cá nhân nào cũng phải chịu dưới luật tương đối ấy, dầu cả nhơn sanh hay chúng ta cũng vậy, đều chịu ảnh hưởng của thất tình. Hình ảnh thật hiện con Thất Ðầu Xà mà ta thấy là hình ảnh của người đó vậy, bảy mối tâm lý ấy tạo nên hình tướng loài người, là do bảy mối tình: Hễ có hỉ mới có nộ, có ai mới có lạc, có ái mới có ố, duy có cái dục đứng chánh quyền quyết định mà thôi, mà dục có thể dục cho ố, cho nộ, cho ái, cho ai, cho lạc được. Nó có lập trường đặc sắc đủ quyền điều khiển. Ấy là hình tướng thiên nhiên của tạo đoan, nên Chí Tôn nói có Âm ắt có Dương, có nóng ắt có lạnh. Nếu có Âm mà thiếu Dương là mặt trời, thì 7 địa cầu (Système planètaire) và cả nhơn loại trên mặt địa cầu nầy chưa chắc gì mà còn sống. Nếu có mặt trời mà không có mặt trăng, là không Âm, thì cả vạn vật và loài người không còn, nghĩa là nếu không có Âm Dương thì không có Càn Khôn Vũ Trụ. Luật tương đối tạo đoan Càn Khôn Thế Giới dầu hữu tướng hay vô hình cũng vậy, có nên ắt có hư, có đặng ắt có thất, có thắng ắt có bại, có mạnh yếu tất nhiên có hiền dữ, lẽ tự nhiên luật tương đối phải vậy, đời vẫn hung tàn bạo ngược vô Ðạo đặng chi? Ðặng sản xuất luật tương đối tức nhiên là, hữu Ðạo, phải có luật tương đối đặng nó trở lại thiên lương nhơn đức. Chí Tôn để cho loài người một địa điểm dữ tợn không biết Trời, không biết Ðất, sắp đặt có hung ác, có hiền lành, thì cái lành ấy Chí Tôn giao cho ai? Bởi luật ấy rất công bằng, tội phải trả hiền thì đặng hưởng, quyền năng thiêng liêng vô hình nắm vận mạng cả loài người và Càn Khôn Thế Giới, vốn một mặt luật, chẳng vậy thì chúng ta chỉ làm lành mà chi? Ðạo khổ thảm không hưởng chi hết, còn ác thì nó sang trọng vinh hiển, thì cái sống nầy không có luật công bình chi cả. Vì cớ mà nhà triết lý Bác sĩ Stern nói: Luật tương đối có quyền năng định vận mạng toàn cầu xã hội. Ngài chỉ nói đến luật hữu vi của nó, còn vô hình, Ngài không luận được. Nếu có hữu tướng và hiện hữu thì cũng do nơi một cái quyền lực nào mới được. Hung ác lập nên bá chủ hoàn cầu nầy, là vì đời không có cái tương đối ấy, nên quyền năng lành trừ diệt nó không đặng, thành thử nó cứ làm dữ mãi. Cả thiên hạ đều dữ, dữ nên sống, nhưng cái dữ ấy có quyền hạn định phải tiêu diệt. Cả toàn cầu đương nhiên của hai khối: Cộng Sản và Quốc Gia, hiện nay trên mặt địa cầu gần phân nửa theo Quốc Gia cho vừa mức cân phân, nửa hiền, nửa dữ là tại Cộng Sản quá bạo ngược, nên phải lấy hiền sửa dữ kia. Chí Tôn cốt yếu nắm quyền ấy để sửa đời, nguyên do Ngài muốn nói đến đặng tạo Tân Thế Giới là vậy. Ngài đã hứa và Ngài sẽ trọn hứa cùng các con cái của Ngài.
Phụ ghi:
Q.1/38: Lễ các Thánh Tử Ðạo.
Lễ các Thánh (Tous Saint) tại Tòa Thánh Tây Ninh.
8 giờ Ðại Lễ Chí Tôn, cầu nguyện cho các vong hồn các Thánh tử vì Ðạo, có đủ chư Chức Sắc, Chức Việc, và Ðạo Hữu Nam, Nữ; nhiều quan văn võ Pháp dự cúng. Sau thời cúng xong, Ðức Hộ Pháp giảng Ðạo.
Ngày nay là ngày lễ các Thánh Tử Ðạo của Thiên Chúa Giáo tức là Ðạo Thánh đó vậy. Chúng ta biết rằng sắc dân nào cũng có chơn lý tối trọng là chẳng hề qua khỏi mặt Ðạo, ấy là gương tỏ rạng cho toàn con cái Chí Tôn soi thấy. Dầu đời biến chuyển thế nào, nhơn loại cũng không bao giờ xa Ðạo, bởi quyền năng tinh thần là một, sắc dân nào dầu văn minh cao siêu đến đâu cũng chẳng từ chối Ðạo giáo được. Trước mắt chúng ta thấy rằng nước Pháp không phải là nước vô đạo mà cả Âu Châu cũng không phải toàn thể đều vô đạo. Nếu lấy sự thật quả quyết tại đền Lourdres ở Vichy, ta thấy từ chơn giáo nhỏ đến giờ chưa có ai ép xác, vì tâm đức yêu ái và tín ngưỡng Ðức Chí Tôn mà đi 10 cây số bằng hai đầu gối đến lạy Chí Tôn. Tưởng chắc rằng không đâu có mà ở nước Pháp đã có. Còn nói chi các kỳ Ðại Lễ, chúng ta, ai ai cũng biết rằng người Âu Châu cổi giày thì không đi đặng, và không có hình phạt nào nặng hơn bắt họ đi chơn không. Mỗi kỳ phải cổi giày và vác tượng ảnh Chúa đi hằng 10 cây số ngàn. Suy đó không ai từ chối Ðạo đặng. Ngày nay Chánh Phủ Pháp, Chánh Phủ Nam Kỳ và cả chúng ta thiết Lễ Cầu Siêu cho nhơn loại, dưới thế gian nầy loài người phân chia nòi giống, họ hàng, tông tổ, chia vật hình, chia sắc da chơn linh của chúng ta không phân biệt tộc phái nam nữ nòi giống gì cả, thoát khỏi hình thể nầy rồi ta vào Thánh Thể thường tại của Chí Tôn. Hại thay, có nhiều chơn hồn ân hận đau khổ khi giải thể mới nhận thấy tranh đấu nhau trên mặt thế nầy là một điều rất vô lý và khổ não đáo để, khi về cõi Hư Linh. Nước Pháp và khắp Âu Châu họ hiểu cái triết lý cao trọng ấy của Ðạo giáo. Chư Ðạo Hữu đừng lấy lời Bần Ðạo vừa nói mà khi thị. Họ hiểu còn ta chưa, các chơn linh chiến địa kia, ngày giờ nào qua Ðệ nhứt thiên, qua Âm quang cảnh, ân hận, than trách, ôm nhau mà khóc lóc, vì về đến đó thì không còn thù địch nhau nữa , ở thế gian nầy, mang xác thịt phàm phu nên lầm lạc. Thiên hạ có lẽ hiểu sự bí mật Ðạo giáo ấy, lầm lỗi biết ăn năn hối hận, các chơn linh đồng hòa giọt máu bảo tồn quốc thể của mình được cao kỳ về tinh thần đạo đức, còn hình thể tại thế gian nầy thì ái yêu cao trọng. Sự công bình tại thế gian nầy là trồng cây thì hưởng trái chẳng có chi lạ. Nơi thế gian thế nào thì trên cõi Hư Linh cũng vậy. Các anh, chị, em, các con nữ phái, đừng tưởng chết là hết. Trồng cây còn được hưởng trái, nếu chết là hết thì sự công bình thiêng liêng té ra vô nghĩa lý lắm sao? Họ sẽ được hưởng với tinh thần cao trọng hơn nữa, bằng chẳng vậy thì luật công bình là vô hiệu quả. Ðem giọt máu tinh thần giống nầy hòa với giống kia thì hột giống ấy sẽ gây lại cho toàn nhơn loại trên mặt địa cầu hưởng đặng quả hoa hạnh phúc.
Q.1/39: Quốc Ðạo.
Ðền Thánh, đêm 30 tháng 9 năm Ðinh Hợi (1947)
Thưa cùng chư Chức Sắc Thiên Phong, chư Chức Việc, mấy em, mấy con Nam, Nữ. Ngày nay Ðạo Cao Ðài đã đến khoảng đường kết liễu danh giá và hình tướng của nó, nên Bần Ðạo lấy đề hai chữ Quốc Ðạo đem giảng giải, Chí Tôn ban sơ thuyết minh Ðạo lý hầu may ra những kẻ mơ hồ tỉnh mộng đặng hiểu biết mình đến lập trường nào, phương sách nào, khoảng đường nào, ấy là điều rất hay về tâm lý toàn cả Quốc dân buổi nầy. Hai chữ Quốc Ðạo lần đầu, Chí Tôn viết ra làm cho Bần Ðạo mờ mịt, cũng vì hai chữ Quốc Ðạo ấy mà Phạm Công Tắc chết năm 35 tuổi, thí thân đeo đuổi làm cho ra thiệt tướng. Ôi! Hai chữ Quốc Ðạo là một vật mà Bần Ðạo tiềm tàng rồi mới hiểu, khởi điểm biết thương nòi giống, biết thương tổ quốc, đeo đuổi mất còn với cái điều khát khao từ buổi thanh xuân đó vậy. Tự biết khôn dĩ chí gặp Ðạo, năm 35 tuổi, Bần Ðạo thấy sao mà phải khao khát thèm lạt, tại làm sao Chí Tôn biết thiếu thốn nơi tinh thần điều ấy mà cho Bần Ðạo. Bần Ðạo ban sơ nghi hoặc, có lẽ một Ðấng có quyền năng thiêng liêng biết tâm lý đang nồng nàn ao ước, đương thèm lạt khao khát, đương tiềm tàng mà đem ra cám dỗ. Hại thay! Yếu ớt đức tin, ngày nay Bần Ðạo ăn năn quá lẽ, 15 năm Bần Ðạo đã đặng thấy gì? Cả toàn thiên hạ nói rằng: Nòi giống Việt Nam không có Ðạo. Lạ lùng thay! Chúng ta tự hỏi có thật vậy chăng? Thật quả có chớ, có nhiều Ðạo quá mà thành ra không Ðạo, mượn Ðạo, xin Ðạo của thiên hạ mà thôi. Ta thừa hiểu rằng nòi giống Việt Nam xuất hiện ở Hoàng Ðịa Tàu, nên ta không ái ngại nói Việt Nam nầy là sắc dân Tàu vậy. Nòi giống Tàu nhìn quả thật là dân Tàu mà thôi. Ðất địa tổ quốc ta không phải ở đây, ở Bắc Tam Tinh là Quảng Ðông, Quảng Tây, Vân Nam, kể luôn Ðông Kinh (Tonkin) tức là Hà Nội và Hải Nam nữa, là tổ quán ta thì thiệt của ta đó vậy. Bần Ðạo tìm hiểu Nho Phong ta đạt đặng hay là có trước. Chúng ta thấy nòi giống Việt Thường nầy là con cháu nước Lỗ, mà Nho Tông xuất hiện cũng ở nước Lỗ nói rằng giống Lỗ lập Ðạo Nho, chắc hẳn là Nho Tông chúng ta vi chủ. Nói vi chủ tức là của mình nếu có Ðạo Nho sẵn trước thì ta có Ðạo Nho, Ðạo Lão, Ðạo Phật ba nền Tôn Giáo mà mặt địa cầu nầy nhìn là trọng yếu, bất kỳ là sắc dân nào, hay liệt quốc nào cũng đều nhìn nhận là do trong xứ Á Ðông nầy. Thêm nữa Thần Ðạo nguyên do ở tại Phù Tang, sắc dân vi chủ tức Nhựt Bổn đem truyền qua Trung Huê rồi qua xứ ta. Ta chịu ảnh hưởng quyền lực của Thần Giáo từ đó. Nhờ có nó Nho Tông phát triển khác chánh giáo hơn, lại biết tín ngưỡng một cách đặc biệt hơn Thần Giáo. Bằng cớ hiện hữu là ta đã thờ Thần trong các làng ngày nay đó vậy. Ngoài nữa tâm lý tín ngưỡng của nòi giống Việt Nam nhiệt liệt và thật thà đối với bất kỳ Ðạo Giáo nào. Ðến thế kỷ 19, Ðạo Thánh Giáo Gia Tô đem đến nước ta truyền giáo mới thành một trường nhiệt liệt đua tranh quyết chinh phục hết thảy các Tôn Giáo khác. Bần Ðạo tưởng ai có đọc Tờ Phúc Sự năm 1937 đều biết rõ, Bần Ðạo đã giảng rõ ràng nguyên do đó, thành thử Việt Nam vì có nhiều Ðạo quá nên thành không Ðạo. Có phen các bạn thân ái tưởng đến tương lai quốc dân, lo phương binh vực mở rộng tự do thêm tức có kẻ phản đối đả đảo lại. Bần Ðạo không nhớ ở Hạ Nghị Viện Pháp năm nào, những người binh vực chúng ta bị đả đảo, nước Việt Nam không tinh thần Ðạo Giáo nên khó lập chánh giới lắm, vì không có căn bản tinh thần đạo đức mà chúng ta không thể chối và chịu thiệt thòi theo lời vu cáo. Vì cớ, Bần Ðạo đau thảm, khổ não tinh thần tìm hiểu coi sắc dân ta có Ðạo hay chăng. Hại thay! Ở trước mắt ta nào là bóng chàng, đồng cốt, ông tà, ông địa, làm cho nhơ nhuốc cái tinh thần Ðạo Giáo, Bần Ðạo uất ức. Ngày Chí Tôn tình cờ đến, vì ham thi văn nên ban sơ Diêu Trì Cung đến dụ bằng thi văn tuyệt bút làm cho mê mẫn tinh thần. Hại thay! Nếu chẳng phải là nhà thi sĩ ắt chưa bị bắt một cách dễ dàng như thế, vì ham văn chương thi phú nên Ngài rán dạy. Chí Tôn đến ban đầu làm bạn thân yêu, sau xưng thiệt danh Ngài, biểu Bần Ðạo phế Ðời theo Thầy lập Ðạo. Khi ấy Bần Ðạo chưa tín ngưỡng, bởi lẽ nòi giống nước Nam còn tín ngưỡng tạp nhạp lắm, không chưn đứng, không căn bản, nói rõ là không tín ngưỡng gì hết. Bần Ðạo mới trả lời với Ðức Chí Tôn, ngày nay Bần Ðạo nghĩ lại rất nên sợ sệt. Nếu không phải gặp đặng Ðấng Ðại Từ Bi thì tội tình biết chừng nào mà kể. "Thưa Thầy, Thầy biểu con làm Lão Tử hay Jésus con làm cũng không đặng, Thích Ca con làm cũng không đặng, con chỉ làm đặng Phạm Công Tắc mà thôi, con lại nghĩ bất tài vô đạo đức nầy quyết theo Thầy không bỏ, nhưng tưởng cũng chẳng ích chi cho Thầy". Ðấng ấy trả lời: "Tắc, thảng Thầy lấy tánh đức Phạm Công Tắc mà lập giáo con mới nghĩ sao?". Bần Ðạo liền trả lời: "Nếu đặng vậy...." Ngài liền nói: "Thầy đến lập cho nước Việt Nam nầy một nền Quốc Ðạo", nghe xong Bần Ðạo từ đấy hình như phiêu phiêu lên giữa không trung mơ màng như giấc mộng. Ðược nghe nói cái điều mà mình thèm ước, nên Bần Ðạo không từ chối đặng. Ôi! Quốc Ðạo là thế nào? Quốc là nước, vậy nòi giống tín ngưỡng lập Quốc Ðạo, Bần Ðạo theo tới cùng coi lập nó ra thế nào, hình tướng nào cho biết, vì đó mà lần mò theo đuổi đến ngày nay, thấy hiện hữu cái hình trạng là Ðạo Cao Ðài rồi lại đoán xét coi nó biến hình Quốc Ðạo Việt Nam ra sao? Ngài cho một bài thi dám chắc không ai thấu đáo nổi , người coi cái gốc thì không thấy ngọn, người coi cái ngọn không thấy gốc, tứ văn thiệt thà hay ho cho tới các đảng phái quốc sự ngày nay cũng là lợi dụng. Từ đây nòi giống chẳng chia ba: - Tức nhiên không chia ba Ðạo, chớ không phải chia ba kỳ à. Thầy hiệp các con lại một nhà: - Thầy nắm chủ quyền hiệp Tam Giáo, nếu nói riêng nòi giống hiệp Nam, Trung, Bắc thì vô vị lắm. Nam, Bắc cùng rồi ra ngoại quốc: - Tức nhiên nền chơn giáo Quốc Ðạo, không phải của ta thôi, mà lại của toàn nhơn loại là truyền giáo Nam Bắc thành tướng rồi ra ngoại quốc tức là Tôn Giáo toàn cầu vậy. Chủ quyền Chơn Ðạo một mình Ta: - Tam Giáo, Ngài vi chủ năm châu tín ngưỡng lại qui nhứt mà thôi. Nắm cả tín ngưỡng của loài người, chính Chí Tôn là Chúa Tể Càn Khôn Thế Giới, làm Chúa nền Chánh Giáo tại nước Nam, vi chủ tinh thần loài người tức đủ quyền năng lập Quốc Ðạo. Ngài đến đem đại nghiệp cho Quốc Dân nầy, hình thể lựa chọn ai? Chọn Tạo đoan vạn vật tức là Phật Mẫu. Tinh thần của Chí Tôn, hình thể của Phật Mẫu, trí não của Cha, hình hài của Mẹ, cả thảy đều thấy hễ vô Ðại điện Ðức Ðại Từ Phụ, nào chức nầy chức kia, mão cao áo rộng, còn vô Ðiện Thờ Phật Mẫu thì trắng hết, không ai hơn ai cả. Nếu hiểu biết, thấy bí pháp Chí Tôn cao kỳ quá lẽ. Chí Tôn nói rằng: Quốc Ðạo nầy Ngài qui tụ tinh thần đạo đức trí thức toàn nhơn loại cho đặc biệt, có cao có thấp, có hàng ngũ có phẩm giá, còn về phần xác thịt của loài người, mạng sống trước mặt Ngài không ai hơn ai, cả thảy sống đồng sống, chết đồng chết đặng đem Quốc Ðạo làm môi giới cả đại đồng đặng tạo tương lai loài người cho có địa vị oai quyền cao thượng. Nếu hiểu đặng thì Thánh Thể cũng vậy, Hội Thánh, chư Chức Sắc Thiên Phong Nam, Nữ hay toàn thể Tín Ðồ cũng vậy, lãnh Thiên mạng đảm nhiệm trách vụ thiêng liêng Chí Tôn phú thác lập giáo, tức nhiên phải có phẩm giá, trật tự đẳng cấp. Nếu hiểu thêm ý của Ngài, khi cổi áo nầy ra khỏi Ðại điện rồi hết thảy đồng là anh em, không ai hơn ai, không ai thua ai, không khinh không trọng, đầy đủ tình yêu ái trong lòng Mẹ đem ra mà thôi Nam, Nữ cũng thế. Ngày giờ nào nhơn loại cả thế gian ở mặt địa cầu nầy hiểu được lý lẽ chí hướng cao thượng ấy là ngày Ðạo Cao Ðài sẽ ra thiệt tướng.
Phụ ghi:
Q.1/40: Các con đối với Phật Mẫu.
Ðêm mồng 1 tháng 10 năm Ðinh Hợi (1947)
Bần Ðạo giảng tiếp bài đêm hồi hôm, vì có nhiều chị em không hiểu bài giảng đó cho rõ rệt. Ðể Bần Ðạo hỏi rồi mấy chị em trả lời cho trúng, cho hay nghe! Chúng ta đã có một Bà Mẹ là Ðức Phật Mẫu cầm quyền năng tạo đoan xác thịt , hình hài của ta, Chí Tôn là cha của hồn, cho nhứt điểm Tinh, Phật Mẫu là Mẹ của xác, cho nhứt điểm Khí, Cha Mẹ hữu hình, vâng lịnh Phật Mẫu tạo xác thịt hiện hữu đây, còn quyền năng thi hài, Ðấng ấy làm chủ, Phật Mẫu có tánh chất của Bà Mẹ, Bần Ðạo xin làm chứng rằng: Tánh chất Bà Mẹ hữu hình như thế nào, thì tánh chất của Bà Mẹ là Phật Mẫu cũng hiện y nhiên như vậy, nhưng có phần yêu ái hơn, bảo trọng hơn, binh vực hơn. Chúng ta khi vào Ðại điện của Chí Tôn tức là Cửu Trùng Thiên đó, đứng trong hàng phẩm Cửu Thiên Khai Hóa, có trật tự phẩm vị quyền hành, hạng thứ, nên phải mặt Thiên Phục vào chầu, còn vào Ðền Thờ Phật Mẫu đều bạch y tất cả, dầu Giáo Tông hay Hộ Pháp cũng phải cổi Thiên Phục để ở ngoài, hỏi tại sao phải như vậy? Lấy tánh đức thường tình của một Bà Mẹ không có gì lạ, ta thấy vì trong một gia đình kia dầu rân rát, một người dầu quyền cao tước trọng, dầu làm quan Tòa, quan Tham Biện hay Tể Tướng đi nữa mà bước vào nhà còn làm Tể Tướng thì Bà Mẹ không ưa lại thêm phiền lụy, làm quan với ai kia, chớ về nhà làm quan với gia đình à! Oai quyền với thiên hạ ở ngoài kia chớ ở đây không thể làm oai quyền với Mẹ được, dầu bực nào cũng vậy vẫn là con mà thôi, mấy chị hiểu chưa? Bài học ấy dạy chúng ta hiểu gì? Triết lý cao siêu ấy, nếu chúng ta tìm hiểu thấu thì tương lai Ðạo Cao Ðài mới có vậy. Bần Ðạo đã nói: Thập Nhị Thời Quân, Thượng Sanh, Thượng Phẩm, Hộ Pháp gọi là Ngự Mã Quân của Chí Tôn. Phật Mẫu sợ Chí Tôn tạo Ðạo không nên phải tái kiếp, nên Bà phải cho theo xuống Thập Nhị Thời Quân, phẩm tước cao trọng thay, nhưng không có gì trước mắt Phật Mẫu, tất cả con cái của Người vinh hiển sang trọng đến đâu, Người càng rầu càng lo sợ, e sang trọng ắt tự kiêu, biết đâu không hại cho tương lai vô biên của họ vì quyền tước. Cả thảy lấy triết lý ấy để răn mình. Còn bây giờ Bần Ðạo phải kết luận như sau đây: Về tới cửa của Mẹ rồi, coi như đồng sanh, đồng tử, cốt nhục tương thân, đừng để tâm khinh trọng tôn ti, làm mất khuôn mẫu của Mẹ hằng mong ước, cả thảy nam nữ cũng vậy phẩm vị bên Cửu Thiên Khai Hóa không giống như ở đây, mấy em dầu có tâm thương mến ở bên kia cũng phải nhớ nơi Bà Mẹ, ở sao cho xứng đáng là con đối với Mẹ, là anh em đối với anh em cốt nhục của mình chung một gia đình, là phải đạo.
Phụ ghi:
Q.1/41: Dạy phương pháp giảng đạo.
Ngày 10 tháng 10 năm Ðinh Hợi (1947) tại Hiệp Thiên Ðài
Bài học văn chương của Chí Tôn (cours rhétorique) rất giản dị. Hành tàng Pháp hay Việt, cũng chẳng khác nhau, nói hay viết cũng giống như một bài thi. Cách hành văn (tenue) chia ra từng đoạn:
Diễn văn phải giữ chặt niêm luật có mực thước như một bài viết, phải khép vào một khuôn luật nhứt định, nếu không , nghẹt lối , không ngỏ ra. Trong các nền Tôn Giáo, đó là sự rất trọng hệ, như Ðạo Gia Tô ngày xưa mở ra, mười hai vị Thánh Tông Ðồ học ở trong nhà Bà Sainte Maria, nhờ có chơn linh giáng hạ giúp sức. Ngày kia Ðức Chúa Jésus nói: Miệng các Người là miệng ta, lời đạo đức các Người thốt ra là lời của Ta, các Người phải đi truyền Tân Ước (Nouveau Testament) mười hai (12) vị Tông Ðồ đều dốt, nhờ chơn linh giáng hạ nhập thể, hễ nhập thể thì phát huệ. Lúc chưa biết Ðạo, tôi cũng không tin điều ấy, đến lúc ở chùa Gò Kén trước mấy ngàn người, tôi bước lên giảng đài đi qua lại đến 16 vòng mà hễ ngước mặt lên thấy đầu người lố nhố, sợ hải không thuyết được. Kế phát sật sừ như say rượu không còn thấy ai nữa hết. Say đáo để, nói mà không biết nói những gì, chừng xuống đài thiên hạ khen mới biết, may là trước tập nhiều rồi đó. Chí Tôn dạy tôi và anh Cao Thượng Phẩm, hễ người nầy thuyết thì người kia nghe, nhờ vậy nhứt là nhờ anh Cao Thượng Phẩm kiêu ngạo nên phải cố gắng, vậy mà lúc lên đài còn quáng mắt. Tôi buộc mấy anh em, chị em , tập cho quen dạn, Ðạo sau nầy muốn truyền ra thiên hạ cần phải thuyết. Ðó là vô tự kinh, viết sách truyền bá không bằng thuyết giảng, cần phải có niêm luật. Với ai thì sợ chớ với nòi giống Việt Nam mình đã có sẵn văn hiến bốn ngàn năm làm bổn. Có ba môi giới: Phú, Tỉ, Hứng. Phú là đọc thông sách vở đem nguyên văn ra giảng giải cho rõ nghĩa. Tỉ lấy cổ soi kim, dùng tích xưa giải hiện tại. Hứng là đứng lên giảng đài rồi phát hứng chí mà nói. Hậu thuẩn do ba môi giới nầy là: Kinh, Ðiển, Luật. Muốn Phú phải thuộc Kinh mới Phú được. Tỉ thì phải lấy điển tích ra mà ví dụ đặng so sánh. Hứng không được ngoài khuôn luật, ngoài sự thật, không được nói bậy.... nhớ ba chơn tướng trước, ba hậu thuẩn sau. Một bài thi đủ cho mình thuyết giáo rồi, với Chí Tôn điều chi cũng không khó. Như là: "Yến Tử Hà xưa lúc vận cùng, Ngài ngụ điển rồi mới lấy tích, như hai câu đầu, hỏi tại sao Yến Tử Hà lại mang dép rách đến Quang Trung? Yến Tử Hà là tôi của nước Hàn, nước Hàn mất đi tìm nơi cầu cứu hầu rửa nhục cho nước mình, Sở Bá Vương chê người Hàn không dùng, nên Yến phải lận đận, nghèo khổ phải mang dép rách đến Quang Trung tìm Hớn Bái Công. Hai câu sau các con cứ theo Thầy, con để bước của con lên dấu chơn của Thầy thì không bao giờ lạc lối. Yến bị bạc đãi, nước Hàn bị chiếm, (Trương Tử Phòng là người Hàn cũng trong thời đó). Hỏi vậy Chí Tôn lấy tích gì? Nước mình cũng mất như nước Hàn, Yến đi làm tôi cho Hớn đặng báo thù cho Hàn. Chí Tôn muốn nói: Các con muốn báo thù nước thì làm như Yến vào Quang Trung, muốn nước các con còn thì theo Thầy. Thôi, thí nghiệm thử xem, mấy anh em cho tôi một cái đề đi rồi tôi thuyết. Như bài thi: "Phong Thần đừng tưởng chuyện mờ hồ, Chuyện Phong Thần đừng tưởng viết ra là bịa đặt. Lão Tô là Tô Ðông Pha, ông Tổ của nòi giống Phù Tang, ai dè ngoài biển có Tô Ðông Pha nghĩa là có sắc dân bên Phù Tang. Ai từng gặp mà gặp là có đa. "Mượn thế đặng toan phương giác thế," Mượn thế, bây tàn ác vô đạo đức đặng thức tỉnh cho bây. "Cũng như mượn bút của chàng Hồ." Ông Ðổng Hồ lãnh cầm cây viết, viết Sử của Vương Kiệt là đắc thắng, thấy Vương Kiệt bị hại mà không sợ, vào đó lãnh cũng như Thầy hiện giờ, đến đây nhơn loại đương tàn ác, mượn cái tàn ác đó đặng thức tỉnh chúng sanh, như Ðổng Hồ đã không sợ chết, thì Thầy sẽ thắng như Ðổng Hồ vậy, đặng lập quyền cho các con của Ngài đặng thành tựu. Hồi đời đó có một người tướng tài của nhà Tần mà ngồi không, không chịu kháng chiến. Ðổng Hồ ghi: Tội thất quốc nầy là của anh chàng, hỏi tại sao? Tại anh ngồi không, làm liệt bại tinh thần tranh đấu, nên tội ấy của anh gánh chịu đó. Bài nầy đầy đủ trong khuôn luật.
Phụ ghi:
Q.1/42: Tại tháp của Ðức Quyền Giáo Tông.
Hồi 8 giờ, ngày 13 tháng 10 năm Ðinh Hợi (1947)
Ngày nay là ngày kỷ niệm Ðức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt, ấy là ngày Bần Ðạo quả quyết rất trọng hệ và quí hóa cho Cửu Trùng Ðài. Bần Ðạo quả quyết nói với bằng chứng hiển nhiên là bạn đồng thuyền, Bần Ðạo biết rõ giá trị của Thượng Trung Nhựt là dường nào. Tuy vân, ngôi vị Giáo Tông Ðạo Cao Ðài do Ðức Lý cầm quyền gìn giữ Thánh chất dung hòa nửa Thánh nửa phàm còn tạo ngôi vị tại thế là Thượng Trung Nhựt đó. Ấy vậy Thượng Trung Nhựt tạo ngôi vị Giáo Tông cho Ðạo Cao Ðài như ông Thánh Saint Pierre tạo ngôi Thánh Hoàng cho Pha-Pha tại Rome vậy. Ôi! Buổi Chí Tôn đến một cách đột ngột tình cờ, đến trong thế kỷ 20 nầy mà nhơn loại đang sống thảm khổ từ thể chất đến tinh thần, Ngài xưng tên làm cho cả thảy ngạc nhiên, nhứt là chúng tôi buổi nọ đang đi trong con đường thế tối tăm ngày ấy người niên kỷ cao hơn hết là Thượng Trung Nhựt, chúng tôi có hỏi Người: Est ce possible? (Có thể có không?) vì còn đang mờ hồ, chúng tôi chẳng khác chi ở trong địa huyệt đang tiềm tàng con đường sáng, chúng tôi còn tăm tối, may thay! Người có duyên tiền định đến dìu dắt chúng tôi ra khỏi chốn địa huyệt âm u, nhờ hai con mắt sáng của người làm dẫn đạo. Khi chúng tôi hỏi: Est ce possible? (Có thể như vậy chăng?). Người trả lời: C'est bien possible (Có thể có như vậy lắm). Bởi thiên hạ đang khổ thảm nên Ðấng ấy đến không phải là lạ. Ta thấy trong gia đình đau khổ, mà ông cha chưa phải chết thì sự thương yêu đối với con cái nồng nàn sẽ được ông cha ấy hiện diện. Người quả quyết rằng: "Ðấng ấy đến buổi nầy thật là Chí Tôn đó vậy". Nếu không phải Chí Tôn không ai chịu nổi đau thảm kia được. Vì thành tâm, nguyện vọng của Người cảm xúc tới cõi Hư Linh làm cho Chí Tôn và cả chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đều động lòng. May thay! Chí Tôn đến lập nền Quốc Ðạo cho chúng ta tại nước Việt Nam thì không có gì vinh diệu cho giống nòi chúng ta hơn nữa. Thảng sau nầy, Tôn Giáo Cao Ðài sẽ làm môi giới chuẩn thằng cho một nền văn minh tối đại thì tôi quả quyết rằng nền văn minh ấy sản xuất ra do tâm lý của Thượng Trung Nhựt mà chớ. Ôi! Bao nhiêu công nghiệp, chúng ta nghĩ lại đều nhớ buổi ban sơ đương lúc tâm lý hoang mang tranh đấu sự sống còn, nhứt là tâm lý nòi giống Việt Nam đương mưu đồ giải thoát ách nô lệ, ai còn tin khi ta nói ra những điều mà ai cũng cho là mơ hồ, bởi cả tâm lý còn hoang mang. Ðến các bạn đồng thuyền, đồng chung tâm lý với Người có đủ trí thức hiểu biết chí hướng cao thượng của Người mới theo Người, mà trong cảnh hoang mang còn phản phúc thay, huống chi quốc dân Việt Nam. Ngài đã để đức tin quyết tạo nên hình thể Quốc Ðạo cho quốc dân Việt Nam, thì chính quốc dân trở lại nghịch thù, làm cho trọn một kiếp sanh của Người phải đau thảm đổ lụy bao phen trước khi chết. Bần Ðạo quả quyết rằng: Trót một đời người, tìm chưa ra một mặt biết thương nòi giống với một tâm lý nồng nàn như Thượng Trung Nhựt, Bần Ðạo chưa thấy được hai người như vậy, nếu chẳng vì tình yêu ái vô hạn thì người chẳng hề hủy thân danh tạo nên hình thể Ðạo để lại cho quốc dân, cái đại nghiệp tinh thần nầy sâu xa chừng nào quốc dân hưởng lâu chừng nấy, sâu xa chừng nào lại càng quí hóa thêm nữa càng ngày càng tăng giá trị và thiên hạ sẽ biết tấm lòng yêu ái của Thượng Trung Nhựt biến ra một quốc hồn kiên cố. Cả thảy ai là quốc dân Việt Nam đều phải cúi đầu và vâng theo ý chí cao thượng ấy, không có một lưỡi gươm nào tiêu diệt được nghiệp của Người để lại cho nòi giống Việt Nam đó vậy.
Phụ ghi:
Q.1/43: Cứu khổ về xác thịt.
Ðền Thánh, ngày 13 tháng 10 năm Ðinh Hợi (1947)
Bần Ðạo nhắc lại một lần nữa, khi hiến Tam Bửu thì về chánh tế, khi nào đưa lên tức nhiên trình cho mình biết của Lễ ấy là ý nghĩa gì, đặng cầu nguyện hiến lễ cho Ðức Chí Tôn, khi thấy đưa lên mình cúi đầu dưng vật báu ấy là Tam Bửu cho Thầy. Bí Pháp rất trọng hệ: Bông là xác (thân hình) khi nào hiến bông tức là hiến cả thi hài cho Chí Tôn làm vật tế lễ cho Ngài. Hiến rượu tức là hiến cả tinh thần trí não của mình. Hiến trà là đem linh hồn mình trọn dâng cho Chí Tôn, chính mình là thi hài con vật, mà vị Chánh tế đưa lên thiên đàng Chí Tôn của Lễ. Ngày hôm nay là ngày Lễ Kỷ Niệm của Ðức Quyền Giáo Tông là vị Chức Sắc cao trọng của chúng ta. Bần Ðạo giảng tiếp thêm hai chữ: Cứu khổ. Luôn dịp Bần Ðạo tỏ cho toàn Hội Thánh tức là Thánh Thể của Ðức Chí Tôn và toàn con cái của Ngài biết rằng: Người là một chơn linh cao trọng, mặc dầu hình thể đã mất, nhưng khối thiên lương ấy vẫn còn mãi mãi chẳng hề hư hủ bao giờ. Bần Ðạo nói: Chí Tôn đến tình cờ làm cho trí não Bần Ðạo phải bị ngạc nhiên, rồi Bần Ðạo kiếm hiểu trong đôi ba năm sau, mới rõ đặng hai chữ cứu khổ của Chí Tôn. Lạ thay! Ðức Cao Thượng Phẩm và Ðức Quyền Giáo Tông biết nỗi lòng Chí Tôn khi Người nói hai chữ cứu khổ. Cứu là giúp, khỏi có ám nghĩa đủ năng lực định quyền nhứt đoán. Khổ là đau đớn, đau đớn về tâm hồn, đau đớn về hình thể. Biết người rồi mới thương người được, mới có thể nắm quyền người tu nơi cửa Ðạo, đặng độ rỗi nhơn sanh và chính mình yêu thương sẽ làm môi giới cho chúng ta yêu thương toàn thiên hạ. Ôi! Hai chữ cứu khổ, nghe hai tiếng ấy những kẻ nào đã chịu những nỗi thống khổ, đau đớn về đạo đức tinh thần, làm như ta khao khát tinh thần việc chi trọng yếu vậy. Chúng ta đương đói mà có người đem bát cơm lại cho ăn, nghe đến mùi vị nó thâm thúy làm sao. Ôi! Hai chữ cứu khổ, Ðạo lấy hình thể cho người đời dùng, nước Nam dùng rồi tới thiên hạ toàn cầu nhơn loại. Loài người chưa biết tiến hóa đến đặc điểm văn minh, vẫn còn trong vòng nô lệ. Vậy sắc dân yếu hèn, vẫn còn dã man, thô kịch, dốt nát là Việt Nam đã bị nạn, tỷ như người ta bắt người bán mọi buổi nọ. Bần Ðạo đã quan sát cả lịch sử loài người ở Á Ðông thấy như thế, mà Á Châu cũng thế, tự quyền hành bán mọi là đặc sắc hơn hết của Ðế quyền Romain, coi con người không có giá trị bằng con vật, được trọn quyền sanh sát mà người chủ đã mua lại mạng sống của kẻ tôi mọi coi kẻ ấy như con vật. Ðến nay cường quyền Romain phải chịu hủy bỏ việc làm tôi đòi nô bộc. Vậy tôi mọi do nơi mua đặng kẻ khốn khó về làm nô lệ mà thôi, khi ấy Maurice đến đứng tên đường đột đối đầu cùng Hoàng Ðế Romain đặng giải thoát sự đau thảm ấy, sau buổi đó họ coi Maurice dường như Ðức Chí Tôn đến giáng thế, đặng giải thoát cứu khổ cho nhân sanh. Ở Á Ðông nhứt là Trung Hoa chẳng phải nước đặc sắc và trọn yêu thương, nhưng làm nhiều dân tộc hiệp thành một nước Trung Hoa. Nhờ buổi thượng cổ thâu các sắc dân lạc hậu làm nô lệ. Dân tộc ta chịu không nổi phải phản đối để tìm phương giải khổ cho nhau. Bây giờ sự khổ nọ đã tràn vậy. Không lạ chi trước mắt ta đã thấy chúng biết rủ nhau, không làm gì đặng, thì đời phải chịu mai một làm tôi tớ cho nguời khác phải chịu nghèo hèn không sang trọng được. Thế tình chẳng lạ gì, hễ tới chừng làm chi phi thường thì có một mình độc chiếc cô quạnh không ai nâng đỡ. Nhìn trong thế gian nầy thấy những kẻ côi cúc đơn cô bị áp bức nên buồn, sự áp bức ấy cột trói vào vòng nô lệ tinh thần của họ, chừng ta ở trong nô lệ, mắt chúng ta đã chán thấy anh em ở chung một nhà, bạn tác với nhau chung chia đau khổ, nghèo hèn có nhau mà còn bị đè nén bằng cách gián tiếp, thế thường cũng chung là nô lệ thì còn ai có quyền hơn về hình thể lẫn tinh thần. Phật Thích Ca có giải: Sanh, lão, bịnh, tử là bốn cái khổ của con người, mà cả hoàn cầu để cả trí não tinh thần tìm phương trừ diệt sao cho được bốn cái khổ ấy. Tìm phương thế làm cho nhơn sanh sống mỹ mãn. Hết sanh rồi lão, chúng ta thấy các nơi văn minh càng ngày càng tấn tới nữa, thì lo lập các dưỡng lão đường. Các nước trên mặt địa cầu nầy không quốc gia nào không nuôi kẻ già. Ðến bịnh ở một địa cầu nầy, hễ bao nhiêu người là bao nhiêu nhà thương chuyên chú trị an thiên hạ, nếu làm ra không đắc lực thì làm cho nhơn sanh phiến loạn. Ðến tử, các xã hội văn minh đang tìm phương cứu chữa làm sao cái chết con người không có thống khổ quá lẽ và làm sao cho gia đình chủng tộc qui tụ lại thành nước văn minh. Thế nào làm giảm tứ khổ đó? Duy chuyên chú đặng cải sửa làm cho bớt khổ tinh thần, ấy vậy khổ xác thịt do đâu mà ra là do nơi tại muốn sống cho hạnh phúc hơn người, không có một mãnh lực nào định phận mình, nội công tâm quyết đoán. Bởi nhơn sanh tự biết mình sang trọng trên vạn vật. Của cải của Chí Tôn để nơi thế nầy đảm bảo sanh mạng con cái Người không đủ, nên có thể nghèo hèn, người sang trọng, kẻ ngu tối, người minh mẫn, có người cho là bất công, mà sự bất công ấy do tại đâu? Do thiếu đạo đức. Muốn trừ khổ ấy phải làm sao? Hiện đương tại mặt địa cầu nầy, các yếu nhơn đã làm gì đặng thâu tâm thiên hạ, định quyền chính trị? Duy có mãnh thương tâm trải thương yêu cho đời xem thấy. Lấy tâm trung chánh thương yêu đặng cứu vớt dân sanh giao sanh mạng họ trong tay làm chủ, làm người điều khiển đặng trị. Hỏi tâm ái tuất thương sanh thiên hạ ai dám chắc có, tôi xin đặt một dấu hỏi (?). Phải nhiều gia đình, nếu quyền năng ấy có tâm lý đủ đều xuất hiện chơn thật có thể gieo thương vào lòng dân sanh toàn một nước, kêu gọi dân sanh đối đãi hòa ái cùng nhau chia sống với nhau. Nước nào may mắn được người chủ quyền sáng suốt đoạt đến mục đích, thì quốc dân ấy được hưởng vô cùng hạnh phúc gia đình. Quốc gia, xã hội cũng vậy, chỉ biết mình không biết người, tương tàn tương sát nhau. Vì cớ Ðạo Cao Ðài xuất hiện. Hỏi tại sao có Ðạo Cao Ðài? Khi nào trong gia đình thống khổ, thì có ông cha chung chịu cùng các con để giải khổ cho con. Trong nước nếu nhơn sanh khổ thì vị chủ quyền là Vua hay Giám Ðốc đứng lên cầm quyền nhiếp chánh tìm phương giải khổ cho nhơn sanh. Hiện giờ đã qua quyền hạn quốc gia xã hội, đến vạn quốc thì ai vi chủ đặng làm được phận sự ấy? Vạn quốc đương thống khổ ai có phận sự dìu dắt họ ra khỏi cảnh khổ, nếu chẳng phải là Ðức Chí Tôn chưa ai vi chủ mặt địa cầu nầy được. Ấy vậy, trong gia đình thì người Cha chịu khổ với con, các quốc gia và cả toàn dân ở mặt địa cầu nầy chưa ai chia khổ được. Chí Tôn đến đặng kêu gào lòng yêu ái của toàn nhơn loại biết nhìn nhau là anh em, biết thương yêu nhau, binh vực nuôi nấng và tôn trọng nhau, đem hòa ái gieo truyền vào tâm lý loài người mà nói rằng: "Tao là Cha bây, đến đây làm cho bây biết tao, đặng bây biết bây, bao giờ anh em bây biết thương yêu nhau, tức là ông Cha bây giải khổ cho bây về phần hồn và phần xác đó vậy".
Phụ ghi:
Q.1/44: Cứu khổ về tinh thần.
Ðền Thánh, thời Tý rằm tháng 10 năm Ðinh Hợi (1947)
Hôm qua Bần Ðạo đã giảng về phương pháp cứu khổ của Chí Tôn đem đến cho con cái của Ngài về hình thể tức nhiên về xác thịt. Hôm nay Bần Ðạo tiếp, giảng phương pháp cứu khổ của Chí Tôn về tinh thần, tức nhiên về tâm hồn. Cái khổ tâm hồn của loài người nó thống thiết nặng nề, nguy hiểm nhiệt liệt hơn cái khổ xác thịt muôn phần. Cái khổ tâm hồn ta thấy nhiều người chịu không nổi phải chịu quyên sinh, họ tưởng đau thảm của họ hễ diệt tiêu thi hài là hết, nguyên do quyên sinh là vậy. Họ lầm! Sự thống khổ tinh thần hay tâm hồn, dầu xác thịt nầy hủy hoại, cũng không an ủi được tâm hồn vẫn đau thảm như thường. Quyên sinh họ tưởng khỏi việc đau khổ phần xác, trái lại sự đau khổ tinh thần ấy vẫn sống mãi nơi Hư Linh lại còn dữ dội ghê tợn hơn nữa. Ấy vậy, sự đau thảm nơi thế nầy bao nhiêu, nếu không đặng an ủi, nó sẽ còn khổ não thêm gia bội lúc ở cõi trần. Tại sao có sự khổ não tâm hồn? Loài người, chúng ta lấy hết khối óc tinh anh xét căn nguyên, do đâu mà xuất hiện? Ta thấy tuồng đời, các bậc nhơn sanh vô ngằn đẳng cấp, nếu làm thống kê định phẩm giá thì con số vốn vô cùng tận, bao nhiêu người, bao nhiêu tâm lý, khác hẳn cùng nhau, tại sao? Nếu ta biết rõ chơn lý của Ðạo thì do địa vị tấn hóa các chơn hồn, định phẩm hình thể mình chẳng phải sản xuất do quyết định của mình mà do tiến triển phẩm vị tinh thần trí não nơi Chí Tôn định vị. Ðiều ấy không cần luận vì biết phần tâm lý, trí não mà hành tàng, sanh hoạt, mọi sự đều biệt phân, nên vì cớ mà Ðạo pháp Chí Tôn đã giải rõ: Toàn cơ quan thống khổ cốt để làm bài học hay, đặng tinh thần giục tiến tới nơi cao trọng cuối cùng là làm Chí Tôn trong vật loại. Chúng ta không cần luận. Phần xác ta thấy gì? Thấy dường như trường bất công hiển nhiên trước mắt, nếu không biết Ðạo thì chỉ trích cơ Tạo đoan bất công là phải. Tại sao chúng ta thấy dưới thế nầy, ai cũng là người như ai, sao có kẻ tài, người dở, kẻ trí, người ngu, kẻ hiền, người dữ. Cả thảy sự phân cách đặc biệt tâm lý cá nhân, ta thấy trường tranh đấu sanh hoạt tương liên, tỉ như học trò đến trường cùng đồng bạn với nhau, thấy mình sao tối tăm ngu muội, còn bạn mình sao sáng láng thông minh, ngu đến nỗi phải bỏ trường không học đặng nữa về làm tên dân hèn, bạn mình khôn ngoan hơn, lập phẩm vị cao trọng, làm quan quyền cầm vận mạng dân sanh, sửa trị phong hóa, làm lãnh đạo cho đời, sao có sự phân biệt lạ lùng như thế ấy? Học trò nào cũng quyết tâm rán học, mà học không nổi là do tại nơi đâu? Rán tranh, tranh không lại phải khổ tâm hồn. Ðó là một lý. Còn lớn lên rồi trường đời chán mắt, nghề hay nghiệp giỏi tài tình đủ bảo thủ gia đình, với nghề hay khéo, kẻ khác kia thâu sự đắc lợi sanh sống hạnh phúc, muốn học làm theo mà học không nổi bắt chước lại hư, là tại mình ngu muội hơn mới vậy. Tức mình hổ thẹn, phải đau khổ tâm hồn, người ta làm được sao mình lại không, người lập danh vị đời đủ mực quyền hành, ta cả đời hiểu biết, có lẽ cũng như người, mà vẫn làm tôi tớ cho người ra thân mai một. Uất ức tinh thần, người ta sao được thế mà mình như vầy? Thấy hiển nhiên trường đời bất công, tức mình, đó là khổ não tinh thần, tức là khổ não tâm hồn đó vậy. Lại nữa, kẻ đi buôn kia cũng buôn như ai, với phương pháp như họ, sao họ lại được nhiều lời, lập lầu các nguy nga, vợ con đầy đủ sang trọng vinh hoa, còn mình dấn thân làm con buôn lỗ lã thất bại tiêu tan, tức mình quá sức tức nhiên phải thống khổ tâm hồn. Mấy lẽ bất công ấy thiên hạ tìm phương thuốc, có người theo huyền vi tìm mãi, kiếm mãi, chờ có người đủ phương cứu khổ tâm hồn mà cũng tìm chưa gặp đặng. Mang xác thịt phải chịu một phen thống khổ, đầu óc tính toán, tại sao mình tài tình hoạt động có hơn thiên hạ, mà làm thì thất bại, tục gọi không thời buồn bực tức tối đủ thứ, rồi đành an ủi lấy mình bằng câu: "Tài mạng tương đố" mà thật ra không biết quyền năng do đâu mình phải chịu thống khổ như thế. Các sự thống khổ, Bần Ðạo luận từ nãy đến giờ, thiên hạ tìm thuốc cứu khổ, chạy mãi không tìm đặng cho nên không một người nào sống ở đời được thỏa mãn. Kẻ hèn, người sang, kẻ trí, người ngu, thất công tìm phương an ủi. Như hai vợ chồng anh nhà nghèo kia, thấy thiên hạ giàu mình nghèo, mảnh áo chưa lành, ăn buổi mơi lo buổi chiều, đau khổ, không hiểu duyên cớ nào người ta sang trọng, hết sức khóc than rồi cũng tự mình an ủi lấy nhau, ngồi ngâm nga hát ru tâm hồn: "Người ta giàu cái quần cũng đũi, cái áo cũng đũi, Hát như vậy rồi có lẽ vợ bớt khóc, mà anh ta cũng buồn cười. Còn trí như Khổng Minh, hồi đốt Tư Mã Ý đặng bảo thủ nghiệp Lưu, sợ có ngày sẽ vào tay Tư Mã Ý. Ðốt nửa chừng trời mưa tắt cứu Tư Mã Ý khỏi chết, tức quá không biết an ủi làm sao ngước mặt lên trời than: "Mưu sự tại nhơn, thành sự tại thiên. Thiên lý vị nhiên, vị nhiên" nếu không an ủi như vậy, ắt ông phải điên mà chớ. Ông Hồ Ðịch thấy Nhạc Phi bị Tần Cối giết một cách tàn nhẫn vì tại ngu trung, nghe Phiên đem binh phạt Tống, ngồi xem kết quả bên nào ăn thua, nhứt là đợi cho quả báo nhà Tống, nhưng Trời định Tống không thua, Phiên phải thối binh về nước, tức mình than rằng: "Thiên Ðịa hữu tư, thần minh bất công" đó là an ủi một cách hung bạo. Ngày giờ nào nhơn sanh tìm phương an ủi cho bớt thống khổ phương an ủi tìm cũng đáo để như tìm gió theo mây, chạy đến gõ cửa Khổng Phu Tử: "Ông có thuốc gì an ủi nỗi thống khổ tâm hồn của tôi chăng?". Thì Khổng trả lời: "Phương chuyển thế không cùng, dầu đạt được Bí Pháp lấy Trung Dung cũng chưa thỏa mãn". Sang gõ cửa Phật Thích Ca: "Phật có thuốc gì chữa nỗi thống khổ tâm hồn tôi chăng?". Phật đem chơn lý Tứ khổ trước mắt là: Sanh, lão, bịnh, tử, ấy là chơn lý. Người mới tự xét, tôi không muốn sanh, mà ai sanh tôi ra chi để tôi chịu khổ thế nầy. Sống tôi không muốn sống, vì sống là gốc sản xuất Tứ khổ. Cái khổ ấy chẳng phải của tôi mà ai làm cho tôi khổ, cũng không thỏa mãn tâm hồn. Tìm nơi Phật không thấy đặng gì, đến gõ cửa Lão Tử: "Bạch Ngài, có món thuốc gì an ủi tâm hồn tôi chăng?". Bảo cứ giữ đạo đức làm căn bản, thoát mình ra khỏi thúc phược thế tình lên non phủi kiếp oan khiên nơi tịch mịch an nhàn thân tự tại. Nếu không thế ấy thì đừng mơ mộng gì thoát khổ được. Nghe lời lên núi ở mà ngặt nỗi hễ mỗi lần đem gạo lên ăn thì khó nhọc trần ai khổ nhộng. Ðói tuột xuống, thất chí nữa, thành phương an ủi cũng ra ăn trớt. Rồi đến gõ cửa Jésus de Nazareth hỏi: "Ðấng Cứu Thế có phương thuốc nào trị thống khổ tâm hồn tôi chăng?". Trả lời: "Nếu các ngươi quả quyết nhìn nhận mình là con cái Ðức Chúa Trời, tức là Ðức Chí Tôn, làm như Người làm, mới mong an ủi tâm hồn được". Trong khuôn khổ phương pháp làm con cái của Chí Tôn thì lắm kẻ nói được mà làm không được, cũng như tuồng hát viết hay mà không có kép tài đặng hát. Cả thảy không chối: Cũng có kẻ an ủi được nhờ đức tin vững vàng, còn phần nhiều ngược dòng đi ngã khác, không ở trong lòng Chí Tôn chút nào tất cả. Thất chí nữa hết thế tìm ai. Bây giờ Chí Tôn làm phương nào trong thế kỷ 20 nầy đặng an ủi tâm hồn nhơn loại, Ngài đến cùng con cái của Ngài, quả quyết rằng: Nếu các con cái của Ngài tức là Thánh Thể của Ngài mà lập Ðạo không thành, thì Ngài phải tái kiếp. Trọng hệ gì dữ vậy? Ngài đến thế lập Ðạo, từ tạo thiên lập địa không cơ quan nào rời khỏi tay Ngài. Ngự Mã Quân của Ngài sợ sệt kinh khủng, vì mỗi lần Ngài tái kiếp thì phải chịu mọi điều thống khổ xác thịt lẫn tâm hồn. Mỗi phen đến, đặc biệt Ngài muốn thế nào sự đau khổ của Ngài đó sẽ làm cơ quan giải thoát cho toàn thiên hạ. Sợ Chí Tôn phải khổ, nên Ngự Mã Quân tái kiếp lập Ðạo thay thế cho Ngài. Tại sao vậy? Nói thật, không ai có quyền năng nào hơn mẹ ru con, không ai có quyền năng bằng cha yêu ái, khi con đau đớn, con đương khóc mẹ bồng thì liền nín, còn cha hôn một cái, hết thảm hết buồn. Chí Tôn sai các vị Giáo Chủ đại diện Ngài đến lập Ðạo do danh thể của Ngài, vâng mạng lịnh nơi Ngài, đến thay thế giáo hóa con cái của Ngài. Chưa vị nào an ủi được sự đau thảm cho trọn vẹn cái khổ của đời. Khối đau thảm ấy từ buổi có loài người chất chồng vô số kể. Ngài đến bồng nhơn loại trong tay, ru rằng: Khối đau khổ tâm hồn của các con là tại các con đào tạo chớ không phải của Thầy, khổ là do quả kiếp mỗi đứa dục khổ cho nhau. Muốn giải khổ không gì khác hơn đập đổ các đẳng cấp tâm hồn, thống nhứt nhơn loại, nhìn nhau là anh em đồng máu thịt, cũng một căn bản cội nguồn, hầu chia vui sớt nhọc, biết tôn ti nhau, kẻ trên không áp chế người dưới, trí không hiếp ngu, hèn sang không phân biệt, mực thước tâm hồn nhơn loại phải đồng phẩm giá, đồng quyền năng. Ngày giờ nào, nhơn loại biết tôn trọng nhau, dầu sang hèn nhìn nhau là anh em cốt nhục, ngày ấy phương giải khổ không khó. Các con nghe Thầy mà làm y lời Thầy thì khổ ấy tự tiêu diệt. Nếu các con còn đau thảm, thì đấm ngực nói: "Khổ nầy do các con tạo, không phải do Thầy định tội đa nghe". Thầy đến chỉnh đốn tâm lý loài người, tránh tranh đấu, tiêu diệt lẫn nhau thì không còn hổn loạn với nhau, thì tức nhiên diệt khổ chớ có chi đâu lạ. Cơ quan giải khổ tâm hồn của Ngài là đó.
Phụ ghi:
Q.1/45: Thuyết đại đồng.
Ðền Thánh, ngày mồng 1 tháng 11 năm Ðinh Hợi (1947)
Ngày nay Bần Ðạo giảng về đại đồng. Trước khi giải thuyết ấy, Bần Ðạo xin giảng thuyết duy tâm và duy vật. Nếu không thấu hiểu hai thuyết ấy, thì không hiểu thuyết đại đồng. Bần Ðạo đã giảng về Tam Bửu tức là ba cơ quan tạo nên con người: 1. là Tinh, 2. là Khí, 3. là Thần. Tinh là gì? Tinh là con người hữu hình tức là xác thịt ta. Khí là gì? Khí là trí não của chúng ta. Thần là gì? Thần là linh hồn của chúng ta, Ðức Chí Tôn gọi là chơn linh. Ba món báu ấy tương liên với nhau, bởi vì mỗi Bửu có Thể Pháp riêng, mà ba xác ấy hiệp lại mới tạo thành hình ảnh con người. Bây giờ phân ra: Tinh là Vật, tức nhiên là con vật là thú, như các con thú khác, nghĩa là hình xác đứng về hàng phẩm thú. Khí là sanh quang trí não ta. Thần là chơn linh sản xuất nơi Chí Tôn. Ba cơ quan tương liên nhau, có Khí làm trung gian. Khí là trí não ta, nó đáo đến địa giới hiệp cùng chơn linh cho huệ trí. Trái lại, nếu nó không tương liên với linh hồn đặng thì nó lại tương liên với xác thịt, nghĩa là nhập vào giác tánh của con người. Giác tánh là gì? Giác tánh là trí não thô sơ, nó chỉ biết sống như con vật. Tỉ như con thú kia mới sanh ra chưa biết gì mà đã tìm vú mẹ, đặng bảo trọng sanh mạng của mình. Luật bảo sanh biểu nó tìm bao nhiêu đó để sống mà thôi. Ba món báu ấy tương liên với cả Càn Khôn Vũ Trụ, Thần tương liên với Phật tức là Chí Tôn, Khí tương liên với Pháp, còn Tinh tương liên với Tăng, tức là với vật loại. Ấy vậy duy vật là xu hướng theo Tinh, còn duy tâm tức là thuyết hữu thần, tương quan với Phật là Chí Tôn. Bình thường các Tôn Giáo, đặt ra tên nầy, danh nọ đủ thứ, chí lý là tìm Ðấng tạo sanh vạn vật, lấy hình của người mà tạo linh quang của loài người tức là Cha linh quang của chúng ta, hay là Cha của vạn loại đó vậy. Bởi vậy, các Tôn Giáo, nhứt là Thiên Chúa Giáo nói: Con người là Thiên Thần bị hãm tù bởi chơn linh của chúng ta với Thiên Thần đồng chất với Chí Tôn. Mang lấy xác thịt nầy tức là ở trong cái khám vật loại. Còn Phật Giáo cho ta hiểu ba báu ấy chẳng khác nào như người cỡi ngựa với con ngựa. Con ngựa ấy là con kỵ vật tức là Tinh, Pháp là dây cương con ngựa, mà trọng yếu hơn hết là đồ bắt kế con ngựa là hàm thiết, chưn đưng kềm con ngựa chạy ngay con đường mình muốn tức là Tinh. Người cỡi là chơn linh ta, nghĩa là Thần, Thần là hình ảnh của Chí Tôn tạo cho ta, vì cớ con người có cao vọng chưa đạt được gì cao trọng, chưa đắc huệ trí mà đã tưởng mình là Ông Trời con, nên luôn luôn muốn làm Trời hơn hết. Tại sao vậy? Có khó gì đâu mà không hiểu: Ðứa học trò ngồi trong lớp thấy ông quan vô, có kỉnh sợ chi đâu, mà tự nói thầm rằng: Ông làm quan được trước, tôi cũng sẽ làm quan được, trừ ra khi nào ném sách vở ra chăn trâu, thì mới hết phương làm được. Chơn linh biết mình muốn tu hầu làm Thần, Thánh, Tiên, Phật cũng có thể làm bằng được Chí Tôn mà chớ, bởi vì phẩm vị Ngài đã dành để sẵn cho các con cái Ngài, nếu người nào làm được như Ngài vậy. Bởi vậy dầu chưa làm được ra gì, đã biết mình là Trời tại thế. Có câu chuyện tức cười, bằng cớ hiển nhiên như Ðức Trạng Trình là Nguyễn Bỉnh Khiêm buổi nọ hồi còn bé đi học, có Quan Huyện đến xét trường hay là thăm trường chi đó, nghe nói Ngài nổi danh Thần Ðồng khi thấy Ngài nhỏ người, thân không cao lớn hơn ai, lại bận áo rộng xùng xình, vì bận bính của ai đó lết bết dưới đất tức cười lắm nên ghẹo chơi. Ông Huyện ra một câu đối như vầy: "Học trò là học trò con, quần áo lon xon là con học trò". Ngài ứng thinh trả lời liền: "Ông Huyện là ông Huyện thằng, ăn nói lằng xằng là thằng ông Huyện". Ngài nói liền thiên tư nhứt định không chịu thua. Ấy vậy duy tâm thì sản xuất thiên tài, duy vật thì sản xuất nhơn tài. Ðể rồi sau Bần Ðạo sẽ thuyết ra thiên tài và nhơn tài một lần đặc biệt. Nãy giờ Bần Ðạo đã mở đề cho hiểu xin nên nhớ và nghe giảng tiếp thuyết đại đồng. Ðại Ðồng là hiệp một loại vật. Vậy đại đồng tiến hóa do căn bản nơi đâu mà có? Dám chắc hỏi đại đồng là gì? Không ai giải nghĩa được. Ðại đồng là đồng sanh tức nhiên là chúng sanh đó vậy. Ai đã đồng sanh với ta là bạn, là anh em của ta. Bởi các vật hữu hình thọ quyền năng vô tận vô biên của Chí Tôn, đến thế gian với một mạng sanh, tức là đồng sanh, dầu vật loại, côn trùng, thảo mộc, thú cầm hiệp với loài người là chúng sanh, tức nhiên là bạn đồng sanh cả thảy. Hễ đồng sanh ta phải nhìn nhau là anh em trong lòng Chí Tôn mà sản xuất, vì nhà Phật cấm ta không đặng sát hại sanh vật, vì là bạn đồng sanh của chúng ta. Vậy hai chữ Ðại Ðồng là gì? Thật ý nghĩa bạn đồng sanh, nhìn nhau hiệp một trong nguyên căn gọi là đại đồng. Hỏi thuyết đại đồng ngày nay xuất hiện là tại sao? Chúng ta đoán dễ lắm. Cung kỉnh, tôn trọng, quí hóa mạng sanh vạn loại, loài người đứng phẩm tối cao tối trọng, thay thế hình ảnh Chí Tôn có quyền làm Chúa đại đồng. Loài người bị tàn ác, chẳng những sát hại vạn linh mà thôi, lại chém giết tranh ăn, tranh sống, lấy cường lực đàn áp làm căn bản, dùng bạo tàn làm chúa thiên hạ, chớ không dùng đạo đức tinh thần. Bạo tàn không dễ làm chúa thiên hạ. Cái thuyết duy vật là trong khuôn luật vật hình nhứt định, còn thuyết duy tâm chỉ có khuôn khổ thiên nhiên, theo thuyết duy vật nào là các cường quốc trên khắp địa cầu tìm đủ phương châm luật pháp, làm cho thiên hạ hòa ra đại đồng ấy là điều mơ mộng, vì không hề đạt vọng được. Chưa ai hiểu đặng một người tài tình quán chúng, trí não cao sâu phải hạ mình làm người ngu dốt. Chưa có quyền năng nào mà đem một đứa ngu dốt lên làm ông Tể Tướng triều đình. Hàng phẩm căn mạng đều do Chí Tôn sở định. Ðã biết không ai ép buộc được, không khuôn luật nào biểu một vị đại văn sĩ ăn mày ngoài chợ được. Hễ không có hình luật nào làm được, sửa được, thì thuyết đại đồng thiên hạ không thành tựu. Thuyết ấy kết liểu được là khi nào lấy thuyết hữu thần duy tâm làm môi giới chung trong sự yêu ái tôn trọng nhau trong tình anh em đồng một căn bản, một máu thịt một chủng tộc. Vì cớ các Ðấng giáng cơ bên Âu Châu nói: Loài người sẽ đạt được đến địa vị tối cao tối trọng mà họ muốn đạt, là loài người sẽ có nòi giống một quốc gia, một Tôn Giáo, ngày giờ nào loài người đạt được ba điều ấy thì thế giới đại đồng kết liểu thành tướng. Chí Tôn đến với loài người, Ngự Mã Quân của Ngài sợ sệt Ngài xuống trần phải nguy hiểm. Ngài đến tạo cho loài người một quốc gia, một nòi giống, một Tôn Giáo. Nhưng Ngự Mã Quân của Ngài không muốn cho Ngài đến, nên thay Ngài đến làm cho ba điều ấy thành tựu nên hình. Nếu ba điều ấy thành thì đại đồng thế giới thành. Nếu ba điều ấy không thành, thì đại đồng thế giới là thuyết vẫn còn trong vòng mơ mộng.
Phụ ghi:
Q.1/46: Sự tích Ðức Chúa Jésus giáng sanh.
Ðền Thánh, đêm 14 tháng 11 năm Ðinh Hợi (1947)
Ngày hôm nay chúng ta tính từ ngày đã đúng 1947 năm của Chúa Cứu Thế, tức Ðức Chúa Jésus Christ ở làng Nazareth xứ Palestine vâng mạng lịnh Ðức Chúa Trời, tức là Ðức Chí Tôn, đến độ rỗi các sắc dân Âu Châu. Chúng ta quan sát và chính Bần Ðạo quan sát thấy chơn truyền của Ðạo Thánh Gia Tô vẫn đồng căn đồng bổn với Ðạo Phật, ấy là Phật Giáo Hạ Thừa, không có chi khác, dầu Bí Pháp chơn truyền hay Thể Pháp đều cũng y như vậy. Thảng từ thử đến giờ, có thuyết chia rẽ tinh thần, là tại nơi người phàm, đem thuyết ấy để trong sự tín ngưỡng của sắc dân Âu Châu nên mới có sự chia rẽ nòi giống. Vì nạn ấy mà chúng ta ngày nay thấy trên mặt toàn cầu nòi giống chịu nạn tương tàn, tương sát nhau. Bần Ðạo xin thuyết cái nguyên căn của Ðức Chúa Jésus Christ là gì? Thỉnh thoảng rồi Bần Ðạo sẽ đem nguyên căn của Thánh Giáo Gia Tô thuyết minh ra cho cả thảy nam nữ đều rõ biết. Ðức Chúa Jésus Christ là ai? Nếu chúng ta thấy chơn truyền của dân tộc Nébreux tức dân Do Thái bây giờ để lại, theo luật pháp của Thánh Moise đã tiên tri nói về Ðấng Cứu Thế giáng sanh, nếu chúng ta tìm tòi, lật từ tờ trong Kinh Thánh Gia Tô chẳng hề thấy tên Christ và chẳng có tên Christ mà nơi cõi thiêng liêng Bần Ðạo dám chắc Ðức Chúa Jésus Christ là Chơn linh Christna là Tam Thế Tôn đó vậy. Ðức Phật Christna không phải xa lạ với chúng ta, bởi vậy cho nên Ngài đã đến mà tại đến với chức trách nhỏ nhen hèn hạ, bởi loài người quá tự kiêu, tự đắc, dùng phương pháp nhỏ nhen, hạ mình hèn hạ ấy hầu đem tâm hồn chí Thánh của Ngài thức tỉnh các sắc dân Âu Châu. Ngài đến nơi một nhà bần hèn. Bần Ðạo xin nói rằng: Ngài đến nhà của bà Maria cốt yếu là một bà tu trong Ðền Thánh Jérusalem, ông Joseph cũng người tu trong Ðền Thánh. Luật của Ðền Thánh buộc hễ con gái đến tuổi cập kê cho ra xuất giá. Năm ấy cô Maria tức là một cô Ðạo nữ, chúng ta nói là một Ni Cô ở Ðền Jérusalem, đến tuổi lấy chồng. Phép Ðền Thánh buộc mấy Thầy tu trong Ðền Thờ phải có người đứng ra cưới, bởi vì chiếu theo lời Chí Tôn căn dặn nhủ lời Ngài nói với Adam và Eve buổi nọ: "Unissez vous et multipliez". (Bây phải chung sống cùng nhau đặng biến sanh ra nhiều nữa.) Lễ tuyển chọn chồng cho bà Maria, theo luật Ðền Thánh buộc mỗi vị nam lựa bông để trong Ðền Thánh 3 ngày, nếu bông ấy còn tươi tắn thì được cưới. Hại thay! Có nhiều kẻ trẻ trung, còn ông Joseph buổi nọ đã quá 50 tuổi cũng phải chịu theo luật cưới ấy. Nếu chúng ta nói đến hoa khôi lịch sắc thì bà Maria cũng có thể kể vào hạng đó. Mới tới tuổi cập kê mà sắc đẹp ấy làm biết bao nhiêu kẻ nam nhi ước vọng. Ông Joseph cũng như mọi người đem bông đến Ðền Thờ chịu trách nhiệm tuyển chọn ấy. Người tìm bông nầy, bông kia. Còn ông, ông tính mình đã già rồi, vợ con mà làm chi, nhưng luật Hội Thánh buộc không làm ắt có hình phạt hoặc quì hương chẳng hạn (Cười...). Bước ra khỏi Ðền Thánh, ông thấy bông huệ khô héo của ai bỏ, ông lượm lấy đem cậm vào bình, không ngờ thứ huệ rất nên kỳ lạ, những bông nụ nở rồi nó rụng đi, còn bông búp bắt hơi nước sống lại, nở tươi đẹp, còn các thứ hoa khác tàn rụi hết ông phải chịu phép cưới cô Maria. Hại thay! Nhà tu nếu làm lễ cưới rồi phải ra khỏi Ðền Thánh, mà đôi vợ chồng ông đều tu không gia đình, không nhà cửa, không phương sanh sống, thật rất nên thê thảm. May thay! Lúc còn ở Ðền Thánh, ông Joseph làm thợ mộc. Ông giỏi nghề mộc lắm. Ông mới bàn tính, bây giờ vợ chồng nghèo dắt nhau ra ngoài làm ăn, chồng làm thợ mộc, vợ may vá mà bà Maria về nữ công rất hay, khéo nghề đan (tricoter) nhờ vậy tìm sự sanh sống cũng tạm được đầy đủ. Thảng mãn ngày qua tháng lại, hạ sanh con đầu lòng là Jésus. Hai vợ chồng nuôi con với phương tiện nghèo khổ, nhứt là ngày hôm nay là ngày sanh của Ðức Jésus Christ còn để lại dấu tích cho chúng ta thật đáng để ý hơn hết. Ðêm lễ Noel trong Ðền Thánh làm lễ long trọng như chúng ta làm lễ hôm nay vậy, hai vợ chồng đi lại từ làng Nazareth vô Ðền Thánh làm lễ. Khi đó bà đã có thai gần ngày sanh, nghĩ mình đã có căn tu, đến ngày Ðại Lễ không thể ở nhà được, bụng mang dạ chửa, cũng rán đi đến chầu lễ thường lệ. Ở Châu Thành nhà cửa bị thiên hạ mướn chật hết, kiếm không ra chỗ ngụ, không lẽ ở ngoài trời, mới vô năn nỉ chúng cho ở trong chuồng chiên tạm trú. Trời đang tiết Ðông thiên, như ngày nay chúng ta nghe cũng hơi lạnh, lạnh lẽo lạ lùng nhứt là đối với hai người tâm Ðạo nầy vô ngủ trong chuồng chiên rất khổ sở. Ðúng 12 giờ khuya đêm ấy bà chuyển bụng sanh ra Ðức Chúa Jésus Christ. Trong sách nói, ngày Chúa Giáng Sanh, có vì sao gọi là sao chổi mọc không gì khác lạ, đó là Comete de Halley, mỗi 75 năm mọc trở lại một lần. Các vị Vương tiên tri rằng: "Ngày nào sao chổi ấy mọc là ngày Chúa giáng sanh nên nhớ để dạ tìm người". Có nhiều huyền diệu ta không thể tưởng tượng được như đám chăn chiên đóng trại ngoài trời, bổng nghe giữa thinh không có nhiều Thiên Thần kêu nói có Chúa Cứu Thế giáng sanh, nên Vua của dân Maures và các người chăn chiên ấy vô đảnh lễ Chúa đầu tiên hơn hết. Tai hại thay! Thời buổi đó nước của dân Juifs bị Ðế quốc Romains chiếm làm thuộc địa, ở Palestine thì để một vị Chánh Soái là Hérode Antivas hằng để tâm mưu sát Ðấng Chúa Cứu Thế, vì có tiên tri nói đến làm Vua nước Do Thái, nên ngay từ buổi đến trấn nhậm Palestine chính Hérode đã giết ông Thánh Saint Jean Baptiste. Buổi ấy các nhà tiên tri cho biết Ðức Chúa Cứu Thế sanh ngày đó mà không biết Ðấng Chúa Cứu Thế là ai? Muốn giết, mà không biết ở đâu? Nên bắt tất cả con nít sanh trong đêm ấy ra giết hết, đinh ninh rằng: Trong đám đó có lẽ có Ðấng Chúa Cứu Thế. Ai dè may thay! Ông Joseph đêm mệt mỏi nằm mộng thấy Thiên Thần mách bảo, liền bồng đứa trẻ trốn qua Egypte. Hai vợ chồng đào tẩu kịp chớ không thì Chúa cũng đã bị giết rồi. Qua Egypte một thời gian, đứa con lên được lên 5, 6 tuổi, nghe tin bên nước mình đặng yên và có lịnh thiêng liêng truyền dạy hai vợ chồng trở lại Palestine, chồng làm thợ mộc theo nghề cũ, vợ may vá nuôi con, lại sanh thêm ba bốn người con trai, gái nữa, thành thử cách sống rất nghèo hèn khổ não, từ cái đường sông Jourdain Ðức Chúa để bước đội nước mỗi ngày giúp mẹ cùng kiếm công một hai cắc. Buổi nọ là lúc đã trộng rồi, được 12, 13 tuổi, theo cha học làm thợ mộc, ông chỉ đâu làm đó. Khi đó ông Joseph lãnh làm nhà của người ta, rủi cắt làm sao mấy cây cột lỡ cụt hết người chủ bắt đền không biết liệu làm sao? Nhà nghèo tiền đâu mua cột khác đặng bồi thường. Ông ngồi khóc ròng, đoạn Chúa mới cầu nguyện rồi cha một đầu con một đầu nắm kéo nhẵng ra cho đủ thước đặng bồi thường cho đủ, bằng không thì chỉ có ở đợ mà trừ. Thiệt lạ lùng thay và huyền diệu thay, đó là Ðấng Christ hành pháp lạ lần thứ nhứt. Trong năm 12 tuổi là năm kéo cột đó, Jésus vô Ðền Thờ, buổi nọ chơn linh Ðức Christna giáng hạ, các vị Giáo Chủ trong Ðạo toàn là những bác sĩ nghe tiếng đồn danh thần đồng của Chúa Jésus nên khi vô Ðền Thờ, họ xúm nhau lại vấn Ðạo, Ðức Christna giáng linh, ngồi giữa các vị Giáo Chủ ấy, thuyết đạo làm cho thiên hạ ngạc nhiên sự lạ. Hai vợ chồng buổi nọ đi chầu lễ Sablat vô Ðền Thánh cúng rồi về, dòm lại Ðức Chúa đâu mất, hỏi ai nấy có thấy Jésus không? Hai ông bà tìm kiếm mãi cũng không thấy con, sợ sệt, hơ hãi chạy trở lại Ðền Thờ, thấy Jésus ngồi giữa, các bác sĩ, Giáo Chủ đó ngồi chung quanh đương vấn Ðạo. Bữa nọ vì tình cờ, tuy vân lúc còn ở trong Ðền Thánh Bà có được truyền tin rằng: Bà sẽ cho loài người nơi mặt thế nầy, bởi nơi lòng Bà xuất hiện ra Ðấng Chúa Cứu Thế, tuy đã biết trước như vậy, nhưng vì chạy kiếm con không thấy, vừa mệt, vừa sợ sệt đến khi tìm gặp, thấy con ngồi thuyết Ðạo, đã có lòng phiền, bèn kêu Chúa nói: "Sao con làm cho Mẹ khổ não kiếm con lắm vậy". Ðức Chúa liền nói: "Bà kia, bà không biết tôi đang làm phận sự của Cha tôi biểu phải làm hay sao?". Bà mới tỉnh, tự hiểu biết, nên phiền Ðức Chúa vì lời nói đó. Từ đó khi Chúa về nhà thì cũng như mọi đứa trẻ khác, cũng đi đội nước, cũng đục đẽo làm thợ mộc phục tùng cha mẹ hiếu hạnh đủ điều. Trong nhà em út bất hòa, còn ông Jésus hiền lắm tánh hay nhịn nhục nên mấy người em thường hay ăn hiếp. Ở nhà không yên, ông đi làm thợ lấy tiền về nuôi cha mẹ lây lất qua ngày. Ðến năm 30 tuổi nghe Saint Jean Baptiste truyền giáo tại bờ sông Jourdain, cũng trong lúc đó, Ðức Chúa đến gặp ông đang giải oan cho thiên hạ. Khi vừa thấy Ðức Chúa ở xa xa đi đến thì ông đã biết là Ðấng Chúa Cứu Thế, mới nói: "Từ sáng đến giờ tôi chỉ chờ có một người nầy thôi". Ðức Chúa đến thọ giáo nơi ông Thánh Saint Jean Baptiste và chịu phép Giải Oan của Ngài. Trong buổi vừa hành pháp xong, Ðức Chúa ở bờ sông Jourdain vừa bước lên thì trên không trung hiện ra hào quang sáng suốt, hiện ra giống như chim bồ câu trắng (colombe) sa giữa đầu Chúa, ngay giữa thinh không có tiếng nói: "Nầy con yêu dấu của Ta, cả ân đức của Ta để cho Ngươi đó ". Từ ngày đó Ðức Chúa Jésus là chơn linh Ðấng Christna giáng hạ cho nên đi truyền giáo nơi nào, chơn linh Ngài không phải như ngày sanh nhựt nữa, mà đã biến thành Chí Thánh vậy. Ngài là chơn linh Thánh sống trước mắt cả thiên hạ đạt cả Ðạo Giáo, Ngài quan sát nơi mặt thế nầy, Ðức Jésus Christ không kém hơn ai trong hàng Giáo Chủ. Ngài để nhứt tâm lẫn truất thương sanh, yêu ái người thật nồng nàn chơn chất. Ðức Thích Ca thế nào thì Chúa thế ấy. Bởi cớ thiên hạ thương mến nghe theo Ðạo Giáo của Ngài. Dân Juif các vì Giáo Chủ buổi nọ, luôn các vua chúa Palestine, thấy Ðức Chúa Jésus Christ thuyết Ðạo Giáo có một chí hướng chơn truyền phản khắc với tôn chỉ của họ, họ oán ghét, tìm phương giết Chúa, đến đầu cáo với César rằng: "Người ấy mưu cuộc phản loạn đem bọn Juif ra khỏi sự thống trị của chế độ Romain", nhưng họ cáo đủ thứ cũng không được , vì Thánh đức của Chúa không thể phạm vào được. Họ lại tìm cách bài bác Luật Ðạo, tạo một ban tuyên truyền làm cho nhơn gian sợ di hại liên lụy không dám gần Chúa. Mấy Giáo Chủ (Caiphe) ấy bắt Jésus giao cho Nguyên Soái Pilate lên án tử hình. Tuyên truyền thế nào không biết cho đến ngày Lễ Pâques là ngày thả tù nhơn, có tên Barabbas là Tướng hung dữ, sát nhơn đủ tội lỗi mà toàn dân Juif đồng tha bổng, còn Ðức Chúa Jésus chúng không tha, lên án tử hình và đem ra giết, đóng đinh trên cây Thập Tự. Cái chết của Jésus Christ là gì? Là Ngài đem xác Thánh trọng quí dâng cho Chí Tôn làm tế vật, xác Thánh chết trên Thánh Giá là Lễ Tế đồng thể với Tam Bửu của chúng ta dâng cùng Ðức Chí Tôn ngày nay đó vậy. Vậy, Ðức Chúa Jésus Christ đã làm con tế vật cho Ðức Chí Tôn đặng cứu chuộc tội lỗi của loài người, nhứt là các sắc dân Âu Châu, nên danh thể Ngài để hai chữ Cứu Thế chẳng có chi là quá đáng. Thật ra Ðấng Cứu Thế ấy là Tam Thế Chí Tôn giáng linh tức Christna tái thế.
Phụ ghi:
Q.1/47: Thiên Tài và Nhơn Tài.
Ðền Thánh, ngày rằm tháng 11 năm Ðinh Hợi (1947)
Hôm nay Bần Ðạo giảng về "Thiên Tài và Nhơn Tài". Nhưng trước khi giảng thuyết ấy, nên mở một lối để cả thảy hiểu nguyên do nào mình đạt được thiên tài hay chỉ nắm nhơn tài mà thôi. Bần Ðạo đã giảng nhiều phen hình trạng Tam Bửu, đã cho cả thảy biết trong mình ta có tam thân, thất phách, chúng ta gọi theo Ðạo giáo là Tinh, Khí, Thần. Thứ nhứt: Thân thể hữu hình của chúng ta đây gọi là Phàm thân. Thứ nhì: Thân thể khí chất vô hình, mắt không nhìn thấy được, nếu thấy được là đạt Ðạo, gọi là Pháp thân. Thứ ba: Gọi là Linh thân tức là linh hồn. Ba món báu ấy chung hiệp nhau lại tạo nên hình ảnh con người. Nếu ta thấy được thì thân thể hữu hình nầy đồng thể với vật loại tức là thú vật. Pháp thân tương liên với Càn Khôn Thế Giới đồng thể với Khí, cả Khí chất tạo đoan ra nguyên do loài người, lấy nguyên do đó làm hình ảnh của linh thân chúng ta, còn sự sáng suốt linh thiêng là do nơi lòng Ðức Ðại Từ Phụ. Vậy chia làm ba (3) người trong ta nuôi nấng xác hài hữu hình nầy. Pháp thân một mặt gìn giữ xác thân châu toàn kiếp sống, một mặt tương liên với quyền năng sở định của các Ðấng Thiêng Liêng với Chí Tôn. Vậy nó chia ra hai lập trường:
Ðối với Chí Tôn, Pháp thân phải có tinh thần trí thức bổn năng xu hướng quyền năng vô hình, tìm nguyên căn mình xu hướng theo Ðấng Tạo Ðoan, hiểu thể hình, biết đi, biết về, gọi là huệ tức tâm. Thảng không biết, chỉ lo bảo tồn sự sanh sống của vật loại thôi thì trở nên tánh. Một đàng Linh tâm, một đàng Giác tánh, nó ở giữa. Bây giờ đã hiểu rồi, Bần Ðạo xin thuyết về "Thiên Tài và Nhơn Tài". Trí giác Pháp thân chúng ta có hai điều xu hướng, hễ xu hướng theo thiên tư thì đạt được thiên lương là một khối tài tình đạt kiếp sống vi chủ cùng tận hình thể, việc nầy không gì khác hơn là cái kho đựng quyền năng ta đạt được. Trong phép luân chuyển kiếp sanh lập kho chất chứa cả tài vật của chúng ta đạt đặng trong kiếp sanh, nhờ đào luyện bởi bài học khổ của cơ tạo đoan, năng chịu khổ, giỏi chịu hành hạ khổ não chất chứa. Kho đó còn, tài vẫn còn. Trở lại Giác tánh, ta thấy gì? Biết bảo trọng mạng sống như muôn vật, như trâu ăn cỏ, khỉ ăn trái cây, giác tánh tạo hình xu hướng theo vật loại thì đè pháp thân xuống, muốn tìm hạnh phúc mà thôi, mà tiềm tàng hạnh phúc ta tưởng thế gian nầy nhiều tượng hình, tương đối với Càn khôn, xác thịt yếu ớt tìm phương để bảo vệ không có phương nào không làm, so sánh với vạn vật thì con người thua nhiều con vật khác, thua công khai, như con cọp mà mình kêu ông cọp. Muốn thắng nó đặng thì trí lự tìm phương quyết thắng, tạo ra súng ống đặng tự vệ lấy mình, nên làm chủ nó được. Giác tánh tìm phương tự vệ phải xu hướng theo đường duy vật. Nhơn Tài ta thấy gì? Có một kho sách ở thành New York có 2.000 triệu quyển sách, học mưu hay chước khéo, cả thảy tài tình nhơn loại cộng thành khối lớn, nhưng chưa hề quyết đoán vận mạng nhơn loại được. Nhơn Tài đã làm gì hạnh phúc cho nhơn loại, chúng ta đã thấy dầu cách vật, họ đi tới mức huệ, qua không được, trở lại vật hình. Trên kia đã thấy gì? Họ tìm phương pháp tương tàn tương sát nhau, có gì khác hơn đâu, bởi duy vật chỉ làm chúa vật loại mà thôi, ấy là Nhơn Tài. Phương pháp của con người tìm thế đem cả hình thể của người lên làm chúa cả vạn vật, ấy là thuyết duy vật. Những mưu chước hay khéo, họ thâu đoạt được để làm chúa vạn vật thuộc Nhơn Tài. Bây giờ tới thuyết Thiên Tài. Thiên Tài là khi nào Pháp thân xu hướng theo nguyên do căn bản, tâm linh của nó. Tự hỏi mình cũng như con vật, sao khôn ngoan hơn vật, sao có linh tâm, có căn bản vì đâu? Tìm kiếm ra căn bản ấy là Tu. Tu để tìm nguyên do linh tâm chúng ta là thiên lương ta đó, hay khéo hơn hết là ngày giờ nào để trí thức tinh thần theo thiên lương thì mở mang một cách lạ lùng. Tại sao khiếu vật hình không làm trở ngại vật mà phải cùng ta tự tìm kiếm, tự luyện tinh thần ấy là Pháp thân thì đạt huệ, mà đạt huệ đặng thì đóng khối trong kho vô tận từ thử đến giờ, nếu mở cửa ra được là lấy được, kiếp nầy mang thi hài xác thịt, có một bài học mà thôi, còn các bài học kia nếu chúng ta dở quyển sách vĩnh sanh ra thì không có gì khuất lấp được. Thiên Tài qui tụ nơi trí ta đặng, không có năng lực nào nơi mặt thế nầy đối phó mà ta không thắng. Không nói Thiên Tài ấy đủ quyền năng tạo hạnh phúc thi hài chúng ta mà thôi, lại còn tạo hạnh phúc cho thiên hạ nữa mà chớ, ấy là cơ quan đạt Ðạo. Các Giáo Chủ tại thế nắm Thiên Tài, bảo trọng tinh thần loài người tức nhiên cứu người đó, bởi chúng ta thắng vật hình hữu vi, hữu hoại nầy. Ðêm ngày 24 giờ, thấy chết sống trước mắt, thiệt tướng . Chẳng phải ở cái sống nầy mà ở trong buổi chết, biết bao nhiêu kẻ khi khổ não cực nhọc thi hài quá lẽ, chạy theo phương cứu khổ, tìm không được phải thống khổ tinh thần. Muốn an ủi chúng nó phải đi con đường nào? Sự thống khổ có thể an ủi được chỉ trong giấc ngủ, khi thức, mở mắt ra thấy kiếp sống nầy đương đau thảm, ta tìm được phương an ủi, làm cho bình tỉnh tâm hồn, định được thiên lương chúng ta trong giấc ngủ, khi thức chúng ta đã thấy trường đời đau thảm. Ðã giải rõ hai thuyết Nhơn Tài và Thiên Tài, xem coi bên nào hơn bên nào kém. Hại thay! Những kẻ biết vật không biết hình bóng của vật, chỉ biết vật không biết thiên lương, bởi cớ, trường đời ta thấy trí lự Nhơn Tài tìm phương tranh đấu sanh sống, hạnh phúc hơn người, cả Nhơn Tài hiện tướng dữ dội lần lần đẹp đẽ có mùi vị quyền năng trục cả tinh thần con người theo nó, chưa biết tồn tại chăng? Hình ảnh trước mắt ta thấy cả trường đời đi đến con đường tự diệt, chớ không phải con đường vĩnh sanh. Nếu chúng ta muốn đạt được quyền vĩnh sanh thì lấy Thiên Tài làm căn bản. Muốn đoạt Thiên Tài không theo ai, không xin ai được hơn là đi theo Ðại Từ Phụ, dầu ta ngu ngốc thế nào, xin một ngày không đặng thì hai ngày đến một tháng, một năm, nếu theo hoài dầu cho có nhiều xin mà ông Cha không thể cho đặng, chúng ta cứ cương quyết chiều lòn phục lụy, kiên nhẫn theo hoài, dầu khó cũng phải cho, bởi không nỡ nào không cho, mà hễ Ðấng ấy cho rồi không có cái gì ở thế gian nầy đối với của ấy được. Lời Bần Ðạo căn dặn: Mặc ai sang trọng ở trường đời, ta cứ quyết theo Chí Tôn thì đại nghiệp không mất, quả quyết đứa con nào của Ngài trọn trung, trọn hiếu với Người và với Hội Thánh là hình thể của Người tại thế gian nầy, thì không bao giờ thất nghiệp và thất phận.
Phụ ghi:
Q.1/48: Dâng Tam Bửu.
Ðền Thánh, đêm mồng 1 tháng chạp năm Ðinh Hợi (1948)
Bần Ðạo xin nhắc lại một phen nữa, khi nào hành lễ lúc dâng Tam Bửu. Hễ dâng Bông lên là dâng cái thể hình của chúng ta đó, ta cúi đầu cầu nguyện Chí Tôn: "Con xin dâng mảnh hình hài của con cho Chí Tôn dùng phương nào thì dùng". Khi dâng Rượu cầu nguyện: "Con xin dâng cả trí thức tinh thần của con cho Chí Tôn dùng phương nào thì dùng". Khi dâng Trà cầu nguyện: "Con xin dâng cả linh hồn con cho Chí Tôn dùng phương nào thì dùng". Câu chót nếu ta khôn ngoan nguyện như vầy: "Cả linh hồn, cả trí não, cả hình hài con, Thầy đào tạo đó là của Thầy thì do nơi quyền hành độc đoán của Thầy định". Ðó ta cầu nguyện như vậy với Chí Tôn. Bần Ðạo đã giảng Tam Bửu, tại sao Chí Tôn lấy bông tượng trưng hình hài, Ngài muốn nhìn con cái của Ngài bằng cái giá trị tốt đẹp như con mắt ngó thấy cái bông. Ngài lấy rượu là muốn tinh thần của loài người cường liệt như rượu mạnh vậy. Ngài lấy trà là muốn chơn linh ra điều hòa như trà vậy. Ngài lựa ba món đó cốt yếu là vậy. Ngày nay Bần Ðạo giảng ba ngôi hiệp nhứt của Ðức Chí Tôn, cả thảy mỗi phen vào Ðền Thánh nắm sanh khí ấy tạo cả cơ quan hữu hình nầy, dầu sắt đá cỏ cây, cả thú vật vạn linh hữu tướng, thuộc về Tăng. Ðứng đầu tiên hết Chí Tôn tức là Phật nắm cả cơ quan bí mật tạo thành Càn Khôn Vũ Trụ. Ðạo nầy luật thế nầy, Ðạo kia luật thế khác, nhưng không khác hơn Phật Giáo. Giả thí như Thánh Giáo Gia Tô cũng có ba ngôi (la trinité): Le Père, Le Fils et Le Saint Esprit (Ðức Chúa Cha, Ðức Chúa Con và Ðức Chúa Thánh Thần). Ðức Chúa Cha là Phật, Ðức Chúa Con là Pháp, Ðức Chúa Thánh Thần là Tăng. Không Ðạo giáo nào thuyết minh rõ ràng cơ tạo đoan, lấy thuyết hổn độn sơ khai phân chia: Khí chi khinh thanh thượng phù giả vi Thiên, khí chi trọng trược hạ ngưng giả vi Ðịa. (Hễ khí thanh thì lên Trời, khí trược thì hạ xuống đất). Cả vật loại hữu tướng nầy có hai quyền năng sản xuất:
Cả quyền năng ông cha chúng ta đào tạo thế nào, ngày nay quyền năng Chí Tôn cũng đào tạo thế ấy, mà bà mẹ chúng ta thế nào thì mặt luật ấy không khác nào quyền năng vô tận của Phật Mẫu dùng đặng đào tạo Càn Khôn Thế Giái, chúng ta không biết, không thể đoán được, luật ấy không xa. Chí Tôn là Phật, Phật Mẫu là Pháp, Càn khôn là Tăng, mặt địa cầu nầy đến 3.000 thế giái cũng là Tăng. Nắm quyền trị thế là Hạo Nhiên Pháp Thiên chính quyền năng Chí Tôn định, địa cầu nầy không định khác, chỉ có một mặt Trời nầy không có mặt Trời khác, trong 24 giờ có một ngày, Ðấng cầm quyền trong pháp giới là Hư Vô Cao Thiên vâng mạng lịnh Hạo Nhiên Pháp Thiên làm cho vũ trụ khỏi tương tàn với nhau. Ðịa cầu nầy nếu không mặt luật đạo đức thì sanh ra bậy bạ con người không chắc sống. Bây giờ chúng ta quan sát Hổn Ngươn Thượng Thiên, ngày nay Ðức Phật Di Lặc ở nơi Hổn Ngươn Thượng Thiên cầm cả hành tàng Càn Khôn Vũ Trụ, giờ Ngài đương cầm quyền cả vật loại. Trước khi nguyện lấy dấu và niệm: Nam Mô Phật, Nam Mô Pháp, Nam Mô Tăng, dám chắc thật đích xác ba ngôi ấy chưa ai biết rõ. Ngày nay Bần Ðạo giảng: Phật là gì? Phật là một Ðấng toàn tri toàn năng, người ta lầm lạc tưởng không thấy hình dạng là không có người thế gian lầm lạc nhiều lắm. Họ quả nhiên là người sống hiện tại chỉ khác hơn chúng ta là không có thi hài mà thôi. Ðấng toàn tri toàn năng ấy là Ðấng đầu tiên hiệp lại với Chí Tôn. Bần Ðạo đã giải nơi Phật có ba cảnh đặc biệt: 1. Hạo Nhiên Pháp Thiên tương liên hiệp một cùng Ðức Chí Tôn. 2. Hư Vô Cao Thiên thuộc về Pháp giới cầm cả luật Thiên Ðiều. 3. Hổn Ngươn Thượng Thiên thuộc Tạo hóa thuộc Tăng. Phật vị có ba đẳng cấp ấy đặng nắm cả quyền năng Càn khôn Thế giái. Phi Tưởng Diệu Thiên nắm quyền hành tạo đoan loài người thuộc Phật, đồng thể với Phật. Tạo Hóa Huyền Thiên thuộc Pháp và có ba quyền tạo đoan thế giái hữu hình nầy vô cùng tận. Tạo hóa cầm sanh khí để tạo sanh vật. Phi Tưởng Diệu Thiên, Tạo Hóa Huyền Thiên. Bây giờ tới Phi Tưởng Diệu Thiên lãnh phận sự nơi Ðức Chí Tôn cầm ngươn khí của con người, giữ sanh mạng vạn vật kêu là vạn linh. Tới Tạo Hóa Huyền Thiên, Phật Mẫu cầm pháp chuyển cơ sanh hóa không cùng tận, cả loài người, cây, cỏ, sắt, đá, cũng tấn lên phẩm người nữa, là nhờ tay của Ðức Phật Mẫu nắm Pháp biến xuất. Cả thi hài chơn linh trí não pháp thân luân chuyển sanh sanh tử tử. Nợ sanh tử ấy là bài học của Tạo hóa trong các cơ thể ấy, loài người học làm đặng biết, đặng chi? Ðặng tạo Pháp thân huyền diệu được toàn thiện toàn mỹ, toàn tri toàn năng như Phật Mẫu đã làm, ta làm đặng học hỏi tạo Pháp thân do quyền lực thuộc Pháp, hình hài xác thịt thuộc Tăng thấy chúng ta thay đổi lăn lóc trên đường sanh sanh tử tử cũng như Phật ở tối cao tối trọng, gần Chí Tôn là Hạo Nhiên Pháp Thiên. Các Ðấng ấy hữu sanh hữu tử tri khổ nghiệp chướng vạn linh năng du ta bà thế giái độ tận vạn linh đắc qui Phật vị. Các Ðấng ấy đã chịu như chúng ta ngày nay đặng đi đến toàn thiện, đặng toàn tri toàn năng, họ đi trước, mình đi sau, họ cao mình thấp thỏi, con đường họ đi mình cũng sẽ tới. Một điều ta nên để ý hơn hết là chúng ta phải hiểu rằng: Mặt thế nầy chưa biết ai cao ai thấp. Nơi Hạo Nhiên Pháp Thiên một vị Phật cao trọng toàn tri toàn năng gần như Ðức Chí Tôn nữa mà xuống tại thế nầy đặng học, bài học khổ dám làm kẻ ngu dốt lắm. Chúng ta thấy hình thể một vị Phật Mahâsarouth là một vị Chí Phật như Ðức Cakya Mouni đến thế gian bưng bình Bát Du để xin cơm đặng nuôi kẻ khổ. Một người ăn mày ở thế gian như vậy mà nơi cửa hư không lại có quyền năng vô tận vô đối. Ðến Ðức Chúa Jésus Christ là một vị Christna Vichnou đệ nhị kiếp Chí Tôn giáng linh xuống làm một vị bần hèn khổ não để đi xin từ chén cơm, từ miếng bánh mì đặng nuôi kẻ đói khó. Ðó là bài học trước mắt phàm chúng ta đã thấy. Ðấng Tạo Ðoan đưa tay xin cho loài người ăn, đó là Người cầm quyền năng nuôi khắp vạn vật Càn Khôn Võ Trụ. Thế gian chưa hề thấy và chưa hề biết. Kỳ sau Bần Ðạo sẽ giảng tiếp.
Phụ ghi:
Q.1/49: Lễ Khánh Thành văn phòng Hiệp Thiên Ðài.
Lễ Khánh Thành văn phòng Hiệp Thiên Ðài,
Các bạn Hiệp Thiên, Cửu Trùng và Phước Thiện Nam, Nữ. Tưởng từ khi tôi đã phế đời, hiến mảnh thân phàm nầy cho Ðức Chí Tôn làm khí cụ tạo cho nước nhà Việt Nam một nền Tôn Giáo nầy, không ngày nào được phần thưởng vô giá như ngày hôm nay, mà chỉ có một ly rượu. Theo sự hưởng ứng của các bạn biết, nếu con người ta lấy cái sức lực phàm làm môi giới cho cái sở hành riêng thì hẳn không ai can đảm chịu. Cái người đã thả mình vô cảnh khổ với một sự vui tươi thì hồi xưa đến giờ chưa có. Tại sao vậy? Tôi đã hiểu bí mật ấy, tôi hiểu cả, nên cho các bạn hiểu. Các Ðấng tự hữu, hằng hữu, thiên hạ tưởng không có, họ lầm từ trước, người ta tưởng Ðấng ấy không có, Ðấng ấy đã có từ tạo thiên lập địa, tôi biết tôi hiểu, tôi đã chịu khổ não để thay thế hạnh phúc cho đời là do nơi đâu? Không phải tại nhà tôi hay tại tôi, chưa chắc, do nước Việt Nam chăng? Ấy là do toàn nhơn loại. Ðấng Cha lành ấy dầu thấy con bạc bẽo thế nào, Ðấng ấy cũng còn thương yêu. Sự thương yêu của ông Cha lành nó truyền nhiễm tôi, do nơi chỗ tôi nghe được, tôi hiểu được, biết rõ đặng Người. Ðấng ấy có mơ mộng gì vô hạn? Nhứt là Ngự Mã Quân của Chí Tôn biết trước hơn ai hết, bởi vì Ngài có dạy, trước hết là Ngài bỏ Huỳnh Kim Khuyết, bỏ Thiên Cung đòi xuống trần dạy con cái của Ngài lập phương giải khổ. Nếu tôi không lầm, cơ bút đã cho tôi biết các bạn Hiệp Thiên do nơi đâu sản xuất? Do để giữ quyền Thiêng Liêng nên mới có 12 vị Thời Quân, Thập Nhị Ðịa Chi, tức là cảnh Thiêng Liêng vô hình của chúng ta. Tôi tưởng tấn tuồng tôi đã làm trọn và làm nơi cõi vô hình. Ngày kia về thiêng liêng các bạn sẽ thấy hình tối đại tối thiểu. Phận sự tôi đối với các bạn nó có thâm tình vô hạn, vì đồng tâm, đồng chí, một mực đề xướng cả thảy đều nghe chịu một hoàn cảnh, Bần Ðạo làm không hết, số là tại Bần Ðạo và các bạn Hiệp Thiên Ðài đã hứa với Chí Tôn. Bần Ðạo lo cho toàn cả nhơn loại hoàn cầu, chớ không phải thương một cá nhân nào hay một đoàn thể nào, một quốc gia nào, không phải làm tôi mọi cho Ðời, làm tôi mọi cho Ðạo, nhưng vì cái năng lực vô hình kia mà thôi. Trước khi lãnh lịnh trên Bạch Ngọc Kinh tạo nền Chơn Giáo, Chí Tôn quyết định có Ngài giáng thế mới được, Ngự Mã Quân không cho, bắt buộc phải có người thay thế cho Ngài tức là Thánh Thể của Ngài tại đây. Ngài đi mà không cho thì phải có hình ảnh thế cho Ngài mới được. Hình ảnh của Ngài là Hội Thánh Cửu Trùng Ðài và Hiệp Thiên. Hộ Pháp có khôn ngoan nào hơn là cầu khẩn cho có người đến với mình đặng tạo Thánh Thể đó, chớ một mình Hộ Pháp xuống không thế được, nên phải cám dỗ cung nầy điện kia, đến Cửu Thiên Khai Hóa, biết chắc làm được mới đi. Các bạn cứ làm đi, vì cái phận sự đối với thế gian, đối với lời hứa ở trên kia, mặt cân không biết đồng chưa? Lời hứa trước kia, sự làm bây giờ, biết hai cái đó có đúng không? Bần Ðạo làm mãi không biết làm sao cho rồi, nào lo cho Cửu Trùng, rồi đến Phước Thiện, đầu óc của Hộ Pháp đã chịu thâm giao cùng các bạn, cứ làm mãi thôi, sống giờ nào làm giờ nấy. Không phải kiếp nầy tại đây có Thánh Thể, không phải tại xứ Việt Nam ta mới có, chúng ta chỉ là người cặm bông tiêu thôi, chớ không phải người tạo, chúng ta sáng lập là để cho đoàn hậu tấn, vì chúng nó đứng chàng ràng, không biết đứa nào gánh vác đảm đương. Bổn phận làm anh phải tạo nghiệp cho em, mở đường trước cho con cháu đi, sau nhờ có chúng nó Thánh Thể của Chí Tôn mới tồn tại. Thầy không phải đến một kiếp nầy thôi, mà đến phải ở đời đời, không phải Thánh Thể đương nhiên, họ sẽ đến nữa hay đã đến rồi, nó còn lộn xộn không biết đứa nào. Biết còn nữa thì tức nhiên phải mở con đường cho chúng nó đi vào tạo nghiệp cho chúng nó. Tôi là đầy tớ của Ðức Chí Tôn, biết có bao nhiêu đó cứ đảm nhiệm cương quyết nâng đỡ Ðạo và Ðời thôi. May một điều là tôi còn thiếu với Ðức Chí Tôn, tôi xin đầu kiếp, thiếu hay không mà kiếp nầy tôi đã là tên dân nô lệ cho nước Việt Nam, đã chịu thống khổ tâm hồn lẫn hình thể trên 35 năm. Tôi không xin, tôi biết tại sao tôi đầu kiếp xuống dân Việt Nam, tôi cảm khích vô hạn, nào chịu khổ, nào chịu bạc nhược và yếu hèn. Tại thấy nhơn loại đau đớn Chí Tôn mới đến mở một nền Tôn Giáo, làm một khối sanh quang cho toàn nhơn loại, đó là cái danh dự của nước Việt Nam đã chịu khổ. Vì cái tình của Chí Tôn đối với dân tộc Việt Nam nên tôi thí thân phải chết mới đền bồi xứng đáng. Còn một việc khác nữa là Ngài tạo đầu óc, từ ngày mở Ðạo Cao Ðài đến giờ, Ngài tạo đầu óc nòi giống Việt Nam để vãn hồi quốc vận, như thế cũng đủ cho mình đưa sanh mạng mà đổi. Vậy sự làm của chúng ta phải cương quyết và nhẫn nại đủ điều, không nhút nhác, vui chịu, bởi đã hiểu giá trị ân đức của Ðức Chí Tôn như thế nào rồi, muốn trả được hết phải học sách làm đầy tớ của những đầy tớ của Ðức Chí Tôn, làm được vậy chừng đó mới trả nợ tình của Ðức Chí Tôn đặng.
Q.1/50: Lễ Mãn Khóa Hạnh Ðường.
Trường Hành Chánh, lúc 4 giờ ngày 10 tháng chạp năm Ðinh Hợi (dl. 20-01-1948)
Ðể trả lời Bài Diễn Văn của Nguyễn Hữu Lương thay mặt các vị Lễ Sanh tân phong cảm tạ Ðức Hộ Pháp và các vị Giáo Sư. Ấy là áng văn đầy chơn lý đi thẳng vào tâm hồn của Bần Ðạo nó có mãnh lực mạnh mẽ lạ thường. Bần Ðạo tưởng, nếu cả thảy đồng thật hành đúng theo lời thuyết văn mới vừa đọc đây thì mối đạo sẽ lan tràn tốt tươi vô đối. Bần Ðạo lấy làm cảm tình, tuy vân, mấy em nói bữa tiệc thô sơ, nhưng bữa tiệc nầy xem lịch sử Ðạo trong các bậc Thánh Hiền nước Việt Nam từ xưa nay chưa từng có. Lịch sử của Ðức Khổng Phu Tử từ nhà Châu đến giờ nay mới sống lại, nó sống với bữa tiệc nầy thôi. Quả nhiên từ ngày mở Ðạo thì đã tạo Hạnh Ðường, nhưng nó chưa có sanh hồn, nay nhờ bữa tiệc nầy mà nó có sanh hồn hiển nhiên quí báu vô giá vậy. Tuy vân, không có gì xứng đáng, nhưng Bần Ðạo hưởng được một vật quí giá mà từ trước đến giờ chưa hưởng được. Trước hết Bần Ðạo giải nghĩa cái quyền đương nhiên quyền chánh trị đương nhiên là quyền đời và quyền đương nhiên của Ðạo trong thế kỷ 20 nầy, nền văn minh của Thiên Chúa Giáo truyền khắp cả nhân gian cùng vạn quốc trong hai ngàn năm trước, Ðạo Thánh Gia Tô lập quyền Ðạo hồi xưa có cảnh tượng như thế nào thì ngày nay nền Ðạo Cao Ðài của chúng ta cũng thế. Hiện tượng nền Tôn Giáo của Chí Tôn bây giờ nó giống theo khuôn khổ và cảnh tượng của Thánh Giáo Gia Tô đã truyền, dầu cho ai cũng phải nhìn rằng: Cái công trình của Thiên Chúa Giáo với nhơn loại là vĩ đại. Có thể chia ra hai quyền: 1. Là quyền đời đương nhiên (Pouvoir temporel). Cái quyền tinh thần ấy biến ra một nền chánh trị đặc biệt riêng của nó như Ðền Thánh Vatican ở La Mã là một nước trong vạn quốc, một nước về tinh thần. Cái tương lai Ðạo Cao Ðài sẽ đi đến đó, không phải mơ hồ mà tưởng chắc quả quyết vậy. Lập quyền Chánh Trị Ðạo Cao Ðài cũng như nền Chánh Trị Thánh Giáo Gia Tô nơi Ðền Vatican 2.000 năm về trước. Lúc ấy quyền đời và quyền Ðạo Thánh Gia Tô chiến đấu và phản khắc nhau trong lúc mà Ðạo Thánh Gia Tô đang tạo quyền hành tinh thần đạo đức. Cái chánh trị của Thánh Giáo Gia Tô lập thành được là nhờ lấy từ mảnh mún tinh thần mà tạo nên khối đó vậy. Cái chánh trị của Ðạo Cao Ðài cũng thế, nhưng chỉ có một điều khác là người ta làm trước mình làm sau, đường đi chúng ta kỹ lưỡng hơn, trước kia tôi tưởng nó phải gặp nhiều trở ngại nguy hiểm như Thánh Giáo Gia Tô đã đi. Trong hai ngàn năm mới lập quyền vững chắc và mạnh mẽ đặng. Còn nền Chánh Giáo của Chí Tôn mới 23 năm mà đã nên hình mạnh mẽ, đó là Ðức Chí Tôn ban ân huệ cho nước Việt Nam đặc biệt, từ xưa các vị Giáo Chủ trên mặt địa cầu nầy chưa đạt được như chúng ta bao giờ. Tuy vân, chúng ta đã chịu nhiều phen khảo đảo ấy, ngó lộn lại đối với các nền Tôn Giáo, các vị Giáo Chủ, muôn phần không có một. Nền móng của Thiên Chúa Giáo tạo ra khó khăn thế nào, chúng ta noi theo sự sáng tạo ấy đặng tạo nên một nền móng nữa, phận sự rất dễ dàng. Nền chánh trị ấy là một nền chánh trị để phân quyền với quyền đời, quyền đời Bần Ðạo chẳng cần luận vì nó là oai quyền như trước mắt chúng ta đã thấy. Bần Ðạo chỉ luận về quyền Ðạo của chúng ta mới vừa đạt đặng. Nó cũng quyền hành như ai, nhưng có một điều trọng yếu khác hẳn là quyền đời và quyền đạo cách nhau một trời một vực, như bên nây và bên kia, mặc dầu không có mức chính giữa đã định, nhưng bên kia xâm lăng qua bên nây một chút thì người ta đã thấy. Hai quyền đều đặc sắc không giống nhau đặng. Cây huệ kiếm của chúng ta không phải là thiết kiếm của thế gian hữu hình mà là huệ kiếm vô hình tức là tinh thần và đạo đức của chúng ta. Bần Ðạo đã nhiều dịp nói rằng: Cả Thánh Thể của Chí Tôn là trường quan lại, nếu quan lại Ðạo mà bắt chước đồ theo thể pháp và hình thể của quyền đời, thì xem nó dị kỳ hì hợm lắm. Quyền Ðạo nó có hình tướng khác, nó không quái gở và dị hợm như trường đời chúng ta xem thấy hiển nhiên đó vậy. Nếu anh họa sĩ đủ tài, đủ năng lực cầm cây bút họa cho nó nên hình tướng, tưởng không có vật báu chi ở thế gian nầy so sánh được, vì nó có Tiên căn Phật cốt hiện trong đó, để tạo ra hình tướng. Cái hình tướng và tinh thần của Tiên Phật tốt đẹp thế nào không nói ra ai ai cũng biết. Cái hình nó phải mường tượng như thế đó, phải làm cho nó ra hình Tiên cốt Phật các bạn thử xem Tiên, Phật tốt đẹp thế nào, thì trường quan lại của Ðạo phải cầm cây viết thiêng liêng vẽ nên hình tốt đẹp như Phật như Tiên vậy. Nếu rủi có một bệt lọ, hay một chút bợn nhơ dính vào thì nó dị hình dị dạng và ô trược lắm. Nó phải cho đẹp đẽ khôi ngô linh dị nguyệt xu mới đặng. Tỷ như hạng gái kia đi ra đường mà có một bệt lọ lấm trên mặt thì nó đã dị hợm khó coi rồi. Tóm lại là nó phải tinh túy, nếu dính một chút bợn nhơ thì nó sẽ gớm ghê hình dạng mà chớ. Tôi nói quyết một điều là Chánh Trị Ðạo mà có dính một chút của quyền đời thì dị hợm xấu xa lắm vậy. Bởi tinh thần không chịu vật chất, vật chất không hề hòa thuận với tinh thần. Trường quan lại của nền Chánh Giáo Chí Tôn khác hơn đời, chúng ta chỉ lấy đạo đức nhơn nghĩa làm quyền, còn ngoài kia họ lấy quyền lực cưỡng bức, hai cái so nhau khác hẳn. Trong cửa Ðạo nếu chẳng biết quyền mình là gì, lại bắt chước đồ theo tâm lý thiên hạ, cường bức vô đạo đức, vô nhơn tình thì quả nhiên sái hẳn. Quyền chúng ta là chỉ lấy đạo đức tinh thần của Tổ Phụ ta để lại trong 4.000 năm làm huệ kiếm để bảo trọng quốc hồn của nòi giống thì mới trúng, còn ngoài ra dùng phương pháp khác là sai lầm. Tôi nói ít mà các bạn nam nữ hiểu nhiều, tôi chỉ trông cậy các bạn. Vậy tôi xin để cả sự trông cậy của tôi trong tâm của các bạn là hình thể của Ðức Chí Tôn thật hành dùm nhơn nghĩa của Chí Tôn đã để trước Ðền Thánh cho đời ngó thấy, đặng hưởng lấy hạnh phúc thiên nhiên ngàn xưa để lại là may mắn cho tương lai con Hồng cháu Lạc. Chúng ta hãy lấy Nho phong làm căn bản, phục sanh hồn nước đã điêu tàn, sau 80 năm nô lệ, cho nó phục sanh lại với cái năng lực làm sống quốc hồn của mình trong 4.000 năm về trước. Như thảng ta vẽ được khéo, được đẹp, thì người ta đương trông mong cho nó thành tướng. Chừng đó chúng ta không muốn bán cũng có kẻ mua, chẳng phải một nước Việt Nam nầy thôi, mà toàn cầu vạn quốc nài mua mà chớ. Nhưng phải làm sao cho nên hình tướng để có đủ quyền năng bảo trọng cả toàn cầu nhơn loại đặng tồn tại, sống trong tinh thần đạo đức, trong sự công bình yêu ái của Chí Tôn gieo trồng nơi cửa Ðạo. Ðến chừng ấy chúng ta có thể trương tấm bảng lên rằng: Nền Ðạo Cao Ðài làm môi giới, căn bản nền đại đồng thế giới đó vậy. Bần Ðạo tưởng ly rượu nồng ngày hôm nay là ly rượu trường sanh bất tử, bởi đây là nơi sản xuất hột giống trường sanh bất tử. Ly rượu trường sanh nầy, các bạn đừng khinh rẻ nó. Trước khi từ giã, cảm ơn các vị Giáo Viên và chư vị Tân phong nam nữ đã cho Bần Ðạo hưởng được mùi ngon, vị ngọt rất hay ho. Bần Ðạo để lời cảm ơn.
Q.1/51: Lễ Bế Mạc Ðại Hội Hội Thánh.
Ðền Thánh, ngày 13 tháng chạp năm Ðinh Hợi (dl. 23-01-1948) 4 giờ chiều
Bần Ðạo hân hạnh tỏ lời cảm ơn Chư Thánh Nhị Hữu Hình Ðài. Tuy vân, Bần Ðạo không ra tay giúp Hội Thánh vì chơn pháp buộc phải như vậy, nhưng cả đôi tháng nay Bần Ðạo để tâm theo dõi Hội Thánh từ bước, có nhiều vấn đề không giải quyết được, muốn Bần Ðạo đến giải quyết dùm, nhưng Pháp Chánh không cho Bần Ðạo định đoạt. Hội Nhơn Sanh có quyền Hội Nhơn Sanh, Hội Thánh có quyền Hội Thánh, Thượng Hội có quyền Thượng Hội. Cũng như Hội Thánh không được phạm quyền Hội Nhơn Sanh, Thượng Hội không được phạm quyền Hội Thánh. Nghiêm luật ấy đã định chơn chánh mực thước không ai có quyền cải qua đặng, Bần Ðạo chỉ giúp về phương diện ngoài mà thôi. Nếu có điều chi trọng yếu giải quyết không đặng, Bần Ðạo giúp chút ý kiến chớ không dự biết gì trong quyền lực đặc biệt của Hội Thánh. Trong hai tháng Bần Ðạo nói thật tình thấy Hội Thánh tấn bộ khá nhiều rồi. Hội Thánh năm nay đã đem ra mặt luật lưu lại cho hậu tấn một khuôn khổ chuẩn đích từ thử chưa xuất hiện. Một nền Chánh Trị Ðạo, không khác gì chánh trị đương nhiên ở các nước Âu Châu. Ở Á Ðông nầy có nhiều nước phát triển như: Nhựt, Tàu, Miến, Xiêm cũng có một khuôn khổ nhứt định như vậy. Dầu Quân Chủ Lập Hiến hay Dân Chủ Pháp Chánh cũng một mực như nhau, đều chia ra hai phần:
Phòng định luật là phòng bảo thủ, phòng dân chủ là phòng tấn bộ. Phòng dân chủ của Pháp dưới thời dân quyền "La Chambre des Députés", còn phòng định luật hay quân luật nói thật ra họ không có Chúa, nhưng muốn biết phòng quân luật hẳn hòi, xem như nước Anh có "Chambre des Lords", tức là Sénat của Pháp vậy. Chánh trị của Pháp thấy hai phần: "Chambre des Députés" và Sénat không dung hòa được, nếu chúng ta chẳng nói nghịch hẳn, họ dung hòa khó khăn lắm. Chánh Pháp muốn dung hòa đặng chi? Ðặng dìu dắt chánh trị đến con đường tận thiện tận mỹ, mực thước chơn chánh, nếu không vậy không tấn bộ được. Chánh trị chia ra hai phòng riêng biệt, biết rằng khó dung hòa được, mà khó dung hòa được, thì hai khối ấy phải đảo lộn. Chánh Phủ Pháp phải đảo lộn, tương đối sụp đổ biết bao nhiêu lần, chúng ta đều thấy. Thấy các nước dân chủ chia ra hai phòng, mỗi khi Sénat tức phòng dân chủ bác không tín nhiệm, thì phòng dân chủ phải đổ, tức Nội Các đổ, mà Nội Các đổ tức là Chánh Phủ đổ. Ðời chia ra hai phòng đặc biệt, Ðạo lại khác hẳn. Chơn pháp của Chí Tôn để hai phòng hiệp một là Cửu Trùng Ðài và Hiệp Thiên Ðài. Hiệp Thiên Ðài là phòng quân luật, còn Cửu Trùng Ðài là phòng dân chủ, biểu sao khỏi xích mích nhau. Một đàng bảo thủ, một đàng giục tấn, nếu hai đàng không hòa nhau, đem chơn lý hiển nhiên thì hòa được, còn không lấy chơn lý thì đụng tại chỗ phản khắc, không thể đệ lên thượng quyền mà còn nhơ bợn được. Ðó là cái bàn sàng, sàng mãi cũng phải lọt xuống. Tại chơn pháp như vậy, nên Bần Ðạo biết trước cái ngày đôi bên chạm nhau, ngày ấy Bần Ðạo tự nhiên lắm, còn ngoài nầy toàn Ðạo náo động. Bần Ðạo chỉ kêu: "Coi chừng hễ giữa Hội Thánh hai quyền tương khắc nhau đem lên tới trên, gặp quyền độc tôn thì chịu lấy". Nên hai bên hoảng mới tìm phương dung hòa nhau. Ðó chỉ nghĩa Bần Ðạo duy mới cầm cây Phướn Thượng Hội rung rinh chớ không có dùng đến quyền gì hết. Hội Thánh hôm nay đã thành tựu trong thời gian ngắn ngủi sợ e ngày kia Chư Thánh nhiều, quyền hành Hội Thánh lớn thì sự bàn cải kịch liệt nữa kìa. Tương lai đó tưởng chúng ta sẽ ngó thấy. Từ việc định công nghiệp đến quyền hành, thì Bần Ðạo thấy trong thâm tâm, riêng tưởng cầm cân công bình thay thế Chí Tôn không được chinh lịch, hoặc nói được hay không nói được, đừng nói hay là sẽ nói mà thôi, câu nầy không chinh lịch với Bần Ðạo được. Kẻ nào có dày công cùng Ðạo, Bần Ðạo xin bảo lảnh không có điều chi bất công qua mắt Bần Ðạo được, nhưng thời cuộc chưa đến mức ấy. Ai có dày công cùng Ðạo, đừng tưởng Hội Thánh quên công. Ngày nay không nói đặng có ngày sẽ nói đặng. Hội Thánh không quên được một ai, ắt sẽ quyết định cho. Ngày nào Bần Ðạo còn đây, không có một điểm gì bất công qua mắt Bần Ðạo được và Bần Ðạo quyết chắc như vậy. Bần Ðạo xin bế mạc Hội Thánh và để lời cảm ơn. (Ðọc Kinh Bãi Hội xong, lúc trong Ðền Thánh bước ra, Ngài nói: "Có một điều đáng để ý, tại đây có một vị Ðại Thiên Phong Ðường Nhơn làm đầu Hội Thánh. Ngày sau người ta sẽ lấy làm lạ lắm.")
Q.1/52: Giảng hai câu kinh trong Bài Kinh Ðại Tường.
Ðền Thánh, đêm 22 tháng chạp năm Ðinh Hợi (1948)
Giảng hai câu kinh trong Bài Kinh Ðại Tường: "Thâu các Ðạo hữu hình làm một, Lời hứa đặc sắc của Chí Tôn nó sản phát ra hình dạng của nó, nếu chẳng vậy thì Ðạo Cao Ðài không ý vị gì cả. Tại sao Chí Tôn quyết định thâu các Ðạo hữu hình làm một? Chẳng lạ chi, xác thịt chỉ chia phân tâm lý vạn loại mà thôi, nguyên do ấy vô đối, và hại ấy vô trị. Ông Descartes đã nói: Tư tưởng tức nhiên thâu đến mối huyền vi dưới thế nầy, con người tạo thời cải thế trước nhứt phải suy đoán, có suy đoán mới hiểu phát hình. Một khi suy đoán định chí hướng đến đâu, thâu đến hành tàng nào, không một sự vật gì mà người không tính trước. Các bậc vĩ nhân cố tâm cần cù học đặng quyết định vận mạng trị dân an bang tế thế. Học đặng suy đoán về tình thế tâm lý của đời. Ví dụ: Như người ăn trộm không phải khi không mà phát hiện tâm lý ấy. Nó có tính trước rồi mới làm. Sau cái hành tàng thi thố tức chúng ta đã quyết đem tâm lý để trước. Hại thay! Thế gian, nói chung tâm lý của loài người, đắc triết lý chơn thật thì ít mà trí chí con người không thế đi con đường nào khác hơn sở hướng của mình. Các vị Giáo Chủ đã tìm tàng đi cho đến con đường ngay chánh. Mấy vị Giáo Chủ đi quá sức tưởng tượng, lập một khuôn khổ không ai theo đặng, nên trong sự khó tránh đặng mưu người tìm phương đánh đổ, tìm phương sửa cải. Nếu có nền Tôn Giáo nào ở thế gian nầy bị tâm lý nhơn sanh đánh đổ phải biến thành Tà giáo, tức nhiên là phương phân chia tâm lý, nhiều phe, nhiều phái mới nhiều tâm lý tương đương thì chúng ta thấy giặc giã chiến tranh vì đó mà khởi hấn, toàn địa cầu tàn sát tự diệt lẫn nhau bốc khởi. Hại thay! Sự tàn sát mạng sống của cá nhân là diệt bửu vô giá của đời. Chí Tôn là Cha mạng sanh ấy đối với Ngài giá trị thế nào không cần luận giải, Ngài là Cha Thiêng Liêng, ta không thể nói cha mẹ ta tại thế nầy, sánh với Chí Tôn thế nào cho đặng. Ðau đớn biết bao nhiêu! Nhơn loại không biết nhìn nhau đồng căn bản, đồng cốt nhục và tương tàn với nhau, biểu Chí Tôn khoanh tay ngồi ngó cho đặng, nên Người sai người thừa mạng lịnh của Ngài đến qui con cái của Ngài làm một, đặng tránh nạn tương tàn tương sát, bảo trọng sanh mạng cho nhau. Ðáng lẽ Ngài phải đến, bắt buộc phải đến, nhưng đến chẳng được, nên con thương yêu của Ngài đến thế cho Ngài đặng làm trọn vẹn phận sự của Ngài. Nếu đến chẳng đủ diệu huyền ắt vô giá trị và sở hành sẽ vô hiệu lực.
Phụ ghi:
Q.1/53: Lễ Bãi Trường tại Ðạo Ðức Học Ðường.
Ngày 22 tháng chạp năm Ðinh Hợi (1948)
Mấy vị Giáo Viên nhứt là Lương, mỗi phen có lễ nơi Học Ðường, mỗi phen đến dự, nó làm cho Bần Ðạo cảm xúc, đến hễ thấy đám nhỏ trước mắt rồi thấy tình cảnh khổ não đương thời, tấn tuồng khổ sở ấy nó phô diễn cùng các sắc dân và cả toàn quốc của chúng ta. Ngày nay Ðạo Ðức Học Ðường biết đảm nhiệm thì Thầy biết giá trị của mấy con chịu khổ não nhọc nhằn dường nào! Hiện chúng ta có ba mặt trận Ðạo: Thứ nhứt: Mặt trận hình thức là để chiến đấu quân tàn bạo sát hại nòi giống quốc dân ta, có chiến tướng binh sĩ dưới cây cờ Nhơn Nghĩa của Ðạo binh Cao Ðài về phần xác, phần hữu hình ta thấy để bảo tính Ðạo Giáo, để bảo thủ thân sống con người. Mặt trận thứ nhì: Ðể chiến đấu về tinh thần trí thức mấy con là chiến tướng, thắng tới, tiến tới và cố gắng hy sinh thắng đặng trận cũng như mặt trận thứ ba: Thánh Thể của Ðức Chí Tôn tức là Chức Sắc Thiên Phong đã làm chiến tướng thắng cả tâm hồn, bảo thủ nền Quốc Ðạo từ mảy mún và tô điểm thêm xinh, không có lực lượng nào đến phá hoại nó đặng. Ba mặt trận ấy thấy hiển nhiên trước mắt, cả tương lai rực rỡ sẽ có lời hứa hẹn tốt đẹp, trước qua sau tới, giữ nền Quốc Ðạo, nếu mấy em, mấy con không bảo thủ vững vàng thì sẽ bị phản động lực ngoại xâm húng hiếp, cái tương lai ấy trong tay các em, các con, Thầy có lời yếu thiết gởi gấm cả tương lai rực rỡ đó cho mấy em mấy con, nghe à.
Phụ ghi:
Q.1/54: Lòng thương của Phật Mẫu.
Tòa Thánh, đêm 24 tháng chạp năm Ðinh Hợi (1948)
Phàm như hễ làm nghề nào, nghề nữ hay nghề nam cũng vậy, nghề nghiệp muốn được sở trường, hay chưa biết chắc làm đặng thường phải kiếm nhà nghề, nhờ chỉ biểu thì mới làm đặng. Mấy chị, mấy em đã thấy tấn tuồng thiên hạ tàn sát tiêu diệt lẫn nhau quá lẽ. Phụ nữ vạn quốc hiệp chủng phản kháng sự chiến tranh và nhứt định không cho đem con cái của họ ra làm bia cho súng đạn. Tưởng các chị, em biết mình là nhơn viên cơ Tạo đoan nhứt là Phật Mẫu là nhà nghề Tạo đoan. Mỗi cái gì mình làm được dầu nó là vật vô tri vô giác, nếu có ai đập bể hoặc làm hư hao mình còn giận, còn đau đớn thay, huống chi với tình mẹ con biết bao nhiêu giá trị! Không ai có quyền nào giết một đứa con của người mẹ, cũng như Phật Mẫu hiện giờ nầy, trên Ngọc Hư Cung có lẽ Phật Mẫu phản kháng cái nạn tiêu diệt nhơn loại mãnh liệt hơn Bần Ðạo tưởng tượng nữa mà chớ. Ở dưới thế, đương thấy cái tình cảnh trước mắt, các chị em phải làm chứng cớ cho Phật Mẫu nạp cả hồ sơ cho Phật Mẫu, để phản kháng cơ tự diệt thiêng liêng trong bảy ngày làm cho thiên hạ đem cả thống khổ, đau đớn của các bà Mẹ đưa trong tay cho Bà Mẹ linh hồn là Phật Mẫu, để Ngài đủ quyền năng phản kháng giữa Ngọc Hư Cung, hầu giảm bớt cái nạn chiến tranh tàn khốc. Làm được không? Có lẽ cả thảy đều làm được chớ.
Phụ ghi:
Q.1/55: Lễ Ðưa Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật triều thiên.
Ðền Thánh, đêm 24 tháng chạp năm Ðinh Hợi (1948)
Thỏn mỏn mà ngày nay là ngày 23 tháng Chạp năm Ðinh Hợi, đây tính lại từ ngày Bần Ðạo về nước đến nay được 17 tháng, được ăn hai cái Tết của quê hương sau 5 năm bị đồ lưu nơi hải ngoại. Bần Ðạo đã ngó thấy toàn Thánh Thể của Ðức Chí Tôn nam nữ cũng thế, từ nhỏ tới lớn, đã trụ cả đức tin, làm cho Thánh Thể của Ðức Chí Tôn ngày càng thêm đẹp đẽ. Riêng về Bần Ðạo để lời nói cùng toàn cả Chức Sắc Thiên Phong, Bần Ðạo xin để lời cám ơn các cơ quan đương nhiên trong nền Chánh Trị Ðạo, đã giúp hay cho Ðạo trong thời gian ngắn ngủi, đã phục hồi được cái khuôn khổ chơn truyền. Tưởng thật ra từ 17 tháng nay, Hội Thánh làm việc nhiều lắm, cả con cái của Chí Tôn hao biết bao nhiêu tâm não, thi hài, để tô điểm nền chơn giáo Chí Tôn thêm cao trọng, Bần Ðạo xin cúi đầu để lời cám ơn toàn cả con cái Ðức Chí Tôn. Luôn dịp Bần Ðạo cầu chúc tân niên nầy, cả con cái của Chí Tôn nam nữ, Thánh Thể của Người được tráng kiện tinh thần và hình thể, hưởng được hạnh phúc đặc biệt của Chí Tôn chan rưới và lướt qua hồi khảo đảo truân chuyên, có lẽ buổi hạnh phúc an ninh của cả quốc dân chỉ sẽ đến trong chốc lát đây mà thôi, vì dân tộc Việt Nam phải còn truân chuyên nhiều nữa. Bảy ngày nghỉ cúng, chúng ta thành tâm cầu nguyện Chí Tôn cùng Thần, Thánh, Tiên, Phật. Bần Ðạo quả quyết trong năm nầy, nếu như tinh thần Bần Ðạo không lầm, thì nòi giống Việt Nam chúng ta sẽ được đặc ân là độc lập tự do cho tổ quốc, độc lập trên pháp lý quốc tế đó vậy. Nhưng muốn cho thực hiện được thực tế, có lẽ cuộc tranh đấu của dân tộc Việt Nam còn dài. Luôn dịp Bần Ðạo giải nghĩa tại sao phong tục nhà Nam gọi theo Ðạo Phật là đưa Ông Táo về Trời, chớ thật sự là đưa chư Thần, Thánh, Tiên, Phật về triều thiên, tinh thần từ trước vẫn vậy. Chơn truyền buổi Ðức Chí Tôn tạo Càn Khôn Thế Giái, Ngài nắm Thập Thiên Can, Thập Nhị Ðịa Chi trong tay, để định Pháp Chánh Càn khôn Vũ trụ. Trong thời buổi định Pháp Chánh ấn định vào khoảng từ ngày 23 đến 30 sáng mồng 1, họp tại Ngọc Hư Cung đặng định luật giới hạn vi diệu cho trái địa cầu, chạy theo khuôn khổ hữu định trong năm cho chí Tân niên là 12 giờ đêm 30, khởi điểm 1 giờ sáng ngày 1 tháng Giêng năm sau. Luật Thiên Ðiều trị thế, trị nơi địa cầu nầy là hình luật thiêng liêng là ngày giờ nầy nơi Ngọc Hư Cung kiểm soát định tội phước đó vậy. Càn Khôn Vũ Trụ, đều có Ðại Hội lập Luật, trong một năm giáp vòng bửu giới. Nếu trái địa cầu nào chưa được êm đềm, luật Thiên Ðiều thay đổi khác mỗi năm, chiếu theo tấn hóa và tâm lý của nhơn sanh. Nơi Ngọc Hư Cung định Pháp Chánh cũng như trong Càn Khôn Vũ Trụ là: 12 tháng một niên, 12 niên một giáp, 120 năm một thế kỷ (tất cả đều cho rằng 100 năm là một thế kỷ, như vậy không đúng), 1.200 năm là một giáp, 12.000 năm là một ngươn, 36.000 năm là một chuyển. Mỗi phen đáo đến sở hành ngày giờ ấy, có Hội Giác Tiên là thường tại, từ thử đến giờ chúng ta chưa nghe nói, vì 1.200 năm có một vị Giáo Chủ giáng thế chỉnh Ðạo, bảo thủ tinh thần đạo đức của loài người. Cứ độ 1.200 năm có xuất hiện một nền Tôn Giáo để hóa chuyển thay đời, tính lại địa cầu chúng ta từ buổi phôi thai, có vạn linh nơi mặt thế đến nay được ba chuyển. Nay qua Hạ Ngươn Tam Chuyển, khởi đầu Thượng Ngươn Tứ Chuyển chẳng khác gì đêm 30 sáng mùng 1 Tết của chúng ta vậy. Tới mức giữa không gian thì nhơn loại tới hồi khổ não đủ điều, người ta nói là tận thế, cái thuyết ấy không có đâu, nếu chúng ta dùng lời đặng nói chẳng qua là một giáp đó thôi, tức nhiên là một nền văn minh Tôn Giáo chớ không phải tận thế. Kiếp số địa cầu nầy còn vĩnh cửu, chỉ thay đổi hình thể, vạn loại mà thôi, nó vẫn còn tăng tiến mãi. Chúng ta đã ngó thấy qua chừng một trăm năm trước, văn minh con người không đạt đến mức hiện tượng như bây giờ. Cơ tấn bộ tinh thần vật chất dữ dội nhất là trong vòng 50 năm sau. Theo đó mà tính toàn lại coi, trong 500 năm nữa, nhơn loại sẽ ra sao? Phật Giáo nói: Qua sắc dân da trắng, tinh thần vi chủ tới sắc dân Thần Thông Nhơn, qua khỏi dân Thần Thông, thì có sắc dân Chí Linh, lúc đó người là Thần, Thánh, Tiên, Phật tại thế. Như vậy còn hai sắc dân nữa cho 500 năm sau. Mỗi sắc dân vi chủ một ngươn niên, kể hai sắc dân nữa chưa xuất hiện, ta cũng kể là 30.000 năm nữa đời sẽ thay đổi khác hơn. Nhơn vật và địa cầu cứ tăng tiến mãi, trên con đường tận thiện mỹ, vật xinh, người đẹp, vật bỏ ngu đến khôn, người khôn đến Chí Linh, đến ngày cùng chót toàn là Thần, Thánh, Tiên, Phật xuống ở cõi trần nầy. Lời Chí Tôn tiên tri và quyết định hẳn hòi: "Chừng nào đất dậy Trời thay xác, Ta lấy lớn suy nhỏ, lấy nhỏ so lớn, Càn khôn tấn triển thế nào? Bần Ðạo ước mong Càn Khôn Vũ Trụ phát triển cách nào trong mỗi Ngươn niên Thánh Thể của Ðức Chí Tôn tăng tiến theo luật định Thiên Ðiều, phải đi theo y khuôn luật của con đường Chí Tôn định, tấn triển tới trong năm khai Ngươn nầy vậy. Bần Ðạo ước mơ sự tăng tiến của Chí Tôn được gia bội, gấp đôi ba bây giờ mà chớ. Muốn đạt vọng ấy, Bần Ðạo để cả tín nhiệm nơi tâm lý của toàn cả con cái của Chí Tôn. Tưởng cả thảy đều mơ ước mà làm đặng chăng là nhờ huyền năng vô tận của Ðại Từ Phụ mà thoát đặng. Chúng ta hãy cầu nguyện, để trọn tâm đức chắc chắn nơi Ðức Chí Tôn thì Chí Tôn chẳng hề khi nào hẹp lượng. Chúng ta quyết định xin mà làm nên cho toàn cả con cái của Người, thì Người cho, chắc hẳn vậy.
Phụ ghi:
CẨN TỪ CỦA THÁNH THẤT NSW - AUSTRALIAChúng tôi trình bày quyển Thuyết Ðạo của Ðức HỘ PHÁP năm Bính Tuất - Ðinh Hợi do Ban Ðạo Sử ấn hành lần thứ nhứt năm Canh Tuất (1970) có những phần khác biệt sau đây so với bản chánh về mặt hình thức (nội dung vẫn y nguyên): 1./ Sửa một số lỗi chánh tả thông thường (khi gặp phải) căn cứ vào quyển Việt Nam Tân Tự Ðiển của Thanh Nghị do nhà sách Khai Trí xuất bản tháng 12 năm 1967 & Việt Nam Tự Ðiển của Lê Văn Ðức, Lê Ngọc Trụ do nhà sách Khai Trí xuất bản tháng 4 năm 1970. 2./ Hai bài Lễ thượng cờ tại sân vận động và Ý nghĩa lá cờ Quân Ðội Cao Ðài được gộp chung lại thành một. Ðề mục của những bài giảng về Tam Bửu được bổ xung thêm chi tiết cho rõ nghĩa hơn. 3./ Phụ ghi vào cuối một số bài khi gặp một vài nghi vấn (có thể) được Ban Ðạo Sử duyệt xét lại sau nầy. 4./ Phụ ghi ngày và tháng dương lịch (cho những bài không ghi rõ ngày & tháng) căn cứ theo Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996. Kính cáo, Tháng 01 năm 2004 (Tháng giêng năm Giáp Thân)
In lần thứ nhứt Năm Quý Sửu (1973) LỜI THUYẾT ÐẠO CỦA ÐỨC HỘ PHÁP |
Năm Mậu Tý (1948) Do Ban Ðạo Sử ấn hành lần thứ nhứt năm Quý Sửu (1973) Kiểm Duyệt Kinh Sách số: 120/KD ngày 12-10-1970
MỤC LỤC
|
|
HIỆP THIÊN ÐÀI | ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ |
Văn Phòng | (Tứ Thập Ngũ Niên) |
Thượng Sanh | TÒA THÁNH TÂY NINH |
----- Số: 121/TS |
Thượng Sanh |
|
Kính gởi: |
Hiền Huynh Hiến Pháp Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh |
Tham chiếu quý Thánh thơ số 16/ÐS ngày 12-6-1970.
Kính Hiền Huynh,
Theo đề nghị của Hiền Huynh tôi chấp thuận cho Ban Ðạo Sử xuất bản để phổ biến những Bài Thuyết Ðạo tại Tòa Thánh của Ðức Hộ Pháp từ năm 1946 đến năm 1955.
Những bài giảng được chọn để ấn hành phải có sự kiểm duyệt của Ban Kiểm Duyệt Kinh Sách.
Nay kính,
TÒA THÁNH, ngày 14 tháng 5 năm Canh Tuất.
(dl. 17-6-1970)
Thượng Sanh
(Ấn ký)
Những bài Thuyết Ðạo trong quyển sách nầy là lời vàng tiếng ngọc của Ðức Hộ Pháp, một vị Giáo Chủ của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, một bậc vĩ nhân của thế hệ, nên một Ủy Ban sưu tầm và biên tập thành lập có Ðức Thượng Sanh chấp thuận, để xúc tiến việc sưu tầm biên tập và ấn tống các bài Thuyết Ðạo ấy. Nay cuộc sưu tầm và biên tập đã có kết quả mỹ mãn, nên Ủy Ban đem ra ấn tống cho toàn Ðạo được thưởng thức lời vàng tiếng ngọc nói trên.
Trong Ban Ðạo Sử của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ đã có sẵn một Thư Viện tàng trữ các loại Kinh Sách cổ kim và Ðông Tây cho các nhà khảo cứu và toàn Ðạo có thêm tài liệu. Những quyển "Lời Thuyết Ðạo" của Ðức Hộ Pháp cũng sẽ lưu trữ vào Thư Viện nầy để chư đọc giả đến xem.
Ðức Hộ Pháp là một trong các vị tiền bối khai sáng nền Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, đã thực hiện trước hết chủ thuyết Tam Lập: "Lập đức, lập công, lập ngôn".
Về lập đức, thì Ðức Ngài là người đầu tiên đã nghe theo tiếng gọi thiêng liêng mà khai sáng mối Ðạo cho toàn sanh chúng được chung hưởng hồng ân của Ðức Chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Ðế.
Về lập công, thì Ðức Ngài vừa lập đức vừa lập công trong việc khai sáng. Từ cái không mà làm ra cái có, bắt gió nắn hình tạo thành một đại nghiệp Ðạo ở cõi thế nầy. Nếu Ngài không phải là một đại đức thì làm sao thành công được?
Về lập ngôn, thì Ðức Ngài lưu lại lời vàng tiếng ngọc trong các bài Thuyết Ðạo mà chúng ta đang thưởng thức và còn nhiều lời giáo huấn cao siêu khác nữa mà chư quí đọc giả và toàn Ðạo nên lưu ý.
Nhơn danh Hiến Pháp Hiệp Thiên Ðài kiêm Trưởng Ban Ðạo Sử, tôi xin trân trọng giới thiệu cùng đọc giả bốn phương quyển sách quí giá nầy đáng được lưu niệm mãi mãi.
Trân trọng kính chào.
Hiến Pháp TRƯƠNG HỮU ÐỨC
Mỗi lần ly loạn là mỗi lần thư tịch bị làm mồi cho binh lửa.
Nhìn vào lịch sử, những vụ "Phần Thư", những vụ chiếm đoạt thư tịch đã xảy ra như một hệ luận trước những biến cố. Tình trạng nầy đã kéo dài qua các thời đại ấy là biện pháp của những kẻ mạnh nhắm vào mục đích thực hiện chính sách ngu dân và đồng hóa triệt để.
Những kinh nghiệm đau thương ấy là nguyên nhân thúc đẩy chúng tôi cố gắng thực hiện công việc sưu tập những tài liệu nầy.
Chúng tôi nghĩ: Nếu tài liệu kinh sách chỉ được tập trung tàng trữ vào một chỗ tránh sao cho khỏi bị hủy diệt khi kẻ cường quyền cướp đến phá. Do đó chúng tôi quyết định quây ra làm nhiều bản để gởi đến và ký thác vào những tâm hồn trung kiên với Ðạo, những người dám chết để bảo tồn những tiếng nói của Ðấng thay Trời dạy Ðạo.
Nếu một mai thời cuộc lại biến thiên, có thể các cuộc "Phần Thư" lại diễn thì thiết tưởng trong số tài liệu nầy vẫn còn có nhiều người nhiệt tâm gìn giữ được vẹn toàn.
Ðây không phải là việc làm của cá nhân hay một đoàn thể nhưng là một sự đóng góp chung của những người vô danh, nguyện đem hết năng lực của mình để phụng sự cho lý tưởng bảo tồn truyền thống giáo lý của Ðạo. Trong khi quyển tài liệu nầy đến tay quí vị thì cũng đã có người vì quá hăng say trong công việc thực hiện lý tưởng mà phải lao tâm kiệt sức hóa ra người thiên cổ.
Việc làm của chúng tôi không phải là một ý nghĩ nông nỗi của một sớm một chiều, nhưng là một hoài bảo trong suốt thời gian ly loạn. Chúng tôi hằng cầu nguyện Ðức Chí Tôn và Phật Mẫu ban bố phước lành sớm gặp dịp may để thực hiện hoài bảo ấy.
Ngày nay chân trời đã rạng tỏ, ý nguyện đã đắc thành.
Chúng tôi xin hiến dâng trọn vẹn cho Hội Thánh tất cả những tài liệu mà chúng tôi đã ghi chép, góp nhặt sau bao nhiêu năm theo đuổi mục đích bảo tồn những lời vàng tiếng ngọc của Ðức Hộ Pháp.
Từ đây bản quyền nầy sẽ tùy thuộc hoàn toàn của Hội Thánh. Kính xin Hội Thánh kiểm duyệt và ấn hành, để cho mọi người đều được nghe lời dạy dỗ đầy yêu ái của Ðức Hộ Pháp, đã dành cho chúng ta trong thời gian Ðức Ngài còn tại thế.
Tòa Thánh, ngày rằm tháng 6 năm Bính Ngọ (1966)
Ban Tốc Ký
Q.2/01: ÐẠO CAO ĐÀI LÀ HOÀN THUỐC PHỤC SINH HÒA BÌNH.
Tại Ðền Thánh, thời Tý mồng 1 tháng giêng năm Mậu Tý (dl. 10-02-1948)
Ngày hôm nay, giờ nầy chúng ta vui một tí, năm Tý đến với chúng ta, nếu Bần Ðạo nhớ không lầm thì buổi Chí Tôn hành pháp có cho Bần Ðạo biết rằng 3 con chuột hiệp lại là ngày thành Ðạo. Năm nay đủ 3 con chuột rồi đó vậy. Ta chắc rằng năm nay Ðạo sẽ kết quả lời hứa của Chí Tôn với con cái của Ngài, thành Ðạo tức thành Ðời nơi nước Việt Nam đó vậy.
Chúng ta thử ôn lại đã có 23 năm hành đạo, chúng ta đã chịu bao nhiêu khổ hạnh để bảo vệ con cái của Chí Tôn. Ngày nay cái kết quả nầy có đáng giá trừ cái khổ hạnh trong 23 năm ấy chăng? Bần Ðạo xin nói quả quyết rằng: Từ tạo thiên lập địa đến giờ chưa có nền tôn giáo nào được mau chóng như Tôn Giáo của Chí Tôn đến tạo nơi xứ Việt Nam chúng ta. Chúng ta ôn thử lại trong buổi thành Ðạo cuối cùng trong 2 năm nay, ta thấy gì? Nếu chúng ta có đủ tinh thần tìm hiểu Thánh ý của Chí Tôn trong 22 năm, để cho chủng tộc Việt Nam chịu đau khổ, chịu trong cảnh tương tàn, tương sát, thống khổ, cảnh tượng nguy ngập có nghĩa gì? Ý vị gì? Ấy là Ðức Chí Tôn xây chuyển cho con cái của Ngài thấy rằng: Hung bạo ở thế gian, không phải năng lực độc đoán mà thắng được và trị thế được.
Cường lực! Ôi cường lực! Ðối với thế gian nầy, nếu có phương chước, có bí pháp thì duy lấy nhơn đức trị nó mà thôi. Hung bạo của đời nầy không lấy hung bạo trị đặng, duy lấy đạo đức tinh thần trị mới đặng. Trong 2 năm quốc vận thống khổ do duyên cớ gì? Do lấy hung bạo trị hung bạo. Lấy hung bạo chẳng trừ được năng lực hung bạo vì hiện giờ sự hung bạo của thế gian vô đối. Ấy là Chí Tôn cho quốc dân Việt Nam một bài học đích đáng đủ bằng cớ trước mắt để suy đời. Ngài để kinh nghiệm hai năm rồi. Ngài lấy năng lực đạo đức tinh thần để cho thiên hạ thấy: Ðạo đức tinh thần mới có thể đem hạnh phúc đến cho nòi giống như thế nào? Làm cho tỏ rạng nền tôn giáo bằng năng lực tinh thần của Ngài, chúng ta đã thấy: Bần Ðạo sau 5 năm bị đồ lưu nơi hải ngoại, chịu mọi điều thống khổ, cái chết của Bần Ðạo cách cái sống bằng một sợi tóc, mà Bần Ðạo vẫn còn về đây. Nếu nói thế thường, cái tình cảnh chịu 5 năm khổ sở lao lý ấy, tinh thần, lấy vật hình thường tình tâm lý mà nói, không ai không cố hận, cố phiền được, hận với phiền nó cố nhiên, mà nếu hận phiền ấy theo tâm lý thường tình thì có gì quan hệ đâu. Trái lại trong thi hài của Phạm Công Tắc còn có một vị làm chủ của nó nữa là Hộ Pháp; quyền của Hộ Pháp mạnh mẽ hơn của Phạm Công Tắc là con ngựa để cỡi mà thôi, còn Hộ Pháp là người cỡi, nên con ngựa không thể không tuân mạng lịnh của chủ nó được. Hộ Pháp có một phần, mà Phạm Công Tắc có một phần, Phạm Công Tắc là tôi, còn Hộ Pháp là quyền năng của Chí Tôn.
Nòi giống Việt Nam chịu ảnh hưởng của văn hóa Nho phong 4.000 năm đã để cho chúng ta hai câu đích đáng, nếu chúng ta biết dùng từ thử nước Việt Nam không có cảnh tượng ngày nay:
"Hành thiện chi nhơn như xuân viên chi thảo, bất kiến kỳ trưởng nhựt hữu sở tăng. Hành ác chi nhơn như ma đao chi thạch, bất kiến kỳ tổn nhựt hữu sở khuy".
Câu trước: Người làm lành như vườn cỏ mùa xuân không thấy lớn càng ngày càng tăng thêm. Câu sau: Người làm ác như cục đá mài dao, tuy không thấy hao mà càng ngày càng mòn khuyết. Lấy nhơn nghĩa đối với bạo tàn, lấy tâm ưu ái trả thù hận, ấy là tâm Phật, phải tâm chí Thánh mới làm đặng. Bần Ðạo làm đặng, đặng chi? Ðặng nêu cao tinh thần Ðạo Cao Ðài nầy lên như Chí Tôn muốn.
Lẽ thì đem hung bạo trừ hung bạo, theo thường tình thì mới vui lòng, thỏa mãn tâm phàm của Phạm Công Tắc thì ắt vui mầng lắm chớ. Nhưng Hộ Pháp vì biết hại cho tương lai nước nhà, nên cầm cây huệ kiếm đưa ra, lấy tâm lý yêu ái đối lại với oán ghét, cốt yếu làm cho nhơn loại, làm chứng rằng chơn truyền của Ðạo Cao Ðài là hườn thuốc "Phục sinh hòa bình" cho nhơn loại. Quốc dân Việt Nam làm đặng thì toàn cầu mới làm đặng. Ai cầm huệ kiếm ấy đặng, thì họ cứu nước họ đặng, cũng như Việt Nam đã cứu nước Việt Nam vậy.
Q.2/02: NGÀY XUÂN LÀ NGÀY PHỤC SINH CỦA VẠN VẬT.
Tại Ðền Thánh, đêm mồng 2 tháng giêng năm Mậu Tý (dl. 11-02-1948)
Bần Ðạo không thể đi cùng mỗi nhà của toàn cả Chức Sắc Thiên Phong và mấy em Nam Nữ đặng viếng thăm trong ba ngày xuân nhựt. Một mảnh thân muốn biến hóa ra cả muôn hình xác, nhưng không thể đặng.
Vậy thời Bần Ðạo cũng để một đôi lời cho mấy em, mấy con Nam Nữ, mấy anh mấy chị có mặt đảnh lễ tại đây biết rằng: Buổi nào tinh thần của Bần Ðạo cũng ở bên cạnh mỗi người cả thảy.
Một điều mà Bần Ðạo mơ ước hơn hết là ngày giờ nào thong dong, Bần Ðạo được vui thú thanh nhàn, nay đi nhà nầy ở một ngày, một bữa, mai đi nhà kia ở một đôi lát. Ngày nào đến cảnh an nhàn mà Bần Ðạo được đạt vọng dường ấy, thì tưởng rằng không còn hạnh phúc nào hơn nữa. Bần Ðạo tưởng mảnh thân nầy có phương thế đồng sống chung với mấy em trong cảnh gia đình ấm lạnh để cùng hiểu nhau những nỗi tân khổ sầu buồn thì Bần Ðạo rất hữu hạnh mà được chia mảy mún cũng đặng, dầu cắn hột muối hay ăn hột cơm rơi với mấy em, thì tưởng trọn kiếp sống của Bần Ðạo không có cảnh vinh quang phú quí nào trên thế gian nầy đối đặng.
Cả thảy đến thăm Bần Ðạo, mà Bần Ðạo đi thăm lại không đặng, theo đạo pháp cho là thất lễ. Xin cả thảy nên biết cái cảnh ngộ và tha thứ dùm cho.
Ngày xuân nói đến tiếng xuân, miệng nói tiếng xuân là nói tiếng sống, vạn vật ngày xuân nầy là sống là ngày phục sinh. Qua mơ ước tâm hồn của cả thảy trong một năm già cỗi, trong lúc xuân đến, cây cối nở lá nở bông, tốt tươi trở lại, tức nhiên là được phục sinh lại thì cả tâm hồn của chúng ta cũng phục sinh như thế.
Mấy em suy gẫm cái thân sanh của chúng ta là đồng sanh với vạn vật, mà vạn vật đã phục sinh thì thân hình của chúng sanh, của chúng ta, của cả thảy Nam, Nữ cũng đồng phục sinh lại. Tâm hồn của chúng ta trong một năm mờ mệt, khổ não, nhọc nhằn, trong cảnh tang thương trần thế, nay xuân về, mấy em đến nhà Ðại Từ Phụ, tức là Suối Vĩnh Sanh của tâm hồn mấy em. Qua thành tâm cầu xin Ðại Từ Phụ ban ơn cho mấy em được phục sinh trong Thánh chất của Người.
Chắc chắn cả thảy đều được hạnh phúc hiển nhiên, đương thời hay là trong cảnh xương tàn cốt rũ vì đã được hồng ân của Chí Tôn ban cho về già, tức là dưới thế nầy sẽ được an nhàn cả tâm thần và hình thể. Mong sao cả thảy được mau phục sinh mới trong Thánh chất của Chí Tôn đó vậy.
Q.2/03: ĐỨC HỘ PHÁP HUẤN TỪ SAU BỮA TIỆC ĐẦU XUÂN.
Tại Hiệp Thiên Ðài, 21 giờ đêm mồng 3 tháng giêng năm Mậu Tý (dl. 12-02-1948)
Năm mới, không có đặt diễn văn chi. Hôm nay tôi dùng những tiếng thường để nói việc đời.
Theo thế thường người ta nói: "Thực nhơn tài phải cứu nhơn tai" (Phàm ăn của người phải giúp cho người). Tuy vận tôi nghèo, nhưng tôi làm cái tiệc nầy rất đặc biệt, lại nữa tôi mời quý Ngài cũng đặc biệt, toàn là chư vị yếu nhơn cầm quyền Chánh Trị Ðạo, không ai là ở ngoài. Tôi không nói dối rằng nhà tôi đơn chiếc, vì nhà tôi là cả toàn cầu.
Quý Ngài hưởng lễ rồi, tôi xin nhờ quý Ngài một việc: Vì tôi có một ông Cha Thiêng Liêng là Thiên phụ, Ông cho tôi cái quyền bác ái là thương cả toàn cầu, và một ông Chúa là Thiên tử. Thiên phụ tôi thì giao chèo chiếc thuyền Bát Nhã, Thiên tử giao đẩy xa thơ, từ Nam chí Bắc, từ Ðông chí Tây. Anh em rất đông, nhưng người ngồi trên thì nhiều, còn kẻ đẩy, chèo, thì ít.
Năm rồi, các Ngài hảo tâm giúp sức cũng chèo, cũng đẩy năm nay cũng vậy, xin cũng giúp đẩy, giúp chèo cho đến nơi, đến chốn. Ấy là ơn trọng lắm vậy.
Xin quý Ngài giúp tôi cho trọn đạo.
Q.2/04: QUYỀN NĂNG CỦA NỀN TÔN GIÁO.
Tại Ðền Thánh, thời Tý mồng 3 tháng giêng năm Mậu Tý (dl. 12-02-1948)
Trong ba ngày xuân, Bần Ðạo ước mong nước Cam Lộ của Chí Tôn chan rưới đặng rửa tâm hồn của mấy em, phục sinh trở lại.
Nay Bần Ðạo xin thuyết minh quyền năng của nền Tôn giáo.
Cả chủng loại, loài người và vật loại, chúng ta quan sát ngoại thể thấy loài người và vạn vật phải ở chung hiệp cùng nhau, gọi là xã hội mới sống được. Chúng ta thấy trước mặt nhiều vật loại sống đặng như ong, kiến, cũng nhờ tổ chức xã hội, giống thú mà còn biết chung hiệp từ đoàn thể tức nhiên có tinh thần xã hội. Loài người cốt yếu sống cũng phải có xã hội. Lại nữa, nếu chúng ta tìm chơn lý của Phật giáo thì thấy Chí Tôn đã phú thác cho loài người làm chúa vạn vật. Ngài để tinh thần của loài người cao trọng, tức nhiên cho người có khối linh vĩ đại, trọng hệ hơn, đủ phương thể làm tròn trách vụ đối với vạn vật, tức Ngài định cho ta làm chủ xã hội vạn linh.
Làm trách vụ tức nhiên có tinh thần cảm xúc mà cảm xúc tức nhiên sanh tình. Tình là luật thiên nhiên của Chí Tôn. Tình phân ra hai vở chánh, nơi cõi phàm thì có luật định giới hạn, chúng ta thấy tạo luật pháp xã hội, hiển nhiên nơi cửa Hư Linh cũng có đặc quyền, nên cũng phải có khuôn luật là Thiên điều. Có nhiều vị Phật cầm vững quyền thưởng phạt ấy, gọi là nhơn quả, vay trả, hễ nên thì thưởng, còn hư phải thường, luật định như thế rất nên công bình chánh đáng.
Vì có khuôn khổ luật pháp do quyền Thiêng Liêng của Chí Tôn định, bằng chẳng vậy dữ cũng như hiền, lành cũng như ác,(*1) hỗn độn cả tinh thần của Chí Linh, tổng số không mực thước, không căn đề, không cội rễ.
Ấy vậy Ðạo cốt yếu tạo khối tình ái tâm lý của loài người, biết mình là phần tử của xã hội, phải làm điều gì cho xã hội nhờ.
Gia đình là một phần nhỏ trong xã hội, nếu biết gìn giữ thân thể, tôn trọng danh giá cha mẹ, anh em thảng có đứa du côn không kể gia pháp, làm rối loạn gia đình thì kẻ đó ai cũng muốn bỏ, muốn đưa ra khỏi gia đình tông tổ. Sợ e gia đình nào mực thước, thảng có điều vô phúc ấy sẽ xử đứa làm nhục đó, hình phạt nặng nề hơn kẻ tha nhơn.
Càn khôn là đại gia đình, cửa Ðạo cũng vậy, xã hội cũng vậy, là một gia đình có cha mẹ, bà con, như một tông tộc vậy.
Lớn hơn gia đình là một quốc gia, là một gia đình lớn, gồm cả các gia đình tổng hợp lại, chiều theo một khuôn luật do quyền năng của Ðạo giáo tức Ðại gia đình.
Ta lần lượt đi đến toàn nhơn loại hiệp lại thành Ðại gia đình.
Con người sanh ra phải biết trách vụ của mình, trong tiểu gia đình hay đại gia đình cũng vậy. Người ở gia đình chỉ xưng mình là con, vì cớ Jésus Christ chỉ xưng mình là con của Người (le fils de l'homme).
Ôi! Chỉ làm người mà được thành nhơn thì hiểu giá trị của nó thế nào? Văn minh Nho giáo hiểu giá trị làm người ấy khó khăn lắm, khó mà minh biện được: "Vi nhơn nan, vi nhơn nan" (làm người khó, làm người khó). Tố tố vi nhơn nan (làm người rất nên là khó).
Mong làm người cho xứng đáng là người trong gia đình là khó khăn lắm, mà hễ làm người để dìu đỡ được gia đình, tức là chúa gia đình đó; mình là người mà nâng đỡ được quốc vận, là chúa của quốc gia. Giờ ta thử hỏi: Một nền tôn giáo đem tâm lý loài người hiệp một lại là một điều đứng trên cái mức đại gia đình đó. Làm người chủ xứng đáng của gia đình đã là khó, làm người chủ xứng đáng của quốc gia lại càng khó, rồi làm người chủ xứng đáng của một nền tôn giáo không phải dễ. Hễ làm chủ được xứng đáng, thì đối với nhơn quả, ta chỉ có nhơn mà không còn quả nữa. Người đã đem thân nầy ra làm chúa gia đình, không còn là mình nữa mà là bậc tiền bối; người đáng là người chủ của một nước là bực Thánh nhơn, người đáng là người chủ một tôn giáo ấy là vị Phật.
Ấy vậy, chúng ta muốn quan sát một tôn giáo nào được gọi là chánh giáo, thì tôn giáo đó phải đủ yếu điểm tạo nên người chủ của nó đặng dìu đỡ các phần tử của Ðạo ấy, đủ hạnh kiểm, đủ quyền năng. Phải cao thượng hơn sự thường tình, đi cho vững trên con đường hằng sống mới xứng đáng là chủ của Ðại gia đình Càn Khôn Võ Trụ. Cả phương pháp không mực thước quyền hành để đạt đến địa vị chúa một tôn giáo thì không phải chánh đạo. Ta đã thấy gì? Ðạo Cao Ðài có không? Ta suy xét coi: Có hẳn. Nếu con đường ấy, kẻ nào cố gắng thì nên người làm chúa nền tôn giáo của Chí Tôn đã tạo sẵn, có mực thước, chuẩn thằng, phép tắc, để cho người ấy lập nên địa vị.
Phụ ghi:
(*1) Nơi đoạn thứ 5: Vì có khuôn khổ luật pháp do quyền thiêng liêng của Chí Tôn định, bằng chẳng vậy dữ cũng như hiền, lành cũng như ác,...
Nguyên bản chánh in là: Vì có khuôn khổ luật pháp do quyền thiêng liêng của Chí Tôn định, bằng chẳng vậy dữ cũng ra hiền, lành cũng như ác,...
Chúng tôi mạn phép trình bày như trên cho rõ nghĩa hơn.
Q.2/05: QUYỀN NĂNG CỦA NỀN TÔN GIÁO. (tiếp theo)
Tại Ðền Thánh, ngày 4 tháng giêng năm Mậu Tý (dl. 13-02-1948)
Ðêm hôm qua bị đèn tắt, nên chưa kết luận thể pháp. Nay Bần Ðạo thuyết hơi dài một chút, xin cả thảy có mõi chân đừng phiền.
Ðêm hôm qua, Bần Ðạo đã dìu dắt các bạn, các em, các con, đi trên con đường tầm kiếm triết lý một nền Tôn giáo. Cả nhơn loại đều học làm chúa toàn cả gia đình, được làm chủ một tiểu gia đình, tức là một tông tộc là một vị hiền tại thế rồi, được làm chủ một đại gia đình là Quốc gia, là một vị Thánh nhơn, được làm chủ một số Quốc gia hiệp lại như Hiệp Chúng Quốc tại Mỹ Châu như Washington,... chẳng hạn, là một vị Tiên, được làm chủ tối đại gia đình tức nhiên làm chủ toàn thiên hạ, một nền tôn giáo là một vị Phật. Thể pháp của Ðạo Cao Ðài có khuôn khổ tập cho nhơn loại đi đến mục đích trong luật pháp của một nền chánh giáo.
Kế đây, Bần Ðạo xin thuyết về bí pháp. Vả chăng Chí Tôn sanh chúng ta là người, cho chúng ta là người, cho chúng ta nhứt điểm linh quang tạo hình ảnh mỗi cá nhân. Ngài định phận sự tối trọng yếu của Ngài và cầu chúng ta thật hành cho ra thiệt tướng, nghĩa là: Làm thế nào đặng làm chúa vạn vật hữu vi cho Ngài. Hễ giao phận sự thì buộc phải đảm nhiệm luật pháp cũng như sai ai thế hình ảnh cho mình đến nơi nào, làm phận sự gì cần đưa chương trình đặng thi thố ra sao cho thành đạt. Trong chương trình có phương pháp hành vi, tức nhiên luật pháp của Ðức Chí Tôn muốn buộc loài người đạt đức làm chúa vạn vật, định pháp vô hình tức nhiên định Thiên điều. Thiên điều là luật, còn pháp là quyền năng thưởng phạt nhơn quả. Không lạ gì, chúng ta thấy thế thường, con người không làm thì không có nên hư, còn lãnh trách vụ thì nên hư đặng thất. Nên hư đặng thất của con người là một tấn tuồng nơi mặt thế. Ta nhận thấy mang thi hài, xác thịt, khối chơn linh chịu mờ ám, chỉ biết sống phải hiểu nghĩa vụ mình, không phải sống đặng thừa hưởng, từ khi lọt lòng mẹ thì đã mang một mối nợ trần. Hễ mắc nợ thì phải trả, mà trả cho ai? Khởi trả cho gia đình trước. Ai là người làm trọn đạo gia đình cũng khó lắm rồi, biết bao nhiêu trở lực, quả kiếp trước tái diễn lại, phải vay trả kiếp sau. Vay vay, trả trả, chẳng khác anh lái buôn kia trong đường đi. Muốn học làm chúa vạn vật cũng phải nhiều đường lối gay trở khó khăn.
Nếu Bần Ðạo không vi chủ đặng đè nén con vật nầy, chỉ biết sống như con vật thì đã quên hẳn mình là gì, chẳng cần luận, đương nhiên nhơn loại lâm vào cảnh vay trả như anh lái buôn bị gian lận nhiều nên bán lỗ, ấy là nhơn. Ði chuyến khác nữa may mua rẻ bán được mắc thì được lời. Lời lỗ là con buôn nơi trường đời. Ta thấy giờ nào chúng ta chẳng còn buôn lấy lời cho chúng ta hưởng mà là buôn cho Ông chủ hảng hưởng, ngày ấy chúng ta không sợ lỗ lời. Nhơn quả cũng thế, ngày giờ nào ta chẳng còn là ta mà còn trong gia tộc ta, ngày giờ nào ta chẳng còn là ta mà sống cho nhơn loại, ngày ấy là ngày giải thoát.
Mình không vay hỏi ai, mình chỉ cho mượn thì mình ắt giàu. Ngày giờ nào mà lời lỗ mình không chịu trách nhiệm chỉ sống về nghề nghiệp của mình mà thôi, thì mình ắt không ăn thua chi với ai tất cả. Ðức Chí Tôn cũng thế, ngày giờ nào con cái của Ngài lấy hiếu đối với Ngài, nuôi nhơn loại về tinh thần và vật chất đó là cơ quan đạt đạo, chúng ta cho vay mà không thiếu, ấy là ta tự giải thoát.
Ta thử hỏi cả bí pháp của Ðạo Cao Ðài có như vậy chăng? Có chớ! Kìa cái Cửu Trùng Thiên Chí Tôn đem phô bày tại mặt thế nầy đối với Cửu phẩm Thần, Tiên, không còn ai chối đặng, ai đi trọn thì được giải thoát. Ngôi Giáo Tông môi giới hay thiệt? Chính Anh Cả chúng ta đã ngồi được. Ai làm được vậy chăng? Làm được chớ! Nếu có kẻ nói mắc lo gia đình, không thể lo Ðạo được là phi lý. Ðạo là trường học đạt đại gia đình, Ðạo là trường thi lập vị, sao lại làm không được? Tại làm biếng học! Học đặng hành. Nên hư do tại mình, không phải do Chí Tôn và cũng không phải tại Ðạo. Tôn giáo nào không đạt được Cửu phẩm Thần, Tiên dưới thế nầy, thì trên Cửu Thiên kia không hề đạt vị được. Ấy vậy, về mặt bí pháp Ðạo Cao Ðài là rõ ràng một nền chánh giáo của Chí Tôn vậy.
Q.2/06: KHI VÔ ĐỀN THÁNH PHẢI BỎ HẾT PHÀM TÂM.
Tại Ðền Thánh, đêm 29 tháng giêng năm Mậu Tý (1948)
Hôm nay, Qua lên giảng giải là do đêm trước Truyền Trạng Ngọ đã giảng trong khi lãnh trách nhiệm thay quyền Tiếp Lễ Nhạc Quân, đứng trên ngó xuống thấy mấy em có cử chỉ do tâm lý không được chững chạc và đúng theo nghiêm luật của Hội Thánh. Nhưng đó là bề ngoài chẳng nói chi, trọng hệ hơn hết là cái huyền vi bí mật của Ðền Thánh nầy, buộc lòng Qua phải lên giảng.
Mấy em có biết tương lai nền Chơn giáo nầy của mấy em là tạo đại nghiệp gia đình cho một sắc dân gọi là Tân Dân của Chí Tôn, để nơi mặt thế nầy, là Thần Thông Nhơn. Mấy em kiếm hiểu hai tiếng Thần Thông, dầu không thấu lý mà nghe nói tiếng ấy cũng hiểu sự quan hệ của nó ra sao.
Ấy vậy, muốn tạo một tinh thần tới Thần Thông cho sắc dân Tân Dân của Chí Tôn đem đến mặt địa cầu nầy, do trong mấy em hiện tượng ra mà mấy em không tầm cái giống Thần Thông thì làm sao tạo Tân Dân ấy cho được. Cả huyền vi bí pháp của Chí Tôn để tạo Thần Thông Nhơn ấy, mắt mấy em nhìn thấy không biết hình ảnh thì làm sao đạt thành được.
Mấy em sẽ làm Cha, làm Mẹ của đám Thần Thông Nhơn ấy mà không có hột giống làm sao tạo hình cho đặng. Còn như Qua đây là Hộ Pháp khi lên Ngai đứng có mấy công chuyện mà quên trước quên sau, đó là buổi mới khai Ðạo. Còn mấy em dầu khó khăn đi nữa, nay Ðạo đã 22 năm mà còn quên thì không biết nói làm sao đặng.
Mấy em có thấy đâu khi vô Ðền Thánh, đền nầy gọi là Ðền Thánh, thì thế nào mấy em phải hiểu. Qua đứng trên Ngai lấy hết tư tưởng của mấy em cái giọng của mấy em cầu kinh Qua ôm hết dâng lên cho Ðức Chí Tôn, dâng đây, không phải là tiếng thường, ấy là cái thiên thiều, Ngài hưởng rồi, Ngài trả lại cho mấy em cái thiên tinh. Có như vậy thì địa cầu nầy mới an tịnh, mới thái bình được. Mấy em ôi! Nếu cúng mà giọng đọc thô bỉ, không đồng một nhịp nhàng thì mong gì cái thiều quang của Càn Khôn Vũ Trụ điềm tỉnh đặng an hưởng.
Qua đứng trên Ngai, Qua thấy trên Nê Hoàn Cung của mấy em, nếu định tâm, thì có một hào quang xung lên đều đều, mọi người đều có cả hào quang đó, có một vị Phật ôm hết đem vào Bát Quái Ðài, hiệp với đạo hào quang trong quả Càn Khôn đoạn đem trở ra bao trùm chỗ ngồi của mấy em, mà mấy em không thấy được, cho nên khi mấy em hầu lễ, nếu biết hưởng cái ơn Thiêng Liêng ban cho đó, thì tinh thần được an tịnh, hạnh phúc biết bao, nếu biết thọ hưởng cái hồng ân đó, cũng như lúc mấy em đói rồi có ai liệng cho đồ ăn, mà không biết hưởng, thì làm sao no đặng, tức phải đói.
Ðáng lẽ khi bước vô Bửu Ðiện, đi ngang qua Hiệp Thiên Ðài thấy toàn màu đỏ, màu đỏ thuộc về xác thịt, vậy đi qua rồi phải tịnh tâm. Qua không nói ai, vì trước mỗi buổi đều tắm rửa, vô đó, dầu hình thể của mấy em có nhơ nhớp, thúi hôi, cùi đày mà cái tâm của mấy em trong sạch đó là tâm vô tội. Dầu kẻ nào tội tình ưu lự thế mấy mà bước vô Ðền Thánh rồi, cũng phải tập tánh cho thanh khiết, bỏ cả những tư tưởng phàm tục, để tâm nhứt nguyện mới có sự hưởng ứng. Mấy em đem cái hình xác vào Ðền Thánh, nhưng là cái xác vô tội, đặng hiến cho Chí Tôn. Nếu không vậy, thì có vào Ðền Thánh, kẻ ngồi chỗ nầy, kẻ ngồi chỗ kia mà trong óc không niệm, thì vô Ðền Thánh có ích gì? Ði cúng, điều trọng yếu nhứt là tinh thần, cái huyền vi bí pháp tinh thần ở đấy là CỬU TRÙNG ÐÀI rồi BÁT QUÁI ÐÀI thuộc về Chơn Linh, ấy là linh tâm xuất hiện, nếu mấy em có cảm mới có ứng, mà nếu có ứng, thì mấy em mới hưởng được, thảng không hưởng được là lỗi tại mấy em không trọn tâm thành kính.
Thỉnh thoảng rồi Qua sẽ giải bí pháp của Hộ Pháp đứng trên Ngai là gì? Mấy em không thấy cũng đáng trách. Vậy từ đây về sau, Qua chỉ xin mấy em một điều là hễ bước chân vô Ðền Thánh, thì phải bỏ hết cả phàm tâm, thì hạnh phúc sẽ to lớn, bằng chẳng vậy, đừng đi cúng, vì đến cúng, không những không hưởng được đặc ân, mà còn mang tội thêm mà chớ.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 29-01-Mậu Tý nhằm ngày (dl. 09-03-1948).
Q.2/07: LIÊN QUAN CON CÁI CHÍ TÔN VỚI NGÀI.
Tại Ðền Thánh, đêm mồng 1 tháng 2 năm Mậu Tý (1948)
Bần Ðạo hứa sẽ tiếp tục giảng về cái Ngai của Hộ Pháp và phận sự của Hộ Pháp phải làm gì, nhưng Bần Ðạo tưởng cả thảy chưa cần biết, yếu trọng hơn hết là vấn đề liên quan của con cái Chí Tôn với Ngài.
Bần Ðạo thấy cả con cái của Ngài, nghe tiếng gọi của Ngài mà đến, là vì yêu ái Ngài, tâm linh biết cảm ứng, biết nhìn nhận Ðấng tạo sanh linh quang là Cha, Cha kêu con đã là sự thương rồi, nên sự thương yêu của toàn thể tín đồ nam nữ cũng vậy đối với Chí Tôn vô hạn; Bần Ðạo chán biết và xin thú thật rằng: Ngày nào về cõi hư linh, nếu vô tòa phán xét Bát Quái Ðài thì Bần Ðạo quả quyết làm chứng rằng tình thương của nhơn sanh đối với Chí Tôn rất nồng nàn. Nhưng có điều khuyết điểm nầy: Chớ chi con cái của Ngài đem tình ái ấy để cả thảy thương lẫn nhau, dùng tình thương đã đem hiến cho Chí Tôn có thể hiến chung cho nhau, đặng cùng hưởng tại mặt thế nầy. Trái lại: Không!
Ðiều khuyết điểm ấy quá lẽ buộc Bần Ðạo phải minh triết cho cả thảy được rõ biết. Ước mong con cái của Chí Tôn biết thương yêu nhau nồng nàn hơn là thương Ngài nữa mới đặng.
Cả thảy đừng tưởng rằng: Mình bước chân vào cửa Ðạo là một sự tình cờ đa. Bần Ðạo quả quyết rằng: Không phải là một sự tình cờ, và nếu Bần Ðạo chứng chắc rằng toàn con cái của Ngài đều ở trong lòng của Ngài, sanh ra đã có một tình yêu đối cùng nhau, từ trong vật loại dĩ chí nhơn thân chúng ta đã có liên quan mật thiết nồng nàn, khối tình ái vô biên vô hạn. Cả thảy nên biết điều ấy, Bần Ðạo xin nói thật, ngày giờ nầy cho các chơn linh đến mặt thế đã từng chung chịu khổ não cùng nhau, cả muôn kiếp sanh mới gặp gỡ nhau trong lòng của Ðức Chí Tôn đó chớ.
Trong 24 chuyến thuyền Bát Nhã, đem chơn linh đến mặt địa cầu, mấy bạn đã ngồi trong ấy, ngày nay Ðức Chí Tôn đã đến, đến để làm tròn một lời hứa của Ngài. Còn chúng ta đã hứa với Ngài những gì? "Hứa: Các con vì Thầy đầu kiếp đặng tạo tinh thần vật loại, độ cả hóa nhân và nguyên nhân qui hồi cựu vị. Các con vì thương Thầy tạo hình ảnh của Ðạo". Ngày nay là ngày giờ chót Thầy đến với mục đích và sở vọng của Thầy là hội hiệp các con lại làm một cùng Thầy.
Ôi! Nếu các bạn đã biết, từng chung chịu đau khổ cùng nhau cả vạn kiếp sanh. Nơi đây có kẻ đã làm cha, làm ông, làm chị, làm mẹ chung lẫn trong các kiếp tái sanh nơi mặt địa cầu nầy để tạo yêu thương trong toàn nhơn loại. Các bạn có biết điều ấy đâu, duy có thấy gần mà chẳng thấy xa, đương nhiên cùng máu thịt thì thương nhau, biết đâu trong đám nầy có kẻ đã làm cha, mẹ, ông, bà ta, mà ta không thấy, không biết. Tình cảm của chúng ta hễ khuất mắt rồi, thì nhẹ giá trị quá lẽ. Bần Ðạo là Hộ Pháp, nếu Bần Ðạo nói điều chi mong đặng gạt gẫm nhơn sanh, ngày kia về Ngọc Hư Cung Bần Ðạo chịu trách cứ đó.
Ôi! Kiếp sanh tại thế mang xác thịt, hỏi sống được mấy lát? Nội một giấc thức, giấc ngủ là thấy sự chết sống của kiếp con người, mang thi hài bóng dáng nầy là giả. Cảnh thiệt không phải ở đây, mà cảnh thiệt ở nơi chỗ khác kia, sao không tìm cảnh thiệt là cảnh tồn tại, lại chạy theo bóng?
Ước ao cả thảy biết điều trọng hệ bí mật đó mà thương yêu lẫn nhau, thương lún thương càn đi, rồi ngày kia coi có lầm chăng? Bần Ðạo quả quyết, ấn Hộ Pháp, Bần Ðạo nắm trong tay, nói chẳng hề sai chạy. Bần Ðạo mong ước cả thảy con cái của Chí Tôn, đừng tưởng mang thi hài nầy mà nam nữ phân biệt đa nghe. Biết đâu trong đám nữ nầy, có kẻ đã làm cha, làm anh của người nào đó. Giả cuộc đừng coi trọng hệ, cả thảy nên hiểu và từ đây noi theo lẽ thiệt, đừng mơ sự giả, đó là điều mơ vọng ước ao của Bần Ðạo hơn hết.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 01-02-Mậu Tý nhằm ngày (dl. 11-03-1948).
Q.2/08: HỘ PHÁP HÀNH PHÁP MỖI KHI VÔ CÚNG ĐÀN.
Tại Ðền Thánh, đêm 14 tháng 2 năm Mậu Tý (dl. 24-03-1948)
Hôm nay Bần Ðạo chẳng phải thuyết đạo, Bần Ðạo chỉ nói chuyện mà thôi. Nói chuyện Hộ Pháp, mỗi phen vô cúng đàn làm việc chi, theo như lời Bần Ðạo đã hứa.
Bần Ðạo nói đây để cả thảy được biết điều ấy trọng hệ như thế nào, đặng giữ gìn và giúp Bần Ðạo mỗi phen hành pháp được dễ dàng một chút. Bần Ðạo nói hôm nay, để đêm mai có nhiều thì giờ giảng những điều thiết yếu hơn, trọng hệ hơn.
Mỗi phen nhập đàn, hễ trống chuông rồi, thì tất cả đi vô, cả thảy đi vô thong thả, chỉ có Bần Ðạo thật bối rối, bước lên ngai rồi, trụ pháp lại, vẽ bùa niệm chú. Câu chú mà khi thượng sớ, chúng ta thường nghe đọc "TAM CHÂU BÁT BỘ HỘ PHÁP THIÊN TÔN". Thật sự thì như vầy "TAM THIÊN THẾ GIÁI HỘ PHÁP GIÁNG LÂM". Từ trước đến giờ, các bậc tiền bối của chúng ta đã để như nói trên nên không thể sửa cải được, phải để y như vậy.
Khi bái đàn rồi cả thảy quì tụng kinh, còn Bần Ðạo tịnh niệm, mỗi câu kinh mấy em đọc vẫn dễ, vì thuộc mà đọc thôi, riêng Bần Ðạo mỗi câu kinh phải mật niệm, tụ hết cả nghĩa lý của nó dâng lên Chí Tôn và các Ðấng Thiêng Liêng. Rồi còn điều nầy rắc rối hơn hết, hễ khi nào cả thảy tụng rồi bài kinh Chí Tôn hoặc kinh Tam Giáo, khi Bần Ðạo thấy nín hết, buổi đó đem hết tinh thần trụ lại, dâng lời mặc niệm ấy vào Bát Quái Ðài. Ðến khi tất cả niệm ngũ nguyện cũng vậy, Bần Ðạo định tâm, dồn cả đức tin biến thành một huệ quang chiếu diệu đem vào Bát Quái Ðài rồi, đợi cho Bát Quái Ðài trả lời khi ấy ở trong đó ánh sáng tủa ra, Bần Ðạo cúi đầu niệm thế cho cả thảy.
Còn dâng Tam Bửu, Bần Ðạo hiểu cả nghĩa lý của nó đang khi dâng bông, cả thảy hình thể con cái của Chí Tôn tức là Thánh Thể của Ngài, trụ hết xác Thánh đó dâng cho Ngài đặng Ngài làm phương cứu thế. Ðó là dâng bông.
Tới dâng rượu, cả thảy khi dứt câu kinh, nín lặng hết, Bần Ðạo vận dụng cả trí não tinh thần, đem đức tin của cả thảy dâng vào Bát Quái Ðài.
Tới dâng trà, là dâng cả linh hồn cho Chí Tôn. Bần Ðạo để cả tinh thần trụ lại, đem linh hồn của cả con cái Chí Tôn dâng cho Ngài.
Khi các người cầu nguyện, buổi cầu nguyện biết vậy thì nguyện như vậy thôi, còn Bần Ðạo phải trụ hết tinh thần định trở lại, đem cả những lời cầu nguyện ấy đặng dâng cho Chí Tôn và các Ðấng Thiêng Liêng.
Khi Chí Tôn truyền cho pháp ấy, Bần Ðạo nghĩ rằng: Ðó là chiếu theo cổ pháp của nhà Phật buổi trước, nhứt là Thiền Môn mỗi khi làm chay, thí của, cầu siêu, hay tuần tự chi đều rước một vị Hòa Thượng trụ trì đến. Không gì khác hơn là bí pháp của Chí Tôn trụ thần, Bần Ðạo dám chắc rằng không ai biết, họ tụng kinh như hát mà thôi, không ai để hết tinh thần vào câu kinh, nên mấy thầy chùa gõ mõ tụng kinh có ăn thua gì, trọng hệ là vị Hòa Thượng trụ trì ngồi hành pháp, nhưng không hiểu họ có biết mà làm y theo đó hay không? Cái trọng hệ ấy, nếu ai làm cho y, thì là trúng với bí pháp. Tiểu Ðàn thì vậy.
Còn Ðại Ðàn lại còn rối cho Hộ Pháp hơn nữa, là có ba ấn: Thượng Ngươn, Trung Ngươn, Hạ Ngươn, ấn ấy không phải do tay Hộ Pháp không? Khi đứng lên Ngai rồi bắt ấn Hộ Pháp, lấy cả tam bộ Thiêng Liêng tức là sanh khí mà ta thấy trước mắt tỏa ra cùng khắp. Rồi đến trụ thần lại bao trùm cả trái đất nầy như vòng bao một trái cây gì vậy, để cái cuống lên trên, đem dâng cho Chí Tôn ngự. Kế dâng bông, bắt ấn Thượng Ngươn dưới đạp Ngưu Ðẩu, tay đưa Gián Ma Xử lên hiệp với chữ Khí, đem khí ấy đưa ra cả càn khôn thế giới. Ấn Thượng Ngươn làm chủ chữ Khí, đem khí ấy hiệp hết cả Ngươn Khí đặng bao trùm vũ trụ.
Ðến Trung Ngươn bắt ấn Hiệp Chưởng biến hóa, Gián Ma Xử để nằm ngang, đuôi bên Thế, cán bên Ðạo, ý nghĩa Ðạo cầm cán đặng trị Ðời. Bắt ấn Hiệp Chưởng, cầm cả cơ pháp của vạn vật biến sanh đặng bảo tồn không cho tương tranh, tự diệt nhau.
Tới Hạ Ngươn, tay tả thuộc dương để trên, tay hữu thuộc âm để dưới, rồi để Gián Ma Xử chúi xuống, trụ thần đem cả càn khôn hiệp cả vạn vật. Bắt ba ấn phải trụ thần, làm sao cho ấn ấy đừng thất pháp. Cho nên ban sơ, buổi Chí Tôn mới giao cho Bần Ðạo tại Từ Lâm Tự, cái khó là trí óc vẫn lo ra, vì không quen, không phải mình làm thầy phù, thầy pháp gì ổng giao cho học mãi làm không trúng. Vì cớ nên mới có quỉ lộng tại Từ Lâm Tự buổi nọ, các ấn khác của Hộ Pháp có linh hay không mà quỉ lộng? Ấy là Thiên Cơ khiến vậy. Chí Tôn mở Tam Thập Lục Ðộng coi có phá nổi Ngài không? Có thể làm cho tiêu diệt nền Chánh Giáo không? Ðể cho chúng sanh thí nghiệm mà thay quyền năng vô tận của Ngài. Buổi nọ vì thời gian ngắn ngủi, nên công việc chưa rành rẽ, vì không đủ thì giờ để chuyên luyện, hoặc cho là chưa trọng hệ cho lắm, nên có điều sơ lược. Ðó là Thánh ý của Ðức Chí Tôn muốn như vậy.
Trong một thời cúng, Bần Ðạo đã căn dặn nhiều phen trọng hệ hơn hết, là khi dâng Tam Bửu, dầu cho tinh thần suốt buổi cúng có nhiều lúc lo ra đi nữa, đến khi dâng Tam Bửu, khuyên cả thảy định thần đặng mật niệm, dâng ba bửu trọng hệ cho Chí Tôn, tức là giúp sức Bần Ðạo hành pháp dễ dàng một chút đó.
Q.2/09: Ý NGHĨA ĐI HOÁN ĐÀN ( Cúng Đại Đàn).
Tại Ðền Thánh, đêm rằm tháng 2 năm Mậu Tý (dl. 25-03-1948)
(LỄ THÁI THƯỢNG)
Nay Bần Ðạo định giảng tiếp, nhưng vì bị vụ hoán đàn mà không cho vô, nên Bần Ðạo phải giảng nghĩa rõ vì sao mà không cho vô ấy, vậy có đứng lâu mõi chân xin cả thảy đừng phiền nghe.
Không có một điều chi Chí Tôn để trong Pháp giới của Ngài trong cửa Ðạo nầy mà không có nghĩa lý. Ít nữa mình không biết thì phải tìm cho biết, coi tại sao như thầy chùa chạy kim đàn vậy, tìm cho ra duyên cớ đặng hiểu biết bên trong pháp giới của Ðức Chí Tôn là thế nào mà hình thể bên ngoài lại dị kỳ làm vậy. Không biết phải hỏi, cả thảy nên biết rằng, không một điều gì trong nền Tôn Giáo nầy mà vô nghĩa lý đa nghe.
Tại sao phải hoán đàn, nam, nữ chen nhau? Ðó là bùa pháp luân thường chuyển. Tại sao Chí Tôn để bùa pháp luân thường chuyển tại thế này, đặng chi vậy? Hiện đã mãn Hạ Ngươn tam chuyển, bắt đầu Thượng Ngươn tứ chuyển ta gọi là khai ngươn nên phải để cho pháp luân chuyển.
Ta đã biết thời Tiên Thiên Khí và Hậu Thiên Khí chuyển làm một mối đạt Ðạo đặng.(*1) Cả thảy đều biết qua Cửu Trùng Ðài nầy là Cửu Thiên Khai Hóa, còn cung trên kia là Cung Ðạo, từ trước đến nay, mỗi người mãi miết tìm Ðạo mà Chí Tôn để giữa đó, trước mắt mà không biết. Ði chín từng Trời để cho phần hồn đi cho cùng tột cửu phẩm Thần, Thánh, Tiên, đến Phật, tức là Phật xuống phàm, rồi phàm trở lại Phật, chuyển luân như vậy, bí pháp gọi là đạt Ðạo. Tại sao cả thảy không tìm hiểu, rồi không chịu vô hoán đàn, sợ mỏi chân, chờ trong nầy thiên hạ đi giáp rồi mới vô cúng mà thôi.
Cũng vì bởi không hoán đàn là không đạt được thể pháp đó không đủ theo pháp giới của Chí Tôn, nên người cầm pháp có phận sự không cho vô tức là không cho làm loạn Ðạo.
Phụ ghi:
(*1) Nơi đọan thứ 4: Ta đã biết thời Tiên Thiên Khí và Hậu Thiên Khí chuyển làm một mối đạt Ðạo đặng...
Chúng tôi xin đề nghị cho rõ nghĩa hơn: Ta đã biết thời Tiên Thiên Khí và Hậu Thiên Khí chuyển làm một mới đạt Ðạo đặng...
Q.2/10: ĐẠO LÀ SỰ SỐNG TRONG CÀN KHÔN VŨ TRỤ.
Tại Ðền Thánh, thời Tý mồng 9 tháng giêng năm Mậu Tý (dl. 19-02-1948)
VÍA ÐỨC CHÍ TÔN
Thưa cùng Chư Chức Sắc Thiên Phong Nam, Nữ, Chư Ðạo Hữu, mấy em, mấy con Nam, Nữ, một cái lễ đầu xuân là lễ Ðức Chí Tôn. Ngày nay ta tính lại đã trót 23 năm Chí Tôn đến cùng con cái của Ngài, cái hạnh phúc của nhơn loại may duyên gặp hồi tận độ của Ðức Chí Tôn đáng lẽ tinh thần loài người thoạt nghe thoạt thấy, tâm linh buộc phải xu hướng theo sau bước chân của Chí Tôn. Tại sao ta phải hỏi vì cớ nào đã 23 năm mà nhơn loại chưa hưởng được hồng ân của Chí Tôn chan rưới nơi mặt thế này?
Bần Ðạo đã thuyết mấy kỳ trước: Một nền Chánh giáo dầu bí pháp, dầu thể pháp phải có thiệt tướng như thế mới ra một nền Chánh giáo. Ngày nay là ngày Chí Tôn đến cùng ta, kỷ niệm nầy, bất tiêu bất diệt. Bần Ðạo đã thuyết vì cớ nào từ tạo Thiên lập Ðịa đến giờ, nhơn loại vẫn khư khư tầm Ðạo. Chúng ta chán thấy rằng, nhơn loại trên địa cầu nầy thay đổi nhiều lớp mà nay chúng ta còn tồn tại đây, theo Chơn pháp để lại tính ra đến nay là 3 lần 36 ngàn năm. Thành ra từ mặt địa cầu có nhơn loại đến giờ là 108.000 năm. Trong 108.000 năm biết bao nhiêu thay đổi, đáng lẽ nhơn loại đã quên Chí Tôn mà chớ, sao vẫn nhớ mãi mà thôi, bởi chẳng nhớ Ngài chẳng đặng. Tại sao không nhớ Ngài không đặng? Nhơn loại đang đi tìm, khao khát cái danh từ, tên tuổi của Ngài. Các dân tộc đang tìm tòi vì biết nhìn Ngài là người chủ quyền tạo đoan Càn Khôn Thế Giới. Ai đã dạy họ, ai chỉ cho họ, ai buộc họ, mà họ biết chơn lý chỗ nào mà theo, một điều là người nào cũng vẫn tìm tòi mãi điều ấy mà thôi. Bần Ðạo không nói riêng về loài người, dầu vật loại vô tri vô giác hay hữu tri hữu giác cũng vẫn tìm người mãi mãi.(*)
Ta thấy vật vô tri vô giác như đá, sắt là bất động vật, rõ ràng không âm thinh chỉ có sắc tướng ta thấy chắc trí giác đã thế nào, Bần Ðạo xin hỏi đá tìm ai, kiếm ai mà cục nầy chồng chất lên cục kia, leo trên nhau mà thành ra hòn núi? Ðặng tìm kiếm khối sanh quang của nó. Vật hữu sanh, chúng ta thấy cây lúa mới cấy nó nằm nghiêng, sau khi sống nó đứng thẳng đầu lên. Hỏi nó tìm ai? Tìm Ðấng Tạo Ðoan. Cây trong rừng hoặc trong vườn bị che khuất còn biết nghiêng mình, nảy chồi đâm tược. Hỏi tìm ai? Tìm Ðấng Tạo Ðoan.(*)
Ấy là vật vô tri vô giác, còn người tại sao bỏ không đặng, hễ không bỏ Ðấng Tạo Ðoan đặng thì phải tìm tòi mãi, gọi là tầm Ðạo. Ðạo là cơ quan bí mật làm cho Trời Người hiệp một trong sự sống của Càn Khôn Vũ Trụ, nên con người vẫn đi tìm nguyên do sự sống ấy, xem thế tức là đi tìm Ðạo đó.(*)
Chúng ta buổi mới sanh ra còn anh hài không đủ trí thức xét đoán, chúng ta đã thấy gì? Thấy trước mắt vạn vật hữu sanh, đó chẳng qua là những bạn đồng sanh với chúng ta mà thôi. Khi được năm ba tuổi rồi, cả vạn vật đối với sự sống của ta rất hữu tình như thế nào, ấy là mức đầu tiên làm cho tinh thần con người tự tỉnh. Quan niệm của vạn vật đối với con người rất nên mật thiết, dầu vật ấy hung tàn đối với con người, tình thân ái giao hảo vẫn liên quan mật thiết. Chúng ta thấy cọp beo, sấu, hùm, gấu làm cho ta sợ sệt sự hung dữ của nó có thể hại sanh mạng của ta được, nên mới kiêng sợ như vậy. Ngoài ra toàn vạn vật đều có tình hữu ái đối với ta "Khuyển thủ dạ, kê tư thần, tầm thổ tư, phong nhưỡng mật". Ta thấy cả vạn vật ấy đối với ta rất có cảm tình, bởi lẽ đồng sanh, như đứa con nít con bướm đẹp đẽ thì mê lắm, tìm bắt, đến khi gặp con ong chích thì sợ sệt, mấy điều ấy làm cho con người tự tỉnh, đi tìm nguyên do của sự sống ấy, đó là khởi bước đầu sự tầm Ðạo.
Lớn lên chút nữa, biết ái tình chung trong gia đình hay xã hội, biết thân danh chung. Phận sự của người giữ Ðạo là giữ sự đồng sống trong khuôn khổ xã hội, tức nhiên tìm mối đồng sanh của cơ tạo đoan ấy. Thân danh ta đối với xã hội nhơn quần, ta thấy xã hội đối với ta như thế nào và ta phải đối lại như thế nào? Thật sự là tìm phương thế đặng tôn sùng sự sống chung của nhau mà thôi. Vì sự sống của vạn vật, của loài người sản xuất do Ðấng Tạo Ðoan là Chí Tôn, nên chữ Ðạo nó liên hệ mật thiết với loài người thế nào thì nó liên hệ mật thiết với Chí Tôn dường ấy, nên Ngài mới đến đặng thức tỉnh chúng ta biết, hiểu. Ngài là chủ của sự sống, đến đem sự sống lại, trừ diệt cho tiêu tan ác nghiệt. Ngài đem đến sự sống để trước mắt nhơn loại, như nhắc nhở họ phải tôn sùng cái sống chung của nhau. Hễ tôn sùng, tức nhiên phải nhìn Ðấng Tạo Ðoan đã ban cho chúng ta mạng sống, cho ta nhứt điểm linh quang, mới biết phân biệt hiền với ác, chánh với tà, để làm biểu hiệu cho con người thức giấc mê, tìm hiểu chơn lý của sự sống như thế nào, đặng trở lộn lại sống theo tinh thần của Thánh Hiền hay sống theo tánh hung bạo tàn ác của con vật. Cốt yếu đem cái sống Thánh Hiền ấy là cái sống của Chí Tôn ban cho, là vật báu để trong mình, vật ấy quí hóa không phải hèn hạ.
Giờ đây Chí Tôn đến mặt thế nầy, đặng làm cho nhơn loại biết tôn trọng sự sống ấy trong khuôn khổ của Chí Tôn định, hiệp tâm lý trở lại làm một trong tình thân ái đại đồng. Chơn Pháp của Chí Tôn đem đến với chúng ta đã 23 năm nay là vậy, nếu chúng ta đã mang danh thể của Ngài, trước chúng ta chẳng tự mình lập phương pháp làm kiểu mẫu cho thiên hạ nhìn Ðạo Cao Ðài là Chánh giáo, thế nào làm khuôn mẫu cho cả toàn tâm lý loài người đồ theo thì chúng ta thất hiếu cùng Chí Tôn lắm vậy.
Phụ ghi:
Cuối những đoạn có dấu (*): Ðể cho người đọc được dể dàng, chúng tôi xin mạn phép phân đoạn tại những nơi có dấu (*). Nguyên bản chánh không có phân đoạn tại những nơi ấy. Kính cáo.
Q.2/11: THỂ CHẤT VÀ TÁNH ĐỨC CÁC HẠNG KHÁCH TRẦN.
Tại Ðền Thánh, đêm rằm tháng giêng năm Mậu Tý (dl. 24-02-1948)
Hôm nay, Bần Ðạo giảng về các hạng khách trần thể chất và tánh đức của họ, cốt yếu để dìu dắt cả thảy quan sát toàn thể Ðạo.
Ấy là phương hay để chúng ta có thể quan sát được mỗi hạng khách trần, trọng hệ nhứt là Thánh Thể của Ðức Chí Tôn tức nhiên là Hội Thánh. Vả chăng, chúng sanh nhứt là nhơn loại mỗi mỗi đều có đẳng cấp Thiêng Liêng tùy theo sự tiến hóa của chơn linh của họ, dầu tánh chất hay hình thể cũng tùy theo tiến hóa của chơn linh mà có riêng đặc tánh, riêng về hình thể của họ, chúng ta ngó thấy phương pháp của cổ nhân xem tướng người, đoán tánh chất, số mạng, cũng là nương theo đó.
Các hạng khách trần, Bần Ðạo duy nói về đẳng cấp và tấn hóa, nếu dám quả quyết, nói hẳn rằng: Mặt địa cầu nầy có 2.700 triệu người mà buổi nầy khuyết điểm bao nhiêu không biết, số ấy là trong thời thái bình. Trong 2.700 triệu nhơn sanh tức có 2.700 triệu tánh đức, chúng ta không thể gì đoán xét được, nhưng chúng ta có thể chia khách trần ra làm nhiều hạng:
Một hạng trước là hạng trái chủ, nghĩa là hạng thiếu nợ, hạng thiếu nợ là gì? Là những người gây ra nhơn quả đã nhiều. Luật nhơn quả để họ vô hàng cùng khổ của các chơn linh.
Hạng thứ nhì là hạng tác trái, nghĩa là người đã cho vay.
Hạng thứ ba là hạng du học, là các chơn linh đến mặt địa cầu tìm phương pháp đặng học hỏi, vì họ thiếu thốn, đến đặng thâu đoạt cái phần thiếu kia cho hay biết nhiều thêm đặng tấn hóa về chơn linh.
Hạng thứ tư là hạng ta bà du hí, du thực đến chơi rồi về, mà cái hạng ấy ít lắm, nếu có đi nữa thì phần nhiều chết yểu hết.
Còn một hạng nữa là hạng Thiên mạng, hạng Thiên mạng là hạng chơn linh cao cấp tức nhiên đã đạt phẩm vị cao trọng, vâng mạng đến thi hành lịnh của Ngọc Hư Cung hay của Lôi Âm Tự.
Bây giờ Bần Ðạo mới chỉ rõ hạng trái chủ là hạng thiếu nợ. Bần Ðạo quả quyết rằng, nếu ngó thấy họ ta đoán được ngay. Cái thói nghèo hèn cùng khổ dầu đến đâu cũng ra nghèo hèn, rán làm sang bao nhiêu cũng lộ cái nghèo hèn ấy, vì tánh đức họ hiện ra hình trạng xấu xa cho đến cách ăn mặc cũng vậy; họ sợ thiếu nợ nhưng hại thay họ đã lo đêm lo ngày, chạy tảo chạy tần, lo sống đủ mọi phương diện, nhưng chẳng phút nào họ được an hưởng tinh thần và tưởng tượng rằng mình có hạnh phúc. Có khi người trái chủ đó ấy đầu kiếp một lượt thì họ có phương thế làm đặng trả, là may duyên cho họ lắm; nếu rủi người chủ trái không đến thì họ phải đầu kiếp mãi tìm cho đặng người chủ nợ ấy, làm tôi mọi cho họ đặng trả nợ, ấy là một phương pháp mà các chơn linh hãi hùng sợ sệt hơn hết. Tánh đức của họ là thường lo cho mình được lợi mà thôi, nhưng không biết chừng nào đủ, đến đỗi trong ý muốn làm có của cho lung, cho nhiều để dành ngừa đó đặng có phương thế trả nợ, sợ một điều là buổi muốn trả mà không trả nổi. Tâm linh họ giục thúc như vậy. Họ hà tiện lắm, nhiều khi gặp được tình liên hữu với chơn linh nào mà họ gọi là chủ trái đến, lạ lùng thay, đối với cả toàn thiên hạ không thương yêu ai, mà nếu họ gặp người chủ trái ấy giục họ thương yêu, kính mến, chìu chuộng, bao nhiêu của cũng đem dưng hết cho người ấy. Có nhiều khi không có của họ đem cả thân sanh họ đặng đền trả nữa. Hạng thiếu nợ có tánh đức đặc biệt nhỏ nhen, chắt mót, không tưởng đến ai khác hơn mình, duy người chủ trái đến thì toàn cả cơ nghiệp đều để lại cho người đó, dầu muốn dầu không, hay là không hay biết cũng do tay người đó phá hoại hết sự nghiệp. Họ phát hiện ra có tánh chất buồn bực quạu quọ, không yên tâm, cứ lo lắng bậy bạ nhứt là hình ảnh của họ cùng khổ, bịnh hoạn luôn và thường chịu phận đê hèn. Ðó là hạng có quả kiếp.
Còn hạng chủ nợ có tánh cách đặc biệt là không biết lo gì hết, lơ lơ lửng lửng, ngày chí tối không biết đợi ai trả nợ, mà chắc mình có món nợ chúng sẽ trả, không lo gì cho họ cả, thả lình bình du hí du thực, không biết gì ráo cứ ngơ ngơ ngửng ngửng, không động tới ai, mà cũng không làm nên gì cho ai; mà khi nào chúng ta thuyết đạo với họ thì họ biết xu hướng, chịu nghe tưởng cái huyền linh nầy sẽ giúp mình đắc lợi gì. Họ đi chùa, đi miễu cốt cầu danh, nghe nơi nào linh hiển, đem nhang đèn tới cầu tài cầu lợi cho mình. Hình ảnh của họ, gương mặt bơ bơ mà lúc nào cũng tự tôn tự đại, mình là chủ nợ dầu nợ nhiều hay nợ ít cũng là nhà giàu rồi, và đặc sắc điều nầy là không sợ hao tài. Tánh chất sợ tội, sợ quả báo mà không biết trọng mình, thoạt nghe đó, tin tưởng đó, nhưng không phải tin tưởng đạo đức mà chỉ tin nơi huyền linh đặng cầu khẩn mà thôi lại có tánh chất ngớ ngẩn, trong mình không có tiền thì thôi, nếu có tiền mà ai nói vừa bụng thì lại móc đưa ra hết, có khi đưa rồi lại mắng người ta, đưa chẳng phải vì thiệt tâm mà đưa. Tánh chất của người chủ trái là vậy đó.
Bây giờ nói đến hạng du học, hạng du học bình thường cái gì cũng muốn biết, ham đọc sách vở kinh luật nhưng chỉ đọc qua loa rồi bỏ, ưa kiếm hiểu, ưa tọc mạch hơn ai hết, cái gì cũng muốn hiểu, cái gì cũng muốn biết, có khi nào họ mơ màng thì họ cũng muốn bỏ. Hạng du học thì nhiều mà lạ lùng thay, phần nhiều không tín ngưỡng, học cao đến đâu nếu đem đạo đức tinh thần mà nói, họ không biết gì hết, cứ cái chơn lý họ tìm mãi mà thôi, chính mình họ, họ cũng chẳng biết họ là ai, nhưng cũng là hạng tự tôn tự đại lắm, họ quyết đoán trong óc họ rằng không ai hơn họ được, cho là mình khôn hơn thiên hạ nên làm cao cách hơn ai. Gương mặt lúc nào đi cũng ngước lên người ta gọi là mấy cậu "trịch bồ lương" mà thứ đó lại nhiều hơn hết.
Hạng ta bà, nếu có thì chúng ta thấy liền, không động tới ai, không nói tới ai, cái sống, cái chết của họ cũng không cần biết, họ thường ở theo các chùa hoặc lên núi, một cõi một mình, chịu thanh tịnh mà thôi, còn đi chơi tìm lên non núi. Ta thấy trong các chùa chiền, họ bơ vơ dộng chuông, gõ mõ rồi nam mô lên, nam mô xuống. Hạng ta bà du hí nầy sống trên cõi trần nếu không vừa bụng thì thối lui về tức là chết.
Bây giờ các bạn muốn nghe hơn hết là hạng Thiên mạng. Hạng Thiên mạng, là hạng người không biết tầm lấy cho mình, chỉ lấy của mình lo cho thiên hạ, không biết tôn trọng hình hài của mình, chỉ tôn trọng thiên hạ, bởi vì hạng Thiên mạng cốt yếu tìm cả năng lực chỉ đạo cho thiên hạ làm môi giới tinh thần, ấy là một phương pháp giải cứu cho đời và bảo trọng nuôi nấng thiên hạ đó. Tánh chất như Lục Tổ bất động, bất trần, bất cấu, bất nhiễm. Có nhiều khi họ đến mà chưa có phận sự thì họ ngơ ngơ ngửng ngửng như khùng như điên. Ấy là khi chưa đắc thế, thiên hạ kêu là ba trợn ba nháng đó; một khi mà họ đắc thế rồi, quyết cứu độ thiên hạ thay thế cho Thiêng Liêng, vâng mạng lịnh Ðức Chí Tôn đến làm bạn với người đặng truyền Ðạo, thâu con cái của Chí Tôn về một mối. Phần đó ta có thể xem xét được trong Thánh Thể của Ðức Chí Tôn.
Mấy em nếu có gặp người khùng khùng điên điên phải quyết đoán là họ còn đợi thời và họ chưa tới thời đó mà thôi.
Q.2/12: VIỆT NAM ĐƯỢC ĐỘC LẬP TRONG LIÊN HIỆP PHÁP.
Tại Ðền Thánh, đêm 26 tháng giêng năm Mậu Tý (dl. 06-03-1948)
Hôm nay có tin lành nên Bần Ðạo lên giảng giải cho toàn Ðạo được hay biết.
Mới đây có tin vô tuyến điện cho hay rằng: Cựu Hoàng Ðế Bảo Ðại đã đem cho nước ta được độc lập và thống nhứt, vì nước Pháp có tuyên bố cho cả toàn cầu hay rằng đã chấp thuận rồi, duy còn ký kết bản hiệp ước với Pháp nữa là xong. Ðộc lập trong Liên Hiệp Pháp có nghĩa là văn hóa đã truyền bá các nơi, nơi nào có người Pháp. Trên địa cầu nầy người Pháp có nhiều thuộc địa, ngoài ra văn hóa Pháp cũng đã có ảnh hưởng đến các nước không phải là thuộc địa Pháp. Vậy, các nước nào không liên quan đến nước Pháp cũng có thể liên hiệp Pháp được. Liên Hiệp Pháp là hiệp các quốc gia lại cho cường liệt đặng bảo trọng cho các quốc gia chung nhau, bởi vậy nên trong Liên Hiệp Pháp, mỗi nước đều được tự chủ bình đẳng có quyền hạn như nhau, mặc dầu nước Pháp đã đề xướng, nhưng Pháp cũng chỉ là phần tử trong đó. Thật sự như vậy.
Bần Ðạo nói đây cốt yếu để vào tâm não cả con cái của Chí Tôn. Bần Ðạo sau 5 năm bị đồ lưu nơi hải ngoại được về, quyết đoán đem cựu Hoàng Ðế Bảo Ðại về xứ đặng thương thuyết tới độc lập cho nước nhà. Không phải hôm nay là việc tình cờ mà quả quyết đâu. Bần Ðạo xin nói rằng những hành tàng mà ngày nay kết liễu do Bần Ðạo đã biết trước từ năm 1927.
Bần Ðạo cốt yếu nhắc cho con cái Ðức Chí Tôn để trong trí rằng: "Không giờ phút nào Chí Tôn nói gì hứa gì với con cái của Ngài mà thất tín, thất hứa, thế nào cũng kết liễu mà thôi".
Con cái của Ngài nếu đủ khôn ngoan chịu khó ôn lại Thánh giáo của Ngài từ trước xem lại từ trương, từ lời Thánh huấn thì hiểu ngay rằng không hề sai suyển một mảy may nào cả.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 26-01-Mậu Tý nhằm ngày (dl. 06-03-1948) nguyên bản chánh in là: 26-01-Mậu Tý (dl. 05-03-1948).
Q.2/13: ĐỂ CẢ ĐỨC TIN NƠI PHẬT MẪU.
Tại Báo Ân Từ, thời Ngọ ngày rằm tháng 2 năm Mậu Tý (1948)
Chúng ta luận một việc cần phải luận cùng nhau, nên chúng ta tin chắc rằng Ðức Phật Mẫu là Mẹ Sanh của chúng ta và cả vạn vật, nếu chúng ta tin và biết chắc như vậy thì chúng ta phải để cả đức tin nơi Người, theo ý Bần Ðạo tưởng cái gì về xác thịt thi hài nầy đều do Phật Mẫu đào tạo cả.
Ðức Ðại Từ Phụ duy làm cha của chơn linh chúng ta mà thôi, như cha mẹ phàm nầy, ông cha duy có nhứt điểm tinh còn huyết khí đều do bà mẹ đào tạo mà có, Ðức Chí Tôn duy cho nhứt điểm linh, còn tạo nên trí não và xác thịt của ta ra hình tướng là do tay của Phật Mẫu, hai cái quyền ấy rất cao trọng, hễ khôn ngoan muốn cầu xin cho đặng siêu thoát linh hồn, không ai hơn là Chí Tôn, còn về phần xác thịt nếu đau đớn khổ sở, mỗi mỗi cái đều xin Mẹ thì chắc hơn hết.
Có nhiều điều ta đến xin Mẹ thì Mẹ cho, chớ còn xin Cha thì không được, phải vậy không? Nhứt là phái nữ, tâm hồn thường phải nương theo Phật Mẫu một cách mạnh mẽ hơn nữa, hoặc sanh con cũng được mạnh giỏi hoặc chính thân thể mình không được cường tráng, hoặc đức tin còn yếu ớt sao không đến xin Mẹ, chỉ có Mẹ mới đủ quyền năng ban ơn ấy cho; còn như mấy em nhỏ, đã có vợ chồng thì nên đến phụng sự Ðức Mẹ mà cầu xin cho sanh đặng con tốt, cho Ðấng nào đến nơi cửa của mình sẽ là một chơn linh cao siêu, đó là biết khôn đó chớ, nếu chúng ta quả quyết có điều ấy thì tự nhiên sẽ có như vậy.
Bần Ðạo vẫn thấy nữ phái còn lạnh nhạt điều ấy lắm.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 15-02-Mậu Tý nhằm ngày (dl. 25-03-1948).
Q.2/14: THIÊN CUNG CỦA MỖI CON CÁI ĐỨC CHÍ TÔN.
Tại Ðền Thánh, thời Tý đêm 19 tháng 2 năm Mậu Tý (dl. 29-03-1948)
Ngày hôm nay, Bần Ðạo giảng về Thiên Cung của mỗi con cái của Ðức Chí Tôn. Thiên Cung ấy, Chí Tôn có nói rằng: "Gia tài của các con, Thầy đã sắm sẵn". Gia tài ấy tức là Thiên Cung vậy.
Bần Ðạo nhớ lại buổi nọ, Ðức Chí Tôn biểu Chư Ðại Thiên Phong, nhứt là những môn đệ đầu tiên của Ngài bên Cửu Trùng Ðài, nên ta kể những vị ấy như là Thánh Tông Ðồ của Ðạo Cao Ðài vậy: như là Trung, Trang, Tương, Thơ, Nương, Ca đó là những vị đến lúc ban sơ khởi thể của nền Ðạo. Chí Tôn biểu: Các con phải lập họ hàng của mình, tức là biểu lập Thiên Cung tại thế. Thảm thay! Hồng ân ấy, Chí Tôn liệng trong tay mà không biết nắm, tức nhiên họ làm mất đạo nghiệp của họ vậy.
Thiên Cung của chúng ta mà Ðại Từ Phụ gọi gia tài dành để cho chúng ta, trừ ra đứa nào chê bỏ, Thầy mới đem cho đứa khác, Thiên Cung ấy là gì? Là các nguyên căn của Ðức Chí Tôn, là cơ tạo đoan Càn Khôn Vũ Trụ. Ðức Chưởng Ðạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn nói rằng: Ðức Chí Tôn buổi nọ có Thiên Cung riêng, Ngài dứt cả toàn Thiên Cung đó đến một chỗ chẳng có vật chi, rồi Ngài lấy dương quang đặng Ngài biến tướng ra và ban cho mỗi con vật một điểm linh tính tiếng Phạn gọi là Monade, còn ta gọi là nhứt điểm linh, điểm linh ấy tấn hóa vô biên vô giới, đi từ vật chất đến Phật vị, thì trong con người đi biết bao nhiêu kiếp sống liên quan mật thiết cùng nhau, do mỗi kiếp sống để tạo thành một gia tộc. Chúng ta sanh ở thế kỷ nầy có ông, bà, cha, mẹ, anh, em, bạn tác, vợ chồng, con cái, cả các cơ nghiệp hữu hình của chúng ta tạo tại thế nầy, sẽ trở nên cơ nghiệp nơi cảnh vô vi kia, đặng làm Thiên Cung của chúng ta. Vậy Thiên Cung là gì? Nếu chúng ta gọi là gia tộc vô hình thì phải gọi là xã hội, do đại nghiệp căn bản của chúng ta lập thành. Nếu chúng ta tưởng tượng trở lộn lại do lời của Ðức Chưởng Ðạo nói, thì Ðức Chí Tôn cũng vô một khuôn luật ấy, nhưng Ngài đạt Pháp, nắm cả bí mật vô biên đặng tạo càn khôn vũ trụ riêng, chẳng khác như ta đã thấy tấn tuồng hữu vi nơi mặt thế này, cũng làm con, làm cha, mà ta thấy cha ta tạo nghiệp thế nào, thì ta cũng bắt chước như thế ấy. Hình trạng Ðức Chí Tôn đã làm thì ta sẽ làm theo, hay là ta đã làm rồi nơi cảnh vô hình, Ðức Chí Tôn đã dành để cho ta mà ta chưa hề biết như vậy, ta chỉ biết giờ nầy mà thôi, đến khi bỏ xác thú rồi, trở lại cảnh vô hình, mới biết ta có một đại nghiệp.
Bởi vậy cho nên buổi sanh tiền trong kiếp sống của ta đây: Ăn để sống tranh giành đặng nuôi con thú, tức là thú hình của ta mà quên lảng cả đại nghiệp. Không có thảm trạng nào hơn là ta quên mình hiểm nguy, nên Chí Tôn rất thảm khổ thấy ta chìm đắm trong trường đời. Ta thử tưởng tượng như ta làm cha mẹ đương giữ đại nghiệp cho con, phần hương hỏa đó rất vĩ đại, trong thời buổi còn niên thiếu cho nó đi ra ngoại quốc du học rồi lúc ở ngoại quốc nó không đủ phương sanh sống, cái gia nghiệp ấy nó chưa được hưởng mà không ai giúp đỡ tự nó tìm kế làm thuê làm mướn với tài hay mà sống. Nếu nó sống được với nghề hay nghiệp giỏi, với cái thiệt tài của nó thì không nói gì, ngặt một nỗi nó không sống được theo phương pháp quân tử, nó phải hạ mình xuống đi ăn trộm ăn cướp bạo tàn, điếm đàng, lường dối, làm đủ tội lỗi với phương sống đê hèn đó của đứa tiểu nhơn, thì ta thử hỏi ông cha hay bà mẹ cầm cái đại nghiệp ấy, sẽ đau đớn thương tâm như thế nào chớ?
Thật ra Ðức Chí Tôn cũng dường đó, một đám nhơn sanh như chúng ta đây, Ông đã nói: Của mỗi đứa con Ông còn giữ một đại nghiệp, đại nghiệp ấy không phải của Ông cho, mà là của tự mình chúng ta tạo dựng, nhưng chúng ta lại nỡ quên phứt nó đi, để cho thân thể ra hèn tiện, khổ não, truân chuyên, mà cái đại nghiệp kia ta lại không thể bảo trọng được. Nếu đương đầu với mạng sống mà ta không tự tỉnh, kiếm phương pháp sống cho chí thành, rủi tìm cái sống theo quỉ pháp, thử hỏi Ðức Chí Tôn sẽ đau đớn như thế nào nữa? Thầy đã nói: "Gia tài của các con Thầy không bao giờ lấy cho kẻ khác, kỳ dư kẻ nào chê bỏ". Nếu chúng ta thất nghiệp cả của cải phụ ấm do nơi ta đào tạo ấy mà ta trở bước hưởng lại không được là tại nơi ta từ chối, tự ta quên mình mà từ bỏ cái đại nghiệp ấy. Ta sống một trăm tuổi có nghĩa gì đâu? Ví như mỗi phen có một đám xác đi qua, thì dường như người quá cố nhắc nhở ta một điều gì? Người chết ấy nói với ta rằng: "Tôi đi đây là đến cảnh thiệt, còn quí ngài ở lại đó là cảnh giả đa nghe!". Phải sáng suốt đặng phân thiệt giả, mới bền giữ cơ nghiệp thiêng liêng, chớ đời sống phàm gian là một khổ hải đa nghe!
Nhơn loại bao giờ mới tỉnh cơn mơ mộng tàn ác mà tìm cho được cái sống Thánh đức cao siêu? Vì cớ cho nên mỗi đứa chúng ta, dầu lao khổ, truân chuyên, dầu nhiều phen bị khảo đảo khổ hạnh, mà dường như tinh thần ta thấy khoái lạc hơn nữa, là tại sao vậy? Tại ta biết rằng sự khảo đảo hình xác nầy không phương gì mà động chạm đến phạm vi đại nghiệp của ta kia đặng, bất quá là bóng dáng mà thôi, mà hễ không động đến được thì ta biết rằng ta có thể bảo thủ được, không sợ mất của thiêng liêng ta đã sẵn có.
Nếu cả mấy em biết nghe theo chơn lý vô cùng vô tận của thiêng liêng hằng sống ấy, bảo trọng được cái cảnh thiệt tướng ấy thì hay hơn là trọng cái sống của thế tình mơ mộng. Mấy em chỉ nên sợ một người mà thôi, ngoài ra dưới thế gian nầy không còn sợ ai hết. Kẻ nào có quyền thế thì chỉ có giết chết thân ta là hết chuyện. Còn các em, các con, phải sợ người mà chẳng những có thể giết thi hài của mấy em, mấy con, mà còn tận đọa tam đồ chi khổ, lại còn truất cả đại nghiệp của mấy em và mấy con nữa. Người ấy là Ðại Từ Phụ vậy
Q.2/15: NHIỀU KẺ ĐƯỢC GỌI MÀ ÍT NGƯỜI ĐẾN.
Tại Ðền Thánh, thời Tý đêm 21 tháng 2 năm Mậu Tý (dl. 31-03-1948)
Nói về chữ hiếu thật là quá rộng rãi bao la, nên Nho giáo nói không hết được. Ví như có câu rằng: Quạt nồng ấp lạnh, nghĩa là khi cha mẹ nóng nực thì quạt cho mát, khi cha mẹ lạnh thì đắp cho ấm, đó là câu nói để tỏ tâm hiếu của con cái theo thế thường tình nhỏ mọn mà thôi, chớ đối với Phật Mẫu không có một điều gì ta làm đặng đền công sanh thành dưỡng dục của cha mẹ mà gọi là hiếu, bởi mình không phương thế trả cái hiếu ấy đặng bao giờ. Vì vậy mà sách Nho tả không hết được.
Ấy vậy, có hiếu tức là phụng sự cho cha mẹ đủ mọi phương diện theo hoàn cảnh của mình. Làm con mà muốn nói mình có hiếu mà Ổng mặc kệ Ổng, mình mặc kệ mình, có khi cả đôi tháng hoặc suốt năm không thăm viếng, đợi tin chết đặng về để tang, bằng không chết thì thôi, Ông Bà sống tự họ, mình sống tự mình.
Rủi nghe ai nói: Ông Cha bị cảm nặng, bị lạnh rét sao chú nó hoặc cô nó không về thăm thì lại nói rằng: "Tôi cũng lạnh gần chết tôi đây, nhà tôi ở xa, ổng lạnh ổng ở nhà, tôi đi đường xa đây tôi còn cảm nặng đau hơn ổng nữa" vậy. Ðối với cha mẹ mình phải báo hiếu trọn cả kiếp sanh cũng chưa vừa, càng khổ não, khó khăn chừng nào thì tâm hiếu ấy mới quí, mới trọng.
Ðối với Chí Tôn cũng thế. Ðêm hôm qua đi cúng chỉ có một ít người thôi, đó là tâm đạo theo Trời mưa nắng! Lại đổ thừa đi mưa sợ cảm sổ mũi nhức đầu. Tội nghiệp Chí Tôn rủi có lạnh không ai đến cho mà chớ, mà Người chắc không lạnh nên không cầu lụy chi mình, chỉ mình không hưởng ơn riêng, sợ buổi trút hồn là khổ não.
Trong Thánh Giáo Gia Tô có câu chuyện như thế nầy: Ðức Chúa Jésus Christ nói: "Nhiều kẻ được kêu mà ít người đến" (Il y a beaucoup d'appelés mais peu de venus) ý nói rằng con cái của Ðức Chí Tôn thì nhiều mà hạng đặng siêu rỗi vẫn ít. Có người đó cũng có học thức nghe vậy tức mình nói: "Ðấng Cứu Thế đến siêu rỗi thì siêu hết, chớ có lý nào kêu lại không đến, Thánh giáo nói làm sao vậy chớ?" coi bộ bất bình lắm.
Ðến ngày lễ Ðức Chúa Giáng Sinh, tuyết trời lạnh lắm, mà anh ta cũng làm chức trùm hay cậu gì trong Ðền Thánh đó, nhưng đến buổi lễ thấy Ðền Thờ trống trơn. Ông Cha mới kêu anh ta lại, vừa cười vừa nói rằng: "Nhiều người kêu mà ít kẻ đến là vậy đó." Anh ta nhớ lại lời mình vấn nạn khi trước, bắt thẹn thuồng mắc cở.
Nếu nền Ðạo của Chí Tôn phải tùng theo sự nồng lạnh mà thạnh hay suy, thì đây về sau, Bần Ðạo tưởng nếu trời mưa miết ắt diệt Ðạo Cao Ðài nầy đặng có phải?
Q.2/16: VẬN MẠNG CỦA NƯỚC VIỆT NAM HIỆN THỜI.
Tại Ðền Thánh, đêm 23 tháng 2 năm Mậu Tý (dl. 02-03-1948)
Ngày nay Bần Ðạo hạ san một lần nữa, bởi vấn đề tương lai, vận mạng của nước Việt Nam chúng ta tới giai đoạn rắc rối không giải đặng.
Bần Ðạo phải liệu một giải pháp nào đặng làm cho thái bình đặng cứu vãn tình thế của nòi giống Việt Nam, bằng chẳng vậy thì như trước mắt chúng ta thấy trường lưu huyết vô lối mà tàn sát chúng sanh rồi đó. Khi Bần Ðạo bị đồ lưu hải ngoại (Madagascar) trở về thấy thời cơ đang rối rấm, cuộc cờ nước nhà đã lâm vào lối bế tắc không thế thắng được. Nhưng nhờ đức tin vững vàng nơi Ðức Chí Tôn mà Bần Ðạo tìm phương thế xóa bỏ bàn cờ nầy, sắp làm bàn cờ khác giao cho họ giành, nhưng họ đi thế nào mà tới đây lại bị bí nước nữa. Nước bí nầy thật là khó gỡ, mà cũng theo đức tin quá mạnh nơi Ðức Chí Tôn, Bần Ðạo tìm giải pháp đặng thí nghiệm, đắc thành chăng là do nơi ở nhà cầu nguyện cho giỏi, để tâm mỗi ngày đừng lo ra, đem cả tinh thần thống nhứt lại cầu nguyện cho Bần Ðạo làm được đắc thành kết liễu.
Tấn tuồng nầy rắc rối chẳng khác như Bần Ðạo nói bóng, rán tìm hiểu, trong gia đình một ông cha cầm cái giấy nợ từ lâu mà đòi không đặng, nhà lại nghèo khổ, con cháu anh em tông tộc rầu buồn, có một chú ba nài (cornac) cũng cha Hồ chú Nhẫn gì đó, đến dụ dỗ nói rằng: Có thể đủ tài năng đòi nợ, rồi thâu đoạt giấy nợ đi, vị Trưởng Tộc tính đòi đặng giao cho nó cái chủ quyền đó, rồi ra khỏi nhà của mình, chú ba nài đòi không ăn thua gì cả, đáo để nợ đòi không được mà trong Tông đường hao tốn tiền của mồ hôi nước mắt nữa. Ông Trưởng Tộc mới tính về đòi lại, cái chú ba nài kia nhồi sọ cả Tông đường đó nghe lời của chú. Ông Trưởng Tộc muốn về thì chủ nợ nói: "Ông hỏi cả Tông đường của ông, nếu nhìn cái quyền của ông thì tôi trả cho". Còn đối với Tông đường đó thì chú lại nói: "Coi chừng ổng về đòi rồi ổng lấy luôn một mình ổng đa". Hiện giờ phải giải quyết làm sao cho người thiếu nợ phải trả, làm sao cho ông Trưởng Tộc đó minh biện cho người phải trả, hai vấn đề đó Bần Ðạo cần giải quyết trong chuyến đi nầy.
Q.2/17: ĐÒI LẠI CHỦ QUYỀN CỦA NƯỚC VIỆT NAM.
Tại Ðền Thánh, đêm rằm tháng 3 năm Mậu Tý (1948)
Sau khi Bần Ðạo đã làm xong phận sự đối với quốc gia Việt Nam, với chủng tộc Việt Nam y như Thánh ý của Ðức Chí Tôn đã hứa hẹn từ trước, Bần Ðạo để lời cám ơn toàn thể con cái của Ngài.
Chư Chức Sắc Thiên Phong Thánh Thể của Ðức Chí Tôn cũng vậy, và toàn Ðạo Nam Nữ cũng vậy. Cả thảy đều giúp Hộ Pháp một cách huyền bí, không phương gì tả đặng. Sự liễu kết cho tương lai quốc gia nòi giống nầy, quả quyết chắc chắn do trong khối óc của Thánh Thể của Ðức Chí Tôn và toàn thể con cái của Ngài sản xuất đó vậy, có một điều lạ chướng mà Bần Ðạo không phương suy nghiệm đặng, là khi Bần Ðạo hạ san với giải pháp mới trong tay, cầm xuống kinh thành thì Bần Ðạo tưởng rằng sẽ gặp điều khó khăn, không thể giải quyết đặng với nhà chưởng quyền của Ðại Pháp. Trái ngược lại, Bần Ðạo thấy một tinh thần của một nòi giống công chánh, đã hiển nhiên hiện trước mắt Bần Ðạo, là người đã thấu đáo việc mình đương hành động và người ta đợi mình nói việc mình đang làm đó, mà mình lại không nói, không làm cho người ta hiểu. Có lạ gì, tình trạng của một nước đã đánh tan quân chủ, lập nên dân quyền làm đầu vạn quốc, về Pháp Chánh ấy mà người ta tức tại sao toàn cả quốc dân Pháp lại tự nhiên coi dân chủ là trọng, mặc dù muốn hay không mà Pháp Chánh buộc thì người ta phải tôn sùng, tức là xu hướng theo đó. Lại nữa vạn quốc còn để mắt coi hành tàng của người ta là lẽ tự nhiên, đó là điệu nghệ sở trường, họ muốn đến bảo thủ mà khỏi mỉa mai miệng thế, nhưng công chánh của nhà chưởng quyền nước Pháp sẵn có, chúng ta chỉ nhắc lại mà thôi. Ðại nghiệp của Việt Nam người Pháp đã lấy trong tay của nhà vua, thì phải trả lại cho nhà vua, không thể trả lại cho ai khác đặng, mà ít nữa trả cũng có người đứng lên nói chớ. Người ta đợi mình nói, mà mình không nói, vì vậy mà hai năm nay chiến đấu bằng một cách vô lối. Trái ngược lại Bần Ðạo đã đến giáp mặt và đã thấy thiên hạ hưởng ứng nhìn nhận chánh lý lời nói của mình là nước Pháp sẽ trả độc lập và thống nhứt cho nước Việt Nam.
Lạ lùng thay! Con đường khó mà thành dễ. Còn bây giờ tới đoạn đường mình tưởng dễ mà thành ra khó, là nhà vua của mình là Bảo Ðại chần chờ chưa quyết định, làm khó, trở ngại người ta, nghĩ cũng buồn cười, nhưng dù sao Chí Tôn cũng đã định sẽ kết liễu y như Thánh ý của Ngài, không khi nào sai chạy đặng.
Bần Ðạo đã thường giảng rằng: Dầu cá nhân, dầu gia đình, dầu quốc gia, xã hội, dầu cho toàn thể nhơn loại trên mặt địa cầu nầy phải chịu trong khuôn luật quả kiếp của tòa chánh trị và Ngọc Hư Cung, là Tòa Tam Giáo đang nắm quyền Càn Khôn Thế Giái rất nghiêm khắc và oai quyền, oai lực ấy vô đối, không quyền năng nào đối thủ đặng. Trên quyền ấy có mấy vị Phật thuộc Cực Lạc Thế Giới vi chủ quả kiếp, nên dù cho Chí Tôn cũng không sửa cải định án của họ đặng.
Ta thấy ngày nay, toàn quốc dân Việt Nam đương oằn oại trong sự thống khổ cốt nhục tương tàn, ta thử xét cao hơn nữa, thì ta thấy quả kiếp dựng hình tướng các đời Ðinh, Lê, Lý, Trần, Lê tới ngày nay ta thấy giống nòi Việt Nam gây ra biết bao nhơn quả. Ta xem cộng thử Việt Hớn mà đoán buổi sau nầy nào là Tây Sơn, nào là Mã Ngụy, hễ có vay ắt có trả, tấn tuồng ngày nay diễn lại là tấn tuồng tổ tiên đã làm hồi trước. Một quốc gia diệt Tây Sơn thế nào, thì ngày nay cũng diễn lại y như thế ấy. Quả kiếp đã xuất hiện rồi, ta trách ai, ta phiền ai, ta than khổ với ai, trước đã làm nay phải chịu! Cho đến nước, cái Ðại nghiệp Thiêng Liêng do Ðức Chí Tôn đến tạo nơi mặt thế nầy, mà cũng phải chịu ảnh hưởng hay không cũng nguy khốn mà chớ.
Nếu Bần Ðạo không thủ pháp cho oai nghiêm, thì cũng chẳng khỏi sự tranh quyền đoạt vị trong cửa Ðạo nầy. May thay! Bần Ðạo có đủ oai quyền vay trở các quả kiếp ấy, làm cho Thánh Thể của Ðức Chí Tôn khỏi bợn nhơ quả kiếp, mà tránh được Thiên điều. Rồi đây, chúng ta mở mắt coi lịch sử của Ðời và lịch sử của Ðạo, cũng như hình với bóng, y như nhau không phương nào khác được.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 15-03-Mậu Tý nhằm ngày (dl. 23-04-1948).
Q.2/18: QUỐC ĐẠO KIM TRIÊU THÀNH ĐẠI ĐẠO,
NAM PHONG THỬ NHỰT BIẾN NHƠN PHONG.
Tại Ðền Thánh, đêm mồng 1 tháng 4 năm Mậu Tý (1948)
Bữa nay Bần Ðạo giảng một vấn đề trọng yếu nhưng chẳng giảng một bữa mà đủ, nên cần phải tiếp tục nhiều lần Bần Ðạo mới giảng dứt. Sau một buổi lễ cúng rồi, thì giờ lên giảng đài rất ít, Bần Ðạo phải thúc nhặt lại là vì mỗi lần hành lễ rồi cả thảy đều mệt. Bần Ðạo sẽ liệu phương sắp đặt lại là giảng trước giờ hành lễ. Theo trong bài thi của Ðức Chí Tôn gởi cho Hoàng Ðế Bảo Ðại có hai câu yếu trọng cho nền Thánh giáo Chí Tôn hơn hết là hai câu nầy:
"Quốc Ðạo kim triêu thành Ðại Ðạo
Nam phong thử nhựt biến Nhơn phong"
Hai câu nầy chúng ta hiểu rằng, Ðức Chí Tôn muốn nói với Ngài Bảo Ðại nền Quốc Ðạo của Người, ngày nay đã thành Ðại Ðạo, trong chữ Ðại Ðạo bao trùm cả đức tin loài người, câu thứ nhì "Nam phong thử nhựt biến Nhơn phong" chữ phong không phải là gió, nó có nghĩa lý lắm! Phong đây là phong tục, Chí Tôn muốn nói phong tục nước nhà của Người sẽ làm nền phong hóa của loài người, hai câu ấy chúng ta nên đoán xét, suy gẫm coi Ðức Chí Tôn vì thương mà quá lời không? Thảng như Tôn giáo nào kích bác họ sẽ nói Chí Tôn tự tôn, tự trọng, hay là họ có đức tin hơn nữa họ có thể họ bàn luận rằng:
Chí Tôn vì quá thương mà nói. Vậy chúng ta thử coi nền Quốc Ðạo của chúng ta sẽ trở nên nền Tôn giáo của toàn cầu chăng? Và phong hóa chúng ta có thể thay thế cho cả nhơn loại trên mặt địa cầu nầy chăng? Chúng ta nên quan sát, suy gẫm rồi tưởng tượng coi có thể đặng vậy không? Có thể được và Bần Ðạo tin quả quyết rằng nó phải như vậy đó. Tội nghiệp thay! Một sắc dân đã từng bị nước Trung Hoa khắc phục, tuy chịu trong hoàng đồ, chúng ta có một lịch sử trong 4.000 năm tranh đấu, vẫn tự do, độc lập không chịu tùng mạng lịnh của Trung Hoa. Nước chúng ta như cái vải áo, còn Trung Hoa như cái áo, chúng ta không có lý lẽ gì từ chối tinh thần một sắc dân anh dũng ấy, nó phải nương cái năng lực nơi chỗ nào? Ấy là nương tinh thần Ðạo giáo nước nhà của nó, chúng ta phải chịu ảnh hưởng trọng hệ hơn hết của hai nền Tôn giáo Trung Hoa thọ giáo Ấn Ðộ dạy chúng ta tu cho được chí thiện, chí nhơn, Phật giáo bên Ấn Ðộ dạy chúng ta tự tu đặng đạt đại từ đại bi. Hai cái khối tinh thần hiệp nhau lại làm một nền Tôn giáo, để được bảo trọng tinh thần quốc túy của mình.
Chí Tôn đã nói cùng người Pháp: Từ thử một sắc dân ấy chỉ biết nô lệ chưa biết vi chủ, vì vậy mà Ta đến bồi thường sự bất công ấy, Ðạo giáo đã dạy chúng ta chí thiện chí nhơn, đại từ đại bi, tinh thần đó vậy, hỏi vậy ngày nay chúng ta phải tùng hay chăng? Tôi dám chắc giọt Cam Lồ ấy, tinh thần loài người đã khao khát, để bảo tồn sanh mạng, bằng chẳng vậy thì nhơn loại phải tự diệt mà chớ.
Tại sao tự diệt? Chúng ta thấy trường hổn độn một nền văn minh gồm có tinh thần duy vật mạnh mẽ mà chớ, cái chánh sách của loài người chạy theo duy vật đương nhiên thì mặt địa cầu này chưa hòa bình vì họ chỉ biết tranh sống với duy vật, chớ chưa sống với tinh thần chí thành, cái quyền năng của Ðạo giáo Gia Tô mạnh mẽ dường nào mà ngày nay phải thoái bộ trước năng lực của toàn cầu, còn Ðạo giáo mà đến thay thế đặng cái năng lực ấy, rồi đây cũng chưa chắc quyết thắng tấn tuồng tương lai, mà vật chất sẽ dẫn đến con đường tử lộ không phương cứu chữa, duy có Ðức Chí Tôn đến cứu loài người mà thôi.
May thay! Trong nòi giống tổ phụ chúng ta để lại một tủ thuốc, tủ thuốc ấy ngày nay lấy ra làm món thuốc cứu cả tinh thần nhơn loại trong hoàn cầu này và trong tủ thuốc thiêng liêng đó để làm vị cứu sanh, tức nhiên là cái phương cứu khổ chẳng khi nào sai chạy. Nhưng vì chẳng đủ năng lực để cứu thế, đem hoàn thuốc hằng sống ấy bảo tồn sanh mạng loài người.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 01-04-Mậu Tý nhằm ngày (dl. 09-05-1948).
Q.2/19: Giảng tiếp câu Thánh ngôn:
QUỐC ĐẠO KIM TRIÊU THÀNH ĐẠI ĐẠO,
NAM PHONG THỬ NHỰT BIẾN NHƠN PHONG.
Tại Ðền Thánh, đêm mồng 5 tháng 4 năm Mậu Tý (1948)
Bần Ðạo ngày nay giảng tiếp câu Thánh ngôn "Quốc Ðạo kim triêu thành Ðại Ðạo" của Ðức Chí Tôn, giảng hôm kỳ lễ vừa rồi. Bần Ðạo để đại khái đề mục cho toàn cả tiềm tàng thử coi nền Tôn giáo của chúng ta sẽ biến tướng ra thành Ðại Ðạo là chỗ nào? Nó đã đem cái gì cho nhơn loại về mặt tinh thần đạo đức mà biến ra đại đồng. Chúng ta đã ngó thấy nguyên do Ðạo giáo bao giờ loài người phải chung họp lại với nhau, nào xã hội, nào là gia đình, dầu trong buổi ăn lông ở lổ loài người chẳng hề qua mặt luật thiêng liêng đó đặng. Buổi ấy, tất cả có bí pháp, hội họp gia đình; Ðức Chí Tôn duy có một mình, Ngài phân ra mới có Phật Mẫu, Ngài phân ra đệ nhị quyền hiệp lại đệ nhứt quyền, đủ quyền năng tạo ra Càn Khôn Vũ Trụ để lập gia đình cho loài người đó vậy. Nhờ Chí Tôn phân tánh là bí pháp lập thành xã hội đó, chúng ta đã hằng tưởng hiểu cả, loài cầm thú phải có hiệp lại mà biến sanh được, giải rõ là trống mái, đực cái hay nam nữ vậy, nó tương liên trước mặt chúng ta, hoặc một cách âm thầm bí mật, vậy loài người bao giờ cũng có xã hội nhơn quần, gia đình, vì mặt luật buộc như vậy, lời chúng ta thường nói: "Chưa ai ở đất nẻ mà chun lên".(*)
Mỗi cá nhân đều có nguyên do căn bản. Hại thay! Xã hội bình quyền tức nhiên mặt địa cầu ngày nay bị một quyền năng vật chất ấy nương với quyền năng tinh thần mà loài người đạt đến địa vị cao trọng và đạt cơ mầu nhiệm của tạo đoan, đời có triết lý, khoa học làm cho đảo lộn tinh thần, họ làm rồi họ tự kiêu là làm chủ cả cơ quan bí mật của loài người, tự khoe mình là Trời; tự kiêu, tự đắc, tự tôn, tự đại, chúng ta đã thấy họ từ chối mọi lẽ thiên nhiên. Ngày giờ nhân loại xu hướng theo phương pháp vật hình, quyền năng khoa học, lý thuyết quái gở dị đoan ấy, làm cho tinh thần loài người ngu xuẩn, cho rằng không Trời, không Ðất, tức nhiên không Ðạo, không người, không xã hội, không gia đình; sống như con vật chung hiệp với nhau đồng sống vậy thôi. Sống không quyền lực tinh thần vi chủ, không thể nào nhơn loại tự bảo tồn cho dân chúng đặng mà tránh khỏi nạn tiêu diệt, họ coi mạng sống của loài người là một vật dụng, để hưởng hạnh phúc sung sướng, lường gạt, buộc tinh thần loài người làm nô lệ cho vật hình, chúng ta thấy tấn tuồng nguy ngập, xô đẩy loài người đi đến diệt vong.(*)
Tổ phụ chúng ta sống từ thượng cổ đến nay 3.000 năm, một vị chí Thánh để lưu lại cho đời mực thước niêm luật xã hội, nhơn quần, Ngài định phải có gia đình, có tông tổ, có xã hội, Ngài lập pháp trọn trong điều ấy, từ thường dân chí Vương Ðế, không ai ra khỏi mặt luật.
Tổ phụ chúng ta chịu Ðạo giáo để lại sự thờ phượng tông tổ gia đình chúng ta, tức nhiên thờ kẻ quá vãng, ta coi người chết như sống, chúng ta tôn sùng mạng sống của con cái Người, vì loài người là Thiên hạ mà Thiên hạ là Trời.
Chúng ta biết nhìn nhận Trời trên mặt địa cầu, chúng ta biết thờ phượng Trời, tức nhiên thờ loài người đó vậy. Ðạo giáo chúng ta để lại 2.000 năm, vậy điều trọng hệ là thờ Trời và thờ Người, buổi hổn độn nầy, nhơn loại vì khoa học mà đi đến một đường tử lộ. Chúng ta cần đến Ðạo giáo phô trương trên mặt địa cầu nầy cho nhơn loại họ biết tự tỉnh để trụ cả tánh loài người lại, hưởng hoàn thuốc cứu sanh mạng họ.
Bần Ðạo giảng lần trước, tiếp kỳ nầy kết luận là huờn thuốc thờ Trời và thờ Người, thảng vạn loại phản phúc mà còn chối nữa thì chịu tận diệt mà thôi.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 05-04-Mậu Tý nhằm ngày (dl. 13-05-1948).
Cuối những đoạn có dấu (*): Ðể cho người đọc được dể dàng, chúng tôi xin mạn phép phân đoạn tại những nơi có dấu (*). Nguyên bản chánh không có phân đoạn tại những nơi ấy. Kính cáo.
Q.2/20: Giảng tiếp câu Thánh ngôn:
QUỐC ĐẠO KIM TRIÊU THÀNH ĐẠI ĐẠO,
NAM PHONG THỬ NHỰT BIẾN NHƠN PHONG.
Tại Ðền Thánh, ngày 14 tháng 4 năm Mậu Tý (1948)
Hôm nay Bần Ðạo giảng tiếp Thánh ngôn của Thầy câu: "Quốc Ðạo kim triêu thành Ðại Ðạo, Nam phong thử nhựt biến Nhơn phong". Chúng ta quan sát coi nền Quốc Ðạo của chúng ta có phương thế gì để làm một nền Tôn giáo cho hoàn cầu?
Ðương nhiên bây giờ, cái tinh thần của loài người chỉ xu hướng theo trí thức đương nhiên của họ. Họ có thể được cái hành vi bí mật thiêng liêng mà lập nên cơ giới phi thường ở mặt địa cầu nầy. Nhưng cái cơ giới ấy do nơi hóa công sản xuất ra tâm não của kẻ trí thức thông minh đặng bảo vệ sanh mạng của loài người và lập hạnh phúc cho loài người.
Trái ngược lại, những hạng trí thức thông minh ở trong thời đại nầy, đều nảy sanh do một tâm lý khoa học mà thành hình, rồi tâm lý khoa học ấy trở lại tàn sát sanh mạng của loài người, đó là đến những cảnh bạo ngược. Hơn nữa, trước mắt chúng ta đã ngó thấy hai trận giặc trên hoàn cầu đã giết hại nhau, nên hiện giờ trên mặt địa cầu đã tự giết chết bao nhiêu mà kể.
Cái trí thức tinh thần ấy có làm gì cho đồng bào và thời đại nầy đặng hạnh phúc chăng? Trái lại, nó đem cho đời một tấn tuồng thống khổ trước mắt cả thảy. Bần Ðạo chỉ nhắc lại cho con cái của Ðức Chí Tôn thấy rõ, nhơn loại hiện nay đã xu hướng theo hạng trí thức tinh thần khoa học thì có kể đâu là thương chủng tộc, nên ngày nay đã gây ra biết bao tấn tuồng thê lương thảm đạm, nhơn loại hết yêu ái nhau, mà trái lại người với người họ đối nhau còn quá hơn thú dữ, người với người mà họ chưa biết tôn trọng mạng sống với nhau, họ lại đoạt mạng sống của nhau đặng tìm hạnh phúc.
Mặt địa cầu nầy, sanh ra các đảng phái nào thì chỉ biết tương tàn tương sát với nhau mà thôi, họ không kể gì là sanh mạng của con người ra thế nào cả. Họ không biết tôn trọng mạng sanh của loài người, họ chỉ biết lấy xương cốt của loài người mà lập đài danh dự của họ thôi. Cái mục đích bạo tàn của họ, chúng ta đã thấy hiển nhiên trước mắt, cái thảm khổ của đời mà chưa hề có ai thấu rõ tâm lý khổ não của đời, đem lòng thương hại đến nhơn sanh.
Từ Phật giáo ra đời đến bây giờ, tinh thần của loài người mới biết thương hại cho nhau, một nơi nào có một tâm hồn ưu ái thì các Tôn giáo đương nhiên trước kia là một huờn thuốc để cứu chữa cái bịnh thảm khổ của loài người nơi mặt địa cầu nầy, nhưng nay huờn thuốc cứu chữa ấy để tại mặt thế nầy, nó không thể trị đặng một bịnh tinh thần, khoa học đương nhiên của họ đã sản xuất trên mặt địa cầu nầy. Thử hỏi chúng ta có đem gì hạnh phúc cho họ không? Chúng ta chỉ biết đem hai chữ nhơn nghĩa mà lập nền hạnh phúc cho họ thôi.
Tuy vậy, nòi giống của chúng ta là một sắc dân chiến đấu, một sắc dân oanh liệt, từ xưa tổ phụ ta biết hiền lành, biết kỉnh trọng, biết thương yêu, kỉnh trọng mạng sống của loài người lắm, cái tánh thông thái, cái tánh thông minh của tổ phụ của chúng ta sản xuất trong một nguồn cội từ lành, không điều gì đem đến trước mắt tổ phụ của chúng ta, mà tổ phụ chúng ta tìm tòi không đặng.
Nước Việt Nam ở trong khoản đất phì nhiêu nên tổ phụ chúng ta biết trọng sanh mạng con cái của Trời, biết nhận nhơn loại là anh em, là cốt nhục, đồng chung mà ra, biết nhìn câu: "Tứ hải giai huynh đệ"; tổ phụ ta biết thương yêu nhơn loại, bất kỳ là một sắc dân nào, một nòi giống nào có trí thức cao minh làm cho loài người đặng hạnh phúc thì tổ phụ ta kỉnh trọng tôn thờ vậy. Một nền Tôn giáo nào đến nước Việt Nam ta truyền bá thì tổ phụ ta kỉnh trọng tôn sùng ngay. Nên mối Ðạo nào vào nước Việt Nam ta đều được kết quả mỹ mãn. Lòng mộ Ðạo của tổ phụ ta trước kia lấy lương thiện làm căn bản, lấy nhơn nghĩa làm môi giới, cái sự tôn nghiêm của tổ phụ ta từ thử hiển nhiên chúng ta đã ngó thấy.
Trong nước hiện giờ thì có các Ðạo giáo thanh liêm chánh trực đang làm cha mẹ cho dân, cái tinh thần tạo hạnh phúc cho dân, một trang anh dũng biết bảo trọng nền quốc túy, nâng đỡ nước nhà, biết tôn sùng nhơn nghĩa, chúng ta đã ngó thấy các Ðạo giáo của chúng ta đem cái nhơn nghĩa làm huờn thuốc liệng vào tâm lý của loài người là có thể trị đặng cái tinh thần bạo ngược của họ.
Nhơn loại vì quá ỷ tài sức nương theo cái tinh thần khoa học mà làm mất cái tinh thần căn bản nhơn luân. Nên nay ta đem cái đạo nhơn nghĩa mà thức tỉnh loài người, đặng cho họ nhìn với nhau vì danh nhơn nghĩa hầu thương yêu nhau, dắt nhau đi đến chủ nghĩa đại đồng.
Cái nền nhơn nghĩa của chúng ta, nó có thể làm môi giới cho các chủng tộc trên thế giới, đạo nhơn nghĩa của chúng ta là một căn bản của quốc thể của nước Việt Nam và có thể thành Quốc Ðạo được.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 14-04-Mậu Tý nhằm ngày (dl. 22-05-1948).
Q.2/21: Giảng tiếp câu Thánh ngôn:
QUỐC ĐẠO KIM TRIÊU THÀNH ĐẠI ĐẠO,
NAM PHONG THỬ NHỰT BIẾN NHƠN PHONG.
Tại Ðền Thánh, thời Tý mồng 5 tháng 5 Mậu Tý (dl. 11-06-1948)
Hôm nay Bần Ðạo giảng tiếp câu Thánh ngôn của Ðức Chí Tôn "Nam phong thử nhựt biến Nhơn phong". Bữa trước Bần Ðạo đã giải rõ đại công của nền nhơn luân phong hóa của ta. Nay ta sưu tầm căn nguyên của Nam phong coi do đâu mà sản xuất. Bần Ðạo đã giảng là cốt yếu muốn thực hành phong hóa nhà Nam, phải do nơi Nho tông mà làm căn bản.
Thời kỳ nầy Chí Tôn đến, lấy Nho tông để chuyển thế và thi thố cho cả toàn cầu vạn quốc một triết lý tối tân, đặng chỉnh đốn sửa đương những tệ tục tồi phong của nhơn loại mà đem vào Thánh chất của con người. Ðức Chí Tôn đã tìm định đến đặng sửa đương. Vậy ta nên tìm hiểu Nho tông là thể nào? Ðã cho ta vật gì? Có đủ phương tiện mà chuyển thế đặng chăng? Trước hết ta phải biết trong tay ta có khí cụ gì rồi mới có đủ can đảm xông pha ra chiến trường quyết thắng, tìm xem coi nhơn loại đang thiếu thốn điều gì và xem coi nhơn loại đang tìm kiếm vật gì, mà vật ấy chúng ta có hay không?
Nói đến Nho tông, thì chẳng còn gì phải biện thuyết nữa, vì đã có chẳng biết bao nhiêu là Hiền môn, Thánh tích để lại từ thử. Kể từ ngày Ðức Khổng Phu Tử giáng thế đã hai ngàn năm trăm (2.500) năm, nếu ta suy xét cao xa hơn nữa thì ta thấy Ðạo Nho phát sanh từ vua Phục Hi là tối cổ hơn hết. Ta không thể tìm đâu xa hơn nữa, duy biết rằng Ðức Khổng Phu Tử học Nho của ông Châu Công, đặng chỉnh đốn lại Ðạo Nho, khi Ngài đến tại thế nầy vậy.
Ðạo Nho đã làm được những gì? Ta thấy Ðạo Nho của chúng ta có Hội Thánh mà Hội Thánh ấy bí ẩn khéo léo lạ lùng duy có một người có thể kiến thiết quốc phong của một nước mà thôi, chớ không đủ năng lực chuyển cả tâm lý toàn cầu được. Vì sự khuyết điểm ấy, Ðức Chí Tôn mới đến lập Hội Thánh, đền thờ của Ngài kêu là Cao Ðài, danh từ đó chỉ rõ đền thờ cao trọng của Ngài tại thế nầy, tiếng Pháp gọi là Haute Église (nghĩa là đức tin cao trọng).
Hỏi Hội Thánh của Ðạo Khổng lập quốc thế nào? Ta thấy Hội Thánh của Ðạo Khổng trong gia đình làm gia pháp biến sanh ra phong hóa gia nghiêm đó vậy. Người chưởng quản gia đình tức là giáo sư, Hội Thánh của Ðạo Khổng tức là ông cha, nên thiên hạ thường kêu là chủ gia.
Trong hương đảng có Hội Thánh của hương đảng, theo cổ tục thì ông Hương Chủ là chủ của Hội Thánh hương đảng, còn chức Hương Cả và Ðại Hương Cả là người ta mới bày ra sau đây mà thôi. Trong hương lân ngày xưa, chức Hương Chủ là lớn hơn hết vậy. Khởi đầu trong gia đình, rồi mới tới hương lân, rồi mới ra đến quốc gia, người chủ của quốc gia ấy là nhà Vua. Ông cha ta trong gia đình, ông Hương Chủ trong hương thôn, ông Vua trong nước, cả ba người ấy giữ ba giềng mối đạo, phụng thờ ba Tôn giáo. Tổng số ba Tôn giáo ấy lại là Nho tông.
Ông cha trong nhà thì thờ Tiên Tằng Tổ Khảo của Tông Môn, ông là giáo sư, là thầy cả trong gia đình. Ông Hương Chủ thì thờ Chư Thần tức là cả Công Thần vì nước mà hy sanh tánh mạng, được nhà Vua ân tứ làm chủ hương lân, nên trong làng ta chỉ thấy có đình thờ Thần thiên thu phụng tự mà thôi, nên ông Hương Chủ là thầy Cả của làng. Nhà Vua thì thờ Ðức Chí Tôn tức là Ngọc Hoàng Thượng Ðế, ta thấy sự tế tự Ðấng Chí Tôn ấy lưu truyền từ đời thượng cổ, nên hằng niên mới có tế Nam Giao, đó là tế Ðức Chí Tôn vậy.
Từ đời lập quốc đến giờ, trong phong hóa nhà Nam không thấy lúc nào sơ thất sự phụng tự, nếu đoán chắc là nhờ âm chất của tổ tiên ta biết phụng thờ Ðức Chí Tôn, cái thâm tình ấy còn lưu truyền lại mà ngày hôm nay Ngài mới đến đặng đền bồi ân nghĩa ấy lại có lẽ. Thế thì Ngài đến vì Tổ tiên ta đã gieo mối thâm tình nồng hậu, chớ chẳng phải vì sự tình cờ mà Ngài đến nước Việt Nam nầy đâu. Trong phong hóa của ta gồm có: Phong hóa của nhà, phong hóa của làng, phong hóa của nước, tức là phong hóa chung của xã hội nhơn quần Việt Nam ta đó. Bây giờ chúng ta khảo cứu coi Nho tông đối với xã hội là gì? Tức nhiên ta thấy là luật pháp, tuy rằng 86 năm nay bị ảnh hưởng của văn minh Âu Châu, chúng ta lãng quên nền phong hóa tốt đẹp của ta mặc dầu, nhưng tự cổ chí kim chưa nước nào có đặng.
Chí Tôn đã đến, Ðạo Nho có Thất thập nhị Hiền, và Tam thiên đồ đệ, Chí Tôn lập Hội Thánh có Nhứt Phật, Tam Tiên, Tam thập lục Thánh, Thất thập nhị Hiền, và Tam thiên đồ đệ, rõ ràng là Hội Thánh của Ðạo Nho đó. Hiện giờ ta nhận thấy Ngài áp dụng nền chánh trị của nhà Châu đặng lập chánh trị của Ðạo, làm cho cả cơ quan yếu thiết của Ðạo Cao Ðài ra thiệt tướng, đặng đủ năng lực chuyển thế, ta không có gì mà nghi ngờ nữa cả.
Gia nghiêm của ta lập thành do phong hóa của tổ phụ để lại có những gì? Căn bản gia nghiêm hay gia pháp do nhơn luân chi Ðạo, nên lấy nhơn luân làm chuẩn đích, mà nói về nhơn luân thì mỗi người đều biết. Khởi đoan là hôn phối, việc vợ chồng đối với nhau để trọn quyền của ông chủ gia định liệu là người chồng, sau quyền chủ gia ấy lại có quyền nội trợ để cho người vợ, hai quyền ấy vô đối. Ta thấy lối 100 năm trước đây, quyền của cha bảo con chết cũng phải chết, không phải bất hiếu như ngày hôm nay của những kẻ học đòi theo lượn sóng tự do văn minh vật chất, rồi còn trở lại muốn làm chủ cha mẹ. Không, Nho pháp không cho có quyền lực ấy bao giờ. Nho pháp không chịu cho cái giọt máu, cái giọt khí huyết, do vật ấy tạo hình, lại muốn làm chủ vật ấy tạo đoan ra nó, như vậy là sái luật thiên nhiên của Chí Tôn dĩ định. Hỏi vậy cái quyền nắm đạo nhơn luân trong tay của ông cha ta quan sát theo con mắt của đời văn minh nầy thì nói là quyền áp bức có phải? Hại thay! Nếu quyền ấy không chỉnh đốn lại phong hóa của con người đem vào khuôn khổ thuần phong mỹ tục thì cả nhơn loại trên mặt địa cầu nầy sẽ chạy theo hưởng ứng với sự tự do mà đi đến địa vị con vật, là mất hết tính chất làm người đó. Tự do kết hôn, tự do định phận, không cần cha mẹ là những người đã trọn kiếp sanh lịch duyệt thế tình, mà sự lịch duyệt ấy còn vốn thiếu; nên ta hằng thấy cảnh tượng của sự tự do định phận ấy, đã làm bại hoại thân hình, tâm lý con người tại thế thể nào rồi, điều ấy không chối cãi được.(*1)
Bần Ðạo buổi ấu xuân bị ảnh hưởng của tự do, thấy sự kềm thúc của gia nghiêm lấy làm khó chịu. Khi ấy Bần Ðạo đang học Pháp Văn. Lúc về thăm ông thầy Nho, khi đến đó ông mới tường thuật tình cảnh bối rối gia đình của một vị quan viên bà con xa với Bần Ðạo. Vì vợ làm khổ tâm cho chồng là vị quan viên ấy, đến nỗi gia đình phải tan nát. Ông tường thuật câu chuyện nầy vừa xong thì lại than rằng: "Hại thay! Vì buổi trước không phải cha mẹ định hôn, mà tự do kết hôn nên ngày hôm nay mới ra dường ấy". Thừa dịp ấy Bần Ðạo mới vấn nạn ông, Bần Ðạo hỏi rằng: "Gia pháp của ta nghiêm khắc quá lẽ, đến sự chăn con như chúa ngục chăn tù, nếu không có quyền tự do thì con sẽ tối tăm ngu dốt?". Ông lại trả lời rằng: "Không, không phải gia pháp áp bức làm cho con mất tự do đâu, mà trái lại người có quyền lắm chớ, đến nỗi gia pháp định cho mẹ phải tùng con kia mà "tại gia tùng phụ, xuất giá tùng phu, phu tử tùng tử". Quyền của con còn có thể thế cho quyền cha được rồi, thì có áp bức chỗ nào đâu? Chỉ có kềm thúc tâm tình của con cho nó đừng thương ai trước khi thương vị hôn phối của nó, để cho nó đủ đầy tình ái mà thương người vợ tương lai của nó vậy thôi. Muốn định hôn cho con thì trước hết cha mẹ đã lựa chọn tâm lý của vị hôn thê coi có hòa hiệp với tâm tình của con mình không, chứ chẳng phải xem xét tánh đức mà thôi, mà cha mẹ là người lịch lãm thế tình, nên thâm hiểu cả tâm tình của đôi lứa, dầu cho đôi lứa chưa biết nhau trước mà cũng có thể chung khổ cùng nhau, đồng tâm đồng chí thương yêu nhau đặng."
Ðạo nhơn luân khởi thủy từ hôn nhơn, mà Nho phong đã định cho cha mẹ vi chủ, nếu để cho đứa con vi chủ thì chỉ có hư mà thôi, mà gia đình hư tức nhiên sẽ có ảnh hưởng tới xã hội vậy.
Ðây là Bần Ðạo duy mới nói có gia nghiêm mà thôi, vậy bây giờ chúng ta luận về tâm lý. Sự hám vọng tự do quá lẽ, mà đưa tâm lý con người đến mức khả ố, nguy hiểm không thể tả được. Ta thấy nó gieo trên mặt địa cầu nầy một triết lý vô lối là triết lý: Vô phụ, vô quân, không quê hương, không gia đình, bởi vậy ta mới thấy thế tình con sanh ra ngỗ nghịch, không tuân phụ huấn. Thảng như ngoại nhơn có hỏi đến tại sao đã lớn, đã khôn, mà không biết nghe lời phụ huấn cư xử với đời vô để vô nhơn không còn tình thương nhơn phẩm, thì chư Ðạo Hữu biết kẻ bất hiếu kia sẽ trả lời ra sao không? Nó trả lời rằng: Tôi không xin họ sanh tôi, tôi không muốn họ sanh tôi, chẳng qua là họ vì lỡ mà sanh tôi nên họ phải nuôi tôi đó thôi. Ôi! Ân đức thâm sanh thật không còn có nghĩa gì hết.
Những tục lệ ấy nếu Ðạo Cao Ðài không xuất hiện đặng chỉnh đốn lại, sợ e cả nhơn loại trên mặt địa cầu nầy sẽ thành ra ác thú.
Phụ ghi:
(*1) Nơi đoạn thứ 10: Gia nghiêm của ta lập thành do phong hóa của tổ phụ để lại có những gì? ... ... ... Tự do kết hôn, tự do định phận, không cần cha mẹ là những người đã trọn kiếp sanh lịch duyệt thế tình, mà sự lịch duyệt ấy còn vốn thiếu; nên ta hằng thấy cảnh tượng của sự tự do định phận ấy, đã làm bại hoại thân hình, tâm lý con người tại thế thể nào rồi, điều ấy không chối cãi được.
Nguyên bản chánh in là: Gia nghiêm của ta lập thành do phong hóa của tổ phụ để lại có những gì? ... ... ... Tự do kết hôn, tự do định phận, không cần cha mẹ là những người đã trọn kiếp sanh lịch duyệt thế tình, mà sự lịch duyệt ấy còn vốn thiếu; nên ta hằng thấy cảnh tượng của sự tự do, định phận ấy đã làm bại hoại thân hình, tâm lý con người tại thế thể nào rồi, điều ấy không chối cãi được.
Chúng tôi mạn phép trình bày như trên cho rõ nghĩa hơn.
Q.2/22: BẢO THỦ THUẦN PHONG MỸ TỤC.
Tại Ðền Thánh, 12 tháng 5 năm Mậu Tý (dl. 18-06-1948)
Hôm nay, Bần Ðạo tiếp tục khảo cứu phong hóa của dân tộc Việt Nam đối với phong hóa các dân tộc khác, cốt yếu xem coi chúng ta có phương gì chỉnh đốn đạo nhơn luân của họ đặng? Mấy kỳ trước Bần Ðạo đã giảng rằng: Ðạo nhơn luân khởi đoan do chồng vợ, có chồng vợ mới có cha con, có cha con mới có dân tộc lập thành quốc gia xã hội.
Ðương nhiên chúng ta thấy đạo nhơn luân của các sắc dân trên mặt địa cầu buổi nầy đã nghiêng đổ và lung lạc tất cả, nhứt là bên Âu Châu, đạo nhơn luân của họ tồi tệ là thường, Bần Ðạo thấy rất nên bại hoại, từ thử đến giờ chưa nghe ai nói cha lấy con, anh lấy em, mà bên Âu Châu thường có xảy ra điều ấy. Hại thay! Trải qua tám chục năm nay những tánh tình yêu nghiệt ấy lại truyền sang đến nòi giống chúng ta, ngày nay vẫn còn thấy tấn tuồng đó nữa, yêu nghiệt đã biến tướng biểu sao thiên hạ không loạn được. Ðạo nhơn luân đã vậy, tinh thần của con người không còn biết phẩm vị, nhơn cách gì hết, nên hột giống ác nghiệt biến sanh ra mãi thôi. Thành thử nhơn loại ngày nay quá bạo ngược, tương tàn tương sát lẫn nhau, người đối với người còn dữ tợn hơn thú đối với thú nữa, vô nhơn vô đạo, cha không xứng phận cha, con chẳng biết đạo con, anh chẳng ra anh, em chẳng ra em, chồng không nên chồng, vợ không đáng vợ, nền luân lý của nhơn loại trên mặt địa cầu nầy không còn có khuôn khổ gì hết. May thay! Ðạo nhơn luân của tổ phụ chúng ta lưu lại, dầu bị ảnh hưởng của văn minh ngoại bang làm cho ô uế đôi chút, nhưng nhờ Ðức Chí Tôn đến phổ truyền nền Chơn giáo của Ngài nơi đất Việt Nam nầy, có thể còn sửa đương đặng và lại sẽ làm khuôn mẫu cho toàn cả các sắc dân nơi địa cầu nầy bắt chước theo nữa.
Ðạo làm chồng, chúng ta có gương xưa tích cũ, nhờ nơi Nho tông rất oai quyền, nghiêm khắc, mặt luật của nó kềm chế tâm lý của con người. Ðạo nhơn luân của nhà Nho ta có cái vẻ đẹp thiên nhiên, ai tiêm nhiễm đến cũng sanh mê mẩn, cảm kích, vậy mới tạo tâm lý theo Nho tông làm hình trạng tinh thần Nho Ðạo, khuôn tuồng đó duy ở Việt Nam mới có, còn các Tôn giáo khác hình tướng lại biến ra làm khuôn mẫu riêng trên sân khấu đời, nên Ðạo Nho tông thâm nhập vào cốt thể của cả thảy con người đặng. Bao nhiêu gương để chỉnh đốn đạo nhơn luân, cốt yếu làm con người biết đạo vợ chồng là trọng, đặng sửa đương cho nhau lập mình lên bực chí Thánh. Như thời xưa vợ ông Châu Công, Ngài là Tể Tướng đầu triều mà bà vợ vẫn lo canh cửi làm ăn nuôi mẹ chồng, một vị mạng phụ phu nhơn mà cư xử được như vậy thật đáng quý. Kịp đến khi ông hồi hưu, buổi già cả vợ chồng đối với nhau như chủ khách. Nước ta lại có bà vợ của ông Phan Thanh Giản. Ông xuất sĩ rồi bận việc triều chánh luôn, hết khi ở Bắc rồi lại vào Trung, không mấy khi vào Nam. Bà mạng phụ ở nhà với cha mẹ chồng lo thủ hiếu thay thế cho chồng, xét ra thì gương ấy cả Âu Châu cũng chưa hề có vậy. Ngày giờ nào, gương mẫu tiết liệt ấy trải ra cho toàn phụ nữ trên mặt địa cầu nầy đồ theo, thì ngày ấy danh thể của phái nữ mới được trọng nể, nhứt là phụ nữ Cao Ðài cần phải làm cho đặng, hầu sửa đương nền phong hóa của Việt Nam trước đã.
Còn về sự tồi tệ thì chúng ta hằng thấy tích xưa điển cũ, như có câu: "Ðố phụ loạn gia". Lạ lùng thay và khéo léo thay! Chẳng phải do ở bọn hàn mặc hoặc thượng lưu trí thức, lại ở nơi một người đàn bà hạng thường, đủ khôn ngoan đạo đức có đủ hạnh kiểm có thể sửa chồng nên phận được.
Xưa kia có người lính cầm lọng cho Yến Tử là quan Tể Tướng. Ông nầy thì nhỏ người, còn chú lính cầm lọng thì to lớn kịch cợm. Ông Yến Tử tuy là Tể Tướng đầu triều, nhưng con người có tánh cách nho nhã, nề nếp nhà quan, không kiêu hãnh, gương mặt khiêm hòa, còn chú lính cầm lọng lại vênh mày vênh mặt, bộ tướng tá nghinh ngang, tưởng rằng không phải Yến Tử mà chính anh ta là Tể Tướng đầu triều mà chớ! Lúc Tể Tướng đi ngang qua, người vợ chú lính núp kẹt cửa thấy vậy, nên khi về nhà mới đòi làm tờ để. Anh ta hỏi tại sao? Người vợ nói rằng: "Thiếp núp sau cửa, thiếp thấy chàng đi ngang, Quan Tể Tướng, Ngài thì nhỏ người mà gương mặt nho nhã, tỏ vẻ hạ mình còn chàng thân hình to lớn mà chàng hiên ngang coi trái mắt quá lẽ, vì thế, thiếp lấy làm hổ ngươi không thể ở với chàng nữa". Nhờ vậy, chú lính ấy biết cảm hóa, sau sửa mình lập thân trong hàng ngũ quân binh lên đến bực Tướng. Ấy vậy, đạo nhơn luân nếu biết giữ chặt, thì vợ có thể làm nên cho chồng, dạy chồng nên đạo được. Phụ nữ Cao Ðài cũng thế đã hai mươi ba năm nay tiêm nhiễm đạo đức tinh thần, tạo đầu óc tâm não, vậy tìm phương dạy chồng thế nào!
Có nhiều hạng người được vinh vang thì lên mặt phách xấc, không nhớ đến căn bổn hèn hạ của mình khi trước, phải biết rằng chúng ta đứng đợt với thiên hạ được là nhờ Chí Tôn tô mày vẽ mặt cho đó, hạng nầy rất nhiều, phụ nữ nên để ý sửa dạy cho họ bớt tâm tự kiêu đôi chút.
Ðối với cha con, Nho tông để lại nhiều vẻ đẹp của tổ phụ chúng ta lưu truyền đặng làm chuẩn thằng mà sửa đương xã hội và lập quốc. Cha hiền mới sanh con thảo, con thảo là hột giống để làm một nền móng tương lai, tương lai quý hóa không thể tả, bởi Tiên Nho chúng ta đã nói: "Vua Nghiêu tìm ông Thuấn đặng truyền ngôi, chẳng vì lẽ gì hơn là nghe danh ông Thuấn chí hiếu, mà một khi ta được chí hiếu rồi thì không gì sánh bằng. Có hiếu rồi mới có nghĩa, có trung, có cang, có trí, nghĩa là hễ có hiếu rồi thì có thể có đủ hết tính đức khác".
Ngày xưa người ta tầm hiếu, đến tại nơi thôn lân, huyện, phủ, tỉnh lỵ, để hỏi thăm những gương hiếu thuận. Người ta tìm hiếu tức là tìm hiền, do cái hiếu ấy suy độ ra cái hiền của bậc danh thần triều chánh, mà muốn có hiếu thì cha phải có từ vậy. Bần Ðạo thấy quốc dân Việt Nam bị ảnh hưởng của ngoại quốc, con không cần cha, cha không biết đến con, tồi phong tệ tục ấy đã thấy rõ ràng trước mắt. Bởi vậy, trong xã hội có ba người quan trọng: Cha, Chủ, Chúa. Cha là ông chủ của một gia đình, Chủ là ông chủ của một hương đảng, Chúa là ông chủ của một nước, cả ba vị ấy làm đầu từ gia đình lên xã hội. Nếu quyền cha nắm không kham là do người cha bất lực. Truy căn nguyên là do tại tự do kết hôn, chồng không phải chồng, vợ không phải vợ, cập xách với nhau rồi tự lập gia đình, đạo nhơn luân không có chỗ nào ràng buộc, chẳng qua là chơi hoa giỡn nguyệt, không căn bản gì hết, biểu sao khi sanh con ra mà chúng lại không trở nên kẻ vô bổn. Nhứt hạng Việt Nam lai của ta là tối hại.
Bần Ðạo đã nói để cha mẹ định hôn, như thế có lợi hơn vì như ta vẫn thấy, cả kiếp sanh lúc còn nhỏ, cha mẹ còn đủ, đến ông nội, ông cố cũng còn nữa, trộng một chút là ta vẫn cũng còn thấy đông đảo, đó là khi chưa biết khôn, khi đã khởi biết khôn ngoan thì ông nội đã đi đâu rồi, rồi cha mẹ đã già, mà mình cũng già nữa, trong lúc ông bà cha mẹ mất, mình cảm thấy cái quyền trong tâm lý của mình cũng mất.
Cha mẹ là bực cao kỳ trí thức, đáng kính, đáng tôn, khi cưới vợ cho con dầu cho chúng ta chưa có tình thương nồng nàn đi nữa, nhưng thời gian qua chừng nào, nhứt là khi cha mẹ vợ hoặc cha mẹ chồng đã khuất, thì vợ nhận thấy ở chồng là hình ảnh người cha của mình, còn chồng nhận thấy ở vợ là hình ảnh mẹ của mình, nên được khuây khỏa tấm lòng và khắn khít không lìa nhau là vì lẽ ấy. Nói gì trên bộc trong dâu, một đời nếu không có xảy ra điều gì thì thôi, còn nếu có xảy ra điều chi sanh phiền sanh giận, thì chừng ấy không phương thuốc gì trị được cả, tâm lý phải chia lìa thì tình kia phải xa cách, mới dễ bỏ nhau thay chồng đổi vợ, con cái sanh ra thấy tấn tuồng ấy tập tánh học theo, biểu sao tương lai không hư hèn và tánh đức không lạc lầm phàm tâm lìa đạo đức. Làm cha mẹ nếu chúng ta biết Tiên Nho đã đối với con người như thế nào, và toàn cả xã hội Việt Nam, cả nòi giống cưng con như thế nào, đến nỗi trong một Tông đường có đứa con nào ngỗ nghịch cha mẹ định từ bỏ thì chỉ nói ngoài cửa miệng, chớ chưa thấy ai từ con được bao giờ.
Nhớ lại, khi Bần Ðạo đi ngoài Qui Nhơn, gặp một ông già tên là ông Sáu Chèo, vì ông bán chèo nên mọi người kêu như vậy, vô nhà nhìn thấy bàn thờ ông bà không có treo tranh biển gì hết, chỉ để một câu đối, mà chỉ có một vế thôi: "Nhược niệm Cửu Huyền chi bổn, khả năng tu tỉnh ngộ thân", nghĩa là: "Nhớ đến Cửu Huyền thì phải rán gìn giữ thân mình". Bần Ðạo thấy thờ có một câu mà không có sơn thủy gì hết, lấy làm lạ thì ông nói: "Một câu đó đủ nghĩa để dạy con cái biết tuân theo, thành tâm tu chỉnh thì Cửu Huyền sẽ vinh diệu, biết giữ thân mình không bịnh nhược thì sanh con sáng láng mạnh khỏe khôn ngoan". Ðời bây giờ thiên hạ mê đường hoa nguyệt phong tình, sanh con lớn lên thành ho lao, ho tổn, hay tật nguyền, có nhiều sắc dân sanh con thấy tàn tật ghê khiếp lắm, vì cớ mà mấy năm trước đây Hitler thi hành chánh sách của Ðức Quốc Xã xử tử hay là thiến những kẻ tàn tật, bịnh hoạn, lấy lý rằng kẻ ấy chẳng giúp ích gì cho nước, chẳng những thêm một miếng ăn cho xã hội lại còn di hại cho nòi giống nữa, nên giết bỏ đi chỉ chừa lại những dân đinh cường tráng, nhưng vì Ðức Quốc Xã đã làm quá lẽ thành ra tàn ác nghịch đạo làm người.
Tổ phụ chúng ta không thi thố chánh sách ấy, chỉ dùng tinh thần đặng giữ con cho nó tránh khỏi sự bạc nhược đã nói, mà nòi giống Việt Nam nầy không bị tiêu diệt là nhờ khéo giữ đạo nhơn luân từ trước đó vậy.
Q.2/23: PHONG HÓA VIỆT NAM ĐỐI VỚI PHONG HÓA CÁC DÂN TỘC VẠN QUỐC.
Tại Ðền Thánh, đêm 19 tháng 5 năm Mậu Tý (dl. 25-06-1948)
Bần Ðạo giảng tiếp về khảo cứu phong hóa nước ta đối với các dân tộc vạn quốc.
Bần Ðạo đã giảng rằng trong quốc gia xã hội chúng ta có ba quyền: Cha, Chủ, Chúa. Ba quyền ấy cầm cả chánh trị của nước nhà, có khác nhau chăng duy có nhỏ và lớn, chớ chánh kiến vốn đồng với nhau. Ba quyền ấy làm nền tảng cho phong hóa chúng ta vậy.
Hôm nay, Bần Ðạo tiếp giảng về quyền làm cha và triều chánh của ông cha, tức là gia đình liên quan thế nào đối với triều chánh của làng và triều chánh của nước.
Chúng ta thấy trong ba quyền ấy, duy có quyền chúa là trên hết, sau biến tướng đến quyền cha, quyền thầy. Ấy là đạo Tam Cang: Phụ tử, Sư đệ, Quân thần. Bần Ðạo sẽ giảng rành mạch về quyền chúa ấy sau. Bây giờ Bần Ðạo giải rõ quyền cha mà thôi.
Vả chăng chúng ta để ý cho tận tường xem coi xã hội chúng ta thấy có điều đặc sắc riêng biệt không giống với các xã hội khác, là từ khi Ðức Khổng Phu Tử hiệp ba quyền ấy làm Hội Thánh của Ngài. Ông cha tức là thầy của gia đình, ông chủ tức là ông thầy cả của làng, ông vua chúa tức là ông thầy cả của nước. Vì cớ nên hình trạng của ba quyền ấy Bần Ðạo nói rõ là lớn nhỏ khác nhau, mà chánh kiến vẫn là một. Trong gia đình nếu ta không gọi là ông Cha thì gọi là ông Chúa của gia đình, cầm đầu cái triều chánh của ông, bà vợ trong gia đình, người ta còn gọi là Nội Tướng tức là Thủ Tướng của gia đình, cả con cái là Lục Bộ Ðài Quan, tôi tớ hoặc những công nhân giúp việc trong gia đình tức nhiên là toàn dân vậy.
Ấy vậy, gia đình theo phong hóa Việt Nam ta rất trọng hệ, ông Cha của gia đình cũng như ông Chúa của nước vậy, nên xét ra đến cực điểm phong hóa của ta thì thấy tốt đẹp lạ lùng, chỉ vì ta không quan tâm đến thôi, nếu để ý ta sẽ vui hứng hạnh phúc đặc biệt, bởi không có dân tộc nào giống như chúng ta, kỳ dư nước Tàu cũng chịu một ảnh hưởng văn minh như chúng ta mà cũng không đồng một vẻ hay là giảm bớt thì có. Trọng hệ là gia đình, mà gia đình có được trọng hệ thì ông Chúa của gia đình mới trọng. Vì cớ đạo làm Cha, phong hóa chúng ta kính trọng một cách vô đối. Ðối với xã hội, tổ phụ chúng ta biết con cái lớn lên phải lập gia thất, nên mới lưu truyền món hương hỏa ấy. Lấy gia pháp làm chủ đích, gia pháp ấy biến ra gia nghiêm, mà gia nghiêm chặt chịa kềm thúc con cái chẳng có ý chi khác hơn là dụng oai quyền đó mà tạo một vị Chúa tương lai cho gia đình, nên tổ phụ chúng ta trông nom điều trọng hệ ấy mà hủy bỏ cả hành tàng phụ thuộc ở ngoài là cả sự sanh hoạt của gia đình, chỉ lo bảo thủ lấy tinh thần làm Cha tương lai cho đúng giá trị của nó.
Lạ chi đối với nòi giống của chúng ta thường nghe mọi người nói: "Phụ có từ, tử mới hiếu" mà Bần Ðạo đã nói rằng cả tánh đức của con người đứng đầu trên hết là hiếu, Bần Ðạo cũng đã giảng, đời Thượng cổ người ta đi tầm hiền chỉ do nơi hiếu, nên Vua Nghiêu chọn ông Thuấn kế vị cho Ngài là vì ông Thuấn là bậc chí hiếu, tánh đức hiếu ấy là cái năng lực căn bản của các tánh đức khác, nó là tánh đức của đạo đức tinh thần và nó đi gần tánh chất của loài người. Con người đã có hiếu thì các tánh đức tốt đẹp khác đều là phụ thuộc, bởi vì khởi đoan của tâm hiếu, không phải biến sanh một ngày, một bữa gì mà kể từ giọt sữa mẹ mà hiện ra làm căn bản môi giới cho các tánh đức khác nảy nở, mà ta đã thấy và định quyết rằng người đã làm được con hiếu thì thế nào cũng sẽ là cha từ. Mà hạng phụ từ rất tối cần, tối trọng cho xã hội vậy.
Ấy vậy, trong gia đình phải có phụ từ, mà tại sao cha phải từ? Phương ngôn nói: "Cha hiền sanh con thảo", lại có câu: "Hiếu thuận huờn sanh hiếu thuận tử, ngỗ nghịch huờn sanh ngỗ nghịch nhi", sách xưa truyện cũ ta thấy còn lưu lại nhiều thành tích rất quí hóa. Ðứa bé thơ kia học ai trước hết? Học cha mẹ nó. Trí óc non nớt của nó chưa có hình trạng gì, bởi lúc sơ sanh không có điều gì ô trược dính vào chung quanh nó, hỏi nó trông vào ai, dòm ai. Dòm cha bắt chước cha, dòm mẹ bắt chước mẹ, dòm anh em bắt chước anh em. Trong gia đình nếu có gương cha lành, thì sự ấy huyền bí thay! Nó sẽ bắt chước như vậy, dầu buổi sơ sanh, đứa con chưa biết nghe, hiểu thấu đáo cho thấu lý, nhiều khi cha mẹ dạy nó không tuân, Bần Ðạo vẫn quả quyết rằng cái phụ giáo và mẫu giáo đó không mất, dầu đứa con có lơ lảng không nghe đi nữa, chớ rồi nó cũng hằng để vào tâm cái huyền diệu vô đoán ấy, chúng ta không thể tưởng tượng được, khi cha mẹ khuất rồi, đứa con sẽ tiềm tàng cái giáo hóa buổi sơ sanh ấy làm căn gốc trong bản tâm của nó.
Làm người cha hiền không biết làm mất tự do của con, trái lại còn trọng nữa, trong xã hội chúng ta như vậy đó. Ðừng thấy hình trạng giáo hóa bề ngoài lấy nghiêm trị làm căn bản mà gọi rằng đối với nòi giống chúng ta cha mẹ áp chế con làm mất tự do của nó. Không phải như vậy đâu! Có lẽ vì nhìn thấy Tông đường hư hoại, nên cha mới nghiêm trị con, đặng bảo thủ tương lai của Tông đường, chớ chẳng phải cố làm cho mất quyền tự do của con.
Bần Ðạo giảng tích này cho cả thảy nghe mà suy gẫm, thì thấy nòi giống chúng ta vốn trọng sự tự do của con cái mà trọng một cách khéo léo.
Ðời Tiền Lê có ông Thừa Tướng đầu triều không có con. Hai ông bà thường đến chùa này miễu kia cầu tự. "Nhơn hữu thiện niệm, thiên tất tùng chi", nên bà vợ hạ sanh được một đứa con trai. Quan Thừa Tướng đã niên cao kỷ trưởng mà có một đứa con trai thì nỗi mừng vui đó không thể luận được. Người Nam mình hay ví trứng mỏng cũng không ví bằng cậu công tử đó nữa. Từ khi nhỏ đến lớn, trong gia đình đối với cậu thì ai cũng là tôi đòi nô lệ hết. Hai ông bà cưng đáo để, lớn lên rồi hễ thấy cưng lại thêm nhỏng nhẻo, rồi du côn, rồi hoang đàng chi địa vô giáo dục. Tấn tuồng xảy ra như vậy mà quan Thừa Tướng và phu nhân cũng không dám động tới, vì quá cưng thì còn ai dám động tới cậu nữa đâu, cậu muốn lên trời hay xuống đất gì cũng được.
Ðến tuổi đi học, cho vào trường thì không ai chịu nổi, con các quan bị cậu đánh luôn, ngày nào cũng có mắng vốn. Thấy tình trạng như vậy, biết con mình bị cưng quá không ai động tới được. Ðến khi trưởng thành 17, 18 tuổi, ôi thôi thanh lâu, tửu quán, trà đình, cờ bạc, không món nào mà cậu không có, ngoài ra còn du côn, du đảng, ai thấy gia đình ấy mà không nói rằng do căn trước tạo nhiều quả nên nay phải thống khổ tinh thần như vậy. Nhưng ông bà cũng vẫn cưng không động gì tới cậu công tử cả, ông chỉ buồn than nói với ông bạn là quan Hình Bộ Thượng Thơ rằng:"Tôi có một đứa con mà con cầu, con khẩn nên nay mới ra cớ đổi", thì ông bạn nói: "Thưa quan Thừa Tướng, nếu Ngài giao quyền trọn vẹn cho tôi đem lịnh lang về ở với tôi đặng tôi giáo hóa thử coi". Quan Thừa Tướng đã hết phương rồi, nên giao cho ông bạn dạy dỗ cũng không được gì hết, cậu công tử vẫn còn buông lung điếm đàng hơn nữa, nên ông định dùng oai quyền mà trị, mới cho quan Thừa Tướng hay: "Tôi phải dụng quyền đối với lịnh lang mà đối với Ngài nữa, việc làm của tôi thế là nhẹ thể Ngài, nếu Ngài vui lòng như vậy, tôi mới sửa lịnh lang đặng". Quan Thừa Tướng chịu: "Bạn làm sao giúp tôi được thì làm, vì tôi cùng đường hết kế rồi". Quan Hình Bộ Thượng Thơ thả cho cậu công tử ra ngoài đánh lộn, giựt của, làm đủ thứ, rồi bắt bỏ tù, lên án như các tội nhơn khác vậy. Vô khám cậu bị đánh khảo tra tấn chịu không thấu, thông tin về nhà cho Thừa Tướng hay. Ngài làm như tuồng cha đau lòng vì con, ra chịu tội trước triều đình, rồi Ngài và quan Hình Bộ Thượng Thơ đến người nầy người nọ xin tha thứ, đi tới đâu dắt công tử theo tới đó, cậu thấy khổ trạng như vậy nên lương tâm tự hối, biết tội mình làm để lụy đến cha dường ấy.
Về nhà ông rước thầy cho đi học thêm nữa, vì cậu đã biết ăn năn, sợ cha mẹ và chịu ở nhà không dám phóng túng chơi bời nữa. Nhưng, trong gia đình cũng không chiều được cậu chỉ kiêng có cha mẹ thôi, ngoài ra không kể ai cả, nổi giận là cậu đánh đập liền. Ông mới tính một phương thế, lấy cớ là con nhà trâm anh, bắt cậu để móng tay, từ đó cậu ít đi ra ngoài chơi bời, mà cũng hết đánh thiên hạ nữa, là vì cũng bị lật móng tay hai ba lần gì đó, nên hoảng mà thuần nết lại. Ðến khi triều đình mở khoa mục, cậu nhờ trí thông minh sáng suốt lạ thường lại học giỏi nên được chấm đậu Trạng Nguyên. Nhà vua và cả mọi người biết tánh đức của cậu trước như vậy mà nay được như vầy thì ai cũng mừng, trong gia đình còn mừng hơn nữa. Thiết lễ Tân quan, khi vị Tân quan vào bái lễ Từ đường, rồi trở ra hội yến với các quan, quan Thừa Tướng mới kêu con lại nói: "Ngày nay con đã vinh hiển rồi sẽ ra làm quan thì móng tay con không để làm chi nữa, con đưa đây cho cha", ông cắt tử tế, đem vào bàn thờ Từ đường, lấy giấy đỏ gói lại, bao ở ngoài một lớp hàng đỏ nữa, đề bốn chữ "Trấn tâm chi bửu" nghĩa là của báu để trấn tâm, ông đưa lại cho con và dạy rằng: "Từ đây trở đi hoặc sau nầy con có kế chí cha làm đến đầu triều, vật trấn tâm chi bửu này cũng không nên rời con". Thì y như vậy, từ đó về sau, cậu con trai thăng quan tiến chức, kế được chí cha làm đến đầu triều, mà cái gói trấn tâm chi bửu tức là móng tay đó vẫn còn luôn.
Bần Ðạo dám cả gan nói rằng: Nhờ cái phụ giáo như vậy, mà triều chánh Việt Nam ta mới bền bĩ, và chắc chắn rằng người đó là kẻ đem viên đá đầu tiên xây nền độc lập từ trước đến giờ, nhờ cái tinh thần đó mà chúng ta đạt được tinh thần độc lập ngày nay.
Phụ giáo rất cao kỳ quý hóa. Nếu xét tường tận như vậy thì ta chưa đáng phận làm chúa gia đình. Trước khi tạo gia đình, cần suy gẫm coi ta có xứng đáng làm chúa làm nội tướng chăng rồi sẽ tạo, cả khuôn khổ tốt đẹp nòi giống chúng ta đã xao lãng, nào giục tấn, nào cấp tiến, nào văn minh, nào duy tân đáo để thôi. Tấn tuồng duy tân vật chất đưa đến tồi phong bại tục, hiện giờ là hoàn thuốc quá độc hại vậy.
Phong hóa tốt đẹp bị bôi dơ, hỏi vậy chúng ta ngày nay đây, ai dẫn đạo tinh thần mà đã biết như vậy thì nên bỏ hay là phải cố thủ? Phải bảo thủ cái thể chất toàn hảo ấy là điều Chí Tôn mong muốn hơn hết. Ngài không nỡ nói ra, mà Ngài trông cho chúng ta biết phục hồi cái phong hóa của Tổ phụ lưu lại, đặng tạo một văn hóa tương lai cho toàn thể mặt địa cầu nầy vậy.
Nếu Ngài nói ra thì nòi giống Việt Nam sẽ nói là Ngài thủ cựu hay là muốn phá hoại sự tự do của loài người và đời văn minh vật chất này không thể không chỉ trích Chí Tôn với lời lẽ ấy, nên Ngài không nói đó vậy.
Q.2/24: PHONG HÓA VIỆT NAM ĐỐI VỚI CÁC CHỦNG TỘC KHÁC. (t.t.)
Tại Ðền Thánh, đêm 23 tháng 5 năm Mậu Tý (1948)
Hôm nay Bần Ðạo tiếp tục khảo cứu nền phong hóa của chủng tộc Việt Nam đối với các chủng tộc khác.
Bần Ðạo đã giảng rõ về đạo làm cha trong xã hội của chúng ta đã tạo thành một nền phong hóa đặc sắc của nòi giống như thế nào rồi. Vậy, Bần Ðạo lần lượt giảng tiếp về cái quyền của cha. Bần Ðạo giảng về đạo và quyền của cha trước rồi sẽ giảng về đạo và quyền của chủ, sau chót mới đến đạo và quyền của nhà vua tức là chúa.
Ai cũng biết điều trọng yếu trong xã hội Việt Nam ta là Tổ phụ là nguồn cội của các Tôn giáo, nên từ Thượng cổ Tổ phụ ta đã lưu lại cho nòi giống ta cái cảnh tượng là biết tôn trọng Cửu Huyền Thất Tổ, dầu quá vãng hay hiện tiền cũng vậy, sự sùng thượng ấy còn tồn tại trong tâm hồn mãi thôi, chẳng hề khi nào quên ông bà của chúng ta được. Nên Tôn giáo chơn thật ấy nó buộc vạn quốc nhìn nhận là một Tôn giáo đặc sắc của một sắc dân chơn thật hơn hết. Thế thì đạo nhơn luân của chúng ta là do truyền nối hương hỏa của Cửu Huyền Thất Tổ đó vậy. Ta chẳng còn luận chi sâu xa hơn nữa, chỉ nói cái nợ máu thịt mà nòi giống Việt Nam nầy xem mắc hơn các nòi giống khác trên mặt địa cầu nầy. Vì bởi Tiên Nho chúng ta đã lưu lại một lý thuyết chánh đáng chuyên nghiệp để cảm (cầm?)(*1) tâm lý của nòi giống chúng ta là "Bất hiếu hữu tam vô hậu nhi kế đại". Trọng hệ hơn hết của nền quốc giáo Việt Nam ta, là vô hậu kế đại, tức nhiên thêm vào cái nợ máu thịt mà ông bà ta để lại, nếu không đương nỗi thì phải chịu thất hiếu với cả Tông tộc, Cửu Huyền Thất Tổ. Thất hiếu trọn vẹn, mà đã thất hiếu rồi thì buổi tương lai về cõi Hư Linh không ngó mặt ông bà ta đặng. Vì cớ, nên việc hôn nhân nơi nước ta có vẻ nghiêm khắc, truyền lại làm căn bản Tôn giáo trong nước, dùng khuôn khổ trọng nghiêm ấy đặng định luật, thì ta chẳng còn ngạc nhiên, hỏi bởi cớ sao luật nhơn luân lại gắt gao như vậy?
Xưa kia hễ định luật hôn phối với nhau thành chồng vợ rồi thì chủ hướng duy có một điều là nối truyền hương hỏa. Tiếng tục thường nói rằng: "Dài dòng cả họ", nên Tông tộc nào dài dòng cả họ thì hạnh phúc đáo để, trước phong hóa mà được dài dòng cả họ thì được tôn trọng vô đối, tức nhiên buộc đạo nhơn luân phải gắt gao; khi cưới vợ ba năm mà không sanh con trai nối hậu thì đàng trai đặng phép để bỏ và lập thứ. Tại sao? Nếu người đàn ông cả gan vì thương vợ mà không chịu để bỏ thì mang tội bất hiếu với Cửu Huyền Thất Tổ, với cha mẹ kia kìa.
Thấy đạo nhơn luân của chúng ta trọng yếu dường ấy, mà hễ trọng yếu tức nhiên quyền cha vẫn là cái oai quyền cao trọng, quyền cha trong phong hóa chúng ta, nếu con bất hiếu có thể lên án tử hình được, lên án với luật pháp hữu định, bởi vậy nên Tổ phụ ta nói: "Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung; phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu", ấy là luật nhơn luân của ta như vậy đó.
Ðối với các quốc gia, các nòi giống khác, nếu có công kích thì họ nói đó là làm mất quyền tự do, mất nhơn phẩm của con. Bần Ðạo dám chắc rằng họ thèm thuồng lắm mà họ làm không được vì tình trạng phong hóa của ta, các nước Âu Châu không thế đối đặng. Bần Ðạo giảng về cái quyền cha mà chính mắt Bần Ðạo trông thấy hiển nhiên là khi Bần Ðạo mới ra trường đi làm việc, đổi xuống Cái Nhum, có ông Kế Hiền ở làng Chánh An, tên là Kế Hiền Kỷ làm một vị Trưởng tộc trong Tông đường, niên kỷ độ lối 55 tuổi.(*)
Khi ấy trong nhà thờ Tông đường làm lễ cúng ông Cao Tằng gì đó, mà lệ trong dòng họ, người nào đến giờ tế tự mà vắng mặt thì năm đó mất phần hương hỏa. Sự nghiêm trị rất nhẹ nhàng nhưng mực thước, nên kẻ nào trong năm đó bị phạt ắt cất đầu không nổi, rồi chỉ có khóc lóc lén lút vậy thôi nên cả thảy đều phải đến. Bần Ðạo tọc mạch theo coi nghe tiếng đồn mà đến, chớ trong Tông đường của Bần Ðạo gia phong thì lại khác. Bởi biết ông Kế Hiền Kỷ còn theo Nho lắm, trong lúc ấy Bần Ðạo ngạc nhiên thấy trong con cháu, dầu nhỏ, dầu lớn, dầu trọng, dầu khinh, mỗi đứa đều đem tới một món, đi thôi rần rộ, độ 7 giờ cúng thì lối 5 giờ đi rước ông Trưởng tộc, các con cháu xúm khiêng ông, ba bốn chục người giành mà khiêng, còn bao nhiêu đi theo sau kiệu, tới nhà thờ làm lễ nghinh tiếp, ôi thôi! Bần Ðạo tưởng nhà Vua cũng không bằng. Vô tới giữa điện thờ, con cháu đem bộ áo của ông cố hay ông sơ gì đó mặc vô cho ông, bịt khăn và trao cho cây gậy. Bần Ðạo tưởng tượng đó là ông Vua, ông Chúa của gia đình rõ ràng như vậy.
Còn nếu biết ông trị nghiêm trong Tông đường thế nào thì lại càng cảm mến hơn nữa, vì bởi từ thử chưa hề có một con cháu nhà nào đem nhau tới làng mà kiện thưa một việc chi cả, gia luật thật đáo để đẹp đẽ và nghiêm khắc, như thế mà đã năm sáu đời truyền kế. Tộc phái không kể Nội Ngoại gì cũng kế nghiệp được. Trong Tộc phái ấy có một bộ Tông chi không sót một tên nào mà vẫn còn giữ vĩnh cửu luôn. Ngày giờ nầy các nước ngoại quốc kia nói nhà Nam ta bảo thủ cổ tục ấy, hỏi có ai làm đặng vậy chưa? Nếu có được thì một phần ít thôi, mà cũng không có nữa. Tại sao? Tại tiêm nhiểm văn hóa Âu Châu rồi đem của quý liệng đi hốt của bỏ đem vào, tinh thần đã thành ra bạc nhược, thô bỉ, chạy theo thuyết duy vật của văn minh vật chất, quên hẳn khuôn khổ Tổ nghiệp ta để lại rất đẹp đẽ vô cùng, thâu thập những vật không đáng giá, làm xáo trộn nền phong hóa tận thiện tận mỹ. Hỏi thử ngày giờ gần đây ta thấy cái hại trong nước là tại làm sao chăng? Cả đạo nhơn luân điên đảo, biểu sao không trộm cướp loạn lạc, giặc giã tứ tung cho được!
Nền đạo nhơn luân có đủ năng lực bảo trọng tương lai quốc vận lại đem bỏ đi, lấy cái hoàn thuốc độc của thiên hạ đưa cho, đã thiệt thòi mà cũng còn rán trướng cổ lên mà nuốt, nuốt cho chết.
Quyền hạn của chúng ta, ngày nào chưa bảo thủ cho toàn dân tộc được thì đừng mong gì vĩnh cửu. Trái lại cần phải tô điểm Nam phong do tinh thần Tổ phụ ta để lại làm căn bản mới đủ sức mạnh, đủ cường liệt đứng đợt với toàn cầu vạn quốc. Bằng chẳng vậy thì đừng mong sớm hưởng, còn xa vời lắm.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 23-08-Mậu Tý nhằm ngày (dl. 29-06-1948).
(*1) Nơi đoạn thứ 3: Ai cũng biết điều trọng yếu trong xã hội Việt Nam ta là Tổ phụ là nguồn cội của các Tôn giáo,... ... ... Vì bởi Tiên Nho chúng ta đã lưu lại một lý thuyết chánh đáng chuyên nghiệp để cảm (cầm?) tâm lý của nòi giống chúng ta là "Bất hiếu hữu tam vô hậu nhi kế đại".
Chúng tôi xin đề nghị cho rõ nghĩa hơn: Ai cũng biết điều trọng yếu trong xã hội Việt Nam ta là Tổ phụ là nguồn cội của các Tôn giáo,... ... ... Vì bởi Tiên Nho chúng ta đã lưu lại một lý thuyết chánh đáng chuyên nghiệp để cầm tâm lý của nòi giống chúng ta là "Bất hiếu hữu tam vô hậu nhi kế đại".
Cuối những đoạn có dấu (*): Ðể cho người đọc được dể dàng, chúng tôi xin mạn phép phân đoạn tại những nơi có dấu (*). Nguyên bản chánh không có phân đoạn tại những nơi ấy. Kính cáo.
Q.2/25: PHONG HÓA VIỆT NAM ĐỐI VỚI CÁC CHỦNG TỘC KHÁC. (t.t.)
Tại Ðền Thánh, thời Tý mồng 1 tháng 6 năm Mậu Tý (dl. 07-07-1948)
Chúng ta hôm nay tiếp tục khảo cứu nền phong hóa của nước nhà ta đối với các dân tộc toàn thiên hạ.
Bần Ðạo đã giảng về chủ quyền thứ ba của xã hội chúng ta, gọi là quyền giáo sư thứ ba theo Ðạo Nho mà vị chủ quyền về đạo nhơn luân hay là chủ quyền về gia đình ấy tức là ông cha. Bần Ðạo đã giảng về đạo và quyền của người rồi, bây giờ tiếp giảng về ông chủ quyền thứ nhì của xã hội.(*)
Ông chủ quyền thứ nhì mà cũng là giáo sư văn minh Nho Giáo là ông Chủ của Hương đảng. Bần Ðạo đã nói chức Ðại Hương Cả hay Kế Hiền là mới bày đặt sau này, chớ Nho Giáo chỉ định tới Hương Chủ là hết. Ta thấy rằng vị đó cầm quyền hương thôn, mà thật ra người cũng là chủ quyền của xã hội. Ta để tâm nghiên cứu coi cái phong hóa của đệ nhị chủ quyền nắm đó ra thế nào? Bần Ðạo xin nói trước rằng nó tốt đẹp không gì bì đặng, hại thay! Ngày giờ này vì quốc dân xu hướng theo văn minh tân thời mà muốn phế bỏ hủy hoại và cũng do bởi cớ mà Ðức Thanh Sơn để câu thi tự hào rằng:
"Văn hiến bốn ngàn năm có sẵn,
Chi cần dị chủng đến dâng công?"
Nền văn hóa đạt được trải qua bốn ngàn (4.000) năm, không cần ai dâng công tạo văn hiến khác.
Ðạo của vị chủ Hương đảng là coi sóc sự sanh hoạt của dân chúng trong thôn hương, chẳng những nắm chủ quyền sự sanh hoạt mà còn nắm chủ quyền sự chết sống, cầm vận mạng cả thôn hương trong tay nữa. Ðạo của người là Ðạo thường, lo phụng thờ tôn miếu của triều đình. Các đình làng đương nhiên là Công thần miếu, thờ những vị Công thần bất kỳ nơi nào trong thôn quê đã xuất hiện những vị trung quân ái quốc, vị quốc vong xu, tô điểm giang san, binh vực lợi quyền của xã hội; có công vĩ đại với triều đình, đến khi qui liễu được nhà Vua ân tứ phong cho Thần vị. Ðiều hay hơn hết là vị Công thần đạt vị đó, lại được trong bổn thôn sanh quán của người thờ người. Sự khéo léo ta thấy hiển nhiên, vì cớ vị Hương Chủ trong thôn hương cần nhứt tạo hiền tài; nào là lập trường học, bố thí kẻ côi cúc không phương học vấn, nào là nâng đỡ các gia đình hữu học. Khi đạt đặng khoa mục, khỏi làm xâu, bởi gọi hàng khóa sĩ. Bần Ðạo xin nói rằng chưa nước nào đã làm như nước Nam ta, khi xuất sĩ vị Tân khoa về quê gọi là bái tổ vinh qui, lạy tạ mồ mã Tông đường; ngày đó chẳng cần tả, sự vinh hiển vô đối của họ, nên phương pháp ấy giục tâm toàn quốc cố học, học đặng hành.(*)
Hại thay! Trong thôn hương nhiều nhặt nhiệm nên cũng có sự hay mà cũng có sự dở, là kẻ nào bất tài thiếu học, hay có tánh chất hèn kém, không đủ tinh thần tế thế an bang; làm cục bướu của xã hội, nếu kẻ ấy không lập thân danh đặng thì duy có trốn mà đi chớ không dám ở trong làng mình nữa. Vì cớ cả quốc dân nong nả học hành, chẳng phải học để lập thân danh mà thôi chỉ thấy khuôn khổ nghiêm nghị, dìu dắt chủ hướng người quân tử dù tánh đức tiểu nhơn mà ở trong làng cũng phải sửa nết lại.
Vị Hương Chủ có phận sự bảo vệ sinh mạng nên theo đàng cựu thì trích đất quốc gia làm công điền; hồi cựu trào số đất công điền trong các đất đai của làng rất thặng, vì thuở ấy dân chưa có gia nghiệp tư bản. Những đất hoang vu, ông Hương Chủ khai mở thành công điền, toàn thể dân đinh buộc họ duy có làm xâu mà thôi, mà chẳng phải làm xâu như bây giờ, người nào có làm xâu thì số lúa tư sản của mình được hưởng trọn vẹn, người nào không làm sẽ bị trích mấy phần mười số lúa tư bản (sản?)(*1) của mình đó. Số sản xuất những công điền ấy chia làm ba phần: Hai phần ba (2/3) để vào công nho làng, một phần ba (1/3) nạp cho triều chánh của nhà Vua, nên không có lấy thuế bằng tiền bạc. Nhà Vua buổi nọ muốn thưởng công các quan duy có đong lương mà thôi, vị nào cao cấp mấy hộc, trung cấp mấy hộc, hạ cấp mấy hộc; ngoài ra lương ấy nhà Vua có phương pháp kêu là ban thưởng đặc biệt về công nghiệp vĩ đại, ân tứ cho ngựa bốn cặp, sáu cặp hay mười cặp, hay xe đôi chục, năm chục mà thôi, sự khéo léo của quốc gia là giục tâm cho dân cày cấy, ngoài ra sự chăn nuôi súc vật, rồi vì sau nầy việc canh điền nặng nề thì lại bày ra việc thưởng trâu bò thay thế cho đầu ngựa. Ngày xưa làm quan không ăn tiền chỉ lãnh lương nên tiếng tục gọi là "ăn lương" là vậy.
Một phần ba số lương triều chánh thâu vào thì nhà Vua dùng phát lương cho các quan, năm nào đặng mùa dư dã thì làm kho dự trữ, nơi các Hương đảng cũng đều phải vậy. Thảng như rủi năm nào thất bác, dân đói khó, thì lập tức mở kho ấy phát cho dân gọi là chẩn bần, mà đầu tiên đứng ra tế chẩn là ông Hương Chủ, khởi phát ở kho lúa của làng trước, khi nào thiếu mới lấy thêm ở kho quốc gia.(*)
Sự nong nả chẳng phải tìm phương cho dân cày cấy ruộng nương mà thôi, phải khuyến khích chăn nuôi súc vật, khuếch trương các tiểu công nghệ trong làng, thúc giục dân nuôi tầm dệt vải làm tơ lụa, các nghề thợ mộc, thợ rèn và các kỹ nghệ nào hay khéo mà dân sở tại làm đặng, quyền ấy là quyền của ông Chủ Hương đảng, còn Ban Hội Tề, Hương Sư, Hương Hào, v.v... đều là phụ thuộc vào triều chánh của ông Hương Chủ mà thôi.
Cái Ðạo của vị Hương Chủ là thờ Công thần, mà là thờ mạng sống của toàn dân trong hương nữa, nên cổ tục ấy lưu truyền đến ngày hôm nay, sống cũng phải lo cho dân, mà chết cũng phải lo cho dân. Vì cớ đồ âm công phải có sẵn. Hồi cựu trào bất kỳ hạng nào, dầu là một vị quan hồi hưu về ở trong làng cũng vậy, hễ khi có một đám tử, người dân của làng đã được định làm nhưng quan, thì bắt khiêng đám cũng phải đi, không ai khỏi đặng.
Lại nữa, chẳng phải lo việc chết thôi, còn phải lập nhà thương, nhà nuôi trẻ em, trường học, cả cái khuôn khổ văn minh hương đảng lưu lại ngày nay là do nơi chủ quyền của Hương Chủ mà ra vậy.
Hồi lúc Bần Ðạo còn nhỏ, nhớ nhứt là khi xay lương và giả lương, hễ lúa đem về kho rồi thì dân làng nhứt là phụ nữ, xúm lại giả cho trắng đặng nạp về triều kêu là nạp lương, tục ấy mới bỏ trong thời gần đây. Mà xay lương thôi thì đô hội, mệt nhọc mà vui vẻ lạ lùng. Không thể nói hết đặng, câu hò, câu hát còn lưu lại trong dân gian ngày hôm nay là do nguyên cội xay lương đó. Xay giả xong, 1/3 nộp cho triều đình, 2/3 để cho hương đảng.
Còn một điều nữa là ở trong làng hễ có người nghèo khổ cơ hàn, thì Hương Chủ dạy toàn dân làng phải bảo vệ, hễ cưới vợ không được thì xúm nhau chung tiền lại giúp, cất nhà không nổi thì xúm nhau tạo nhà cho, khi có bịnh hoạn thì xúm nhau đến thăm viếng và giúp đỡ, tình liên lạc mật thiết như cốt nhục, mà khuôn tuồng đó ngày nay đã mất rồi, vì chưng tư lợi tư kỷ nhiều quá mà làm cho tiêu diệt hết lòng tương ái tương thân trong hương đảng.
Ta thử nghĩ lại, một ông chủ cầm quyền xã hội dường đó, chánh sách còn bằng mấy Cộng sản, mà là Cộng sản tinh thần, nên Quốc gia chúng ta có Cộng sản thúc nhặt tâm lý làm khuôn phong hóa chung sống cùng nhau, không cướp bóc, không tranh quyền đoạt vị. Ở trong làng, quyền làm chủ hương thôn ấy chỉ có truyền biểu mà thôi, dầu trong triều về đó ở mà dân không tín nhiệm thì cũng không có quyền gì buộc dân đem mình lên đặng. Phần nhiều triều chánh sau nầy mới có tham quan ô lại, chớ thời xưa một người làm quan rất sợ điều đó lắm, là vì hễ đã mang danh tham quan rồi thì về làng không ở với ai được, cả làng mạt sát chịu không nổi, cho nên cả cái bí pháp hằng tâm gìn giữ rất nhặt nhiệm, kẻo buổi về già không chịu nổi sự trích điểm của thôn lân, được vinh quang chừng nào thì lại càng giữ gìn tánh đức. Trong làng mà vị nào vì dân, lo cho dân, đủ tánh đức nuôi dạy dân, thương dân như con đỏ thì dân sanh cử lên, chớ không phải bầu cử hốt mớ, rồi đưa kẻ bất tài thất đức lên được, vì trong triều chánh của ông Hương Chủ, ở dưới có Ban Hội Tề, đi từ mức đào luyện từ cấp, rồi mới lên đến Hương Chủ thì đã sáng suốt mực thước lắm rồi.
Ngoài ra nữa, còn một điều là trong hương đảng coi chủ quyền ấy như ông Tòa, đến bây giờ còn chức tước mà quyền không phải vậy. Ông chủ của làng làm Tòa xử, hòa giải dân tình, nên không có tụng cáo ra triều đình bao giờ, hay là trừ các án tiết trọng hệ, như cường đồ, sát mạng, mới thấu đến luật hình triều chánh. Trong làng có điều gì chinh tâm với nhau thì ông chủ của làng xử trước, nếu bất đồng đem nội vụ ra nhà việc, hễ lỗi nhỏ thì nạp tiền câu tra, tội lớn thì căng nọc đánh giữa dân làng, không đến nỗi chết mà hễ bị đánh rồi thì về nhà còn có nước trốn đi nơi khác, hoặc đóng cửa đi đâu đi lén lút khổ não lắm vì bị gièm pha nhạo báng xấu hổ chịu không nổi. Còn nói về phụ nữ nhứt là gia đình nào con hát bè, hát bộ, thì có dọn mà đi luôn. Ðến nghiêm luật gái chửa hoang, đẻ lạnh thì cha ông, con cháu, đều bị đòi ra giữa làng hết thảy. Thứ vợ hổn với chồng, chồng hiếp vợ, con bất hiếu, em vô lễ với anh cũng vậy, đặng giữ nghiêm phong hóa xã hội do khởi đoan từ hương đảng ra quốc gia xã hội.
Triều đình cốt yếu làm đầu đặng nắm giềng mối, chớ thật ra cầm quyền xã hội là trong hương đảng, mà quyền trong hương đảng là của Ðệ Nhị chủ quyền, tức là quyền ông Hương Chủ đó vậy.
Phụ ghi:
(*1) Nơi đoạn thứ 8: Vị Hương Chủ có phận sự bảo vệ sinh mạng nên theo đàng cựu thì trích đất quốc gia làm công điền; ... ... ... , người nào có làm xâu thì số lúa tư sản của mình được hưởng trọn vẹn, người nào không làm sẽ bị trích mấy phần mười số lúa tư bản (sản?) của mình đó....
Chúng tôi xin đề nghị cho rõ nghĩa hơn: Vị Hương Chủ có phận sự bảo vệ sinh mạng nên theo đàng cựu thì trích đất quốc gia làm công điền; ... ... ... , người nào có làm xâu thì số lúa tư sản của mình được hưởng trọn vẹn, người nào không làm sẽ bị trích mấy phần mười số lúa tư sản của mình đó....
Cuối những đoạn có dấu (*): Ðể cho người đọc được dể dàng, chúng tôi xin mạn phép phân đoạn tại những nơi có dấu (*). Nguyên bản chánh không có phân đoạn tại những nơi ấy. Kính cáo.
Q.2/26: PHƯƠNG PHÁP TỔ CHỨC TRONG HƯƠNG THÔN VIỆT NAM.
Tại Ðền Thánh, thời Tý mồng 5 tháng 6 năm Mậu Tý (dl. 11-07-1948)
Kỳ trước, Bần Ðạo đã giảng về đạo của vị chủ quyền xã hội chúng ta là ông chủ, nay tiếp thuyết về phương pháp tổ chức xã hội ta trong hương thôn là thế nào và ai cầm quyền ấy.(*)
Ta đã thấy Nho Ðạo ta lấy gia đình làm căn bản, bước từ tiểu gia đình là gia tộc lên đại gia đình là quốc gia, lại thấy sự khéo léo trong gia đình là phương pháp thực hành. Các phần tử trong gia tộc hiệp lại thành Tông đường, một gia tộc nào đủ nhơn nghĩa đạo đức thì Tông đường đó, để mắt nong nả cho có đủ phương pháp thi thố cả sở năng của mình, bởi chỉ trông cậy nơi mình làm cho gia đình đứng đợt được với thiên hạ một cách vinh diệu, mà hễ Tông đường được vinh diệu, tức nhiên người đại diện cho Tông đường ấy khi ra thay mặt cho Tông đường, đã đào luyện trí thức tinh thần, sở năng, sở kiến, đặng thay thế Tông đường cho xứng đáng trước luật quan phép nước. Trong hoàn cảnh kiến thiết xã hội là vậy. Làm đầu Tông đường được, tức nhiên trong hương đảng đã để dành địa vị cho danh thể cao trọng ấy rồi, thanh niên thì vào hàng thành đinh, niên kỷ cao trưởng thì vào hàng kỳ lão, lãnh kiến thiết hương đảng, không bỏ một ai. Tuy vậy, Ban Hội Tề có đông đảo mặc dầu, nhưng Bần Ðạo đã nói rằng Hội Tề bất quá là triều chính của Ðệ Nhị chủ quyền là ông Hương Chủ trong hương đảng vậy thôi.
Ấy vậy, trong hương thôn có mặt nào đứng đợt làm đầu hương thôn, mặt ấy không lẽ triều chính không biết đặng, nên danh nghĩa trong hương đảng liên quan mật thiết với triều đình, mà hễ có liên quan tức nhiên là địa vị triều đình sẽ dành để cho người cầm quyền hương đảng đó vậy.
Tổ chức xã hội chúng ta đi từ tiểu gia đình lên đại gia đình là quốc gia, vì cớ nên Tiên Nho chúng ta, dầu cho Ðệ Tam quyền là ông Cha trong gia đình, mà có tội đem ra giữa triều chánh buộc tội là trị đạo bất nghiêm, còn Ðệ Nhị chủ quyền lại là trị dân không nghiêm cũng gọi là trị đạo bất nghiêm. Hình phạt nặng nề sẽ định án cho hai chủ quyền Ðệ Nhị và Ðệ Tam đó không phương chối cãi.
Cái đạo, nói tiếng đạo, mà người cầm quyền trị đạo phải thật hành được đạo, đã không dễ, thì cầm quyền trị đạo lại càng không dễ nữa. Phải làm thế nào thi thố cho dân sự trong bổn thôn thấy tâm Thánh của mình là thay thế Ðức Khổng Phu Tử làm cha mẹ dân, mà chẳng vậy thôi, còn cầm quyền làm thầy trong bổn thôn nữa mà chớ.
Tổ chức xã hội quốc gia chúng ta không mắc mỏ mà thật sự thì khó đáo để. Thuở mà nòi giống nầy còn kêu cha là bố và mẹ là cái, kẻ nào đạt được vị Bố Cái hương đảng, tức là cha mẹ của hương đảng, ấy là lời ban thưởng, tặng khen lớn lao lắm vậy, tức nhiên Ðệ Nhị chủ quyền là quyền của vị Bố Cái hương đảng là vinh diệu hơn hết.
Ấy vậy, Ðệ Nhị chủ quyền làm cha, làm thầy hương thôn, ta suy xét tưởng tượng xem phận sự ấy trọng yếu như thế nào? Coi dân như con đỏ, làng như cha mẹ dân thay thế cho triều đình, mà muốn nên phận cha mẹ dân thì vị chủ quyền đó không tư tâm, tư kỷ, hễ tư tâm tư kỷ tức bốc lột dân, trộm cướp của dân, hiếp bức dân. Ta thấy phương pháp đương nhiên, hiện giờ còn giữ khuôn khổ ấy, chỉ hại một điều là hương đảng đương nhiên xu hướng tân thời đã hết làm cha mẹ dân, dở thói tham quan ô lại, làm cục bướu làm mụt ghẻ tâm lý của dân. Vì cớ nên giá trị của Ðệ Nhị chủ quyền không còn năng lực nữa, mà nếu không còn năng lực tức là hết cầm quyền chuyển tâm lý được, biểu thế nào ngăn cản được dân xu hướng theo văn minh mới, mà nhứt là nòi giống Việt Nam nầy hay nghinh tân yểm cựu lắm. Nếu không đủ biệt tài cầm cái khối báu do Chí Tôn để lại mà trau giồi làm cho có giá trị cứ do theo điều mới mẻ ấy thì chỉ có làm cha làm chủ bướng vậy thôi, nên cần phải biết sửa đương lại thì xã hội này sẽ đứng đầu hơn hết. Tại mình làm chủ mà không biết của báu, khinh miệt nên thiên hạ mới khinh miệt nó. Ấy vậy đương thời bây giờ thiên hạ không còn làm cha mẹ, bố cái hương đảng nữa, nên cái vinh diệu của Tiên Nho ta lưu lại đã bị bại hoại thành hình tướng dị hợm lắm rồi.
Vị chủ quyền hương đảng của nhà Nho ta, tuy là tư tưởng tinh thần rất đơn sơ, nhưng nói ít mà làm nhiều, nên vị Hương Chủ hồi cựu trào lãnh làm chủ hương đảng thì triều đình phái một vị quan đến phong quyền cho và thường nói: "Triều chánh cầu xin một điều là vị Hương Chủ làm sao cho xứng đáng phận sự cha mẹ của dân".
Trước ta đã thấy quyền làm cha mẹ trong gia đình khó khăn thế nào rồi, thì vị Hương Chủ lên làm cha mẹ dân trong một làng, lời xưa thường gọi là bá tánh là vì bởi nhiều Tông đường hiệp lại mới thành một làng. Nên việc làm cha mẹ dân trong một làng không phải dễ, dân đói phải lo, dân rách phải lo, dân khổ phải lo, một tên dân đau khổ thì ông chủ quyền phải ở bên mình như cha ở bên mình con vậy, cha nâng đỡ danh thể làm cho con nên thế nào, thì ông chủ quyền của hương thôn cũng phải làm nên cho dân thế ấy. Nghĩa là tâm lý của ông cha cầm quyền gia đình trị con thế nào, thì ông chủ cầm quyền hương lân trị dân cũng như cha trị con vậy.
Nếu từ trước đến giờ còn giữ được khuôn khổ tổ chức của tổ phụ để lại, thì Bần Ðạo tưởng chẳng hề thấy sự tồi phong đương nhiên, và cầm chắc sự thống khổ loạn lạc chẳng hề có đặng. Ngày hôm nay, phong hóa quốc gia xã hội ta không còn nguyên hình tướng nữa, đã thay đổi ra thô tục gớm ghiếc quá chừng.
Ðức Lý Giáo Tông lập Bàn Trị Sự, Ngài lập chức Chánh Trị Sự và Phó Trị Sự, rồi Ngài lại biểu Bần Ðạo lập chức Thông Sự. Ngài nói Phó Trị Sự là Giáo Tông em, mà nơi làng có Giáo Tông em thì tức nhiên phải có Hộ Pháp em là Thông Sự nữa chớ. Nếu sự tổ chức hương lân chưa phải cần yếu thì Ðức Lý đã không làm như vậy. Ngài đặt chức Chánh Trị Sự tức là ông Chủ, Ðệ Nhị quyền trong thôn lân về phần Ðạo, hỏi vậy mơ vọng của Ðức Lý để Chánh Trị Sự làm gì? Ðức Lý có ý đem qui cũ Ðạo vào Ðệ Nhị chủ quyền, đặng phục hồi lại y như trước. Ngài quyết định hơn nữa là để vị Chức Sắc ấy nắm quyền Hội Thánh tức là vào Thánh Thể của Ðức Chí Tôn, nghĩa là dự định đặng lên Lễ Sanh, rồi lên Giáo Hữu, tức là vào hàng Thánh Thể đó vậy. Muốn chỉnh đốn xã hội lại, nên luôn dịp để một khuôn khổ trị Ðạo cho dân sanh tỉnh giác, biết vật báu ấy mà gìn giữ, tô điểm, làm cho xã hội thôn lân thêm xinh lịch. Ý muốn là vậy, mà thử hỏi Bàn Trị Sự toàn thể quốc gia ta ngày kia có đủ năng lực và đủ tinh thần đạo đức để chỉnh đốn xã hội ta trong hương thôn, lần lần sửa lại theo tổ chức tối cổ của quốc gia xã hội ta trước được không?
Bần Ðạo dám chắc rằng Ðạo Cao Ðài làm đặng, và nhờ bàn tay của toàn thể quốc dân Việt Nam ta đó. Việc làm bất luận lâu hay mau, miễn đạt được thì thôi, Bần Ðạo sợ e một điều là đầu óc hình thể ta thấy trước mắt, thay vì chỉnh đốn đi ngược trở lại khuôn cũ, rồi lại còn xu hướng theo tổ chức xã hội, làm diệt vong phong hóa; thay vì cứu sống lại cái gia tài, lại làm tiêu cả sự tốt đẹp thọ hưởng đã bốn ngàn (4.000) năm nay còn noi lại. Bần Ðạo mơ ước một điều là toàn con cái của Ðức Chí Tôn trong hương thôn tức là Bàn Trị Sự, biết phận sự trọng yếu của mình để đủ tinh thần làm vừa theo Thánh ý của Ðức Lý Giáo Tông và Ðức Chí Tôn. Bần Ðạo mong mỏi cả thảy đem cái quý của Tổ phụ chúng ta lưu lại chỉnh đốn cho đẹp cho xinh đủ oai quyền năng lực, đặng ngày kia đem cho toàn các sắc dân khác đồ theo. Ðương buổi này thiên hạ đương thống khổ tâm hồn, nếu họ thấy chánh sách của ta đạt được, họ sẽ lấy và đồ theo mà lấy trong tay Cao Ðài họ không thẹn mặt.
Cả thảy nam nữ nhớ lời căn dặn, đặng khi thái bình trở lại, lo chỉnh đốn Bàn Trị Sự trong hương thôn, để làm nền móng tổ chức quốc gia ta sống lại đẹp đẽ mỹ mãn và cường liệt, mà quốc gia ta có đẹp đẽ mỹ mãn cường liệt thì nhờ nơi hương đảng tạo ra; nếu mấy người tạo ra thô bỉ thì sự kiến thiết cũng thô bỉ, hễ mấy người tạo ra đẹp đẽ thì sự kiến thiết đẹp đẽ, mạnh mẽ vì bởi khởi đầu đào tạo bằng hột giống mạnh, thì cây lên mạnh, bằng hột giống yếu thì cây sẽ lên yếu.
Phụ ghi:
Cuối những đoạn có dấu (*): Ðể cho người đọc được dể dàng, chúng tôi xin mạn phép phân đoạn tại những nơi có dấu (*). Nguyên bản chánh không có phân đoạn tại những nơi ấy. Kính cáo.
Q.2/27: ĐỆ NHỨT CHỦ QUYỀN CỦA XÃ HỘI VIỆT NAM.
Tại Ðền Thánh, thời Tý mồng 9 tháng 6 năm Mậu Tý (dl. 15-07-1948)
Ðêm nay Bần Ðạo giảng tiếp về đệ nhứt chủ quyền của xã hội chúng ta. Bần Ðạo đã giảng kỳ rồi về đệ nhị chủ quyền tức là chủ quyền hương đảng, và đã giải rõ ràng cái phương pháp kiến thiết từ thử là lấy gia đình làm căn bản. Tiểu gia đình là trong một nhà liên quan với cả Tông đường gọi là họ, là tánh, trung gia đình tức là tổ chức trong hương đảng của Ðệ Nhị chủ quyền, tới Ðệ Nhứt chủ quyền làm đầu một Ðại gia đình là một nước.
Ta đã tự hiểu Thánh ý của Ðức Chí Tôn sanh ra nòi giống chúng ta, và đã tạo cả tinh thần của nòi giống chúng ta, không biết chừng dìu dắt tinh thần ấy để lập chánh kiến quốc gia, là lấy gia đình làm căn bổn. Ta thấy rõ ràng Chí Tôn muốn cho cả nhơn loại chung hiệp cùng nhau làm một đại gia đình toàn cầu thế giái sau nầy vậy, nếu (nên?)(*1) Ngài định trước cho một quốc dân của Ngài đến lấy tinh thần đạo đức làm căn bổn cho cả tinh thần đạo đức toàn nhơn loại, lấy cả quyền năng lập quốc cho nước Việt Nam, đặng làm khuôn mẫu chuẩn đích tương lai lập chánh trị toàn cầu thiên hạ mà chớ. Nếu không tự tôn, ta cũng nhận thấy rằng điều tưởng tượng ấy không lầm, bởi dầu muốn hay không, quyền năng vô hình cũng xô đuổi dục tấn các dân tộc vạn quốc phải đi đến sự chung hiệp vào đại gia đình của toàn nhơn loại mà thôi.
Ấy vậy, Bần Ðạo thuyết Ðệ Nhứt chủ quyền do Tổ phụ chúng ta tổ chức và lưu lại trong văn hiến tức là nhà vua. Ðệ Nhứt quyền là giáo sư, là ông cha của cả nước. Không lạ gì, chúng ta cũng thấy như ông cha trong tiểu gia đình kia vậy. Ðức Khổng Phu Tử nói: "Ðạo trị dân không khác đạo trị gia đình" ấy đạo của Ngài vậy. Chúng ta thấy trước khi lên cầm quyền vì một sơn hà xã tắc, một nhà đương quyền tại vị, hay đã thoái vị cũng vậy, các vì Vương Ðế thường có nói nơi cửa miệng hoặc di chúc lại, bao giờ cũng mơ ước cho có người kế vị xứng đáng làm cha mẹ của nhơn dân bá tánh, văn hiến của ta tuy đơn sơ mà thâm thúy lắm là nói ít mà làm nhiều, và sự khó khăn trọng yếu chẳng thể tưởng tượng được.
Bần Ðạo nhắc lại một lần nữa là buổi nòi giống An Nam ta đây còn kêu cha là Bố, mẹ là Cái, mà vị Ðế Vương nào lên cầm quyền được dân tặng là Bố Cái, như Bố Cái Ðại Vương, thì sự vinh hiển của triều chánh đó không luận đặng, mà sự vinh hiển của Ðế Vương đó cũng chẳng tả được đối với lòng dân. Nói ít làm nhiều. Văn hiến của ta do văn hiến của Tàu châm chế sửa chữa lại, lấy của người làm của mình. Lấy căn bản chánh gốc của người ta mà làm của cải riêng của mình với tư cách đặc biệt, tưởng không nước nào khéo léo hơn nước Việt Nam ta vậy.
Ta thấy lời một vị Ðế Vương để lại cho con lên truyền kế cho mình như Hớn Chiêu Liệt để lại Hậu Chúa, có câu căn dặn rằng: Nếu nhà cầm quyền nào mực thước trị dân, biết tùng theo thì thiên hạ thái bình, quốc thới dân an, Hớn Chiêu Liệt sắc Hậu Chúa viết: "Vật dĩ thiện tiểu nhi bất vi, vật dĩ ác tiểu nhi vi chi" (nghĩa là ông Hớn Chiêu Liệt căn dặn con truyền kế rằng: Ðừng thấy lành nhỏ gọi nhỏ mà không làm, đừng thấy ác nhỏ gọi nhỏ mà làm). Vì Ðế Vương biết rằng trong tay cầm sanh mạng quốc gia, trị cả bá tánh để lại cho con một di ngôn bất hủ. Nếu cả các Ðế Vương trên mặt địa cầu nầy, cầm sanh mạng quốc gia biết lấy câu ấy làm "trấn tâm chi bửu" cho mình, Bần Ðạo tưởng chắc, nếu thi hành cho đúng thì cả quốc dân đó hạnh phúc vô cùng.(*)
Tổ phụ chúng ta muốn trong nước ta, dân ta, tình của Vua đối với dân thế nào cho mực thước, chơn thật như cha đối với con, nếu Vua đối được với dân như cha đối với con, tức nhiên lấy tình ái làm quyền hành, công chánh làm mực thước, tưởng không quốc gia nào trên mặt địa cầu nầy hưởng được hạnh phúc hơn nữa. Ta thấy tấn tuồng ly loạn do kẻ cầm quyền định vận mạng cho nước, cho dân chỉ biết mình, không biết bá tánh. Thường nghe nói: "Thiên hạ vi gia" hại một điều tuy vậy nhà Vua ở với bá tánh như cha ở với con nên có câu "thiên hạ vi gia" vậy nhà Vua lấy thiên hạ làm nhà, thương dân như con đỏ, trái lại họ lấy thiên hạ làm tôi đòi của cải. Thay vì coi thiên hạ như nhà như con, họ lại coi thiên hạ như nô lệ, tư nghiệp của mình, tức là hiểu lầm khuôn khổ của Tiên Nho ta đã quyết định vậy.
Tổ chức thật khéo léo làm sao, chính nhà Vua cũng không thoát cái khuôn viên gia đình. Nếu ngôi Vua truyền hiền thì chẳng nói chi, từ khi các vị Ðế Vương truyền tử đến giờ gia đình vẫn ở bên cạnh họ, họ phải bảo trọng gia đình trước nhứt, bởi gia đình của họ là Ðệ Nhứt gia đình trong quốc gia. Ta thấy từ khi các quốc gia nầy chẳng chịu ảnh hưởng của Nho Tông mà lập quốc, đã trở nên suy đồi bởi nguyên căn nào, do trị gia bất nghiêm! Cho nên cổ truyền tai hại hơn hết là cái loạn trong cung tần, trong vòng hoàng tộc mà sản xuất, đã hiển nhiên như vậy không chối cãi được. Các vì Vua trị gia bất nghiêm, biểu không bại hoại sao được, mà Ðệ Nhứt gia đình thất đạo có liên quan mật thiết đến cả toàn bá tánh thất đạo.(*)
Nhà Vua cốt yếu coi bá tánh như con đỏ, coi nước nhà như đại gia đình, giữ đạo nhơn luân làm trọng hệ, đã có quyền sanh sát, mà nếu quyền ấy không chuẩn thằng, biểu sao dân trong nước không thống khổ. Khi sự thống khổ ấy dân chịu đựng nổi chẳng nói chi, thảng như quá sức không chịu nổi được nữa, sanh loạn lên thì triều chánh và cả nước nhà phải nghiêng đổ.
Sự kiến thiết quốc gia lấy gia đình làm gốc, ta không thể chối rằng không biết gia đình ấy hay là từ bỏ đạo nhơn luân, duy có theo lối vô thần thì mới chối đạo nhơn luân đặng, nếu không chối đạo nhơn luân, tức không chối đạo gia đình, mà không chối gia đình thì cũng không hề chối tương lai vận mạng của tổ quốc mình được. Ấy vậy căn bản của phong hóa Việt Nam ta do nơi đạo nhơn luân, nơi gia đình, dầu ai thuyết minh phong hóa như thế nào đi nữa nguyên căn tinh túy cũng vẫn do nơi gia đình mà thôi; cho nên gia đình, phân làm ba hạng: Hạ, trung và thượng gia đình; thượng gia đình là Quốc gia, trung gia đình là Hương đảng, hạ gia đình là Tông đường, không có chi là lạ, là khó, nhưng căn nguyên ấy ta không sửa đổi đặng bởi ba bực hạ, trung, thượng của cơ tấn hóa thế nào thì gia đình cũng thế ấy. Cả Càn Khôn có Thượng giái, Trung giái, Hạ giái, mặt luật thiên nhiên của sự tiến hóa trật tự ấy không thể tiêu hủy đặng.
Tổ chức xã hội của chúng ta khéo léo làm sao đâu, Bần Ðạo dám chắc rằng cao thượng hơn hết. Hại thay! Quốc dân ôm của báu trong tay mà không biết quí trọng, liệng rồi chạy theo ăn mót đồ bỏ của thiên hạ, lấy làm của. Ðức Chí Tôn đến đặng thức tỉnh nhơn sanh, nên mới có câu Ngài nói với nhà Vua: "Nam phong thử nhựt biến Nhơn phong" là thêm ý rằng: Tổ phụ chúng bây để lại cho bây một phong hóa, nó sẽ biến thành phong hóa của toàn nhơn loại vậy.
Ngài cho biết rằng chúng ta vốn có của báu, mà của báu ấy thiên hạ đang tìm kiếm đặng sống.
Phụ ghi:
(*1) Nơi đoạn thứ 2: Ta đã tự hiểu Thánh ý của Ðức Chí Tôn sanh ra nòi giống chúng ta, ... ... .... Ta thấy rõ ràng Chí Tôn muốn cho cả nhơn loại chung hiệp cùng nhau làm một đại gia đình toàn cầu thế giái sau nầy vậy, nếu (nên?) Ngài định trước cho một quốc dân của Ngài đến lấy tinh thần đạo đức làm căn bổn cho cả tinh thần đạo đức toàn nhơn loại,...
Chúng tôi xin đề nghị cho rõ nghĩa hơn: Ta đã tự hiểu Thánh ý của Ðức Chí Tôn sanh ra nòi giống chúng ta, ... ... .... Ta thấy rõ ràng Chí Tôn muốn cho cả nhơn loại chung hiệp cùng nhau làm một đại gia đình toàn cầu thế giái sau nầy vậy, nên Ngài định trước cho một quốc dân của Ngài đến lấy tinh thần đạo đức làm căn bổn cho cả tinh thần đạo đức toàn nhơn loại,...
Cuối những đoạn có dấu (*): Ðể cho người đọc được dể dàng, chúng tôi xin mạn phép phân đoạn tại những nơi có dấu (*). Nguyên bản chánh không có phân đoạn tại những nơi ấy. Kính cáo.
Q.2/28: Ý NGHĨA VỀ "NHẠC TẤU HUÂN THIÊN".
Tại Báo Ân Từ, thời Ngọ rằm tháng 4 năm Mậu Tý (dl. 23-05-1948)
Có điều mầu nhiệm nên nay Bần Ðạo giảng về Lễ Nhạc để tránh sự thất lễ khi vô hành lễ, vì không hiểu nghĩa lý, không biết thủ lễ theo phép cho y khuôn khổ khi "Nhạc tấu Huân Thiên".
Bên Á Ðông, trong nền Ðạo Cao Ðài có trống, có chuông, còn bên Âu Châu có chuông mà không có trống là tại sao? Tại sao Á Ðông dùng trống còn Âu Châu dùng chuông? Trống là âm thinh của Ðạo.
Thuở chưa có Càn Khôn Vũ Trụ, Ðạo giáo có dạy: Hai lằn ngươn khí đụng lại nổ ra khối lửa, khối lửa ấy là ngôi Thái Cực. Chủ ngôi Thái Cực là Ðức Chí Tôn. Khi nào trời sét nổ, chúng ta nghe sao? An Nam mình kêu "ầm" còn theo Ðạo Pháp kêu "ùm", vì cớ phép Phật sửa lại là "úm": úm ma ni bát rị hồng. Câu ấy đọc có nghĩa là nắm cả quyền năng vũ trụ quản suất trong tay. Tiếng nổ ta nghe nó ra sao? Khi nổ rồi còn nghe tiếng bay xa, nguyên căn của tiếng nổ là tiếng trống, còn giọng ngân là tiếng chuông. Ấy vậy, nguyên căn của Ðạo Giáo do bên Á Ðông nầy, có tiếng trống ngân bay qua Âu Châu, nên các Ðạo Giáo Âu Châu đều là hưởng ứng theo Phật Giáo mà Phật Giáo xuất hiện nơi Á Ðông. Vì vậy mà các nền Tôn giáo phụ thuộc đều không đúng theo nguyên tắc căn bản.
Còn tại sao khi vô làm lễ, lúc "Nhạc Tấu Huân Thiên" tức là lễ hiến dâng sự sống cho Ðức Chí Tôn là Thầy của cả càn khôn vạn vật, Bần Ðạo thường nhắc nhở tất cả phải đứng ngay ngắn, nghiêm chỉnh. Nhạc là hưởng ứng của cả khối sanh quang của càn khôn vạn vật đồng thinh. Nơi Á Ðông có câu: "Biều thổ cách mộc thạch kim dử tư trước nãi bát âm". Các vật vô năng mà nói đặng có trật tự niêm luật hòa nhau là đạt Ðạo, hiệp lại với tiếng kinh mình đọc là âm thinh, nghĩa là con người cùng vạn vật đồng thinh hiến lễ. Nơi Ngọc Hư Cung có đôi liễn: "Bát hồn tư mặc ca Hoàng Lão, vạn vật đồng thinh niệm Chí Tôn".
Khi nhạc trổi, cả thảy phải im lặng, hiến cả âm thinh sự bí mật ấy gọi là Phi-tướng-lễ chủ ý là trình tấu với Ðức Chí Tôn rằng: Các con biết được sự mầu nhiệm căn nguyên của Cha lành muốn cho các con nối nghiệp theo một khuôn phép trường tồn. Lễ đó trọng hệ như dâng Tam Bửu vậy. Bần Ðạo dặn một lần nữa: Khi nào xướng "Nhạc tấu Huân Thiên" thì phải đứng bình tịnh, người nào có vô không kịp thì đứng ngoài mà thôi.
Q.2/29: TÂN NỘI CÁC QUỐC GIA VIỆT NAM.
Tại Ðền Thánh, thời Tý đêm 19 tháng 4 năm Mậu Tý (dl. 27-05-1948)
Ngày hôm nay là ngày của Nội Các Tân Chánh Phủ toàn quốc đến tại Hương Cảng, trình danh sách cả Nội Các cho Ðức Bảo Ðại phê chuẩn.
Toàn Ðạo đều hiểu rõ tình trạng hai năm nay, nước nhà và dân tộc Việt Nam đã chịu thống khổ dường nào. Họa nổi loạn khốc liệt thế nào, cả nòi giống đổ máu vô lối dường bao, hỏi do tại đâu? Từ trước Tổ phụ chúng ta để lại một nền văn hóa, phong tục tối cổ, hiệp chúng ta lại thành Quốc gia. Tiên Nho cho rằng hoặc nhà vua, hoặc triều chánh, hoặc toàn dân của nước cầm quyền thống trị. Văn hóa tối cổ chúng ta từ trước có một khuôn luật: Giữ Ðạo để trị nước. Hễ loạn lạc nước không bình phục đặng là do toàn quốc dân thất Ðạo. Quốc gia Việt Nam thế nào thì do nhơn loại trên mặt địa cầu nầy cũng thế đó.
Nạn loạn lạc hoàn cầu, Bần Ðạo thuyết hôm qua chỉ rõ nguyên do nhơn loại thất đạo mà nảy sanh. Muốn cứu vãn tình thế Tiên Nho buộc cả nhà vua và Triều chánh dĩ chí toàn dân phải ăn chay, nguyện, tế, gọi là lễ Nam Giao.
May thay Tân Chánh Phủ tức nhiên Tân Nội Các toàn quốc lại thấu đáo điều ấy, nên khi Bần Ðạo ở Sài Thành, chính mình Thủ Tướng Xuân đến nhà Bảo Sanh Quân cầu Bần Ðạo xin hành lễ khẩn nguyện Ðức Chí Tôn ban ân lành cho quốc dân Việt Nam. Ðã biết hiểu cơ bí mật ấy tức nhiên chúng ta định họ học Ðạo đặng. Một xa thơ đã bốn ngàn năm lịch sử đi đến giai đoạn khó khăn nguy hiểm, con đường qua rồi xa thơ quay bánh lăn tới đâu, chúng ta dòm thấy toàn xương máu. Ngày nay đến đường vinh quang trước mắt, cần yếu toàn dân biết Ðạo trọng hệ hơn là dường nào. Nhưng cả tâm đức của toàn quốc cố gắng tranh đấu cho tương lai, hạnh phúc của nước nhà là những tay nhứt định đẩy xa thơ ấy tiến mãi mà thôi, mà được cùng chăng là do nơi tinh thần đạo đức của toàn quốc dân đó vậy.
Hôm nay, chúng ta vì tương lai của tổ quốc đặt nén hương lên Thiên bàn thành khẩn Ðức Chí Tôn ban ân cho Tân Chánh Phủ Việt Nam, ắt hẳn sẽ được thành công mỹ mãn.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày dl. 27-05-1948 nhằm ngày (âl. 19-04-Mậu Tý) nguyên bản chánh in là: 19-05-Mậu Tý (dl. 27-05-1948).
Q.2/30: VẬN MẠNG QUỐC DÂN VIỆT NAM.
Tại Ðền Thánh, thời Tý đêm 28 tháng 4 năm Mậu Tý (dl. 05-06-1948)
Nội sáng mai nầy là ngày định vận mạng tương lai tiền đồ Tổ quốc cả nòi giống Việt Nam của chúng ta vậy. Vì cớ nên đêm nay mới có cuộc lễ nầy, đặng cầu nguyện Ðức Chí Tôn cho được kết liễu mỹ mãn và đôi đàng lấy thật tâm hòa giải, hầu vãn hồi trật tự, an ninh cho nước nhà ta.
Kỳ trước, khi Bần Ðạo ở Hồng Kông về, Bần Ðạo có lên tòa giảng nầy nói rằng, cái khó là chẳng phải do nơi Pháp nữa, mà lại do Việt Nam ta, bao giờ cũng vậy, nhơn tâm vẫn thế. Trải tám mươi năm lệ thuộc, chúng ta chịu thống khổ tâm hồn đã nhiều rồi, bây giờ chúng ta hẳn đòi lại, đòi cho kỳ được, và phải được mà thôi, nhứt quyết như vậy. Cả đồng chủng của chúng ta ngày nay tinh thần đã đến bực lão thành rồi, chẳng còn ưng chịu nhục nhã tâm hồn như xưa nữa. Ðòi, đòi đặng dùng ai là người yêu nước, thật tâm ái quốc, không phải nói trong cửa Ðạo mà thôi, nói tất cả mỗi cá nhân trong xã hội, nếu ai là người thật tâm ái quốc, muốn lo lắng cho nền vận mạng nước nhà, thì cần phải suy đi xét lại và nhận định sự tấn thối cho tường, mỗi mỗi việc gì cũng phải để trọn tâm nghiên cứu cho thấu lý mới được. Ðịnh vận mạng cho một nước không phải là dễ, rất đổi việc làm cá nhân là việc nhỏ mà còn phải suy gẫm định tâm rồi mới quyết đoán, để cả tinh thần trí thức đặng giải quyết thay, huống chi cả vận mạng của một nòi giống thì cần phải kỹ lưỡng hơn nữa kìa.
Hại thay! Những kẻ lãnh đạo kháng chiến, trong buổi tinh thần của một nước đã chịu tám mươi năm lệ thuộc đang bồng bột, mà những kẻ ấy ơ hờ chẳng để hết tâm hồn nghiên cứu. Bần Ðạo nói thiệt, họ không ái quốc chi hết, bất quá là một trường tranh đấu đặng đoạt lợi quyền mà thôi, nếu thật tâm ái quốc thì họ đã giải quyết xong rồi. Cái quyền sở hữu của mình là thiên hạ thiếu nợ mình, thì mình đòi cần gì phải đánh lộn với họ, cứ chiếu giấy tờ ra mà đòi, nếu không trả thì kiện, chớ đánh kẻ thiếu nợ thì nó nổi khùng đánh lại, nó có chịu thua mình đâu, rồi nó không chịu trả mới làm sao nó? Những kẻ lãnh đạo ấy đã vô ý thức chắc hẳn vậy. Vì bởi cớ mà Bần Ðạo đến giải quyết vấn đề của nòi giống chúng ta là duy có lấy cái quyền sở hữu ấy đặng đòi mà thôi.
Lập lại một lần nữa, nếu Bần Ðạo không bị đồ lưu nơi hải ngoại, thì không cần phải đánh nhau. Bất chiến tự nhiên thành, nền chơn giáo sẽ đem nòi giống ra khỏi sự thống khổ như thời dân Juifs, Ðức Chí Tôn đã sai Jésus Christ đến giải khổ vậy. Nếu thiên cơ không định dường ấy thì Ðạo không có giá trị gì hết. Tại sao? Chí Tôn đã đến cầm tinh thần của nòi giống Việt Nam 4.000 năm văn hiến, đặng làm khí cụ quyết chiến với tinh thần, coi có giải thoát nòi giống Việt Nam đặng chăng, coi có thắng được hay không cho toàn con cái của Người ngó thấy.
Không thể dùng ngọn gươm, mũi súng mà quyết đoán thiên hạ đặng. Tài lực, cường liệt của gươm súng không quyết định thắng thiên hạ đặng, quyết hẳn như vậy. Ta nên lấy đó mà làm bài học và cho dân tộc Việt Nam thấy rằng, chúng ta có một mãnh lực còn mạnh hơn nguyên tử lực nữa kìa, chẳng lực lượng nào tàn sát cùng động đến được là tinh thần đó vậy. Bần Ðạo muốn cho nòi giống Việt Nam thấy lực lượng tinh thần nhơn nghĩa, đạo đức, đã thâu đoạt thắng lợi một cách vinh diệu. Ta hãy để mắt xem và để cả đầu óc suy nghiệm, coi hành tàng của kẻ vô đạo, con loàn, tôi giặc kia, có thắng được tinh thần của Tổ tiên Việt Nam lưu lại đó hay chăng cho biết.
Ta mở mắt xem bên nào thắng, bên nào bại.
Q.2/31: LỄ TIẾP RƯỚC ÔNG TỔNG TRƯỞNG BỘ PHÁP QUỐC HÃI NGOẠI.
Tại Ðền Thánh, thời Tý đêm mồng 9 tháng 5 năm Mậu Tý (dl. 15-06-1948)
Ngày hôm nay, Bần Ðạo đình sự khảo cứu phong hóa của nhà Nam ta về đạo nhơn luân, đối với đạo nhơn luân của cả nhơn loại trên mặt địa cầu nầy, để nói về buổi lễ hồi sáng nay tổ chức với ý nghĩa, chí hướng gì?
Vả chăng Ông Chevance Bertin, là đại diện của Tổng Trưởng Bộ Pháp Quốc Hải Ngoại, lãnh mạng lịnh của quan Tổng Trưởng sang Ðông Dương đặng quan sát tình hình liên quan Việt Pháp, tức là tình hình đương nhiên của nước nhà ta đối với nước Pháp. Ấy là một yếu nhơn có thể làm phát ngôn viên, đặng đem sự thật trình bày cho dân tộc Pháp hiểu biết tình trạng hiện tại, nên Bần Ðạo đến tại Sài Thành, để có lời ước vọng cùng Ông quan sáu De Latour là muốn gặp Ông Chevance Bertin.
Thời buổi đương nhiên nầy, chúng ta đừng để cho thiên hạ có thể nói rằng, không hiểu tâm lý của nòi giống Viêt Nam như thế nào, hễ gặp dịp là phô bày, nhứt là chúng ta là người đạo đức, càng cần phải trải sự thật trắng ra trước mắt, cho người ta quyết đoán.
Bần Ðạo vừa nói: Ông Chevance Bertin là một yếu nhơn có thể làm phát ngôn viên cho Việt Nam nơi nước Pháp. Ngài là một vị Trung Tướng hồi hưu, nay làm chủ nhiệm tờ báo Climat, là tờ báo được quốc dân Pháp tín nhiệm. Bần Ðạo bày cuộc lễ hồi sáng, đặng nhờ toàn con cái của Ðức Chí Tôn nhứt tâm, nhứt đức, tỏ rõ thiệt tướng, đạo đức tinh thần của chúng ta ngày nay như thế nào, cho Ngài ngó thấy mà thôi. Bần Ðạo dám chắc, không hề nói dối, đó là làm cho tinh thần của Ngài để ý suy nghĩ lắm vậy. Lạ gì, thế thường thiên hạ hay nói (lời lặp lại của Ðức Chúa Jésus Christ): Mắt với mắt, răng với răng (Oeil pour oeil dent pour dent) kẻ vô nhơn tình mà mình lấy tánh cách vô nhơn tình ấy đối lại thì vẫn vô nhơn tình mãi thôi, không hề khi nào thâu nhơn tình đặng, lấy oán hận mà trả lại sự oán hận, thì nó vẫn còn mãi mãi. Trên mặt thế gian chưa ai biết được quyền năng tinh thần đạo đức, quyền năng ấy vô đối, nếu ta biết nắm lấy nó trong tay, thì nó là cây gươm, nền Ðạo gọi là Huệ kiếm. Ðem tình cảm đặng cảm giác thiên hạ, tấn tuồng ấy Bần Ðạo đương làm đây với một chánh sách, từ khi biết Ðạo và ra đảm nhiệm phận sự thiêng liêng của Chí Tôn phú thác. Bần Ðạo đã biết rõ sự bí mật của cơ chuyển thế nầy và tánh chất của loài người, thấu đáo tận tường rằng không bao giờ dùng cường lực đặng đè nén, ép buộc tinh thần loài người, đặng đem vào Thánh chất cho được. Muốn chuyển theo chánh sách của Ðức Chí Tôn thì duy có lấy nhơn đức đối với hung bạo, lấy hiền đối với dữ, lấy tâm quảng đại bao la khoan dung tha thứ của Trời Ðất đối với tánh đức hẹp hòi của loài người, lấy tâm bác ái trải ra toàn tâm lý loài người đặng trừ cái tánh gian xảo, hung tàn, quỉ quyệt của họ. Nếu chúng ta đi theo được đúng như vậy, mới có thể xứng đáng là kẻ thay mặt cho Ðức Chí Tôn cầm cơ chuyển thế tại thế gian nầy.
Bần Ðạo đã làm đặng như vậy, và sẽ còn làm nữa. Tình trạng của chúng ta làm ngày hôm nay để cho thiên hạ thấy tâm đức chơn thật của chúng ta đã trải trước mắt họ, thì họ cũng phải đối lại với ta chơn thật như vậy.
Coi vậy mà ngoài mặt ta tinh thần đương thanh tịnh sẽ có giờ xao xuyến, chớ thiên lương tâm lý vô đối trong phút giây tỉnh giác và phút giây ấy có thể làm môi giới cho ta tự tỉnh cả kiếp sống của mình.
Ta đã tìm phương tỉnh giác thiên hạ, Phật Thích Ca có nói: "Tự giác nhi giác tha" có giác tha, mới hiểu cuộc lễ ngày hôm nay không phải là bỏ, ngày mệt mỏi hôm nay không phải là một ngày vô ích và sự kết quả tâm tình của ta đối với đại diện của nước Pháp đến viếng Tòa Thánh vị ấy sẽ thấy và hiểu chúng ta, thì ảnh hưởng đó một ngày sau mà là ngày gần đây thôi, sẽ đem đến cho Quốc dân Việt Nam những thắng lợi bất ngờ.
Q.2/32: VÌ SAO ĐỨC HỘ PHÁP CẦM QUYỀN NHỊ HỮU HÌNH ĐÀI.
Tại Ðền Thánh, đêm 14 tháng 5 năm Mậu Tý (dl. 20-06-1948)
Bần Ðạo lấy làm ngạc nhiên là từ khi khai Ðạo đến giờ Bần Ðạo chưa thấy kỳ đàn nào đẹp như kỳ đàn nầy. Nếu tất cả thấy được quyền (huyền?)(*1) diệu pháp, điều mà mấy người không thể tưởng tượng được, vì từ khi mở Ðạo mới có lần đầu. Hay là tại chúng ta đồng thinh tụng kinh mà được như vậy chăng? Ấy vậy, từ đây về sau, chúng ta vẫn làm y như kỳ nầy mãi mãi.
Hôm nay, Bần Ðạo xin tạm đình khảo cứu nền phong hóa của Việt Nam đối với dân tộc vạn quốc đặng thuyết một vấn đề trọng yếu từ thử đến giờ chưa ai thố lộ. Ngày hôm kia, Bần Ðạo gặp Ðức Lý Giáo Tông vấn đáp cùng Ngài về một lý thuyết tối trọng yếu trong nền Chánh giáo của Ðức Chí Tôn. Ấy vậy, xin cả thảy bình tâm lắng nghe Bần Ðạo minh thuyết và rán nhớ, bởi vì bài giảng Ðạo hôm nay có điều bí ẩn tiên tri, sự tiên tri ấy kết liễu cùng chăng không rõ, nhưng hiện giờ ta có thể đoán xét được.
Ðức Lý Giáo Tông có giáng cơ nói, giao quyền Cửu Trùng trong tay Bần Ðạo đặng thống nhứt quyền hành Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Ðài, ấy là do Ngọc Hư Cung quyết định, tức là Thiên điều quyết định vậy. Ðiều ấy Bần Ðạo lấy làm khó nghĩ, lấy trí mà tưởng tượng. Ngoài ra người nào khác hơn là Bần Ðạo thì không để ý, nhứt là khi chịu nhận đảm nhiệm ấy làm cho tinh thần Bần Ðạo kiếm hiểu vì cớ nào Ngài cho Bần Ðạo quyền thống nhứt, mà tìm kiếm không ra.
May thay! Ðức Lý Giáo Tông đến, Bần Ðạo thú thiệt xin Ngài nói rõ cho biết đôi việc nhỏ đặng chỉnh đốn lại, và xin lỗi đặng vấn nạn Ngài vấn đề ấy. Bần Ðạo nói:
"Bạch Ngài, sự bí mật ấy Ngài có thể cho tôi biết đôi chút đặng tôi mới an tâm, an trí được".
Ngài cười nói: "Bần Ðạo vẫn biết trước thế nào Hiền Hữu cũng vấn nạn. Nhưng Bần Ðạo đã cố tâm để đối đáp lại cùng Hiền Hữu. Trước kia muốn biết sự bí mật ấy, chúng ta nên tìm hiểu Nhị Hữu Hình Ðài là gì? Bần Ðạo xin giải nghĩa: Cửu Trùng Ðài là chơn tướng của Cửu Thiên Khai Hóa tức là cơ hữu vi của Càn Khôn Võ Trụ, do Cửu Thiên Khai Hóa tạo thành".
Hỏi: Bởi quyền năng nào tạo thành?
Do nơi quyền năng vô đối của Chí Tôn. Pháp là thành tướng ấy là do nơi Pháp từ Thượng cổ đến giờ liên hiệp Vạn Linh và Chí Linh. Bởi vậy ta tìm Ðạo là cốt yếu tìm hiểu cái bí pháp ấy như thế nào và có phương thế gì làm cho ta đoạt đặng chăng? Ấy vậy, Cửu Trùng Ðài là Cửu Thiên Khai Hóa tạo đoan cả Vạn Linh trong Càn Khôn Võ Trụ. Chúng ta ngước mặt lên trời, mắt ta thấy hằng hà sa số là địa giới, ta gọi là sao, mỗi vì tinh tú ấy là một quả địa cầu có người ta ở, cho nên Ðức Chí Tôn mới nói rằng: Càn Khôn Võ Trụ nầy chứa đầy Vạn Linh. Nói rõ hơn Cửu Trùng Ðài là Ðời.
Còn Hiệp Thiên Ðài là Pháp giới tạo ra Vạn Linh, nó là Ðạo, rõ rệt như vậy.
Bây giờ Bần Ðạo hỏi tại cớ nào Ngài đến đây, cầm quyền trị thế. Ta tìm hiểu cao sâu hơn nữa sự bí mật ấy. Hiện thời chúng ta thấy gì? Ta thấy đời đương phấn khởi bồng bột, tự năng, tự tạo, tự đoán, tự chủ, không còn đạo đức gì hết. Ðương nhiên có hai hình tướng:
Cộng Sản tinh thần thể chất.
Các Ban máy móc, cách vật, hóa học tức thuộc hình tượng thể chất.
Hai hình trạng ngày nay đối chọi nhau. Thảng ngày kia nó hiệp đồng lại, thì thể chất ấy có hình lại có hồn phách thì ta thử tưởng tượng trên mặt địa cầu nầy sẽ thể nào. Thể chất thì lúc nào cũng xu hướng theo thể tánh duy vật mà thôi. Thảng các Tôn Giáo đương cầm tương lai linh hồn của loài người, trên mặt địa cầu nầy không đủ năng lực thì cả tài năng thể chất sẽ xô đuổi cả xác thịt lẫn linh hồn của con người đến chỗ tự diệt. Ấy vậy, tinh thần tức là đạo đức, phải như thế nào đặng đối phó cho vừa sức lại thể chất ấy. Ðời bây giờ quá tấn triển về hình thể, phải có cơ Ðạo đủ năng lực tỉnh thức tâm hồn của loài người và giữ gìn dìu dắt cho mới tồn tại. Mà ta thấy các Tôn giáo hiện hữu tại địa cầu nầy đã mất quyền. Ðiều đó quyết hẳn vậy! Thiên hạ tinh thần đã loạn mà không ai cầm quyền điều khiển nên tự do sát hại lẫn nhau.
Chí Tôn đến, đến đặng cứu con cái của Người.
Người đã làm thế nào? Chẳng có chi lạ. Người chỉ tăng cường đạo đức làm giềng mối cho tâm lý loài người đặng bảo tồn sanh mạng cho cả nhơn loại với phép duy tâm thì Ðời mới tồn tại.
Ngài luận tới đó, Bần Ðạo nói: "Than ôi! Ðạo Cao Ðài đã hai mươi ba năm mà còn lẩn quẩn trong nội địa Việt Nam, có đâu đủ đảm lực ra toàn cầu đặng độ rỗi nhơn sanh, e đặc phận ấy quyết định con đường của Ðạo còn dài, còn sơ cấp tương lai vận mạng loài người đương cấp bách, làm thế nào chuyển thế cho kịp đặng hoàn tất cả đảm nhiệm thiêng liêng của mình".
Ngài trả lời một câu rất hữu duyên, chúng ta không thể tưởng tượng được. Ngài nói rằng: "Cái nhà máy xay, vốn nó không cấy, không gặt mà nó vẫn có gạo cho ra toàn nhơn sanh ăn; Ðạo Cao Ðài không ra khỏi nước mà có thể làm phận sự trọn vẹn đặng".
Bần Ðạo hỏi câu ấy có ý nghĩa thế nào?
Ngài đáp: "Mối chơn truyền của Ðức Chí Tôn đem Ðạo đến tại thế là mối dây liên lạc tương quan cùng các Tôn giáo trên Thế giới, đương nhiên cầm quyền nhơn loại bởi không có giềng mối kết liên với nhau thành ra chia rẽ, phân biệt trắng đen, hơn thiệt. Trận giặc Tôn giáo trên địa cầu hiện giờ ta thấy tại Ấn Ðộ và Palestine có thể nào làm cho các Tôn giáo hiệp đồng tâm đức đặng chăng. Duy có năng lực của Chí Tôn tạo thành mối dây liên hệ các Tôn giáo cùng nhau đó thôi".
Bần Ðạo vấn nữa: "Thảng các Tôn Giáo ấy Chí Tôn đem dung hòa đặng họ tương hội cùng nhau, mà họ không nghe, thì ta mới làm sao?"
Ngài nói: "Dầu đương nhiên họ không nghe, nhơn sanh sẽ biết điều trọng yếu ấy mà đòi hỏi thì họ phải chịu, chừng ấy nhơn sanh buộc hiệp, phải hiệp, bằng chẳng vậy họ sẽ tự diệt lấy họ".
Ấy vậy, Ðức Chí Tôn định cho Hộ Pháp cầm quyền hai Ðài, tức Thiên điều quyết định Ðạo phải làm chủ của Ðời, oai quyền ấy sẽ cứu Ðời khỏi tận diệt.
Vì cớ Ngài nói Thiên điều trong tay Bần Ðạo là vậy đó.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 14-05-Mậu Tý nhằm ngày (dl. 20-06-1948) nguyên bản chánh in là: 14-05-Mậu Tý (dl. 21-06-1948).
(*1) Nơi đoạn thứ 1: Bần Ðạo lấy làm ngạc nhiên là từ khi khai Ðạo đến giờ Bần Ðạo chưa thấy kỳ đàn nào đẹp như kỳ đàn nầy. Nếu tất cả thấy được quyền (huyền?) diệu pháp,...
Chúng tôi xin đề nghị cho rõ nghĩa hơn: Bần Ðạo lấy làm ngạc nhiên là từ khi khai Ðạo đến giờ Bần Ðạo chưa thấy kỳ đàn nào đẹp như kỳ đàn nầy. Nếu tất cả thấy được huyền diệu pháp,...
Q.2/33: QUẢ KIẾP CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM.
Tại Báo Ân Từ, thời Ngọ ngày rằm tháng 3 năm Mậu Tý (dl. 23-04-1948)
Cùng mấy chị mấy em, từ thử tới giờ chúng ta vẫn sống với đời, chúng ta thường thấy điều gì trái với nguyên do, tức nhiên phải tìm cho thấu đáo hoặc đoán cho được. Tỉ như đường may mà mũi kim không ăn vải, máy sẽ ắt có sứt mẻ chi đó, còn như xay bột thấy nghẹn không xuống thì biết thiếu nước. Cái gì cũng có nguyên do của nó, phải tìm cho biết hoặc đoán cho ra lẽ.
Hiện giờ có một việc dị hợm là nước Pháp chịu trả tự do độc lập thống nhứt, trả trọn vẹn mà từ thử đến giờ Pháp đã nói nếu chúng ta tự trị được, tự bảo vệ được, nên biết chúng ta có thể đem hạnh phúc lại cho nòi giống được thì người ta sẵn lòng hứa trả, sợ e cho mình không hưởng được hạnh phúc mà còn nguy khổ nữa, nên buộc người ta phải gánh cả trách nhiệm đã tám chục năm qua còn lưu lại mối thâm tình của hai nòi giống. Hai nữa là quyền lợi đã tự tạo trên tám chục năm còn lưu lại để mưu cầu sự sống chung với nhau cùng tạo hạnh phúc chung cho hai dân tộc. Nếu người ta sẵn lòng trả cho mình vi chủ lấy thì có nhiều người lấy làm lạ, nhứt là hạng thượng lưu trí thức của Pháp, họ rất ngạc nhiên rằng nước Pháp không hề cản đảng, không hề từ chối cho dân tộc Việt Nam thống nhứt và độc lập mà tại sao dân Việt Nam lại còn đánh Pháp, họ hỏi như vậy đó? Hồi nước Pháp muốn trả những điều đó cho tay khác, nghĩa là muốn đưa bướng cho rồi, nhưng sực nhớ lại là không phải chủ nên đòi, mà đòi mãi không lấy lại được, rồi vì sự lỗi lầm đó sanh rối lạ thường lắm vậy! Bởi cái rối đó mà tôi bắt tội họ, họ không thể chối được. Họ lại nói thảng như lời của Pháp không cho mình thống nhứt, không chịu trả nước cho mình thì mình phải giết họ chớ, bởi họ là kẻ thù. Tại sao trở lại giết nòi giống của mình, gây nạn tương tàn tương sát lẫn nhau? Nên họ cho đó là đảng cướp, đảng cướp ấy lợi dụng danh từ ái quốc để giết người lấy của mà thôi.
Lạ lùng thay! Ðêm hồi hôm tôi thuyết rõ tại quả kiếp của nòi giống mà chúng ta ngày nay phải chịu hình khổ. Ðời trước vay, đời sau phải trả, tấn tuồng đau thảm cốt nhục tương tàn nầy còn nhiều nữa, vì buổi trước đã tạo nên nay lưu lại mãi thôi, làm sao đoạn được, có phương gì đoạn được chăng? Có chứ.
Ðiều chướng ngại hiện giờ là tôi tưởng phải khó khăn về phái người Pháp, trái lại Ðức Bảo Ðại làm khó người ta, làm cho đình đãi cuộc thương thuyết, mà một ngày chưa thương thuyết, là một ngày nhơn sanh chết chẳng biết bao nhiêu. Tại sao vậy? Tại quả kiếp chưa thường đủ, nhơn sanh phải chết phải trả món nợ còn đang đòi, trả bằng máu, bằng con số sanh mạng. Vì cớ mới có sự chướng ngại lạ lùng vừa nói. Mà nợ ấy đòi bằng sanh mạng, bằng máu tức là đòi cốt nhục của mấy bà đó chớ, không con cũng cháu hoặc bà con thân quyến. Ðâu xúm lại cầu nguyện Ðức Phật Mẫu can thiệp giùm cho, sau thờ ơ quá vậy! Còn bên phái nam cũng vậy, không biết chừng, giọt máu chưa trả nợ đó còn ở trong mấy người, phải xúm nhau cầu nguyện.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 15-03-Mậu Tý nhằm ngày (dl. 23-04-1948).
Q.2/34: ĐỨC CHÍ TÔN HÀNH PHÁP TẠI KIÊM BIÊN.
Tại Ðền Thánh, thời Tý đêm 24 tháng 5 năm Mậu Tý (dl. 30-06-1948)
Bần Ðạo nhớ khi lên mở Hội Thánh Ngoại Giáo trên Kiêm Biên năm 1927, đặng truyền giáo, Ðức Chí Tôn cho vị Phối Sư Hương Lự của chúng ta đây được thông công cùng Ngài, nhờ nghe, nhờ thấy, truyền pháp cho Bần Ðạo.
Khi nọ, Chí Tôn biểu Bần Ðạo lại kệ "bàn viết" có sắp một dãy nhựt trình đặng rút ra hai tờ. Ngài lại dạy chị chúng ta là bà Phối Sư Bảy đứng bắt ấn, kế Bần Ðạo trải hai tờ nhựt trình sau lưng mà bà chị vẫn không biết. Tới lúc bắt ấn rồi, Bần Ðạo thưa: "Ðã trải rồi". Tức thì bà chị nhảy ngược lại, đạp hai tờ nhựt trình. Bần Ðạo không hiểu nghĩa gì. Ðức Chí Tôn biểu coi hai chơn có đạp cái gì. Bần Ðạo coi chơn trước giở lên là hình Tưởng Giới Thạch, đạp ngay trên đầu, còn chơn sau Bần Ðạo biểu giở nhón lên, coi thấy hình Roosevelt, quan Tổng Thống của nước Mỹ đạp ngay ngực và miệng. Ðức Chí Tôn nói với Bần Ðạo rằng: "Một ngày kia Trung Hoa sẽ thờ phụng Ðạo đáo để, còn nước Mỹ sẽ lãnh trách nhậm đi truyền giáo toàn cầu". Ngày nay, chúng ta đã thấy tưởng chừng như Chí Tôn đã khiến mấy vị phóng viên bên Mỹ đến lấy hình trọn vẹn của Ðạo, đủ cả chi tiết, kinh luật đem về xứ để truyền bá, thì mấy vị nầy chẳng khác như Ðức Tam Tạng ngày xưa đến Ấn Ðộ thỉnh kinh. Bần Ðạo dám chắc sự bí mật mà Bần Ðạo thấy Chí Tôn hành pháp buổi nọ, đã kết liễu ngày hôm nay.
Ấy vậy, chúng ta phải chịu nhọc một chút đặng nghinh tiếp họ, trong buổi lễ nầy.
(A) Bần Ðạo tưởng khi những người có mặt ngồi tại đây hầu lễ nầy, biết chừng đâu, cũng sẽ được hạnh phúc như đi truyền giáo bên Mỹ sau này mà chớ.
Bần Ðạo để lời cám ơn toàn cả nam nữ và các bí pháp ấy chúng ta sẽ thấy Chí Tôn làm thành tướng trong thời gian ngắn ngủi sau đây.
Q.2/35: CỦA CẢI SỐ 1 CỦA CHÚNG TA TẠI THẾ NẦY.
Tại Ðền Thánh, đêm 14 tháng 6 năm Mậu Tý (1948)
Ðêm nay, Bần Ðạo giảng tiếp của cải số 1 của chúng ta ở tại thế nầy, hôm nọ Bần Ðạo đã tả ba hình trạng của cải của chúng ta thế nào rồi.
Ðức Chí Tôn Ngài dìu đường cho cả con cái của Ngài để đoạt đặng của cải ấy, và chúng ta đi từ từ mà đến con đường đoạt cho đặng 3 thứ của. Chúng ta có thể làm đại nghiệp cho chúng ta về hữu hình và về Thiêng Liêng.
Bây giờ Bần Ðạo chỉ nói về của cải số 1, tức nhiên là của cải hữu vi của chúng ta, hôm nay Bần Ðạo đã tả cái sở dụng của cải hữu vi của chúng ta. Số người nào biết tìm vạch gia nghiệp ruộng đất cho họ, có các vật chi đã hưởng được, đặng giúp ta sống về phần xác thịt, thì trước khi chúng ta phải hiểu cái căn nguyên của nó trước đã, nó đã giúp cho ta những gì? Nó giúp cho ăn mặc, nó giúp cho ta tất cả phương pháp sống về xác thịt chúng ta, chỉ có bao nhiêu làm căn bản. Nếu nói lý luận theo căn bản thì chúng ta là con vật mà thôi. Hình thể của chúng ta có ngũ tạng lục phủ để sống, một con vật nó cũng có ngũ tạng lục phủ nữa, như mình, đây thì con vật ăn cái gì thì mình ăn cái nấy, nó có hai thứ tiếp dưỡng, 1 là cái ăn gián tiếp, 2 là cái ăn trực tiếp, cái ăn gián tiếp, là thứ như con trùn nó ăn đất mà sống, mà hại thay cái tiếp dưỡng trực tiếp thì mạng sanh con người không được bền bỉ vĩnh viễn, còn cái ăn tiếp dưỡng gián tiếp là chúng ta ăn cỏ, cây, trái mà để dưỡng xác ta, nó đem lại cho ta cái tinh ba dưỡng khí vô cùng, còn cái tiếp dưỡng trực tiếp là sát sanh mạng của vật loại để thực nhục thì cái mạng sanh của con người có định giới hạn tu khó mà trường cửu được.
Như thảo mộc phải thí thân đặng nuôi dưỡng cho các loài vật mà thôi, thì ta phải ăn thảo mộc mà chớ, còn một điều cao hơn nữa, nếu là thú vật thí thân để nuôi người thì phải thí thân đền trả cho Ðấng Tạo Ðoan thử hỏi Ðấng ấy có phải bắt chúng ta thí thân đền trả không? Chắc chắn không. Thì loài vật thí thân để nuôi cái mạng sanh con người không có căn lý nào hết.
Con vật nó có hưởng được cái đặc ân thảo mộc để tiếp dưỡng đủ nuôi sanh mạng của nó thì mình đâu có quyền đoạt mạng sống của loài vật mà để nuôi mạng sanh của mình.
Chúng ta đã ngó thấy hiển nhiên thời đại nầy họ chỉ sống cái phương sống của người mà họ sát hại sanh vật, làm phương sống của người, thì biểu sao hằng ngày không có cảnh tương tàn tương sát với nhau. Cũng vì cái sống bạo ngược mà chúng ta thâu đoạt của cải đặng để vào cái thân danh của chúng ta, có đất mà không biết trồng tỉa thảo mộc để nuôi mạng sống của loài người, nên Ðức Chí Tôn đã sắp sẵn nơi mặt địa cầu nầy, những căn bản do nơi đất mà ra, để cho loài người nhờ đất mà sống. Cái lý thuyết nầy chúng ta đã thấy hiển nhiên trước mắt, không có một mảy may gì mà lại chúng ta không sống nơi đất, Ðức Chí Tôn đã tạo cho chúng ta sống mà lại ban cho chúng ta có một quyền năng để đổi cái sống của chúng ta nơi mặt đất nầy. Hại thay! Chúng ta đổi đất có thể nuôi thiên hạ được, cái của cải nơi mặt đất nầy có thể nuôi thiên hạ đặng, không tranh giành với nhau mà sống, cái sống của chúng ta rất dễ dàng, mà tại sao chúng ta tạo cái sống khó khăn khổ não mà thôi. Ðức Chí Tôn đã để bài học cho chúng ta thấy là Ngài không cho chúng ta cực nhọc. Ngài biểu chúng ta trai giới là cốt yếu Ngài biểu chúng ta đổi đất mà sống, hễ đào đất mà sống thì sống một cách đơn sơ lắm. Ðào đất để sống, xin ai thì khó mà xin đất vẫn dễ mà!... Nếu chúng ta hiểu biết vì đất mà sống thì loài người vẫn nhìn nhau mà lo sống với nhau một cách hòa giải vậy.
Nên thiên hạ trông nơi đó mà sống, thì chúng ta cũng lấy nơi đó mà sống một cách giản dị đàng hoàng sống một cách siêng năng thì không bao giờ đói, cái đó (đói?)(*1) là do nơi làm biếng mà thôi. Trái lại họ không đào đất để mà sống, họ chỉ âm mưu sang đoạt của người, hễ thấy người ta có cái gì thì muốn lấy, muốn giựt của người, nên nay mới có những sự tranh đua như thế.
Cái sống hữu hình, Bần Ðạo để cho thấy đó mà kiếm sống. Còn cái của cải thiêng liêng ấy tức nhiên là thân tộc của chúng ta. Ngài đã ban cho cha mẹ, vợ, con, anh, em chúng ta cái của cải ấy mà chúng ta không thể nào kiếm đặng. Tấn tuồng đói khổ là tại chúng ta không biết tìm đất mà sống, lại giết hại sanh mạng con vật mà sống, rồi tranh danh đoạt lợi mà giết hại lẫn nhau cái sự khổ não đó nó đã lan tràn trong xã hội, những kẻ có cái bản năng tranh giành xô xát với nhơn loại thì nó sống một cách cô độc khổ não lắm, té bên mặt không ai đở, ngã bên trái không ai nâng. Ðức Chí Tôn đã sắp đặt cho loài người để sống mà không biết nương dựa theo đó để sống, lại tìm phương thế khác để sống cho đủ đầy vật chất, nên nay mới có thời kỳ loạn lạc nầy mà tại chúng ta không biết tìm định cái nguồn cội mà Ðức Chí Tôn đã dành sẵn cho loài người nơi mặt thế gian nầy.
Hiện giờ cái hình trạng căn bản thiêng liêng ấy mà chúng ta có thể nào đoạt đặng chăng? Ðức Chí Tôn Ngài nói được lắm chớ, các người muốn đoạt được thì phải hợp thành một gia tộc thì mới đoạt đặng của cải quí báu thiêng liêng ấy, cái của cải thiêng liêng nó đã dành sẵn trong tay mọi người, mà ít có ai để ý đến, chúng ta chịu nghèo là do nơi mù quáng không ngó thấy mà thôi. Ấy là cái khổ tâm của bạn hữu hình. Nếu cái khổ của bạn hữu hình chúng ta được chấm dứt thì chúng ta đã đoạt được tại mặt thế nầy đó vậy.
Còn cái điều thứ ba khi hôm Bần Ðạo đã tả hình trạng của cải mà từ trước Tiên Nho để lại câu:
- Tích kim dĩ di tử tôn, tử tôn vị tất năng thủ,
- Tích thơ dĩ di tử tôn, tử tôn vị tất năng độc,
- Bất như tích âm đức ư minh minh chi trung dĩ trường cửu chi kế.
Nghĩa là: Chứa vàng để lại cho con, biết con có bảo thủ được không? Còn chứa sách để lại cho con, biết con có học hay không? Chỉ chứa đức là con nó hưởng được mà thôi. Nếu không ở vào cửa Ðạo thì không bao giờ tạo đức được, nên ngày nay Ðức Chí Tôn đến lập Ðạo để cho các người lập đức nơi cửa Ðạo Cao Ðài nầy đó vậy.
Chỉ có Ðạo Cao Ðài để tạo đức cho các triệu người đặng hưởng, mà đức ấy của Ðạo Cao Ðài làm thì không bao giờ mất. Tôi xin bảo đảm không bao giờ mất.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 14-06-Mậu Tý nhằm ngày (dl. 20-07-1948).
(*1) Nơi đoạn thứ 7: Nên thiên hạ trông nơi đó mà sống, thì chúng ta cũng lấy nơi đó mà sống một cách giản dị đàng hoàng sống một cách siêng năng thì không bao giờ đói, cái đó (đói?) là do nơi làm biếng mà thôi....
Chúng tôi xin đề nghị cho rõ nghĩa hơn: Nên thiên hạ trông nơi đó mà sống, thì chúng ta cũng lấy nơi đó mà sống một cách giản dị đàng hoàng sống một cách siêng năng thì không bao giờ đói, cái đó đói là do
Q.2/36: LUẬT PHÁP VÀ QUYỀN ĐIỀU KHIỂN CÀN KHÔN VŨ TRỤ.
Tại Ðền Thánh, đêm 23 tháng 6 năm Mậu Tý (dl. 29-07-1948)
Hôm nay Bần Ðạo giảng về "Luật pháp và quyền hành điều khiển Càn Khôn Vũ Trụ".
Bài giảng hôm nay cốt nhứt là để cho cả thảy Thánh Thể Ðức Chí Tôn được thấu hiểu pháp luật và quyền hành điều khiển nơi cõi Thiêng Liêng, vậy cả Chức Sắc Thiên Phong Nam và Nữ, nên để ý cho lắm, phải để ý suy đoán cho nhiều rồi mới nhận thấy thật là ngộ nghĩnh. Chúng ta thấy luật pháp và quyền hành trị Càn Khôn Vũ Trụ đơn sơ làm sao đâu. Cả tấn tuồng đời chúng ta ngó thấy họ tạo luật pháp và quyền hành đặng trị xã hội, thật ra rối rắm quá chừng, quá đổi, mà vẫn không thế gì trị an đặng, lại càng làm cho tinh thần thiên hạ thêm khó khăn khổ não mà thôi. Còn luật pháp quyền hành điều khiển Càn Khôn Võ Trụ tức là Ðạo, nên các nền Tôn Giáo nào không tùng theo luật pháp và quyền hành ấy đặng trị tâm thiên hạ, thì đó là Tà giáo, là Tả Ðạo, là Bàn Môn, chớ không phải là Chánh giáo. Chúng ta phải quan sát những điều ấy trong thuyết giáo của Bần Ðạo hôm nay, và Bần Ðạo sẽ nói rõ, vả chăng ta sống đây ta cũng nên cho biết quyền hành và luật pháp đã trị an Càn Khôn Võ Trụ như thế nào, rồi ta mới hiểu rằng: Cả luật pháp và quyền hành Ðạo giáo cũng đều ở trong khuôn khổ ấy mà ra, không có ngoài nữa đặng. Mà muốn tìm hiểu luật pháp ấy phải tìm đâu mà thấy và biết đặng? Phải nơi chủ quyền của cơ thể tạo đoan Càn Khôn Võ Trụ, tức là phải tìm ông chủ quyền Càn Khôn Võ Trụ ấy, biết đặng ổng, biết năng lực, tánh chất của ổng, mới hiểu luật pháp và quyền hành của ổng. Ðấng ấy là ai? Là Ðại Từ Phụ chúng ta đây vậy.
Buổi nọ, Bần Ðạo vấn nạn Ðức Chưởng Ðạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn, Bần Ðạo hỏi: "Quyền năng và tâm đức của Ðức Chí Tôn như thế nào?" Ngài trả lời trong một câu Pháp văn, Bần Ðạo dịch như thế nầy: "Luật thương yêu, quyền là ngay chánh. Gần thiện lương, xa lánh phàm tâm".
Hai câu thi có đủ cả ý nghĩa rằng: Chúng ta nên suy đoán coi nguyên căn của nó là gì mà có năng lực dữ tợn, mạnh mẽ như thế? Quyền lực ấy chúng ta không tìm đâu xa, tìm nội trong châu thân chúng ta thì đủ thấy. Hỏi mảnh thân nầy, xác thịt sanh ra trong kiếp sống cả cơ quan bí mật đào tạo hình thể của chúng ta do bởi đâu mà có? Có phải do nơi tình ái của đôi đàng phụ mẫu chúng ta mà sản xuất chăng? Nếu còn nghi ngờ nữa thì ta cứ ngó vạn vật tức vạn linh kia, coi hình trạng nó là thế nào?
Chim kết cánh, cây liền cành; rất đổi là con vật mà cũng có tình ái thay, nên luật thiên nhiên lấy tình ái làm căn bản hóa sanh cả vạn loại. Ðức Chí Tôn cũng sản xuất trong tình ái mà ra, đi từ tình ái hèn hạ dĩ chí tối cao thượng, luật ấy duy có một mà thôi. Mặt luật chúng ta thấy khuôn khổ là vậy, mà quyền năng chúng ta ngó trở lộn lại trong gia đình, coi cha mẹ chúng ta trị gia đình với quyền năng nào, hình luật nào? Cha mẹ chúng ta chỉ trị chúng ta với một luật thương yêu, còn nếu đủ quyền hơn nữa cho chúng ta cúi đầu vâng chịu phụ mạng, mẫu mạng, thì thêm công chánh, chúng ta mới cúi đầu vâng chịu. Nên hình ảnh mặt luật thiên nhiên tạo đoan đã có sẵn trong gia đình từ trước chúng ta không cần tìm kiếm đâu cho xa chỉ coi trong vạn vật như loài thú, như đối với bầy gà mẹ và con coi gà trống thương yêu con như thế nào thì đủ hiểu dễ đoán xét lắm.
Bây giờ hỏi: Trong Càn Khôn Võ Trụ nầy, nếu nói vạn linh không hữu tình thì là dối vậy. Chúng ta sanh ở giữa vạn vật ấy, nếu chúng ta công chánh thì thấy quả quyết rằng: Cả vạn vật đều hữu tình đối với chúng ta tất cả. Tới sắt đá cỏ cây cũng thế. Cả thảy đều có tình, với chúng ta hết, nếu nó không có tình với chúng ta thì chúng ta không thế sống hạnh phúc đặng. Chúng ta không thể chối cãi điều ấy. Cái tình nó đối với chúng ta chẳng phải là tình ái, mà là tình liên quan Càn Khôn Võ Trụ đè nén nó xuống, buộc phải tuân mạng lệnh, nên không phải là tình ái đặc sắc mà là tình ái của Càn Khôn Võ Trụ buộc nó phải tùng. Chúng ta đã ngó thấy như mặt trời cho chúng ta ánh sáng ban ngày, mặt trăng cho chúng ta ánh sáng ban đêm, cả vạn tượng tinh tú chớp nhoáng trên đầu ta, cả Càn Khôn Võ Trụ ấy đối với con người có cái tinh thần vững chắc. Nếu ngó lên mà không đủ học thức để thấu đáo cả vạn tướng kia, cũng vẫn thấy nó đối lại với ta mật thiết hữu tình. Mà ít nữa ta phải biết cái tình của nó đối với chúng ta mới thấu đáo được. Bây giờ hỏi luật tình ái Ðức Chí Tôn để trong lòng mỗi kẻ hữu sanh tại thế này, chúng ta không thế chối có phải con người mà đã có tình ái, thì lẽ cố nhiên con vật nó cũng có tình ái như con người, nếu không có tình ái thì không có sản sanh nối truyền tông tổ nòi giống đặng; ấy đó là luật. Không ai mà đúng ngày giờ thời buổi của lẽ thiên nhiên thì tự buộc phải tuân theo mặt luật tình ái ấy. Bần Ðạo không cần tả, nó cường liệt phi thường làm sao đâu, chúng ta để mắt thấy một cặp uyên ương kia tự tử thà chết vì tình, chớ không chịu chia lìa yêu ái. Hỏi khuôn luật nào mà biểu nó làm như thế vậy? Ấy là khuôn luật tình ái. Bần Ðạo lập lại một lần nữa, nếu không phải khuôn luật tình ái vi chủ thì vạn vật trên mặt địa cầu nầy không còn hữu hiệu. Mặt địa cầu nầy thế nào thì cả Càn Khôn Võ Trụ cũng thế ấy, vạn vật trên địa cầu nầy thế nào thì vạn vật trên các vì tinh đẩu khác cũng thế ấy. Ấy là luật thương yêu.
Bây giờ giảng tới quyền, quyền là công chánh. Cơ thể tạo đoan chẳng gì (vì?)(*1) một ai, chẳng quên ai, chẳng giận ai, chẳng dọa ai, không thù tạc ai, không bỏ rơi ai. Ðã sanh vạn vật thì vốn đồng sanh với chúng ta, chúng ta ngó thấy một kẻ ăn mày kia đui mù, thiên hạ không ai ngó tới, đi xin ăn, ai thấy nghèo nàn đói khổ không chê bỏ, khi rẻ, gớm ghiếc, nhưng còn con chó của người theo dắt đường lại vui vẻ trung tín, biết thương thật tình với người đó là bởi tại sao? Bởi luật Công Chánh Thiêng Liêng nó buộc đừng phụ rãy mà là thương yêu. Duy có loài người, nếu chúng ta xét tới cái tâm công chánh của loài người, thì chúng ta nên để một dấu hỏi: Quá khôn ngoan, càng linh tâm thì lại càng nghi hoặc, mất cả tính đức bổn thiện sơ sanh chăng!
Chúng ta ngó thấy cả vạn vật nó không cho người nầy nhiều, cho người kia ít, nó nằm trên mặt đất sẵn sàng do nơi chúng ta biết trọng nó hay không biết trọng nó; do mình lấy sự thương yêu của mình làm căn bản mà dùng nó thì nó chỉ là một vật của mình dùng đó thôi. Một bầy thú kia dầu dữ thế nào: Như cọp, beo, gấu, sư tử, mà chúng ta có thể nuôi đặng nó, thì Bần Ðạo quả quyết rằng bất quá nó cũng như một con chó giữ nhà vậy thôi. Trong Càn Khôn Võ Trụ nầy, nếu không có mực thước công chánh thiêng liêng thì sự sống của con người cũng như con vật, sẽ tranh sống tranh ăn mà phá hoại, thì mặt địa cầu nầy không khi nào còn tồn tại đặng, nếu Càn Khôn Võ Trụ không công chánh mực thước, địa cầu nào cũng muốn sống cho sáng suốt tự do chạy tìm ánh sáng, thì địa cầu nầy sẽ đụng với địa cầu kia, mặt trăng, mặt trời không còn thể chất. Càn Khôn Võ Trụ và quyền công chánh đã định vậy, nếu biết tùng theo luật ấy (là?)(*2) trường tồn, trái nghịch là tiêu diệt. Quan sát luật pháp ấy, quyền hành ấy, chúng ta nhìn quả thiệt Ðấng Tạo Ðoan là chủ quyền đó vậy. Ngộ nghĩnh thay! Ðấng Tạo Ðoan Càn Khôn Võ Trụ, với luật pháp ấy, khuôn khổ ấy, ngày nay lại đến tạo Ðạo cho chúng ta. Vậy Ngài lấy khuôn khổ nào mà tạo luật pháp, và quyền hành, Ngài để trong Thánh Thể của Ngài, hình luật nào, phương pháp nào đặng trị Ðạo? Tuy vậy, có Pháp Chánh và Tân Luật, cốt để bình tâm thiên hạ đặng để gỡ tội cho kẻ có tội lỗi, phàm mà không có biết thú tội trước mặt người và trước phép Thiêng Liêng. Ðịnh luật pháp ấy cũng tỷ như sợi dây thiết tỏa liệng xuống âm quang cho kẻ tội nhơn nắm nó mà phăng về Thiêng Liêng cựu cảnh; chớ chưa phải là chơn luật và chơn pháp.
Nếu nói từ nay Ðức Chí Tôn đến tạo dựng Thánh Thể của Ngài thì thật sự là Pháp Chánh, nhưng chỉ có tạo Thánh Thể của Ngài ở dưới thế nầy mà thôi, chớ quyền công chánh của Ngài là đã đào tạo Thánh Thể thiêng liêng của Ngài, còn về mặt luật là do Hội Thánh lập thành chớ không phải Ngài định luật.
Ấy vậy, nếu chúng ta nói Tân Luật là phàm, thì quả thật nó là phàm, còn Thiên Luật của Chí Tôn là thương yêu mới là Thánh mà thôi. Hỏi vậy, chớ Bần Ðạo nói đây có quá lời chăng? Bần Ðạo xin đem bằng cớ ra liền.
Từ ngày mở Ðạo đến nay đã 23 năm, hình trạng của Ðạo lấy phương gì tạo nền Chánh trị của nó. Quyền lực của Ðời thường nương súng đồng, gươm máy, khám tù mà đạt thành, còn Ðạo làm thế nào cho có quyền mà lập nền Chánh trị Ðạo? Nói hẳn rằng, nếu không phải luật thương yêu lập quyền cho Bần Ðạo ngày nay, Bần Ðạo ắt không còn đứng trên tòa giảng nầy mà giảng Ðạo. Nếu không có quyền công chánh, Ðạo Cao Ðài đã bị tiêu diệt không sống tới ngày hôm nay đâu, bằng cớ hiển nhiên là đó vậy.
Toàn Thánh Thể Ðức Chí Tôn nếu biết, thì nên nắm quyền luật thiên nhiên ấy, ngày giờ nào thiên hạ được yêu thương nhau nồng nàn, thì giờ ấy quyền Ðạo sẽ là quyền tối thượng nơi mặt thế đó.
Phụ ghi:
(*1) Nơi đoạn thứ 7: Bây giờ giảng tới quyền, quyền là công chánh. Cơ thể tạo đoan chẳng gì (vì?) một ai, chẳng quên ai, chẳng giận ai, chẳng dọa ai, không thù tạc ai, không bỏ rơi ai....
Chúng tôi xin đề nghị cho rõ nghĩa hơn: Bây giờ giảng tới quyền, quyền là công chánh. Cơ thể tạo đoan chẳng vì một ai, chẳng quên ai, chẳng giận ai, chẳng dọa ai, không thù tạc ai, không bỏ rơi ai....
(*2) Nơi đoạn thứ 8: Chúng ta ngó thấy cả vạn vật nó không cho người nầy nhiều, cho người kia ít, ... ... .... Càn Khôn Võ Trụ và quyền công chánh đã định vậy, nếu biết tùng theo luật ấy (là?) trường tồn, trái nghịch là tiêu diệt....
Chúng tôi xin đề nghị cho rõ nghĩa hơn: Chúng ta ngó thấy cả vạn vật nó không cho người nầy nhiều, cho người kia ít, ... ... .... Càn Khôn Võ Trụ và quyền công chánh đã định vậy, nếu biết tùng theo luật ấy là trường tồn, trái nghịch là tiêu diệt....
Q.2/37: LỊCH SỬ QUAN THÁNH ĐẾ QUÂN.
Tại Ðền Thánh, thời Tý đêm 24 tháng 6 năm Mậu Tý (dl. 30-07-1948)
Hôm nay là ngày vía Ðức Cái Thiên Cổ Phật Quan Thánh Ðế Quân tức Hớn Thọ Ðình Hầu Quan Vân Trường nhà Hớn đời Tam Quốc.
Một vị Hiển Thánh đời Hớn, thời Tam Quốc, ngày nay đạt phẩm vị đến Tam Trấn Oai Nghiêm trong nền Chánh Giáo của Ðức Chí Tôn, sự vinh hiển cao trọng đó ta thấy giá trị vô đối. Với một Ðấng Thiêng Liêng mà lập được vị mình một cách oai quyền vinh hiển ta thường thấy rất ít, thảng có chăng trong nước Việt Nam ta Ngài Trần Hưng Ðạo gọi có thể đương đầu với Ngài được mảy may chút ít mà thôi, chớ phần đông từ thử đến giờ kể cả các nước Á Ðông nầy hiếm có. Vậy, ta nên khảo cứu coi Ngài làm thế nào để đạt được Thiên vị vinh diệu đặc biệt dường ấy.
Hớn Thọ Ðình Hầu Quan Vân Trường buổi nọ là một vị tướng của Thục tức của Lưu Bị. Ta thấy đại nghĩa của Ngài trung can nghĩa khí của Ngài nhứt là về bằng hữu chi giao, tình nghĩa đối với bạn hữu của Ngài, dám chắc dầu chúng ta dân tộc Việt Nam hằng chịu ảnh hưởng văn hóa của Nho Tông, chưa có được người nào đã giống như Ngài vậy. Tâm trung nghĩa chẳng vì sang mà theo Tào, chỉ chuộng Hớn; nghĩa chẳng vì bạn buổi khổ não truân chuyên mà phụ rãy tình nhau; trung và nghĩa ấy hi hữu. Nói đến chí khí của Ngài, Bần Ðạo tưởng luận không hết: Ngài bất sát hạ mã chi nhơn. Truyện sách lưu lại rằng Ngài suýt bị Hạ Hầu Ðôn giết vì nó biết cái sở yếu của Ngài mà lợi dụng, nếu không Trương Liêu đến cứu. Mỗi phen Ngài trở cây Yểm Nguyệt Thanh Long Ðao định vớt nhà nớ, thì nhà nớ nhảy xuống ngựa, chí khí đó thế gian hi hữu. Hỏi Ngài lập chí với bộ sách Xuân Thu mà thôi. Người sau có tặng cho Ngài đôi liễn: "Chí tại Xuân Thu, công tại Hớn; Trung đồng nhựt nguyệt nghĩa đồng thiên". Trọn đời Ngài không lúc nào rời bộ sách ấy, lúc nào cũng đọc lấy tinh thần của sách suy luận làm tinh thần của mình.
Kể từ Ðào Viên kết tình bằng hữu cùng nhau, từ thuở bần hàn cho đến khi vinh huê phú quý sang trọng Ngài vẫn một mực không hề thay đổi tâm đức bao giờ. Tinh thần của người ấy là tinh thần đứng riêng biệt một mình một cảnh giới mà thôi. Thế gian khó tìm thấy một kiểu vở thứ hai nữa đặng. Tinh thần của Ngài có oai quyền đặc sắc, ta thử tìm coi Ngài làm sao mà đặng như vậy?(*)
Nguơn linh của Ngài là Xích Long Tinh. Buổi nọ dân Bắc Hớn phạm Thiên điều bị Ngọc Hư Cung phạt hạn không cho mưa, đặng cho dân ấy phải đói. Dân làng biết mà cầu nguyện nơi Ngài cứu nạn. Ngài cũng thừa biết dân ấy bị Thiên điều hành pháp, nhưng vì lòng ái tuất thương sanh không nỡ để dân chết đói, nên Ngài làm mưa. Ngọc Hư Cung bắt tội sai Ngũ Lôi tru diệt. Ngài chạy trốn vào một cái chùa, nhờ ông thầy chùa lấy chuông úp lại. Vị Ðạo Nhơn có căn dặn Bổn Ðạo trong chùa đừng ai dở chuông cho đến ngày nào Ngài hết hạn. Chư Ðạo trong chùa tọc mạch dở ra xem coi vật gì, thành thử Ngài phải chịu đầu kiếp, kiếp ấy là Hạng Võ.(*)
Hạng Võ thì ai cũng biết. Nếu ta quan sát trong "Trọng Tương vấn Hớn" thì rõ tiền căn Hạng Võ, hậu kiếp Quan Công. Bởi Hớn Bái Công khi lập quốc rồi nghe lời Lã Hậu diệt công thần giết Hàn Tín. Án ấy nằm dưới Phong Ðô mấy đời mà không ai xử đặng. Buổi ấy có thầy Trọng Tương là học trò khó nhà nghèo nhưng rất hiếu hạnh. Cha chết Trọng Tương cất nhà mồ thờ cha mà ở. Thường hay buồn than thân trách phận biết mình hữu tài vô mạng nên viết một bài thi có ý than rằng: "Thiên địa hữu tư, thần minh bất công" dụng ý trách điểm cái án nhà Hớn mà dưới Phong Ðô xử chưa có nổi. Vì vậy nên mắc tội phạm thượng, bị bắt hồn dẫn đến Phong Ðô, đem cho Thập Ðiện Diêm Quân vấn tội. Trọng Tương bình tỉnh trả lời rằng: "Nếu cho tôi ngồi làm Thập Ðiện Diêm Vương tôi xử án ấy cho mà coi". Thập Ðiện Diêm Vương bằng lòng. Ngài xử: "Tiền căn báo hậu kiếp, như Bành Việt cho đầu kiếp làm Lưu Bị, Anh Bố làm Ngô Tôn Quyền, Hàn Tín làm Tào Tháo, Hạng Sư làm Nhan Lương, Hạng Bá làm Văn Xủ, Hạng Võ làm Quan Công".(*)
Ta thấy hồi sáu tướng của Hạng Võ đem lòng phản bội, đầu nhà Hớn rượt Hạng Võ đến bến Ô Giang phải cắt đầu, trao cho Ðình Trưởng, chú là Hạng Bá trở lại phản cháu đã đầu lụy Hớn Bái Công còn trở lại phạt Sở. Tiền căn hậu kiếp vay trả, quả báo y nhiên. Có một điều lạ là với Lữ Mông, oan nghiệt có khác. Tiền kiếp của Lữ Mông là ông thợ rèn, Quan Vân Trường đến mướn rèn Thanh Long Ðao với một kiểu mẫu bí mật mà Ngài không muốn có người thứ nhì biết đặng. Khi rèn xong, Ngài cầm ra sân đi thử đường đao, chợt nghĩ đến điều ấy liền day lại vớt ông thợ rèn đứt đoạn. Ông thợ rèn ấy sau đầu kiếp làm Lữ Mông. Cho nên buổi Ngài xuất thần qui vị là trả cái ngày giết ông thợ rèn, là Lữ Mông đầu kiếp trả báo giết Ngài.
Khi Chơn linh của Ngài xuất ngoại, Châu Xương và Quan Bình cũng tự tử chết theo, ba người ấy bay giữa không trung, đi ngang ngôi chùa kêu ông thầy chùa là Phổ Tịnh đòi ông nọ trả cái đầu, ông bèn lấy cái quạt gõ trên cửa tụng ba phiến vãng sanh, Ngài hạ giáng xuống tiếp đòi đầu nữa. Ông nọ cười nói rằng: "Nhan Lương, Văn Xủ kia mới đòi đầu với ai? Ấy là tiền căn báo hậu kiếp thôi chớ". Ðức Quan Thánh Ðế Quân tỉnh ngộ, xin ông Phổ Tịnh cho Ngài ở đó đặng tu, Chơn linh của Ngài nhờ ở nơi chùa đó mà hiển Thánh. Khi hiển Thánh rồi Ngài trừ tà diệt quỉ, cứu độ sanh linh, và từ đó đến bây giờ không tái kiếp lần nào nữa, duy dụng cái quyền hành thiêng liêng mà hành Ðạo thôi. Với quyền thiêng liêng ấy mà Ngài lập được Phật vị là Cái Thiên Cổ Phật, nhờ vạn linh tôn trọng Ngài lên. Bần Ðạo dám quả quyết Ngài không phải là Thiên Phong mà chính là người của vạn linh bầu cử. Cho nên Ðức Chí Tôn mở Ðạo là cơ quan hiệp nhứt vạn linh, để Ðấng ấy là một Trấn Oai Nghiêm đặng làm quan Trạng Sư cho vạn linh đạt kiếp.
Bần Ðạo tưởng nếu có sự công chánh ở Tòa Hư Linh kia ta nên gọi điều ấy là điều công chánh đệ nhứt mà Chí Tôn quyết định vậy. Nên Hớn Thọ Ðình Hầu lập thiêng liêng vị với Chơn linh của mình đặng. Ðó là chỉ rõ cho cả con cái của Thầy biết rằng không phải chết là hết, chết ấy là sống, mà cái sống nơi Thầy mới oai quyền chơn thật hơn cái sống hiện tại thế nầy.
Phụ ghi:
Cuối những đoạn có dấu (*): Ðể cho người đọc được dể dàng, chúng tôi xin mạn phép phân đoạn tại những nơi có dấu (*). Nguyên bản chánh không có phân đoạn tại những nơi ấy. Kính cáo.
Q.2/38: HỘI THÁNH LÀ GÌ?
Tại Ðền Thánh, thời Tý đêm 28 tháng 6 năm Mậu Tý (dl. 03-08-1948)
Hôm nay Bần Ðạo giảng Hội Thánh là gì?
Bần Ðạo đã nhiều phen giảng giải Hội Thánh là Thánh Thể của Ðức Chí Tôn tức nhiên là xác thịt của Ngài tại thế. Ấy vậy chúng ta đặng may duyên, nên buổi thế kỷ thứ hai mươi là thế kỷ hỗn loạn, sa ngã vào đường tội lỗi, sự tàn ác của đời đương nhiên chúng ta phải gớm sợ, Chí Tôn lại đến đặng dìu con cái Ngài, tức là các nguyên nhân của Ngài tại thế, từ bấy lâu nay bị sa ngã vào đường tội lỗi. Ngài đến qui hội cùng Ngài và chính mình Ngài đi tìm con cái của Ngài mà thôi. Ngài đến chẳng phải một ngày một bữa mà cả mấy ngàn năm. Ngài giáng trần với sự đau khổ nhọc nhằn, nhưng vẫn cam chịu. Ngài tìm phương pháp để tận độ chúng sanh, cơ tận độ ấy chưa thành tựu, họ còn bị kẹt vào vòng tội lỗi tại thế nầy cửu nhị ức nguyên nhân, Ngài đến gom về hết trong thời kỳ ân xá thứ ba nầy, chúng ta không dè ngày nay hưởng đặc ân của Ngài, được nắm quyền hành làm Thánh Thể cho Ngài, tức nhiên là Ngài vậy. Chúng ta thấy mặt luật thiên nhiên dầu cao xa khó khăn đến đâu, xem cơ tương đối ở hữu hình cũng có thể hiểu được. Một ông cha đã tới giờ qui liễu, nhìn lại gia đình sắp con đã nên gia thất chỉ còn vài đứa nhỏ dại, chưa đủ trí khôn; ông cha ấy phải thống khổ biết chừng nào, khi thấy đứa trẻ ấy bơ vơ, nếu mình rủi chết hoàn cảnh ấy ông phải định thế nào, lẽ cố nhiên là ông kêu người con trai lớn của ông lại dặn dò cặn kẽ: Khi cha có mất rồi thì con phải thương em con còn nhỏ, bảo trọng cho nó, tạo tương lai hạnh phúc cho nó. Người anh nghe cha di chúc thì lo tìm phương dạy dỗ em thế nào cho nên người và đến một ngày kia các con ấy sẽ trở nên hiển đạt đi rồi, thiết tưởng gia đình ấy hạnh phúc biết chừng nào. Hạnh phúc hơn khi người cha ấy trông thấy con mình cao sang vinh hiển hơn mình.
Ðức Chí Tôn kỳ nầy muốn chính mình Ngài đến cứu vớt con cái Ngài, nhưng Ngự Mã Quân của Ngài không cho Ngài đi, vì biết Ngài mỗi khi xuống thế phải chịu thống khổ vô ngần, nên Ngự Mã Quân quyết định đến thế cho Ngài. Chúng ta tưởng tượng sự thế ấy nếu Chí Tôn ưng chịu, thì Ngự Mã Quân phải hứa cứu vớt hết cả con cái của Ngài và lại dặn: "Bây muốn đến thế Tao mà ở với con Tao thì Bây phải làm sao bảo trọng chúng nó vẹn toàn để đem về đông đủ cho Tao và phải đủ can đảm và năng lực thay thế Tao bên cạnh chúng nó. Nếu Bây không muốn cho Tao làm thì Bây phải làm như Tao mới đặng". Tôi tưởng Ngự Mã Quân đến thế cho Ngài, phải lựa chọn trong hàng lương sanh con cái của Ngài để làm hình ảnh cho Ngài, như vậy Ngài mới chịu. Vì cớ Hội Thánh là Thánh Thể của Ðức Chí Tôn, cho nên khi Ngài lập Pháp Chánh Truyền cho Thánh Thể của Ngài, Ngài định một người để làm Anh Cả trong bầy con của Ngài. Người Anh Cả ấy phải làm cha và làm thầy trong khi Chí Tôn vắng mặt. Ngặt một điều là mình không xứng đáng đó thôi, chớ không buổi nào Chí Tôn không công nhận và không chịu, một khi mình đủ đức tánh thay thế cho Ngài. Nếu Thánh Thể của Chí Tôn tại thế nầy mà dạy dỗ, cứu vớt con cái của Ngài được toàn vẹn y như ý định của Ngài thì thiết tưởng không có gì làm cho Ngài vui sướng bằng! Ấy vậy, Hội Thánh dầu Nam dầu Nữ, tức là hình ảnh của Chí Tôn, Chí Tôn giao cả đảm nhiệm làm cha và làm thầy. Hễ thay thế Chí Tôn làm cha làm thầy thì tức nhiên mình là cha là thầy, nếu làm cha cho xứng đáng cha, làm thầy xứng đáng thầy, thì chúng sanh làm thế nào mà không tôn trọng như cha như thầy được.
Trong đám anh em chúng ta ngồi tại đây, cùng sắp em nhỏ kia trong đó cũng có vị Phật, Tiên giáng thế, nhưng còn chờ chúng ta lập vị cho nó, bởi nó còn khờ nên giao chúng ta giáo hóa nó để một ngày kia chúng nó đạt đến tinh thần cao trọng đặng lãnh sứ mạng của Chí Tôn phú thác. Vậy, ngày giờ nào chúng ta đủ quyền năng để giáo hóa đoàn em sau nầy đặng vào địa vị, tức nhiên chúng ta đã trọn đạo đối với Chí Tôn.
Q.2/39: PHÁP CHÁNH HIỆP THIÊN LÀ GÌ? VÀ HÌNH LUẬT TAM GIÁO LÀ GÌ?
Tại Ðền Thánh, thời Tý mồng 1 tháng 7 Mậu Tý (dl. 05-08-1948)
Từ thử đến giờ chúng ta thường quen gọi là Tòa Hiệp Thiên Ðài hay là Tòa Tam Giáo, nên đã 23 năm Ðạo, mà chúng ta vẫn chưa biết chỗ dốt của mình. Ðức Chưởng Ðạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn buổi nọ giáng bút hỏi Bần Ðạo một câu bằng Pháp văn: "EXPLIQUEZ ÉTYMOLOGIQUEMENT LE MOT TÒA?" (Vậy chớ theo ngữ nguyên tiếng Tòa nghĩa là gì?). Bần Ðạo trả lời: "Thưa Ngài, kêu Tòa là nơi để định án, xử tội kẻ phạm luật pháp". Ngài cười và nói: "Trật, gọi Tòa là khi nào Tòa nhà, hay Tòa lâu đài gì đó, chớ tiếng Tòa không có định nghĩa về phương diện Pháp Chánh cả". Bần Ðạo thừa dịp nhờ Ngài dạy nữa. Ngài nói: "Cái tiếng của Chí Tôn đã đem đến đặt để nó khéo léo hay ho biết bao nhiêu, nghĩa lý rất thâm diệu mà tại sao lại không dùng. Ðức Chí Tôn đến lập Pháp Chánh Truyền, giao cho Hiệp Thiên Ðài gìn giữ. Trong đó có diệu pháp của Chí Tôn đến lập vị cho con cái của Người tại thế gian nầy, Ngài mượn xác thịt của con cái Ngài tổng hợp lại cho nó có trật tự, có đẳng cấp, tức nhiên là lập Thánh Thể của Ngài, các phẩm trật có liên quan với các phần tử tức nhiên Hội Thánh tổng hợp là Thánh Thể của Ngài. Ngài lập Pháp Chánh Truyền cốt ban quyền hành cho Thánh Thể của Ngài, mà hễ đạt quyền được, tức nhiên về với Ngài được. Ấy vậy, Pháp Chánh Truyền Hiệp Thiên là phương định vị, lập quyền đặng hiệp một con cái của Chí Tôn cùng Chí Tôn vậy".
Tới hình luật Tam Giáo: Từ thử Tam Giáo có Nho, Thích, Ðạo, luật Tam Giáo có hữu hình, có luật hình, vì cứ nói án nên nói là phạm luật Thiên Ðiều mà thôi. Luật hình ấy gồm cả tôn chỉ của Tam Giáo đem đặt tại thế nầy cho thiên hạ thật hành, nhưng lần lần càng xa khuôn luật.
Ấy vậy, có hai phần:
Pháp Chánh Hiệp Thiên.
Hình Luật Tam Giáo.
Tuy hai phần khác thể, nhưng cũng đều giao cho Hiệp Thiên Ðài chưởng quản hết. Nếu muốn gọi cho trúng thì gọi Pháp Chánh Hiệp Thiên Ðài là đủ nghĩa.
Bần Ðạo giảng nghĩa: Pháp Chánh Hiệp Thiên Ðài là gì? Cốt yếu của Ðức Chí Tôn đến thế ban quyền hành cho Thánh Thể của Ngài, Ngài buộc quyền Thiêng Liêng kia hễ con cái của Ngài đắc phẩm hữu vi ở dưới thế nầy được toàn vẹn, thì cũng phải nhìn nhận phẩm ấy ở cõi hư linh kia. Bần Ðạo tưởng nếu không phải tay của Chí Tôn thì không ai có quyền buộc các Ðấng cầm quyền chánh trị của Càn Khôn Thế Giới là chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, phải nghe theo như vậy bao giờ.
Ta cứ suy nghĩ: Một ông cha thương con nói: Tao đến với con Tao, Tao định cho nó làm Tể Tướng tại thế gian nầy, thì cả triều chánh phải nhìn nó là Tể Tướng, chớ không phép cải, chỉ vâng mạng lịnh Tể Tướng của nó mà thôi. Thiết tưởng nếu không phải nhà vua thì không ai biểu như vậy mà dân phục lịnh. Nếu không phải Chí Tôn đến lập giáo thì không ai đến đây mà có quyền buộc Cửu Thiên Khai Hóa nhìn nhận Thánh Thể của Ngài được. Tại sao Ngài giao cho Hiệp Thiên Ðài? Nếu cả Pháp Chánh đó không người cầm để thực hiện thì cả giá trị lẫn thể thống đều mất hết. Từ ngôi Giáo Tông đến ngôi Ðầu Sư, giữa có ngôi Chưởng Pháp, nếu không phải Pháp Chánh do Hiệp Thiên Ðài nắm giữ thì họ tông lúng, tông hoài, tông mãi mãi làm cho loạn Ðạo theo tấn thảm kịch, ta đã thấy diễn đi diễn lại nhiều lần, mà thử hỏi tại sao họ tông không được? Là tại Hiệp Thiên Ðài cầm Luật chắc chắn không cho loạn hàng thất thứ đặng. Họ tông mặc họ, Hiệp Thiên Ðài cứ nắm giữ chặt chẽ, mà định phẩm cho con cái của Ðức Chí Tôn mà thôi. Nếu chẳng vậy, nghĩa là nếu Hiệp Thiên Ðài để họ tự do hành động, thì phải đắc tội với Chí Tôn, vì Chí Tôn đã giao cho gìn giữ cái kho tàng đã định Thánh Thể của Ngài định vị cho con cái của Ngài y như đã giao cho gìn giữ, cái kho tàng đã định chia cho đứa lớn bao nhiêu, đứa út bao nhiêu, rồi Hiệp Thiên Ðài để cho người mạnh giựt giành tài sản của mấy người khác, hỏi vậy người lãnh lịnh đảm nhiệm chia của ấy, sẽ bị hình phạt như thế nào? Nếu không có người cầm giữ kho đó đặng phân phát công bình cho con cái của Ngài thì sợ e thiên hạ giựt giành hết mà con cái của Ngài không hưởng đặng, gia tài để dành cho họ mà chớ. Ấy vậy, hàng phẩm mà Pháp Chánh đã định, cốt yếu hiệp con cái Chí Tôn lại làm một cùng Ngài, mà muốn cho đặng hiệp cùng Ngài, thì Ngài để cho Hiệp Thiên Ðài chưởng quản giữ gìn nghiêm luật Pháp Chánh đó. Một người về Ðạo là Thượng Phẩm cầm quyền Luật Ðạo định phẩm vị; một người về Thế tức là Thượng Sanh đem con cái của Ðức Chí Tôn vào cửa Ðạo, dìu dắt con cái Ngài không ai đặng phép ngăn đường đón ngõ. Ðại nghiệp của Chí Tôn để lại mặt thế nầy cho toàn cả nhơn loại, không ai có quyền giành hưởng một mình. Ðịnh luật như vậy mới là công bình và chánh đáng. Bần Ðạo lập lại: Pháp Chánh cốt yếu lập quyền cho con cái Ðức Chí Tôn, có hàng phẩm, quyền hành, thứ tự, đẳng cấp, giao cho Hiệp Thiên Ðài sắp đặt không cho loạn hàng thứ thất, nếu loạn hàng thất thứ thì Ðạo tiêu diệt.
Bây giờ nói qua hình luật Tam Giáo: Ðạo Cao Ðài không phải lấy nguơn chất của Tam Giáo làm căn bản, mà chỉ lọc lượt chơn truyền của các Tôn Giáo trên địa cầu nầy mà tổng hợp lại. Tại sao lại kêu hình luật Tam Giáo mà thôi? Bởi ngày nay Tam Giáo qui nhứt. Các Tôn Giáo trên thế gian nầy thì nhiều mà không ngoài khuôn viên của ba Ðạo lớn, có thay đổi chăng là vì châm chế bớt ngoại dung, chớ bên trong đều do theo hình luật đó.
Hình luật Tam Giáo để định án chăng? Thiên hạ sẽ nói Ðạo gì mà có Tòa Án? Người ta lầm! Vả chăng con người chỉ có quí ở cái Tâm và hạ sanh tại đây ít nữa phải có căn duyên sao đó mà mình không biết đó thôi. Bần Ðạo dám chắc dầu một vị chí Phật đến tại thế gian nầy mang thi hài xác thịt cũng quên hết tiền kiếp, cửa huệ quang bị bí lối, không tự biết mình, không tự hiểu phẩm vị mình, vì mang xác phàm thì cái gì cũng phàm hết. Duy có Ðấng toàn năng, toàn tri, toàn thiện, toàn mỹ là Chí Tôn mới tránh khỏi chuyển kiếp luân hồi mà thôi. Ngoài ra không vị Phật nào tránh khỏi luân hồi cả. Các chơn hồn ở các cung, các động, hoặc ở Ngọc Hư Cung đến đây là có mạng lịnh đến tạo hình thể của Ðức Chí Tôn, đó là những vị đại diện, còn tất cả bao nhiêu chúng sanh đều có căn nguyên, mà hễ có căn nguyên tức nhiên là có tội, phải đến đây đặng trả quả kiếp luân hồi.
Chí Tôn muốn cho con cái của Ngài nên Thánh thì phải làm sao? Phải đem cả thảy vô đây, tắm rửa cho sạch sẽ làm cho thiên hạ muốn gần, phải vì thương mến kỉnh khen mà gần, vì đáng tôn sùng yêu ái mà gần. Hình luật Tam Giáo là nước Cam Lồ tắm rửa linh hồn vậy. Chơn truyền từ trước đến nay Chí Tôn để tại mặt thế trên các Ðạo Phật, Tiên, Thánh, là phương để gội rửa linh hồn mà thôi, nhứt là Công Giáo có phép xưng tội là một bí pháp, nhưng ta không hiểu tại sao Chí Tôn lại không truyền chơn pháp. Ta nghĩ, có lẽ Ðức Chúa Jésus Christ đã ban quyền cho những đại diện của Ngài, tức là cầm quyền Hội Thánh có đủ năng lực xá tội, nhưng trong khi hai đàng là kẻ xá tội và kẻ xưng tội, cũng có lẽ có người không thực tâm xưng tội, hoặc người không xứng đáng là người xá tội. Nếu xét ra người đến xưng tội và người xá tội cũng đều là phàm cả, chưa biết người nầy có xá tội được cho người kia chăng? Thảng không đủ quyền tha tội lại càng thêm mang tội hơn nữa. Hễ có tội tức có hình, có hình tức có phạt, có phạt phải thành án, mà án tiêu mới hết tội. Nên hễ có tội thì phải trả, mà có trả rồi thì mới hết tội. Nếu mình không tự hạ mình và không đủ can đảm cung khai thì chịu lấy. Biết mình có tội mà lại sợ nhục cái thanh danh phàm thể thì hỏng cái phẩm vị thiêng liêng thì rất nên đáng tiếc. Nếu biết trọng linh hồn thì không ngần ngại gì, đến mấy vị Ðại Thiên Phong cầm quyền Pháp Chánh kia cung khai đi, rồi họ lên án quẹt lọ cho mình, không lẽ đem ra pháp trường xử trảm. Tội có quá nặng đi nữa, dầu Pháp Chánh Hiệp Thiên Ðài có trục xuất đi nữa cũng không hại gì. Nếu mình biết ăn năn tự hối, tự tu thân tự giác tánh thêm nữa đặng đền tội, mình tu một mình dầu Hội Thánh không biết tới, mình cũng vẫn tin rằng có Ðức Chí Tôn chứng lòng trọn hiếu với Ðức Chí Tôn, ngày kia về cửa Thiêng Liêng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đẹp dạ hả lòng tiếp rước trọng thể hơn nhiều, người trọn gìn đạo đức vì phẩm trật đã cao siêu từ trước giáng sanh lập vị, danh vị lập được của kẻ bình thường đâu bằng của kẻ biết ăn năn sám hối. Thảng như bị trục xuất mà tự mình biết lập vị mình, thế gian không hiểu thì còn có Ðức Chí Tôn hiểu, lập tâm mà tu thì cửa Hư Linh kia cũng không đóng được. Những kẻ ấy do Ðức Chí Tôn sắp đặt hàng thứ, nên Ngài đã nói: "Cửa Hư Linh không ưa kẻ tàn bạo, lạ thay Thiêng Liêng vị phần nhiều do những kẻ tàn bạo phá cửa chung vô". Thảng như mình không đủ can đảm chịu án mà mình tự tu sửa lấy mình được, dầu trong Ðạo Cao Ðài đây không có hiểu biết thì Chí Tôn cũng hiểu biết, anh em không hiểu mình mà ông Cha mình hiểu mình là đủ rồi, sợ e mình quá phàm mà phải thất Ðạo, phải luân hồi mãi mãi mà thôi.
Bần Ðạo dám nói rằng trong Càn Khôn này, số Hóa nhân còn có ít hơn là Nguyên nhân bị đọa trần, chịu luân hồi chuyển kiếp đặng đền tội nhiều phen, chỉ vì quyến luyến phàm chất, không đủ can đảm thú tội trước Ðức Chí Tôn và chư Thần, Thánh, Tiên, Phật. Nếu không muốn đợi để thú tội với Ðức Chí Tôn thì hiện giờ vì biết mình có tội đến thú tội với chư Ðại Thiên Phong Hiệp Thiên Ðài cầm quyền Pháp Chánh đó đi, rồi quyết chắc đã đền xong tội phạm ắt cửa Thiêng Liêng cũng khó định nghiêm hình, vì cớ cố nhiên là một án chỉ có một hình.
Ngày giờ nào nhơn sanh chưa có can đảm thú tội của họ, thì cửa Hư Linh vẫn còn chối họ mãi mãi.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996:
1 tháng 5 Mậu Tý (dl. 07-06-1948)
1 tháng 7 Mậu Tý (dl. 05-08-1948)
Chúng tôi chọn: 1 tháng 7 Mậu Tý (dl. 05-08-1948).
Nguyên bản chánh in là: 1 tháng 5 Mậu Tý (dl. 05-08-1948).
Q.2/40: ĐỨC HỘ PHÁP DẠY.
ÐỨC HỘ PHÁP dạy: Nền Ðạo đã thông truyền Quốc Tế, vậy phải vãn hồi các bản sắc trong lành cho xứng danh là Thánh Ðịa, hầu làm cái trụ cốt tinh thần cho nhơn loại hướng về tin tưởng. Ngày 11-11 Giáp Ngọ (dl. 05-12-1954) |
Ðức HỘ PHÁP nói: Cây cờ Cứu Khổ của Ðạo Cao Ðài là Thương Yêu và Công Chánh. Phải thực hiện được hai điều ấy, thì Hòa Bình và Hạnh Phúc mới đến với chúng ta được. |
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày 11-11 Giáp Ngọ nhằm ngày (dl. 05-12-1954) nguyên bản chánh in là: 11-11 Giáp Ngọ (1-1951).
Q.2/41: ĐỨC TÁNH TRUNG HIẾU NGHĨA.
Tại Ðền Thánh, thời Tý mồng 6 tháng 7 năm Mậu Tý (dl. 10-08-1948)
Ðêm nay, Bần Ðạo giảng ba chữ TRUNG HIẾU NGHĨA bởi vì Trung, Hiếu, Nghĩa là biểu hiện một chơn tánh của linh hồn cao trọng.
Nhà Nho nói: "Tánh tự tâm sanh". Ðó là lý thuyết của Ðạo Nho, chỉ biết có một điều là ta quan sát có thể thấy hiện tượng mà tả trạng hình được, vì Ðạo Nho chưa phải là một Tôn Giáo huyền bí. Còn Ðức Chí Tôn đến dạy ta biết rằng tánh là chơn tướng của chơn thần, còn tâm là chơn tướng của chơn linh. Chí Tôn dạy: Tánh của mỗi chúng ta là hình thể thứ nhì của ta. Hình thể thứ nhứt là tâm tức là chơn linh, thứ nhì là tánh tức là chơn thần, thứ ba là xác phàm thú chất nầy. Chí Tôn hỏi: Tại sao từ trước đến giờ theo triết lý Ðạo Nho lấy nghĩa "Tánh tự tâm sanh" mà tả ra? Bởi vì nó có liên quan mật thiết cùng nhau. Trong tâm mình như thế nào xuất tánh ra y như vậy. Nhà Nho thấy hiện tượng mà đặt tên, còn Chí Tôn chỉ rõ cho biết: Chơn thần cũng tấn bộ như chơn linh. Mỗi cá nhân đều có hai năng lực ấy có đủ quyền năng đào tạo ra hình hài xác thịt của ta. Một chơn linh cao trọng tự nhiên có một chơn thần cao trọng, bởi cả hai vẫn đi đôi đồng đường với nhau, cùng tấn triển trong con đường Thánh đức của Chí Tôn, cả hai có liên quan mật thiết, nên hễ chừng nào đạt pháp đặng có đủ quyền năng định vận mạng, nghĩa là nó đã tấn tới đúng mức rồi, dầu quyền của Ngọc Hư Cung cũng không còn lãnh hội nó nữa, quyền tự chủ đã đạt đặng như các cơ quan hiển vi tấn triển tới mục đích tới giới định hiển nhiên ta thấy nơi mặt thế đây vậy. Trong Ðạo Giáo của Ðức Chí Tôn trích ra một hạng Tiên, không còn chịu quyền của Ngọc Hư Cung định luật họ tự làm chủ họ, tự dùng quyền năng đặng đào tạo xác thân của họ, tạo y khuôn khổ họ đã muốn. Họ tự vi chủ mà tạo hình thể ấy, bằng chẳng vậy thì con thú là xác phàm của họ, sẽ lôi kéo ràng buộc, phản lại họ, làm cho họ phải đọa lạc. Còn như con thú nầy không còn quyền lôi kéo họ được thì họ mới đủ quyền năng vi chủ nó mà dục tấn trên con đường tận thiện tận mỹ, toàn tri toàn năng mà họ đã định đạt đến cùng tận sở hướng.
Chơn thần là đệ nhị xác thân tạo hình bằng ngươn khí của bảy từng thiên. Bỏ Tạo Hóa Thiên là từng thứ chín, linh hồn đến từng thứ 8 trụ thần quyết định đến thế gian nầy làm việc gì, kể từ từng thứ 7 mới tạo xác thân. Ta chia 7 từng làm 7 phách, Ðạo Giáo nói là 7 cái thi hài hữu tướng, 6 cái thuộc về khí chất, cái thứ 7 là xác thú nầy đây. Bảy (7) từng có liên quan lạ lùng với thất tình, từng thứ 7, 6, 5 là ba (3) tình: Ái, Hỉ, Lạc; từng thứ tư là Dục; từng thứ ba là Ái; từng thứ nhì là Ố; từng thứ nhứt là Nộ. Tới từng chót nầy thì xác thịt là hiện tượng của Nộ giác.
Ấy vậy, Bần Ðạo chỉ rõ rằng ba tánh đức Trung, Hiếu, Nghĩa do ở tình ái, phát hiện đó là cái tình độc nhứt có liên quan mật thiết với chơn linh. Ta thấy con nít sơ sanh, thi hài chưa biết vi chủ, nó chỉ sống với chơn linh mà thôi. Khởi đoan nó chỉ biết thương mến những kẻ gần gũi như cha mẹ; còn Chơn thần để gìn giữ nó, cho nó biết tìm cái sống, bảo tồn sanh mạng. Thật ra theo Ðạo Pháp, con nít từ 12 tuổi mới bị chịu ảnh hưởng của xác thịt, còn dưới 12 tuổi xác thịt chưa có quyền. Ba tánh đức Trung, Hiếu, Nghĩa thuộc quyền năng của ái tình mà ra nên gần gũi với chơn linh lắm, đến đổi ta thấy hình trạng nó như kẻ sơ sinh kia vậy; Bần Ðạo vừa nói Trung, Hiếu, Nghĩa do nơi tình ái xuất hiện ra tướng diện, nên nó gần Thánh, một khi giải thể rồi lên từng thứ 7 là chắc chắn được giải thoát, đạt vị, bởi nó gần với Thánh.
Tại sao Trung? Tại tình ái cao thượng dồi dào đối với quốc dân nòi giống lên đến nhiệt độ, nó quá vĩ đại. Nếu ta thấy một vị công thần liều mạng sống đặng bảo vệ cho quốc dân, trung ấy chưa phải là trung với vua, mà trung với nước chớ! Có điều vua là tượng trưng cho nước, nên trung với vua tức là trung với nước. Mà có trung đặng là vì quyền năng ái chủng, ái quốc nuôi trong tinh thần nhiệt liệt, nên tình ái ấy vi chủ tinh thần, cho nên ta thấy có kẻ vì trung dám hy sinh tánh mạng được là vì vậy.
Tới Hiếu. Tại sao có Hiếu? Bởi các chơn hồn sáng suốt cao siêu đã có sẵn hai điều hiếu:
Hiếu với Ðấng Tạo Ðoan chơn linh.
Hiếu với Ðấng Tạo Ðoan chơn thần.
Bởi có hiếu trước với hai Ðấng ấy, biết trọng hai quyền năng tạo hóa Chơn linh và Chơn thần thì tự nhiên phải biết nhìn Ðấng tạo hóa hình hài của mình đồng thể chớ. Tâm hiếu tự nhiên mà xuất hiện vì nó có sẵn, mà hễ có sẵn tâm hiếu tức nhiên phải là chơn linh cao trọng thấu đáo được nguyên do đâu mình đến và là con của ai? Ðã hiểu rằng mình có hiếu với Ðấng tạo sanh Chơn linh và Chơn thần như thế nào rồi, thì đến hiếu với Ðấng tạo sanh hình hài đã sẵn có rồi vậy. Nên, hiếu không thể dạy được, hoặc có hiếu, hoặc không có hiếu mà thôi.
Bây giờ tới Nghĩa. Tại sao ta có Nghĩa? Tại sao Nghĩa lại hiện tướng trên tánh đức của một chơn linh cao trọng? Nơi cõi Hư linh mỗi người có một gia tộc, một đại nghiệp, anh em đông biết bao nhiêu. Bần Ðạo xin nhắc lại câu nầy cho toàn cả hiểu điều yếu trọng: Chẳng phải vì sự tình cờ mà chúng ta được chung đứng trong lòng của Ðức Chí Tôn ngày nay đây. Biết đâu trong 24 chuyến thuyền Bát Nhã chở các Nguyên nhân hạ trần đặng làm bạn và độ rỗi các Hóa nhân và Quỉ nhân, lại không có chúng ta ngồi chung trong đó. Ðã từng chia đau sớt khổ cùng nhau chẳng những trong thế giới nầy mà trong các thế giới khác nữa. Ðã từng chung sống cùng nhau, cái thâm tình vĩ đại đã nhiều. Nếu cả thảy không nhớ lời nầy của Bần Ðạo, đến khi linh hồn xuất ngoại rồi, sẽ ân hận biết bao nhiêu mà chừng ấy đừng trách Bần Ðạo không chỉ trước. Không thương yêu nhau cho trọn nghĩa là lỗi tại mấy người đa, chớ không phải tại Bần Ðạo không nói. Ban sơ, nơi cõi Hư linh, thọ nhứt điểm linh đến thế nầy tạo ngôi vị, làm bạn với biết bao nhiêu chơn linh khác, dầu nguyên do của mình là thảo mộc hay thú cầm cũng phải có nhiều bạn, chừng nào đạt đến địa vị mới biết bạn nhiều. Người nghĩa ta có nhiều ở mặt thế nầy lo tìm người nghĩa đặng tương liên cấu hiệp tâm tình trong cảnh khổ não, truân chuyên chịu hình thử thách nầy.
Tìm mà vẫn lo ngại sợ lầm, bất kỳ gặp ai, dầu là kẻ thù cũng tưởng là người nghĩa, nếu rủi ở bất nghĩa cùng nhau, về cõi thiêng liêng sẽ hổ thẹn hối hận muôn phần. Ðối với nhơn loại ta đã sẵn có cái đại nghĩa đó, đi tìm nghĩa tức là đi tìm bạn, dầu nơi cõi hư linh hay tại thế, đại nghĩa vẫn còn lưu lại, ta không từ chối được, cho nên hễ đi tìm nghĩa thì không còn phân biệt ai là người nghĩa, ai là người thù. Hỏi ta tìm nghĩa ở đâu? Trước nhứt tìm thân tộc anh em sau mới ra toàn thiên hạ được.
Bần Ðạo kết luận: Trung, Hiếu, Nghĩa là ba tánh chất của một vì Thánh, vì cớ nên Tiên Nho buổi trước tầm hiền thì duy lựa trong ba tánh đức đó mà tìm thì ắt tìm đặng không lầm. Tại mặt thế nầy, thảng ta có gặp người như thế tức ta quyết đoán chắc hẳn là chơn linh cao trọng, chớ không phải người hèn hạ phàm phu, trái lại, kẻ nào phi ân, bạc nghĩa, bất hiếu, bất trung, là chơn linh hạ tiện đi lần đến hoàn cảnh thú hình và thú tính mà chớ.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 6 tháng 7 năm Mậu Tý nhằm ngày (dl. 10-08-1948) nguyên bản chánh in là: 6 tháng 7 năm Mậu Tý (dl. 09-08-1948).
Q.2/42: LUẬT TƯƠNG ĐỐI HAY LÀ PHẢN ẢNH CỦA HAI THÁI CỰC CHƠN THẬT VÀ GIẢ DỐI.
Tại Ðền Thánh, đêm 9 tháng 7 năm Mậu Tý (1948)
Cái hay của sự chơn thật đối với cái dở của sự giả dối, làm thế nào phân biệt? Trước khi giảng, muốn nói rõ hơn Bần Ðạo mời tất cả đi theo Bần Ðạo dùng phép hồi quang phản chiếu đem thần trí ra ngoài thể xác đặng quan sát lại mình và hành tàng của thế nhân ra sao, mới quyết định điều hay lẽ dở của nó, giống như đám Thiên Quân Ngự Mã Quân, ngồi trên lưng ngựa chiến đấu về tinh thần với mặt thế.
Theo sau xe của Chí Tôn, chúng ta gò cương đứng lại bình tỉnh, nghỉ ngơi, giữa cảnh náo nhiệt của nhơn loại sắp diễn và xuống ngựa xem rõ lại sự sanh hoạt ấy đương nhiên ở vào mực độ nào, rồi ngẫm lại ta ở vào cảnh hư hay thiệt. Ta đàm luận vui vẻ cùng nhau sống, nhảy lên lưng ngựa nắm vững cương, thúc nó chạy theo kịp bước của Ðức Chí Tôn.
Phép hồi quang phản chiếu mà Bần Ðạo nói đây là tinh thần thoát ra khỏi thể xác, để quan sát trở lại hình trạng thi thể của nó. Ta thấy gì? Khởi đoan ta thấy ta sanh ra tại mặt thế, mang mảnh thi hài (nguyên căn của sự sống vật thể) lắm khi làm cho ta khó phân biệt được sự phải quấy, hoặc điều hòa tâm lý.
Vừa lọt khỏi lòng mẹ, chúng ta thấy miếng cơm vú sữa của bà mẹ, biết rằng bà sanh ta ra, nhận biết như vậy ta tự nhiên phải nương nơi bà mà sống, nếu ta không được bà nuôi dưỡng ắt ta phải chết, biết rõ như vậy nên đối với mẹ ta, có tình yêu ái tự nhiên về luật Thiêng Liêng đã định nên khi vắng mẹ ta thì nhớ, sự thương yêu đối với mẹ là chơn.
Lớn lên chút nữa, hiểu rằng nếu không cha và mẹ thì không có ta và cũng không biết tại sao mà biết ổng là cha, dầu trí khôn chưa đủ, Ông chạy bữa cho mẹ nuôi thì ta hiểu ngay rằng nếu không ổng thì mẹ ta không đẻ ta được. Tự nhiên ta không thấy ổng nuôi nấng ẵm bồng và nhiều khi không ngó tới mà ta vẫn biết ổng là cha (,)(*1) ta cũng trọng cũng thương yêu tự nhiên đó là chơn.
Thảng có kẻ nào nói má mầy tự nhiên đẻ mầy ra, đừng kính đừng trọng ổng, hoặc nói mầy ở dưới đất nẻ chun lên, đó là giả, còn bảo đừng nhìn ổng đó là dối.
Lớn lên nữa, thấy mẹ đẻ em ra, cũng nhờ có ông cha ta kia, ta chia nhau một mảnh chiếu, đắp nhau một mảnh mền, nhịn nhau từ hột muối, từ ngọn rau, tình cảnh ấy không cần tả, có điều ta thấy hẳn nó kết cấu khối tình ái thiên nhiên. Ngoài ra nếu cha khó, mẹ nghèo, anh em lao khổ, lại chia đau khổ cùng nhau và biết chắc rằng cả thảy do mẹ sanh ra, biết nhau đồng chung máu thịt đó là chơn.
Bây giờ có ai nói, anh em mầy không bằng tao, tao đối với mầy nhơn nghĩa đầy đủ tình cảm đặc biệt tao đối với mầy, anh em mầy không có, đó là giả, biểu phản nghịch lại anh em đừng nhìn nhau, nhà mầy, mầy ở, cơm mầy mầy ăn, đó là dối.(*)
Trộng chút nữa, cha đem đến trường, mình đương dốt lấy làm lạ, chữ viết cong queo mà nghĩa lý thâm thúy, mình không biết đọc sao ông thầy giỏi hơn mình mà tự biết mình bơ vơ rồi nhờ ông đó, vậy mình trí hóa mở mang bỗng sanh ra thương mến, ổng dạy mình biết nhiều quá nên phải kính trọng thương yêu ấy là chơn.
Thảng có kẻ nào nói: Cái ông đó mà biết cái gì, ổng nhồi sọ mình cho ngu cho dại cho điên cuồng. Không phải dạy khôn mầy đâu mà mầy kính trọng, đó là giả. Nếu biểu phản nghịch và nói nay mầy giỏi hơn ổng đa, mầy hỏi thì ổng bí ngay, đừng kính trọng làm gì đó là dối.
Tới nữa, ngoài cha mẹ và thầy, ta thấy ông già mình không có dệt vải mà có áo mặc, hỏi ra thì ổng làm ra tiền mà may cho mình, nhà mình không có rèn mà mình có dao chặt củi, biết rằng ông già mình làm ra tiền mẹ mình mua, thấy không làm ruộng mà mình có cơm ăn, đó là ông già mình làm mướn lấy tiền mua gạo.
Ấy vậy ta mới biết rằng ta sống đây phải nương vào xã hội, có những vật không phải mình làm được đã có kẻ khác làm, mình làm công lấy tiền mua sắm, sự sống có liên quan mật thiết lạ lùng với chung quanh mình, với những bạn đồng chung sống, nên cả quốc dân yêu mến nhau, rồi quyết định rằng: Bao nhiêu người làm việc kia nuôi mình, người ta canh gác giữ trộm cho mình yên ổn, người ta đốn cây tạo nhà cho mình ở, cả thâm ân đó giục ta yêu ái, kính mến coi cả thảy toàn quốc dân là phần tử thân mến của mình, đó là chơn.
Bây giờ có kẻ nói, nếu không có họ, mầy sẽ ăn nhiều hơn, tại có họ mầy bớt ăn lại mà còn phải thiếu, nhà mầy thì mầy ở nếu không có họ giành cây, không chừng mầy sẽ cất lầu đài. Có họ không ích gì, trái lại họ còn giành ăn với mầy, nói như vậy là dối, biểu nghịch họ và diệt họ, thì mình sẽ sống hạnh phúc hơn, đó là giả.
Tới nữa ta thấy luật gia đình ở trong nước, một gia đình không thể trọn trong hoàng đồ được, phải nhiều gia đình hợp lại gọi là bá tánh, mà nhiều gia đình chung hợp thì đất đai sẽ được mở mang rộng hơn nước giàu dân mạnh. Vậy làm chủ đặng giữ gìn đại nghiệp đó cho trọn vẹn phải ai mới được? Một gia đình không đủ, phải cả một Triều Chánh, trên Triều Chánh có một vị chúa làm chủ đặng bảo trọng đại nghiệp ấy được vững tồn, cho nên vị Chúa ấy hay là Vua hoặc Tổng Thống làm chủ cả nước gìn giữ quốc thể giống nòi của mình. Thảng như Hoàng Ðồ nầy bị tiêu hủy thì mình sẽ ra thế nào? Mình sẽ giống như Mán Mọi nay ở chỗ nầy, mai đi chỗ khác tàn sát nhau, xô đuổi nhau như dân tộc Do Thái ngày xưa, không quê hương, không Tổ Quốc, ăn nhờ ở đậu trên khắp mặt Ðịa Cầu. Vậy chúng ta phải bảo thủ Hoàng Ðồ của Tổ Phụ ta đó là chơn.(*)
Bây giờ có kẻ hỏi: Tổ Phụ mầy đâu phải ở mặt đất nầy, Tổ Phụ mầy không phải nội đây, cả Ðịa Cầu nầy cũng là Tổ Quốc mầy được. Họ xúi mình đừng nhìn Tổ Quốc mình, là giả. Nếu nói rằng: Cả chủng tộc nầy là kẻ thù địch của mầy, họ đày đọa mầy vào cảnh khổ, họ sung sướng tấm thân họ, đó là dối.
Cao hơn nữa ta thấy trên mặt Ðịa Cầu nầy, nòi giống nầy khác màu da với nòi giống kia và có những chủng tộc bất đồng ngôn ngữ, song cái cười cái khóc vốn như nhau, trạng hình đều giống, mà tiếng nói có đó chỉ là định ngôn đặng để hiểu nhau mà thôi. Không phải duy có điều đó mà buộc mình đừng nhìn nhơn loại đồng căn bản, phải coi nhau là bạn đồng sanh đặng kính trọng lẫn nhau. Hễ là bạn đồng sanh tức nhiên liên quan mật thiết nhau, như trong gia đình vậy. Một gia đình nào rân rát, sanh sản con cháu đông đảo và có phương sống đầy đủ gia đình, đó là vui vẻ. Nếu trong gia đình nào rủi ro con cháu hay họ hàng chết thì trong (trông?)(*2) thấy ai bi lạ lùng, một ông cha vì con chết có thể chết theo được, sự thảm khổ đó vô đối. Ta kính trọng mạng sanh của tất cả dị nghĩa đồng sanh, rồi ta nghĩ suy cho thấu đáo thấy bổn phận của ta là bảo trọng mạng sanh anh em của ta khỏi phải đổ nước mắt, phận sự ta đối với cảnh tượng đó là chơn.
Bây giờ có kẻ nói cả sanh mạng trên mặt địa cầu nầy không quan trọng, mầy có thể làm chủ được thì đoạt quyền làm chủ, giá trị mạng sanh không có nghĩa gì đâu. Cả sanh mạng ấy là lợi khí để mầy dùng làm bá chủ thiên hạ chẳng có tình cảm gì cả, đó là giả dối.
Ðứng về mặt tinh thần, mặc tình tấn tuồng giả dối và chơn thật, hiện tại diễn ra, nếu ta biết lấy tâm linh tự chủ mà quyết đoán, quan sát trong kiếp sống của xã hội nhơn quần thì không ai gạt gẫm ta đặng. Ta phân biệt được cái dở và cái hay thì ta sẽ làm chủ nó đặng.
Bây giờ nói rằng tinh thần đã biết phân biệt hình trạng vật thể, mà lại nói cả thế gian duy nhờ sự giả dối mà sống như Tào Tháo đoạt nghiệp Hớn cũng nhờ giả dối. Khổng Minh thắng Châu Công Cẩn cũng nhờ giả dối, đó là Á Ðông. Còn bên Âu Châu nói nhờ Machiavel giả dối mà nước Ý mới tồn tại, đó là mộng mị, không phải chơn thật không một người nào, một cơ nghiệp nào sản xuất trong sự giả dối mà tồn tại được.
Trí ta sáng suốt sẽ thấy và hiểu như vậy, thảng như những người mà thiên hạ cho rằng: Nhờ sự giả dối mới làm nên đại nghiệp nơi mặt Ðịa Cầu nầy thì Bần Ðạo nói có lẽ như Hoàng nghiệp Romain hay Tần Thủy Hoàng ngày nay đã còn chi nói thử? Nếu quả nhiên sự giả dối tạo nên những sự nghiệp đó thì quyết định chẳng còn tồn tại bởi sự nghiệp đó do sự giả dối xô ngã, đài Tần, đảnh Hớn ngày nay lưu lại những gì? Nếu cơ nghiệp vĩ đại tạo thành nhờ trí óc xảo trá thì nó cũng theo sự xảo trá ấy mà tiêu diệt.
Xem lại tinh thần các Ðạo Giáo, như Gia Tô, Khổng Tử, Lão Tử, Thích Ca, không dùng một lưỡi gươm một ngọn súng mà cầm chắc qui nghiệp, dầu không làm được bá chủ cả Ðịa Cầu trọn vẹn, mà qui nghiệp ấy vẫn còn tồn tại là sao? Là tại thực hiện được sự chơn thật và nương sự chơn thật ấy mà tạo nghiệp, thì nghiệp ấy mới được vĩnh cửu trường tồn.
Trong Ðạo Cao Ðài ngày nay cũng vậy, tại sao Bần Ðạo còn dám ngồi tại đây làm tôi tớ cho con cái của Ðức Chí Tôn, để tạo nghiệp cho họ mà Bần Ðạo quả quyết làm đặng? Là vì biết trong cảnh nguy vong kia, họ tưởng nhảy ra với quyền năng của Ðạo nầy có thể diệt trở lại Bần Ðạo, họ quên nơi đây là Tòa Thánh, là nơi Ðức Chí Tôn đến nhứt định lập ngôi vị của Ngài trong mọi sự cố gắng của con cái Ngài, tượng nên khối tinh thần vững chắc thì ai có đủ quyền năng nào mà diệt được. Bởi thế họ không diệt được nên dầu khổ não thế nào, Bần Ðạo quyết chống xem ngày tàn cuộc.
Họ làm thử, ít nữa phải dòm ngược lại coi, khi họ lấy năng lực của Ðạo ra làm năng lực riêng của mình có còn tồn tại được chăng? Chắc chắn rằng không. Bởi vậy trong buổi loạn Ðạo người nầy, người nọ tìm đủ phương thế diệt trừ đảng phái. Bần Ðạo đã nhận định được nên mới biểu họ cứ việc làm đi, rồi sẽ thấy cái ngày của sự chơn giả xuất hiện. Tấn tuồng đó đã rõ rệt lắm, Bần Ðạo nói thật rằng: Năng lực mà họ đem ra ngày nay thi thố với Tòa Thánh, ngày kia mấy em và mấy con sẽ đắc thắng. Họ sẽ làm mọi không cơm cho mấy em và mấy em vì lẽ sống của họ thiếu sự bảo trọng cho chơn thật thì chết rồi cũng buông rơi sự nghiệp vào tay mấy em mà thôi.
Sự chơn thật của Chí Tôn bao giờ cũng tồn tại sự chơn là một năng lực tinh thần, không tinh thần nào đối chọi đặng. Ngày giờ nào Thánh Thể của Ðức Chí Tôn biết bảo trọng sự chơn thật cho toàn Ðạo, thì không có năng lực nào thắng nổi quyền hành Thánh Thể của Ngài đặng.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 09-07-Mậu Tý nhằm ngày (dl. 13-08-1948).
(*1) Nơi đoạn thứ 5: Lớn lên chút nữa, ... ... .... Tự nhiên ta không thấy ổng nuôi nấng ẵm bồng và nhiều khi không ngó tới mà ta vẫn biết ổng là cha (,) ta cũng trọng cũng thương yêu tự nhiên đó là chơn.
Chúng tôi xin đề nghị cho rõ nghĩa hơn: Lớn lên chút nữa, ... ... .... Tự nhiên ta không thấy ổng nuôi nấng ẵm bồng và nhiều khi không ngó tới mà ta vẫn biết ổng là cha, ta cũng trọng cũng thương yêu tự nhiên đó là chơn.
(*2) Nơi đoạn thứ 16: Cao hơn nữa ta thấy trên mặt Ðịa Cầu nầy, ... ... .... Nếu trong gia đình nào rủi ro con cháu hay họ hàng chết thì trong (trông?) thấy ai bi lạ lùng, một ông cha vì con chết có thể chết theo được, sự thảm khổ đó vô đối ...
Chúng tôi xin đề nghị cho rõ nghĩa hơn: Cao hơn nữa ta thấy trên mặt Ðịa Cầu nầy, ... ... .... Nếu trong gia đình nào rủi ro con cháu hay họ hàng chết thì trông thấy ai bi lạ lùng, một ông cha vì con chết có thể chết theo được, sự thảm khổ đó vô đối ...
Cuối những đoạn có dấu (*): Ðể cho người đọc được dể dàng, chúng tôi xin mạn phép phân đoạn tại những nơi có dấu (*). Nguyên bản chánh không có phân đoạn tại những nơi ấy. Kính cáo.
Q.2/43: HUẤN TỪ LỄ MÃN KHÓA HẠNH ĐƯỜNG.
Ngày 12 tháng 7 năm Mậu Tý (1948)
Ðáp từ hai bài diễn văn của hai vị Lễ Sanh Tân Phong Phạm Hải Tống, Ðinh Công Cự.
Qua lấy làm hân hạnh thấy được tinh thần tấn hóa của toàn thể mấy em, mấy con tưởng chừng không chi thỏa mãn hơn. Từ 23 năm Ðạo mà Qua trông cậy hơn hết, là thấy mấy em tấn hóa về đạo đức tinh thần thì không có mùi vị nào ngon hơn tưởng như mình đương thèm thuồng món ăn, dầu rau dầu củ mà khi thèm ăn cũng ngon lành mà chớ.
Qua thèm cái món ăn mà mấy em vừa cho Qua ăn đó, vì Qua nghe nó ngon làm sao, Qua để lời khen hai em đó. Ngoài ra Qua xin giải nghĩa cho mấy em biết phận sự của mình rồi mới hiểu được phận sự của chúng Qua tức là của toàn Thánh Thể Ðức Chí Tôn, có vậy mới phân định được nhiệm vụ trọng yếu tương lai như thế nào, các cơ quan đương nhiên cố tâm giáo hóa mấy em, mấy con, là một điều trọng yếu hơn hết, không làm điều ấy không đặng, tại sao không làm không đặng? Là tại không lẽ đại nghiệp của Thánh Thể Ðức Chí Tôn, tức toàn Hội Thánh từ thử đến giờ, mà mấy anh của Qua kế tiếp, mấy Qua đã biết bao nhiêu mồ hôi, bao nhiêu nước mắt, đã chịu bao nhiêu khổ não xác thịt lẫn tinh thần, chỉ mong ước có một điều là đại nghiệp thiêng liêng nầy được tồn tại, cả thảy đều biết rằng: Không có ai lột da mà sống đời, trước qua thì sau tới kế nghiệp đặng trường tồn, ngày nay phận sự của mấy Qua dìu dắt mấy em, mấy con, đó là cả đại nghiệp tinh thần, mà trước khi giao, phải lựa, phải chọn, cho có người xứng phận bảo thủ vững vàng đại nghiệp đó mới phải.
Ngày nay đứng trước mấy em, Qua lấy làm đau lòng mà nói, biết nói ra mấy em sẽ ngán mà sự thật buộc lòng phải nói. Ðạo chưa đủ gì hết, mười phần Ðạo kể cả hữu hình hay Thiêng Liêng, về mặt vật chất hay mặt tinh thần, chúng ta đi chưa được hai phần mười, sự thật là vậy.
Ngày kia tới phiên mấy em, cầm vận mạng của Ðạo, cầm quyền hành của Ðạo, chừng đó mấy em sẽ thấy rõ, càng ngày càng tấn triển mãi, nền Ðạo của chúng ta có phận sự khó khăn hơn hết là, đảm nhiệm đứng ra dung hòa tâm lý tín ngưỡng của nhơn loại. Phải đối phó với các Tôn giáo hiện hữu trên mặt địa cầu. Thiên hạ ai cũng phải nhìn nhận, ai cũng biết rõ rằng các Tôn giáo ngày nay, đã lầm lạc, đã thất chơn truyền, tinh thần nhơn chủng đương tìm kiếm một mãnh lực tinh thần nào chan chứa tâm đức có thể làm cho mình thỏa mãn, ngày giờ nầy họ đương tiềm tàng, họ vẫn còn thiếu, vẫn còn khao khát, họ đói kém tinh thần, họ còn đói kém tín ngưỡng. Ta thấy Ðức Chí Tôn đến tạo Ðạo Cao Ðài tại mặt thế này, Ngài mới lập Hội Thánh, đặng làm Thánh Thể của Ngài. Bởi Ngài muốn chung sống với con cái của Ngài, câu ấy giá trị như thế nào, mấy em rán tìm hiểu, ngày nay dầu phẩm nào, dầu một vị chí Phật, như Phật Thích Ca kia nữa, đến lập giáo, đáng lẽ Ðạo Phật vững chắc lắm vậy, đặng làm tâm lý nền móng cho toàn nhơn loại, Qua dám nói rõ rằng, kể các Tôn Giáo không Tôn Giáo nào chơn chánh bằng Ðạo Phật, mà Phật Giáo còn mất năng lực cứu thế độ nhân, chỉ có ở Á Ðông đây, còn phía Âu Châu thiên hạ đương tiềm tàng quan sát triết lý cứu khổ, Qua nói thiệt đạo đức tinh thần của các Tôn Giáo chưa làm thỏa mãn tâm lý của loài người, họ còn đương thèm thuồng khao khát.
Ta thử hỏi Chí Tôn Ngài muốn chính mình Ngài đến với con cái của Ngài, là ý tứ gì vậy? Ngài đến như là phương pháp chót, hơn thua gì cũng tự ở nơi Ngài mà thôi.
Ngài nói: Thầy quyết đến với các con, nếu các con lập Ðạo không thành thì chính mình Thầy phải tái kiếp, họa may chăng, một mình Thầy mới đủ quyền năng làm tinh thần loài người, chỉ đặng an ủi và thỏa mãn, Thần cũng có, Thánh cũng có, Tiên cũng có, mà Phật cũng có. Ngài đã sai đi đủ hết, nhưng tinh thần nhơn loại vẫn còn đớn đau khao khát, lòng hoài vọng cho nên mới đến giai đoạn nầy.
Ðồ đệ của ông là Thần, Thánh, Tiên, Phật nơi Ngọc Hư Cung đã cầu khẩn xin Người đừng giáng thế, nếu như Người không đến, ta thử hỏi có ai lập Ðạo nên đặng cho đời chăng? Chí Tôn đã nói: Nếu các con lập không thành thì Thầy phải giáng thế. Ðã can ổng thì mình phải làm cho được, xét ra các phần tử của mấy em ở trong Thánh Thể là ổng vậy, mấy anh thay thế hình ảnh Ðức Chí Tôn trong phần tử của ổng định, biết đâu khi ta đã cầu khẩn ngăn cản tái kiếp của Chí Tôn mà ta không hay biết nên phải đứng vào Thánh Thể của Ngài.
Qua nói đây không chừng phạm thượng, Qua muốn tạo mấy em thành ông Trời ở mặt thế nầy, nếu mấy em thành ông Trời được, đó là điều sở vọng đệ nhứt của Qua hơn hết, sợ bí mật đó không nên nói là mấy em có thể làm Trời được. Phải làm được Qua biết chắc làm được, buổi nầy không làm được thì sau nầy cũng sẽ làm được, ngày giờ nào Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đến cõi trần thay thế cho hình ảnh Ðức Chí Tôn, họ đến với Thánh tâm toàn vẹn thì chừng ấy sẽ quả quyết làm được.
Chúng ta đây bất quá là kẻ mở đường lối mà thôi, chớ không phải là vai tuồng chánh. Chánh vai là chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đến ngày giờ định họ sẽ đến, biết đâu họ không có mặt trong mấy em, Qua không biết em nào, song Qua biết rằng đã có, vì trước đã có, thì sau cũng phải có, Qua đây không biết mà mấy em cũng không biết, chỉ tới thời buổi Chí Tôn phân định thì chư vị đó sẽ hiện ra, chúng ta không thấu đáo được Thánh ý của Ðức Chí Tôn, cũng không rõ nguyên căn của ai được, nhưng biết rằng, bổn phận phải đào tạo mãi cho thành Thánh Thể của Ðức Chí Tôn, tức là tạo ông Trời tại thế nầy cho ra tướng, nếu không có ông Trời tại thế gian nầy chúng ta sẽ khổ não, thế gian sẽ bị tiêu diệt, vì con đường tấn hóa về vật hình sẽ xô đẩy nhơn loại đi đến đâu chưa biết, mặt địa cầu nầy nhơn loại sẽ mất bảy hay tám phần mười, nếu Ðạo không thành Chơn giáo.
Qua vừa thuyết minh cho mấy em biết trách vụ thiêng liêng trọng hệ hơn hết chẳng phải Qua mà thôi, cả mấy em cũng bị lời hăm he của Ðức Chí Tôn, luôn cả đoàn hậu tấn của chúng ta nữa, đời đời không cùng, đàn Anh của mấy Qua, đến mấy Qua đây rồi đến mấy em, nếu đứa nào trong Thánh Thể của Ðức Chí Tôn thất phận thì Ổng sẽ đến, mà hễ Ổng đến kẻ nào đương cầm quyền không đủ năng lực, mà buộc Ổng phải đến đó, kẻ ấy bị hành phạt, từ xưa đến nay không một đấng chơn hồn nào không ghê sợ.
Vậy chúng ta phải biết điều nên lẽ hư, làm thế nào cho Thánh Thể Ðức Chí Tôn đặng gần con cái của Ngài, con đường đó mấy Anh của Qua đã đi, Qua đương đi và mấy em sẽ đi, ngày giờ nào mấy em tìm phương thế bảo trọng cầm vững vận mạng của Ðạo tức là làm thỏa mãn sở vọng của Chí Tôn đó vậy; điều đó mấy em phải tự lập mình mỗi ngày, tự hỏi mình, đảm đương nhiệm vụ đặng chăng, và mãi cố gắng trau mình cho nên phận, Qua tưởng muốn thì phải được, rán hết sức mình ắt làm đặng, vì ta quyết đoán rằng có Chí Tôn giúp ta thành tựu.
Phương ngôn Pháp có câu "Aide-toi le ciel t'aidera" và Tiên Nho chúng ta nói "Tận nhơn lực tri thiên mạng" điều nầy hiển nhiên chơn thật lạ lùng chúng ta rán cố gắng hết sức mình thì Chí Tôn mới ban cho cái huyền linh của Ngài, nếu không rán không thế gì hưởng được, mấy em nhận biết điều ấy, chúng ta do Chí Tôn kêu gọi đặng gầy dựng, ta phải cố gắng, vì lẽ không thăng tức ta phải đọa. Mấy em nhớ, Ðạo của mấy em chúng Qua đã tạo dựng cho mấy em đặng ngày kia mấy em tiếp theo Chơn Truyền Luật Pháp thay thế cho mấy Qua đặng truyền nghiệp cho hậu tấn.
Pháp nói "Chaque soldat a un bâton de maréchal dans son sacoche", nghĩa là: Mỗi tên lính đều có cây giản của ông Thống Chế trong bị của họ, Qua nói rằng: Mỗi vị Tín đồ đều có cái mão của Giáo Tông và Hộ Pháp đội trước trên đầu, không lấy được là lỗi tại mấy em, chẳng lẽ có một người mà người đó chết rồi là diệt tiêu nền Ðạo.
Ngày kia không có gì vui hứng cho Qua hơn, khi thấy xuất hiện trong mấy em, khi Qua đã già vô tịnh thất an dưỡng tinh thần, mà thấy đặng mấy em ở dưới bước lên ngồi địa vị cao trọng của Ðạo, nếu Qua được hưởng hạnh phúc thấy như vậy thì vui sướng của Qua vô cùng tận.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 12-07-Mậu Tý nhằm ngày (dl. 16-08-1948).
Q.2/44: CHA MẸ PHẢI NÊU GƯƠNG TỐT CHO CON NOI THEO.
Tại Trí Giác Cung, ngày 17 tháng 7 Mậu Tý (1948)
Sắp nhỏ là tương lai đất nước chúng nó tốt xấu nên hư đều do nơi mấy bà mẹ đào tạo. Bài giảng hồi hôm qua đã nói rõ rằng: Ðảm nhiệm sự giáo hóa tương lai tinh thần tâm lý là phần mấy em, lớn nhỏ cũng vậy, còn sắp con gái phải chăm nom giữ nề nếp. Qua muốn đứa nào cũng có đôi bạn chồng vợ tử tế rồi sanh con cho nhiều, phải biết dạy dỗ đặng tạo đời nên hay hư tương lai của nòi giống chủng tộc là "do mấy bà mẹ".
Trẻ con sơ sanh bắt chước cha mẹ nhiều hơn hết, gia đình nào mà không tôn trọng nhau, gây gổ bất hòa khi rẻ nhau là gương xấu cho con đó, ở đây chúng ta chịu khổ thì thái bình thầy trò còn chung sống cùng nhau hợp quần với nhau, sự khổ nào cũng chia xẻ ra thành bớt đi, còn ngoài đời họ sống hiu quạnh cô độc họ còn khổ nhiều nữa, xem như giống vật đừng nói chi hơn cái bọn kiến nhọt kết bè lại, con vật khác vô đó còn phải chạy thay, huống hồ chi phải giống người, nếu biết kết bè lại mà sống, anh ngã em đỡ, em té anh nâng, thân cô độc giữa đời kia nó còn thê thảm lắm lắm.
Mấy em than nghèo, mấy em chưa ăn củ súng, củ nầng mới ăn khoai thôi, các em ở đây nhờ quân đội bảo vệ sống yên ổn rán làm đặng nuôi nhau cần nhứt là khéo sắp đặt.
Mấy em ở đây yên phận đó là hạnh phúc nhiều rồi, còn nơi khác trải hai năm qua họ sống trong sợ sệt kinh khủng nhiều nữa.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 17-07-Mậu Tý nhằm ngày (dl. 21-08-1948).
Q.2/45: LỄ KHÁNH THÀNH ĐỀN THỜ PHẬT MẪU TẠI TRƯỜNG QUI THIỆN.
Ngày 16 và 17 tháng 7 năm Mậu Tý (1948)
Ðức Hộ Pháp vào Ðền Thờ làm lễ Phật Mẫu Linh Vị Chư Thánh Bạch Vân và Cửu Vị Nữ Phật xong lên lầu triều bái Ðức Chí Tôn, xem lầu chuông và lầu trống. Ðức Ngài trở ra, cả đoàn rước đến Hộ Pháp Tịnh Ðường nghỉ ngơi, trước mặt Bàn Cai Quản Trường Qui Thiện và Chư Vị cầm quyền Hội Thánh Phước Thiện.
Ðức Ngài nói: Cơ quan nầy thuộc về Phước Thiện, nhưng đào tạo ra đây riêng biệt cho những người Phạm Môn ngày trước. Bởi muốn giữ cho trọn vẹn đường tu trong lúc loạn động mà không căn bản, cơ Thảo Ðường lập không xong, nên khiến cho Trứ về đây đặng tiếp tục lập cho thành.
Nguyên gốc của nó tại Phú Mỹ hồi lập Trường Qui Thiện tâm thần của Ðạo bị Anh Ðốc Phủ Ca làm cho náo động loạn thần không biết được con đường phải đi, nhứt là tội nghiệp cho Nữ Phái cần độ rỗi họ trở lại, cho nên Trường Qui Thiện, cốt yếu qui tựu cả Nữ Phái lại đặng gìn giữ nguyên bổn chơn truyền của mình.
Rồi cùng nhau vô Thảo Ðường lập căn cứ nữa mà không xong, vì Hội Thánh Phước Thiện rút về Tòa Thánh kế Bần Ðạo bị đồ lưu, đến khi trở về đây qui tựu trở lại cũng chưa được, Trường Qui Thiện ngày nay tồn tại là chịu ơn của Hội Thánh và Quân Ðội rất nhiều.
Ở nhà trong thời kỳ Nhật Bổn, Trứ đã có làm rối không tùng ai hết, kế nhà đương quyền Quan Sứ Pháp viết giấy hỏi vậy Qui Thiện có phải của Ðạo hay không, mà chứa chấp Việt Minh và họ nhứt định đốt: Sự thật cũng có chứa bọn ấy mà vụ nầy phát giác là do nhơn viên dọ thám biết rõ mà điềm chỉ, chừng Bần Ðạo gởi thơ trả lời Trường Qui Thiện của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ và dưới quyền chỉ huy của Bần Ðạo, họ mới buông tha cho khỏi tàn phá, tới sau nữa, Bần Ðạo biểu Ðại Tá Phương chiết ra một Bộ Ðội gìn giữ.
Bần Ðạo nói nhờ Hội Thánh nhờ Quân Ðội là vậy, vì trước khi Bần Ðạo về, nhà binh Pháp cũng có hỏi Hội Thánh nhìn nhận Trường nầy là của Ðạo, nên mới còn đến ngày nay vậy. Thánh Thể Ðức Chí Tôn duy có một không hai, nếu chia rẽ là tức nhiên Tả Ðạo Bàn Môn, mà Tả Ðạo do trước mắt xem thấy, biết bao nhiêu họ chia rẽ ra, hỏi ngày nay làm nên trò gì đâu? Họ chia rẽ họ sẽ chết, không chết cũng tiêu hủy.
Hội Thánh duy có một, dầu biến ra trăm hình, ngàn trạng cũng huờn lại chỉ có một chủ quyền là Thánh Thể Ðức Chí Tôn đó thôi, hễ tâm ý muốn tạo ra đây đặng phân chia sẽ tiêu diệt nghe không, ngọn lửa hai lần muốn tiêu hủy Trường Qui Thiện là do nguyên căn Trứ muốn chia rẽ, cái hại ấy cho tinh thần của Trứ đây, không phải Qua nói: Thánh Màng về nói những điều em dự định làm, những ý nghĩ em dự định thực hành.(*1)
Trứ, Qua hiểu em hơn hết, thầy em hiểu em mà, không lẽ Phối Thánh Màng cáo gian cho em, nó nói hết công chuyện với Qua, ở nhà em đã làm gì, và còn muốn làm gì nữa, tôi dặn một lần nữa vì Ðạo của Chí Tôn có một, ai muốn phân chia lực lượng của Ngài sẽ tiêu diệt mà thôi, chẳng những tiêu diệt còn phải xuống Phong Ðô đền tội nữa. Ðạo biến ra trăm hình ngàn tướng vẫn dưới một chủ quyền của Chí Tôn.
Vậy Trường Qui Thiện đặt dưới quyền Hội Thánh Phước Thiện, Trứ từ đây lãnh trách nhậm chức Ðốc Trường, không gọi là Chủ Trường, trường nầy Bàn Cai Quản làm đầu, Bàn Cai Quản là Chủ Trường, tất cả tùng dưới quyền Hội Thánh Phước Thiện chưa hề rời Hội Thánh Cửu Trùng Ðài vậy.
Thật ra quyền Hội Thánh Phước Thiện về Hiệp Thiên Ðài Pháp Chánh gìn giữ chơn truyền, Phước Thiện lo giáo hóa nhơn sanh, còn Cửu Trùng Ðài có Hành Chánh giữ tài sản của Ðạo. Vậy Phước Thiện, Trường Qui Thiện nầy duy để lo giáo hóa chúng sanh làm ra của mà thôi, chẳng đặng thâu của cải một ai hết, làm ra bấy nhiêu dùng bấy nhiêu, kỳ dư có ai thật hảo tâm hỷ cúng mới thâu vào sở của Trường, rồi phải phúc sự cho Hội Thánh Phước Thiện hay biết liền. Từ đây về sau sở phí huê lợi gì của Trường Qui Thiện cũng phải chạy tờ phúc cho Hội Thánh biết rõ, sổ bộ của trường tuy riêng biệt, nhưng phải do Hội Thánh cầm.
Tôi lập lại cấm đi tới xin thiên hạ, làm được thì làm, không thì thôi nghe chưa, ngày kia Qua về nhà Tịnh rồi, Qua cũng lập ra cơ quan Tịnh Thất cho Nam, Nữ mà lập rồi cũng để dưới quyền Hội Thánh. Mấy em thấy từ thử thầy mấy em làm nô lệ cho Ðạo, tạo ra bao nhiêu của cải, mà vẫn cúi đầu trước Hội Thánh, bởi quyền Hội Thánh là quyền thiêng liêng của Chí Tôn để tại mặt thế, nếu phân chia thì bị tiêu diệt, mà còn bị Phong Ðô dòm ngó nữa.
Lập lại lần nữa cả thảy phải nhớ đa nghe, Trứ lần nầy là lần chót. Qua nói với em, em không nghe thì chịu lấy trước mặt Bàn Cai Quản, trước mặt Hội Thánh Phước Thiện làm chứng. Từ đây kêu là Ðốc Trường, không phải là Chủ Trường nữa, tức là Ðốc Học Trường của mấy em đây, chúng ta làm đổ mồ hôi nước mắt mới tồn tại đặng đây.
Em trung thành với Qua, em thương Qua thế nào Qua biết lắm, nhưng đầu óc em dị hợm lắm. Qua đây còn phục Hội Thánh mà em chống thì tiêu hủy đa. Trứ nói: Bạch Thầy khi Thầy về con có làm tờ thú tội với Thầy rằng: Con không tùng Hội Thánh Saigon vì lòng con nghi ngờ đó thôi.
Tại sao em nghi ngờ sự chơn giả, Qua biết rằng trong mười phần giả đó cũng có hai phần thiệt, dầu trong đám đó đều là kẻ lạ hết mà có một vị Giáo Hữu hay là Giáo Sư trong đó, Qua không dám nói là giả nữa. Thảng như họ làm không nên thì vị Giáo Sư hay là Giáo Hữu đó sẽ chịu tội trước Tòa Tam Giáo Bát Quái Ðài.
Em nên nhớ đây không ai đầu cáo em đâu, Hiệp Thiên, Cửu Trùng, Phước Thiện cũng vậy, người đầu cáo em là Phối Thánh Màng.
Chúng em biết tại sao lập cơ quan ở Saigon không? Là vì Qua bị Pháp bắt, nên họ đòi Thầy họ về, cái khối oán dẫy đầy kêu gọi toàn thể đứng dậy đó, mà làm chứng rằng họ làm có kết quả đó vậy. Trứ bạch Thầy: Vì Thầy ở bển có một mình, còn bên nây làm sợ có hại cho Thầy chăng? Nên con không tán thành.
Nếu vậy em không biết quyền của Chí Tôn ra thế nào sao? Qua biết chúng bắt mà ngồi đây cho nó bắt, nếu quả có sự gì hại đừng tu.
Bàn Cai Quản ra mời Hội Thánh Cửu Trùng Ðài vào đây. (Hội Thánh Cửu Trùng Ðài vào). Thưa cùng chư vị Chức Sắc Cửu Trùng Ðài, Trường Qui Thiện của Hiệp Thiên Ðài ngày nay đã hoàn thành, đặng có nơi phụ nữ tu chơn, và đặt dưới quyền Hội Thánh Phước Thiện, những gì nơi Trường Qui Thiện, Hội Thánh đã có nhiều công giúp đỡ bảo bọc nên Hội Thánh Hiệp Thiên Ðài trình cho Hội Thánh Cửu Trùng Ðài được biết về chánh quy của Ðạo, cơ quan nầy không phải tư riêng phải tùng y luật lệ của Hội Thánh Cửu Trùng, Hiệp Thiên. Thảng ngày kia nó đi ngoài chơn truyền Pháp Chánh thì hai Ðài có quyền giải tán.
Ngày nay tôi trình nó ra mặt công khai của Ðạo thuộc Hiệp Thiên Ðài Chưởng Quản, thảng ngày kia có phạm pháp luật hoặc chẳng noi theo chơn truyền của Ðại Ðạo tự lập tôn chỉ khác, chúng ta có quyền giải tán.
Ðức Hộ Pháp dứt lời thì nhạc trổi và Ðồng nhi ca mừng ơn Ðức Ngài, trong lúc ấy Bàn Cai Quản và Ðạo sở vào lạy mừng. Ngài nói: Các em biết các em lạy Qua, Qua nguyện làm sao không? Qua nguyện với Ðức Chí Tôn rằng: Các em con, chúng nó lạy đó là lạy Thầy chớ không phải lạy con, Thầy ban ơn cho chúng nó.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 16 & 17-01-Mậu Tý nhằm ngày (dl. 20 & 21-02-1948).
(*1) Nơi đoạn thứ 7: Hội Thánh duy có một, ... ... ... ngọn lửa hai lần muốn tiêu hủy Trường Qui Thiện là do nguyên căn Trứ muốn chia rẽ, cái hại ấy cho tinh thần của Trứ đây, không phải Qua nói: Thánh Màng về nói những điều em dự định làm, những ý nghĩ em dự định thực hành.
Chúng tôi xin đề nghị cho rõ nghĩa hơn:
■ Hội Thánh duy có một, ... ... ... ngọn lửa hai lần muốn tiêu hủy Trường Qui Thiện là do nguyên căn Trứ muốn chia rẽ, cái hại ấy cho tinh thần của Trứ đây, không phải. Qua nói: Thánh Màng về nói những điều em dự định làm, những ý nghĩ em dự định thực hành.
Hay là:
■ Hội Thánh duy có một, ... ... ... ngọn lửa hai lần muốn tiêu hủy Trường Qui Thiện là do nguyên căn Trứ muốn chia rẽ, cái hại ấy cho tinh thần của Trứ đây, không phải Qua nói, Thánh Màng về nói những điều em dự định làm, những ý nghĩ em dự định thực hành.
Q.2/46: LỄ HỘI YẾN DIÊU TRÌ.
Tại Cửu Long Ðài, hồi 4 giờ ngày rằm tháng 8 Mậu Tý (1948)
Cũng như mọi năm, chúng ta làm lễ Ðức Phật Mẫu Diêu Trì tưởng khi cả thảy trong Ðạo ngó thấy Bần Ðạo mặc Tiểu Phục đứng trước Cửu Long Ðài đều lấy làm lạ.
Thưa cùng cả thảy các bạn đồng sanh, trước mặt Phật Mẫu, Bần Ðạo thường nói: Người chỉ biết con cái của Người mà thôi, không phân đẳng cấp chẳng luận sang hèn.
Thưa cùng các bạn nam nữ, chúng ta ở giữa trường đời nầy, chịu thống khổ tâm hồn mọi nỗi, nhà Phật gọi cảnh trần nầy là khổ hải. Chúng ta ngó thấy hiện tượng trước mắt nhiều lẽ bất công, kiếp sống chúng ta sanh ra trong xã hội nhơn quần nầy, ta thấy cái tương quan nó làm cho chúng ta nhiều nỗi khổ não, buồn thảm hơn là ngày vui của hạnh phúc. Bần Ðạo cũng như các bạn thấy lẽ bất công, tinh thần ta chịu thống khổ nhau như nào phân biệt sang hèn đẳng cấp. Chúng ta đã thấy trường đời tranh đấu nhau, sang hiếp hèn, giàu hiếp nghèo, mạnh hiếp yếu, trí hiếp ngu, đã quên hết tình bạn đồng sanh, tức nhiên chúng ta đứng giữa trần hoàn nầy đồng chịu thảm khổ như nhau. Ta thường hỏi: Chúng ta có phương gì tìm mưu chước đặng an ủi tâm hồn ta chăng? Dầu cho mảnh hình thể cũng thế, mà tâm hồn cũng thế, chúng ta quá chịu thống khổ rồi. Ta tìm phương an ủi tâm hồn, ta không thể tìm được nơi bạn đồng sanh, chúng ta phải tìm một nơi an ủi thiêng liêng cho tâm hồn chúng ta chăng? Chỉ khác hơn là chúng ta về trong lòng của bà mẹ sinh sản thi hài và chơn thần chúng ta.
Các bạn có biết Phật Mẫu là ai? Ngài dùng bảy ngươn khí tạo chơn thần ta, tức nhiên tạo phách ta. Nhà Phật gọi là thất phách. Kỳ thật khí phách ấy làm chơn thần, tức là nhị xác thân chúng ta, khi chúng ta bỏ xác trần, xác Thiêng Liêng ấy vẫn còn tồn tại. Hình hài thay đổi đặng, văn hóa của ta mỗi kiếp mỗi tăng thêm, nhà Phật có nói: Nó có thể tấn tới hoặc trở lại hay đứng chừng mà thôi. Mỗi linh hồn đều mơ ước tấn tới mãi, tới đạt địa vị Thần, Thánh, Tiên, Phật. Nếu ngày nào ta tận thiện, tận mỹ và linh hồn ta có thể đạt vị đặng thì Phật Mẫu đủ quyền năng binh vực con cái của Người nơi cõi Hư Linh vậy.
Ấy vậy chúng ta có thể gởi tâm hồn dầu ở mặt thế, khi chúng ta quá vãng trở về nơi ấy, chúng ta chỉ sống đặng làm phận sự làm người, mà làm người chẳng phải dễ nữa. Nhưng chúng ta biết quyền năng vô hình định hồn cao cả, có thể cầm mực thước công bình không hề sai chạy được là Ðại Từ Phụ.
Bây giờ chúng ta thống khổ tâm hồn, ta tìm nơi đâu an ủi? Không có nơi nào khác hơn là chúng ta về cùng bà Mẹ Thiêng Liêng chúng ta.
Thưa cùng các bạn đồng sanh, sang hèn, giàu có thế nào cũng mặc. Người chỉ biết con cái của Người mà thôi. Dầu cho vạn vật, hễ đồng sanh với một Bà Mẹ Thiêng Liêng vẫn được coi đồng một mực. Bởi vì tình thương của Bà Mẹ chẳng có thế gì phân biệt thương ghét, trọng khinh. Ấy vậy Ðức Phật Mẫu là một Ðấng đem công bình tâm lý an ủi con cái của Người. Người nói: Những điều bất công trước mắt con, vẫn là kiếp sanh ngắn ngủi mà thôi. Mà chỉ trước mắt Mẹ mới đủ quyền đem sự công chánh khi họ bị áp bức. Duy có Mẹ giữ tâm công chánh vì lòng Mẹ thương yêu mà thôi.
Ấy vậy, một Ðấng gieo mảnh tâm lý nhơn sanh lấy luật thương yêu làm căn bản. Nếu thảng có bạn đồng sanh biết thương yêu con cái của Người vậy, thì những điều bất công trước mắt chúng ta, và chúng ta biết lòng thương yêu vô tận đối với các chủng tộc, các sanh mạng của con cái Người ấy là chúng ta trọn đạo. Sức hợp tinh thần tự an ủi lấy để được an vui, chịu cho đoạt khổ, rồi chúng ta chia khổ với nhơn loại, cầm quyền thế tài tình để rải truyền thêm ra nữa, cho cả thảy chủng tộc biết thương yêu nhau như một nòi giống. Ðem tình thương yêu ấy gieo truyền khắp dân tộc trên mặt địa cầu nầy, tôi tưởng sự bất công chúng ta ngó thấy giữa xã hội nhơn quần nầy tự nhiên sẽ tiêu diệt, ấy là tinh thần diệt trừ hung ác bạo tàn của đời đó vậy.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 15-08-Mậu Tý nhằm ngày (dl. 17-09-1948).
Q.2/47: LỄ TRUNG THU.
Tại Ðền Thánh, đêm rằm tháng 8 năm Mậu Tý (1948)
Kỳ nầy chúng ta đình bộ trên con đường dục tấn của chúng ta, là con đường Thiêng Liêng Hằng Sống tại Cửu Thiên Khai Hóa, kỳ tới Bần Ðạo giảng tiếp.
Nhân dịp ngày nay nhằm Lễ Trung Thu tức là Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung là một cuộc lễ trọng yếu trong nền Tôn Giáo của Ðức Chí Tôn, Bần Ðạo lấy triết lý vì cớ nào ngày nay Ðức Phật Mẫu đến cùng chúng ta. Trong triết lý ấy do nguyên nhân của nó là phép an ninh trật tự đối với cơ Tạo đoan Càn Khôn Vũ Trụ.
Phải chăng chúng ta thường muốn định khảo cứu một triết lý chi thật cao siêu, chúng ta có một phương pháp hay ho hơn hết là chúng ta tìm từ cái nhỏ thấu đáo đến cái lớn.
Trong phép an ninh trật tự đối với Tạo đoan Càn Khôn Vũ Trụ không ngoài khuôn khổ gia đình, chúng ta quan sát hình tướng phép an ninh trật tự đối với cơ Tạo đoan trong gia đình thế nào thì cơ Tạo đoan Càn Khôn Vũ Trụ cũng ở trong khuôn khổ ấy mà thôi.
Chúng ta ngày nay thấy gì? Chúng ta ngó thấy cha mẹ chúng ta trước hết sanh ta ra, chẳng phải một mình chúng ta, thấy xung quanh hoặc anh em đồng sanh hay là anh em trong thân tộc của chúng ta. Trong buổi sơ sanh, chúng ta còn niên thiếu, còn ngu khờ, chúng ta chưa biết an ninh trật tự. Chúng ta quan sát dầu anh em một nhà, đứa út còn bú chưa biết tôn sùng anh cả thế nào, nó chỉ biết mầy tao, mi tớ với nhau mà thôi. Kỳ dư chúng ta biết chút đỉnh khôn ngoan, chúng ta biết lễ phép. Cha mẹ mới khởi sự dạy: Mầy là anh thứ mấy, mầy là chị thứ mấy, mầy thứ mấy trong gia đình. Sắp đặt có trật tự, thượng hạ phân minh. Nói cho cùng nữa nếu an ninh trật tự không có trong gia đình thượng hạ bất phân, tôi tưởng trong gia pháp loạn hàng thất thứ thì không thể nào bảo trọng nhau được. Nhờ khuôn viên của Tông Ðường để lại phải có trật tự an ninh ấy sản xuất khi chúng ta đã đạt khôn ngoan, bằng chẳng vậy thì một gia đình vĩ đại hay một quốc gia nào không định quyết an ninh thì có tạo nghiệp bao nhiêu cũng nghiêng đổ mà thôi.
Vì cớ chúng ta ngó thấy nhơn loại đạt đến địa vị nầy là tinh thần đã đi đến một địa điểm quá cao rồi, họ thường tưởng có trật tự an ninh, nhưng đương nhiên bây giờ toàn thể các sắc dân trong hoàn cầu không còn quyền năng nào nắm giữ tư tưởng họ được nữa. Họ tưởng họ chắc làm vậy được không? Họ chẳng qua khuôn viên luật pháp bao giờ. Dầu cho họ có muốn nghiêng đổ thế nào thì các quốc gia có quyền vi chủ định đoạt chẳng hề khi nào hủy diệt nó đặng. Họ đem các lý thuyết tra vào là đả đảo giai cấp đủ thứ hết, tranh nhau đồng sống. Bao nhiêu tấn tuồng ấy vẫn chưa ra khỏi khuôn luật an ninh trật tự.
Hỏi cả một nước cường liệt đứng ra đề xướng tiêu hủy giai cấp, nước ấy có an ninh trật tự chăng? Không mà, không có an ninh trật tự thì tức nhiên không có chánh quyền nắm trong tay nghĩa là không có nền chánh trị.
Chúng ta thấy họ không thế gì đánh đổ được, bởi họ đánh đổ Chánh Phủ bao nhiêu thì trong nước lại càng loạn lạc và tiêu diệt với nhau mà thôi. Chúng ta ngó thấy cái nhỏ, chúng ta tưởng tượng cái lớn là Càn Khôn Vũ Trụ.Về mặt tinh thần cũng vậy, khuôn luật an ninh trật tự vẫn phải được tôn trọng. Nếu khuôn luật ấy bị đả đảo, tiêu hủy thì địa cầu nầy đụng với địa cầu kia, mặt trời nầy đụng với mặt trời kia, thì cả Càn Khôn Vũ Trụ nầy hư hoại hết.
Hình thể trên mặt thế gian, nếu không có trật tự an ninh, nếu có loài khỉ nào tương đương với loài người thì dám chắc loài người chưa thắng được. Ðối với một sắc dân nào còn lạc hậu thì không khi nào định quyền năng được, để tự trong tâm lý họ biến ra mà thôi, họ phấn đấu tương tàn tiêu diệt với nhau mà chớ. Ðó là về hình thể.
Chúng ta thấy Ðức Chí Tôn đến, trước hết Ngài mở ra cơ bút dạy bằng Thánh Giáo, khi Ngài chưa đến thì đã có Phật Mẫu đến với chúng ta lập thành khuôn khổ một mực, dầu cho cơ quan nào "dĩ tiểu vi đại" cũng vậy. Bà mẹ phàm chúng ta sản xuất nuôi dưỡng ta thế nào thì Phật Mẫu cũng thế ấy, bà mẹ chẳng bao giờ muốn đứa con kia xưng mình có quyền định cho mẹ và người mẹ cũng không muốn một ông cha nào mà buộc con mình phải chiều lòn theo như ý ổng buộc phải có. Nhiều khi chúng ta thấy một đứa con trong gia đình kia, nếu người anh cả vinh quang phú quí, quyền tước cao sang về tới nhà lại hiếp đáp đàn em buộc phải tôn sùng, thì bà mẹ chẳng hề vui lòng bao giờ. Bà cũng chỉ biết đó là một đứa con của bà mà thôi, ngoài ra bà không biết gì khác hơn nữa.
Buộc trong gia đình có đẳng cấp, có lớn, có nhỏ, mà thôi, chớ bà chẳng hề khi nào chịu cho ai áp bức con cái.
Trong cửa Ðạo Cao Ðài có hai Ðền Thờ: Một Ðền Thờ, ta ngó thấy trật tự hàng ngũ, bởi từ nguyên căn tâm hồn của chơn linh chúng ta đều có trong hàng phẩm Cửu Thiên Khai Hóa cả. Quí phái như thế! Còn một Ðền Thờ nữa, thờ Phật Mẫu tức là Mẹ của chúng ta, thì cái quí phái của chúng ta không còn giá trị gì nữa. Ðến Phật Mẫu không muốn cả Chức Sắc Thiên Phong đi đến Ðền Thờ của Người và Người nhứt định không chịu điều ấy, vậy phẩm tước và giai cấp đối với Phật Mẫu không có giá trị, vì Phật Mẫu không muốn đứa nào áp bức đứa nào cả, hành tàng như vậy bị tiêu diệt.
Ðó khuôn khổ bình đẳng của Cộng Sản, thiên hạ muốn bắt chước Cộng Sản mà Cộng Sản nào được như nơi cửa Ðạo Cao Ðài. Trong cửa Ðạo Cao Ðài khác hơn là các cơ quan tương đương với nhau mà ta thấy, dù ai muốn tìm con đường đi nào, trong cửa Ðạo Cao Ðài nầy đều có, chúng ta duy biết tuyển chọn quyết định con đường phải đi mãi thôi.
Con đường sanh sống của chúng ta không bờ bến, không gì ngăn cản về tinh thần hoặc tự do của nó được. Trên cửa thiêng liêng Càn Khôn Thế Giới thế nào thì con đường tinh thần của con người cũng thế ấy, không thế nào đi cho cùng tận.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 15-08-Mậu Tý nhằm ngày (dl. 17-09-1948).
Q.2/48: ĐỨC HỘ PHÁP ĐI SÀIGÒN VỀ NỀN ĐỘC LẬP VIỆT NAM.
Tại Ðền Thánh, đêm mồng 9 tháng 7 năm Mậu Tý (1948)
Bần Ðạo để lời cám ơn toàn thể con cái của Ðức Chí Tôn.
Trong mấy ngày Bần Ðạo ra đi, toàn thể ở nhà đã để tâm cầu nguyện cùng Ðức Ðại Từ Phụ cho Bần Ðạo đi kỳ nầy đặng kết quả, mà kỳ nầy có điều trọng yếu hơn hết là ta đã đạt vọng đặng, vị Ðại diện nước Pháp là Quan Thượng Sứ Bollaert đứng giữa công chúng tuyên bố rằng: Nước Việt Nam độc lập.
Ngày giờ nầy Chánh Phủ Việt Nam đang hiệp trí lo thương thuyết đặng thiệt hiện vấn đề độc lập của nước Việt Nam. Chúng ta hãy suy nghĩ và xét lại coi hai mươi mấy năm trước, Chí Tôn đến truyền giáo mở nền Chơn Ðạo của Ngài có nghĩa lý gì? Ngày nay đạt vọng này có nghĩa lý gì? Mà cả nòi giống chúng ta phải chịu cảnh tương tàn tương sát lẫn nhau mới đạt vọng đặng? Ðã theo chơn Chí Tôn 23 năm có lẽ chúng ta tinh thần sáng suốt, minh mẫn hơn thiên hạ tìm hiểu đặng chớ? Có thể họ đã đưa trọn nền độc lập nơi tay nòi giống chúng ta, mà chúng ta phải để mắt coi cả nòi giống chúng ta còn nồi da xáo thịt còn đổ máu nữa không? Thảng như còn duy trì tấn tuồng ấy nữa là tại oan gia nghiệt chướng của nòi giống Việt Nam nầy vậy.
Hại thay! Cái nền độc lập mà ngày nay ta đạt vọng đó, nó lại kết liễu thành tựu trong tay của Ðạo mới là kỳ cho chớ! Toàn thể Quốc dân Việt Nam và nước Pháp đã tự hiểu rằng: Sự kết liễu thành tựu được chăng là chỉ do Ðạo Cao Ðài mà thôi. Nghĩ có một điều trong nhơn loại cái cảnh tranh quyền, tranh thế, các đảng phái tương tàn tương sát lẫn nhau, làm cho nòi giống đổ máu, nên họ giao quyền sở hữu lại cho mình để thí nghiệm coi mình có đủ tài năng, lực lượng cương quyết cầm độc lập hiện tại được chăng cho biết.
Cả con cái Chí Tôn nên lấy tương lai này làm một vấn đề trọng yếu đặng học, nếu con cái Chí Tôn ai đạt đặng huệ tánh chút đỉnh, định tâm kiếm hiểu thấu lý coi tại sao có tương tàn, tương sát đổ máu rồi mới đạt vọng được như vậy. Có chi lạ, Bần Ðạo xin giải rõ cho biết: Ðạo mở từ năm 1926. Hồi đó Cộng Sản có nghĩa lý gì trong nước. Ðức Chí Tôn cầm cơ đi khắp hết kêu gọi cả Quốc dân Việt Nam đi trong quyền lực của Ngài; nâng đỡ bảo trọng lấy quyền năng tinh thần của chủng tộc làm ngọn Huệ Kiếm đặng giải ách nô lệ cho Quốc dân Việt Nam. Mà Quốc dân Việt Nam đã trả lời với Ngài thế nào? Họ đối đãi rất lãnh đạm chớ chi nòi giống Việt Nam biết nghe lời của Ngài thì không có tai nạn ngày nay.
Hại thay! Chủ hướng của nòi giống Việt Nam trở lại xu hướng theo tinh thần tàn ác hơn là theo tinh thần đạo đức bảo sao không nảy sanh cảnh tương tàn đổ máu được.
Một đàng Cộng Sản, một đàng Cao Ðài cũng trong một nước. Ðáng lẽ nền độc lập của nước Việt Nam chúng ta đã đòi được hồi buổi đó rồi, mà phải ngưng hoãn đến ngày giờ nầy. Nòi giống đã bị trị, oan gia nghiệt chướng làm mê mẩn tinh thần thành ra ngu dốt tàn sát nhau, đổ máu vì nhau mà không tự biết! Bần Ðạo nói thiệt, Ðại Từ Phụ hồng oai mà cũng hồng từ, Ngài mở kỳ ân xá thứ ba nầy giao quyền Giáo Chủ cho Bần Ðạo phổ độ chúng sanh mà nếu chúng sanh còn tàn hại nhau nữa thì Bần Ðạo sẽ nói đáng kiếp! Rồi bỏ mà thôi, nhưng giờ buổi nầy chúng ta đã tỉnh mộng, đâu còn mê muội nữa, bây giờ người ta đã thử thách mình đáo để rồi, Bần Ðạo để mắt mà coi cả tài tình đảm nhiệm lịch sử 4.000 năm mỹ mãn, ngày hôm nay có thành tựu được không cho biết. Người ta bảo mình làm sao được thì làm đừng đổ thừa tại người ta cầm giữ. Nếu làm không thành tựu thì hay hơn phải tự vận cả nòi giống cho chết hết.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 09-07-Mậu Tý nhằm ngày (dl. 13-08-1948).
Q.2/49: NHƠN TÌNH THẾ SỰ ĐỐI VỚI NHƠN TÌNH ĐẠO ĐỨC.
Tại Ðền Thánh, đêm 17 tháng 8 năm Mậu Tý (dl. 19-09-1948)
Hôm nay chúng ta đình dục tấn trên con đường Thiêng Liêng Hằng Sống, ngày mai Bần Ðạo sẽ giảng tiếp. Ðêm nay Bần Ðạo giảng vấn đề trọng yếu nhất, cả toàn mấy em, mấy con Nam, Nữ hậu tấn của chúng Qua, mấy em biết định phận mấy em thế nào tạo tâm đức đặng ngày kia cầm giềng mối cho Ðạo.
Bần Ðạo đem nhơn tình thế sự để đối với nhơn tình đạo đức, hai điều mấy em sẽ thấy Qua để đó, trải qua trước mắt lấy trí thông minh của mấy em mà xét đoán nên hư đặng định quyết phận mình. Vả chăng chúng ta ngó thấy nhơn tình thế thái của con đường đời đã trải qua, dầu đặng lịch lãm nhơn tình, chúng ta ngó thấy nhơn tình thế nào? Nhiều khi nhơn tình lãnh đạm, mà dục tấn tinh thần chúng ta thêm lên, là cốt yếu về tâm tấn đó vậy. Nhiều khi tinh thần chúng ta ngó thấy không trọng hệ gì lắm, bất quá trong gia đình không sao, tình bè bạn cũng thế, tình hương lân trong xã hội cũng thế, hễ phải thì đối phải, còn quấy thì đối quấy. Thường tình như thế mà kẻ vĩ nhân nào có tinh thần hoạt bát tự chủ mình đặng, nhơn tình dù lãnh đạm hay bạc bẽo cứ giữ mực thước đặng đối phó cùng đời. Tinh thần ấy mới ra người quân tử mới khác với thế thường. Vì thế thường, phải trả phải, quấy trả quấy. Có một điều ngộ nghĩnh hơn hết dầu chi chi cũng có phương pháp bình tâm cho họ, mỗi khi thi thố hành tàng chi vô đạo đức, vô nhơn nghĩa thì họ tự tỉnh, tự thẹn lấy họ. Chúng ta ngó thấy rằng: Những kẻ tiểu nhơn dù tìm phương tạo vinh hiển thế nào, sự tiểu nhơn của kẻ ấy không thế gì chối cãi đặng.
Hại thay! Tinh thần của nhơn tình thế thái, không ai tìm tòi, không ai bươi móc đem chơn lý cho chúng ta ngó thấy, chẳng hề khi nào phương pháp tiểu nhân dầu dấu thiên hạ một ngày không thấy, hai ngày không thấy, dầu dấu thế gian thế nào cũng lòi ra, không phương dấu đặng, che đặng. Vì thế xã hội quốc dân nào cũng thế, họ được bền vững đứng trong xã hội, cùng nhau mưu chước quỷ quyệt thế nào cũng chẳng làm quá lòng của người, hễ làm quá lòng của người thì có phản động lực, nhờ vậy mà nhơn quần xã hội mới tồn tại được. Nhơn tình thế thái có điều mầu nhiệm như thế, bao giờ chúng ta cũng sợ miệng lưỡi của người, phải giữ tánh đức theo thế thường của nhơn tình đạo đức.
Bây giờ đến nhơn tình đạo đức, chúng ta đừng tranh theo mặt đời. Buổi trước, khi Ðạo Cao Ðài chưa khai mở chúng ta thấy cả tính đức nhơn tình buổi đó thế nào? Bần Ðạo không phải đứng trên tòa giảng nầy để công kích, không lẽ mấy em không thấy, mấy em thấy phần nhiều hạng niên thiếu họ vô chùa miễu, đốt giấy vàng bạc đặng họ mua chuộc tài lợi, họ đến lo lót như lo lót một Ông Quan đời kia vậy. Các Ðấng đâu có dùng mà họ tìm phương hối lộ. Nếu thảng có tính chất nhơn tình đạo đức, bất quá họ chung hiệp nào là tổ chức Tôn Giáo, nào là định lập trường đặng nương theo bóng Tôn Giáo. Nhơn tình buổi trước như vậy.
Bây giờ Bần Ðạo luận từ ngày Ðức Chí Tôn đến mở Ðạo Cao Ðài, ngày nay Bần Ðạo nhờ nương theo bóng từ bi của Ngài đi theo bén gót Ngài từ 23 năm nay. Bần Ðạo chung chia đau thảm cùng con cái của Ngài, thảm khổ cũng có, mà vui hứng cũng có, buồn vui lẫn lộn với nhau, nhứt là đàn anh của chúng ta buổi nọ, niên cao kỷ trưởng, khi nghe tiếng gọi Thiêng Liêng của Ðức Chí Tôn, họ quyết đem mảnh thân phàm của họ dâng hiến làm tế vật của Ngài, dầu làm tay chơn cho Ngài, vì cớ mà bản hòa ước của họ đối với cả chơn hồn nguyên nhân là họ lãnh sứ mạng thiêng liêng vậy. Bần Ðạo chẳng cần đứng trên tòa giảng khai công nghiệp các bậc tiền bối của chúng ta, họ không cần, và e nói ra mấy em buồn nhiều, toàn thể Ðạo cũng vậy. Trong trường thảm khổ, cũng có kẻ trọn hiếu cùng Ðức Chí Tôn, trọn trung cùng Hội Thánh. Nhờ vậy mà Ngài tạo Thánh Thể của Ngài. Tội nghiệp thay trong một trường đồng hèn thân danh, đồng hèn xác thịt, mỗi mỗi đều thất thế bởi nòi giống còn nô lệ, nước nhà chưa biết tự do, tự chủ là gì, làm cho họ hổ thẹn. Ðó là tâm đức buổi ban sơ vì Ðạo vì Ðời, thì mảnh thân tạo nên đại nghiệp đầu tiên cho nước Việt Nam, tạo cho nòi giống Việt Nam trước hết, nhưng bởi họ rủi sanh ra thi hài người Việt Nam, máu mủ Việt Nam. Còn có hạng nữa, tưởng mình có phương vi chủ đặng, cũng làm cũng tạo vậy, nhưng tinh thần còn chật hẹp, không nương quyền năng vô tận, tự mình lấy quyền năng sở hữu của mình mà làm. Bần Ðạo thấy cần thuyết minh điều đó. Họ tự tạo phương pháp như một cái kho để bảo trọng gia đình họ, họ tạo quyền năng cho họ mà thôi. Buổi nọ trong trường hợp nào cũng có người chia rẽ, tham tàn đủ lẽ, tranh phương đủ điều đến lúc đó Bần Ðạo thấy hết. Không ai lỗi, không ai phải, không ai nên, không ai hư mà qua khỏi mắt Bần Ðạo được. Ðời sống của họ còn hiện tượng nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống của Ðức Chí Tôn, dầu họ rủi phận không đặng về ngồi vào lòng Ðức Chí Tôn, thì họ cũng lưu lại cho gia tộc con cái của họ. Cái đại nghiệp đó họ tạo đám con cái ấy, Bần Ðạo chứng chắc nó ngậm được giọt sữa của tổ tiên nó. Biết đâu đại nghiệp hậu hữu sau nầy của Ðạo không phải tự tay mấy đứa trẻ còn tồn tại đây thọ hưởng. Họ biết không phải làm cho họ hưởng. Bần Ðạo nói họ để lại đại nghiệp cho Ðạo, cho Hội Thánh nuôi hết con cháu họ, họ ham quyền, ham lợi rốt cuộc cũng nuôi mấy em nhỏ khôn lớn mà thôi. Thật sự mấy em nhỏ nếu nuôi bằng phương pháp tiểu nhơn chúng nó sẽ gớm ghiết điều nó không nói ra. Chớ những người trung hiếu cùng Ðức Chí Tôn sẽ được chúng nó tôn nghinh trong vinh hiển lắm.
Chúng nó ôm được cái gia tài của Ông Cha nó để lại đó, ngày kia nó sẽ ngồi trên thiên hạ, nó sẽ vi chủ loài người. Trong hai lẽ đó, cả thảy suy gẫm muốn lựa chọn lẽ nào thì lựa.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 17 tháng 8 năm Mậu Tý nhằm ngày (dl. 19-09-1948) nguyên bản chánh in là: 17 tháng 8 năm Mậu Tý (dl. 20-09-1948).
Q.2/50: VIỆT NAM ĐỘC LẬP TRONG LIÊN HIỆP PHÁP.
Tại Ðền Thánh, về việc đi Saigon, ngày 27-8-Mậu Tý (1948)
Chánh phủ mời Bần Ðạo ngày mai xuống kinh thành Saigon nữa.
Khi nãy Bần Ðạo có nghe Thượng Sứ Pháp tuyên bố trên máy truyền thanh giữa quần chúng đông đảo, Ngài đọc diễn văn nói: "Nền độc lập Việt Nam trong Liên Hiệp Pháp được tuyên bố cho toàn thể quốc dân Việt Nam, do nơi tay Ngài giao trả lại cho nước ta, đã trả rồi không ai lấy lại nữa". Nước Việt Nam từ đây được trọn quyền độc lập. Ngài tuyên bố quả quyết như vậy. Cả chánh quyền nội bộ của Ngài sẽ giao cho Việt Nam. Theo lời tiên tri của Ðức Lý có câu: "Khải ca định vận tại thu phân". Quả vậy. Nên hay chăng do sức mình mơ ước thể nào tạo cho nòi giống, với tinh thần, nghị lực, đặng cầm vận mạng toàn cả nước vậy.
Toàn Ðạo ở nhà cũng nên cầu nguyện xin Ðức Từ Phụ điều ấy.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 27-08-Mậu Tý nhằm ngày (dl. 29-09-1948).
Q.2/51: ĐỨC HỘ PHÁP THUYẾT MINH SAU KHI HỘI ĐÀM VỚI THƯỢNG SỨ PHÁP.
Tại Ðền Thánh, đêm mồng 3 tháng 9 năm Mậu Tý (1948)
Có lẽ trong kỳ lễ Bần Ðạo đến Sàigòn, ở nhà cả thảy đợi tin và trông Bần Ðạo về, đặng nghe về tương lai của nước nhà.
Bần Ðạo để lời cám ơn toàn Ðạo đã hết tâm cầu nguyện với Ðại Từ Phụ. Nam, Nữ lưỡng phái hết mấy em, mấy con cũng vậy.
Cốt yếu Bần Ðạo đến Sài thành kỳ nầy là do Quan Thượng Sứ mời Bần Ðạo, vì Ngài sắp về Pháp, Ngài từ vị của Ngài không còn làm Thượng Sứ nơi xứ nầy nữa. Thạnh tình của Ngài đối với Bần Ðạo có chỗ cao kỳ nên mời Bần Ðạo đến đó sở định, chúng ta nên biết có lạ chi, dầu cho một gia đình kia cũng lấy nhỏ mà luận lớn. Như một ông Trưởng Tộc họ nầy nếu tự nhiên có liên lạc chi với họ khác, khi phải đối đầu quyền lợi chung cho Tông môn hai họ, không phải một mình ông quyết định đặng. Bởi hai họ đương đầu với nhau, tưởng chẳng cần tả lại, hai ông Trưởng Tộc bị khảo dượt, phải có đủ tài sáng suốt, đủ chơn chánh minh mẫn quyết đoán cho chơn lý mới thỏa hiệp đôi họ đặng. Như thế mới khỏi sự trắc trở bên họ kia.
Bây giờ đây cũng vậy, ai cũng vì quyền lợi tranh lấy cho đặng phần hơn. Chính Bần Ðạo có thấy tấn tuồng ấy, biết nó khó khăn lắm. Có điều lạ chướng hơn hết là tới giờ phút nầy mà Nhơn sanh chưa chơn thật, điều thiệt họ không dám nói, lại đem ra nói dối, mê hoặc tinh thần quốc dân, làm cho cả thảy đều hoang mang.
May thay! Chúng ta vô cửa tịnh của Ðức Chí Tôn được ngồi trên Ðài Trí Giác, thâu đặng mảy may huệ tánh của mình, ta thấy rõ ràng một trường gạt gẫm giả dối, trước mắt không có gì chơn thật. Bởi trường kháng chiến, đòi độc lập thống nhất, đòi cho lấy được, tới chừng chúng trả không ai dám lãnh cả, họ làm mờ mịt, vì không đủ tài đức chơn thành để đảm nhiệm trách vụ mình. Ðòi quyền sở hữu độc lập thống nhứt người ta biểu có nhơn tài ra nắm chánh quyền đi. Ðừng nói chi tới địa vị tối cao, quyền hành tối trọng, hàng Tham Biện, Chủ Tịch ngày nay chưa tìm được người ngồi cho đủ mấy tỉnh là tại sao? Tại có bao nhiêu nhơn tài xúm nhau giết hết do chánh sách độc tài. Ngày nay tới lúc đảm nhiệm vai tuồng trọng hệ, cầm vận mạng nước nhà mà không có người dám nắm chánh quyền.
Chúng ta thấy chẳng khác nào một cuộc cúng tế, ông Chánh Bái mời các họ đến nhà thờ rồi mạnh ai nấy ngó, ngó đông, ngó tây, nấu cơm không biết, làm heo làm bò, bửa củi xách nước không ai biết, chỉ ngồi gây lộn với nhau. Tấn tuồng đó sẽ đến với chúng ta, như hiện nay muốn cứu vãn tình thế mà trong ngoài không thuận, cả toàn thể không ai đủ tài quyết đoán đặng. Tới phút yếu trọng nầy, cũng do đầu óc trong nhà mà ra, mà chỉ biết cùng nhau gây lộn, đánh lộn thôi, hiển nhiên như vậy. Bần Ðạo xuống đó để nghe hai tiếng chuông, để quan sát tấn tuồng sự thật thế nào. Lại nữa tâm tu duy có nền Chơn giáo Ðức Chí Tôn cho Bần Ðạo làm được việc mà từ thử đến giờ không ai làm. Họ nói mấy người lai Pháp là thực dân. Hỏi thử ai thực dân? Nói mấy người Tây Lai. Máu mủ họ phân nửa Pháp phân nửa Việt thì cũng tội nghiệp cho họ. Nếu lấy công chánh định quyết là tại mình gây oán. Hạng thực dân có chăng là hồi trước, khi có Pháp mới đến đây, lúc ban sơ đem binh chiếm đoạt Việt Nam, còn ngày nay đám thực dân đó lại của Việt Nam, cái rối là do đàn bà Việt Nam sanh họ ra mà họ dòm thấy mẹ nghèo nàn cha thì sang trọng vinh hiển. Cũng như đứa con trong nhà thấy cha có bánh nhiều hơn tức phải bỏ má. Ông cha họ có đủ tài đức đủ quyền bảo vệ họ, họ bợ đỡ nương theo đặng sống. Làm mẹ bất tài thì chúng phải nương sống theo cha, có gì là lạ. Sống một cách vinh hiển mà chính mình họ vẫn không biết thực dân là gì? Họ phân trần với Bần Ðạo như vầy: "Tình trạng của chúng tôi như vầy mà lên án chúng tôi là thực dân chúng tôi không biết làm thế nào" mà nói họ thực dân hỏi vậy mình chưởi ai? Tức nhiên chửi nòi giống mình, bởi họ là người Việt Nam, cứ ghét, cứ xô đuổi họ thì tài nào thỏa hiệp chủng tộc được.
Thử hỏi lại, tại nơi mình cả. Chính Bần Ðạo thấy tấn tuồng ấy không phải là số ít, vì đã bao nhiêu năm giao quyền công dân trong tay, lãnh đảm nhiệm mà họ không thi thố. Nếu họ không đi đến phận sự họ thì tội họ chịu. Thật ra cả thảy đều không dám, họ cảm xúc đến nước nhà, khi Bần Ðạo ra về họ than nói: "Từ thử tới giờ tôi mới nghe được lời an ủi của mẹ chúng tôi", thế mà từ bấy lâu quốc dân gây oán, chác hờn làm cho tan rã khối thân ái, thành ra khó đặng hòa nhau. Nếu thảng tai nạn nầy xảy ra là do nơi sự chia rẽ.
Muốn cứu vãn tình thế thì phải tìm phương bồi bổ tình thân ái rồi ngày kia mới giải quyết được tương lai vận mạng của chủng tộc nước nhà ta đó.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 03-09-Mậu Tý nhằm ngày (dl. 05-10-1948).
Q.2/52: SỰ ĐIỀU HÒA CÀN KHÔN VÕ TRỤ.
Tại Ðền Thánh, đêm 14 tháng 9 năm Mậu Tý (1948)
Bần Ðạo ngày nay đình giảng cuộc dục tấn của chúng ta trong đường Thiêng Liêng Hằng Sống, đặng minh thuyết một đề mục trọng yếu liên quan cả Ðạo Giáo của đời. Bần Ðạo thuyết con đường điều hòa của Càn Khôn Võ Trụ tức nhiên là khuôn luật tạo đoan cả Càn Khôn Võ Trụ vạn vật hữu hình ta ngó thấy đây vậy.
Vả chăng hễ hòa mới hiệp, hiệp mới có định, mà hễ có định mới có an. Bằng chẳng vậy sẽ có phản động lực. Hễ không hòa tức giục cho phải nghịch, hễ nghịch phải ly, mà ly, tức nhiên động, hễ động tức nhiên phải loạn. Dầu cho chúng ta quan sát về Ðạo Lý Học, Triết Lý Học, Tâm Lý Học, Cánh Trí Học, ta thấy quả quyết cả cơ quan tạo đoan hữu hình trước mắt ta, nếu không tùng khuôn luật điều hòa, Bần Ðạo tưởng Càn Khôn Võ Trụ nầy đã tiêu diệt. Dầu cho về Ðạo Lý Học, ta ngó thấy khởi đầu nếu cái khối ngươn linh của Ðức Chí Tôn không hòa hiệp với ngươn âm của Phật Mẫu, thì Thái Cực chưa ra tướng, hễ Thái Cực chưa ra tướng tức nhiên Càn Khôn Võ Trụ nầy không có gì hết.
Chúng ta ngó thấy hành tàng tạo đoan trước mắt ta là sự điều hòa trong thân thể. Và triết lý Ðạo Giáo ta biết rằng: Nếu ta không đoạt đặng bảy khối sanh quang thiêng liêng kia đặng tạo thành xác thịt thì ta không có. Ta không sanh ở đây, nói gần hơn nữa nếu nhứt điểm tinh thần của cha ta không hiệp với huyết bổn của mẹ ta, thì tức nhiên không có sự hiệp hòa cả khuôn luật tạo đoan như trong bài thuyết pháp của Bần Ðạo hôm nay.
Ấy vậy chúng ta nương nơi hòa khí đặng hay chăng? Cả cơ bí mật của ta dầu cả hình thể tạo đoan ta ngó thấy con vật trước mắt ta, nếu không hòa thì không có sanh, không hòa chắc có thể tạo đoan không có nam, nữ, cốt yếu sanh nam, nữ đặng hiệp hòa nhau tức nhiên sanh sản loài người, ngoài ra nữa ta đã ngó thấy, nếu như không có điển lực điều hòa do Thiêng Liêng định, tức nhiên Bần Ðạo dám chắc chưa có thành Ðạo. Bởi có ai thuận với ai đâu. Các chủng tộc cũng nương theo khuôn luật hiệp hòa ấy mới tồn tại, mới hiệp chủng tộc được. Về triết lý học chúng ta ngó thấy nhiều phản ảnh nó không thế gì in nhau được. Hễ hiểu đặng quyền năng của Ðạo, tỷ như lửa và nước hai món ấy không thế gì gần nhau được như chúng ta thấy máy tàu, trước khi đã tìm ra năng lực của nước, hiểu được như hơi nước, nó sẽ có cái quyền lực xô đẩy cả sức nặng 30.000 tấn; quả nhiên trước mắt chúng ta thấy, hiện tượng không thế chối đặng. Lại nữa cái điển lực thiên nhiên, ta thấy khí âm đụng với khí dương thành ra sấm sét, lửa sét ấy do hơi điển âm đụng với điển dương biến ra khối lửa. Nó mạnh thế nào chúng ta ngó thấy không thế gì tưởng tượng được. Ðem điển âm để riêng ra cách bức điển dương hai cái đụng nhau dữ dội lắm. Ta thấy năng lực của hơi nước thế nào tức nhiên ngày nay ta thấy không thua gì điển lực. Bây giờ, ta có phương pháp thâu đặng, thâu nhỏ lại làm ngọn đèn sáng suốt.
Cả hình trạng quốc gia xã hội hay là Ðạo Giáo thiên nhiên cũng vậy. Cái khuôn luật hoà là cái khuôn luật để tạo ra Càn Khôn Võ Trụ. Có nhiều cơ quan phản khắc nhau ta có quyền năng làm cho họ hiệp lại, thì cơ quan tạo đoan nắm trong tay, cũng như chúng ta ngó thấy không thế tưởng tượng hai khối chung hiệp nhau đặng làm ra ngọn lửa. Ngọn lửa ấy nó soi sáng trong gia đình hiện tượng.
Bây giờ xã hội nhơn quần trên mặt địa cầu nầy, ta ngó thấy đời loạn lạc tàn bạo cùng nhau tại sao? Tại nơi cơ thể hữu hình không làm thỏa mãn loài người. Hại thay! Cơ quan hữu hình không làm thỏa mãn tâm lý loài người từ thử đến giờ. Tinh thần ấy chỉ có nương theo Ðạo Giáo và biết nhẫn nại, biết định hướng, biết tự chủ, biết định phận, trong thân sống ta. Ngày nay Ðạo Giáo trên mặt địa cầu nầy hết quyền năng vi chủ hoàn cảnh quá khổ não của loài người. Ðời thảm khổ càng tấn tới, thấy cái sống càng khó khăn, nền văn minh càng tiến, lên một bước thì khối thảm khổ của loài người càng thêm nữa. Hỏi đương nhiên bây giờ ngó các chủng tộc đối nại nhau, tranh sống với nhau, phản khắc nhau. Bần Ðạo đã nói hồi nãy, nếu không hòa nhau đặng tất nhiên phải nghịch, lẽ nghịch tức nhiên phải ly, hễ ly tức nhiên phải xao động, hễ xao động tức có loạn lạc.
Bây giờ hỏi muốn tìm giải pháp để cứu tình thế chúng ta, để thử tinh thần trí não, suy đoán xem, ta thấy rằng: Không hòa mới có nghịch mới có ly, như không đồng tâm đồng chí, đồng sống cùng nhau thì tức nhiên có xao động. Bần Ðạo nói cả Vạn Quốc đó vậy. Ðộng tức nhiên phải loạn.
Bây giờ muốn tìm phương pháp trị loạn đặng, phải phương chiêu an, nó đương động, mình phải giải thoát, nó đương ly cách, mình tìm phương hội hiệp. Bây giờ nó đương nghịch, mình tìm phương pháp hòa nó vậy. Phương pháp đó tìm được không? Trước Ðức Chí Tôn chưa đến mở Ðạo, chúng ta nói chắc chưa thế gì tìm được hoàn thuốc cứu thế đó. Ngày nay Ðức Chí Tôn đã đến, chính Ngài thấy nỗi khốn khó của loài người, vì loạn lạc tự diệt nhau, Ngài đem hoàn thuốc phục sinh, hoàn thuốc cứu loài người, tức nhiên Ngài đem Ðạo Giáo chơn truyền của Ngài là đem cái hòa khí để tại mặt địa cầu nầy. Mà hòa khí ấy nó lan tràn ra, nó bao trùm cả mặt địa cầu nầy hết, chính bịnh loạn kia do sự bất hòa mà ra, nếu đem hoàn thuốc hòa trị nghịch, tức nhiên hết loạn, thì phải an.
Vì cớ Bần Ðạo dám quả quyết: Nếu ta muốn tìm mối Ðạo chơn chánh, mắt ta thấy đương nhiên bây giờ các nền Tôn Giáo không điều hòa tâm lý thiên hạ, lại giục loạn tinh thần thiên hạ tức nhiên là không thế gì tồn tại được.
Ðạo Cao Ðài ngày nay là một nền Tôn Giáo đem hòa khí cứu vãn tình thế. Bần Ðạo xin nhắc lại và căn dặn lưu tâm đến những lời chí thiết của Ðức Chí Tôn, hễ một hành tàng nào của chúng ta làm cho tâm lý con người phải rối loạn, ly tán, ngỗ nghịch tức nhiên phạm tội Thiêng Liêng. Ðừng tưởng rẻ, bởi nó xô đẩy loài người trong trường chiến, và sẽ có cơ quan tận diệt nhau không dứt, không cứu chữa đặng, thì chúng ta sẽ là tội nhơn đệ nhứt của nhơn loại vậy.
Ngọn Bạch kỳ của Ðức Chí Tôn tức ngọn cờ Cao Ðài phải định an cho Vạn quốc toàn mặt địa cầu nầy, làm cho hòa thuận nhau, mới xứng đáng một nền Tôn Giáo chính mình Ðức Chí Tôn đến tạo đó vậy.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 14-09-Mậu Tý nhằm ngày (dl. 16-10-1948).
Q.2/53: LỄ CẦU SIÊU CHIẾN SĨ TRẬN VONG.
8 giờ sáng ngày mồng 2 tháng 10 năm Mậu Tý (1948)
Ngày nay là ngày cầu nguyện cho các Thánh Tử Ðạo tức nhiên là ngày lễ các Thánh.
Nguyên căn ngày nay là khi Ðức Chúa Jésus Christ giáng sanh có tiên tri rằng Chúa Cứu Thế sẽ ra đời làm chủ tinh thần thiên hạ, các vị Vua Chúa ác sợ mất quyền tìm cách giết Chúa. Nhưng vì đã lánh khỏi, chúng biết ngày sanh, vì oán hờn, mà đeo đuổi bắt con nít đẻ trùng ngày với Ðức Chúa mà giết. Kẻ bị giết ngày ấy đều đặng hiển Thánh vì Chúa mà chết thay thế cho Chúa, nên Thiên Chúa Giáo lấy ngày ấy làm ngày kỷ niệm các Thánh bỏ mình vì Chúa. Ngày nay là ngày kỷ niệm các chiến sĩ trận vong, các chiến sĩ ấy hy sinh cho quốc gia, vì nước nhà, vì nòi giống, vì nhơn loại họ không tiếc mạng sống, đứng lên để mưu hạnh phúc cho toàn cầu gầy dựng lại Quốc gia.
Ấy là các Thánh vô tội đã hy sinh tạo hạnh phúc cho toàn thiên hạ cho kẻ khác hưởng, bởi thế ngày nay chúng ta nên hội hiệp nhau lại làm lễ cho long trọng mà cầu siêu cho các chiến sĩ đã hy sinh bảo vệ sanh mạng tồn tại của thiên hạ. Ngày nay là ngày trọng yếu, mà lại là ngày lễ của Chính Phủ chọn lựa. Chúng ta nên để tâm cầu nguyện đặng tỏ rằng người sống không bao giờ quên kẻ chết, và kẻ chết cùng người sống vẫn có một quan niệm chung thờ một chủ nghĩa, duy có khác là cái chết và cái sống, ngoài ra không ai phân biệt được, mà nếu không phân biệt được thì nhơn loại có một mà thôi. Tinh thần vẫn một, sự phân biệt đó là tại tâm lý phàm phân chia, chớ tinh thần không phân màu sắc dân tộc nào hết, chỉ có một quê hương chung là cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, có một Ðấng Chúa Tể là Trời.
Cả thảy chúng ta ngày nay chung hiệp lại để cầu nguyện cho các bạn ta hay người ân của ta để cho các Ðấng linh hồn đặng siêu thăng. Và chúng ta cũng hiến trọn cả thi hài nầy cho Chí Tôn, thì bất kỳ cầu chuyện chi, ta làm sự gì tức là dâng cho Ngài cả. Xin Chư Chức Sắc Thiên Phong và Chư Chức Việc Ðạo Hữu phải thành tâm hiến lễ cho Chí Tôn như chúng ta dâng mảnh thân mình cho Ngài vậy.
Ðức HỘ PHÁP nói: Người thật tâm ái quốc, dầu đối với việc nhỏ mọn bao nhiêu mà ích nước lợi dân cũng cố làm, còn trái lại cảnh ngộ đã đem đến cho đặng danh cao lợi lớn đi nữa, mà nghịch với quyền lợi và tổn thương cho Quốc thể cũng không làm. |
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 02-10-Mậu Tý nhằm ngày (dl. 02-11-1948).
Q.2/54: LỄ KỶ NIỆM ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG.
Tại Tháp Ðức Quyền Giáo Tông,
8 giờ sáng ngày 13 tháng 10 năm Mậu Tý (1948)
Ngày hôm nay chúng ta làm lễ kỷ niệm Ðức Quyền Giáo Tông. Chơn linh của Ngài cả toàn con cái của Ðức Chí Tôn nam, nữ đều biết là chơn linh Ðức Lý Ngưng Vương. Mười bốn (14) năm qua chúng ta chịu tâm tang nơi lòng, vì mất một vị mà Ðức Chí Tôn chọn lựa, một vị Ðại Tiên đến mở cơ quan cứu thế cho đời. Chúng ta tưởng niệm lại trong buổi sanh tiền của Ngài, Ngài đào tạo cho thành nền Chơn giáo Cao Ðài; Ngài đã chịu bao khổ hạnh. Giữa thế kỷ 20 nầy, tâm lý nhơn sanh thất đạo, đem một cái hòa bình nêu cao lên làm trung tâm điểm cho tinh thần đạo đức nơi cõi Á Ðông, đã mỏi tay gióng trống Lôi Âm, reo chuông Bạch Ngọc, mà nhơn loại giả vờ điếc đui không biết cơ quan cứu thế là gì hết. Ðem cái khối sanh quang phục sống cho họ trong chốn tử địa sắp tới đây, mà họ chưa tỉnh ngộ đặng lo bảo trọng sanh mạng, biểu sao kẻ đại diện của Ðức Chí Tôn thuở sanh tiền không bị thiên hạ khinh rẻ. Vì tâm lý chia rẽ đó, ngày nay có nạn tàn sát tiêu diệt nhau. Ta nhớ lại, 14 năm Ngài đã khuất dạng, tạo dựng được cho khối tinh thần thống nhất cả lương tri của toàn con cái Ðức Chí Tôn. Còn cả thảy hình ảnh nền Chơn giáo Ðức Chí Tôn chưa có hiện diện gì hết. Cũng vì chịu thâm tình ấy, Bần Ðạo ra gánh vác trách nhiệm nặng nề trong buổi nền Chơn giáo Ðức Chí Tôn phải chiến đấu đặng đem sự chơn thật, đặng đem công lý gieo vào tinh thần loài người. Biết bao nhiêu lực lượng đối phương đã thống nhứt lại với nhau đặng toan diệt Ðạo. Trong 14 năm khuất bóng Ngài, Bần Ðạo chịu khổ hạnh 6 năm đồ lưu, còn trụ lực lượng đặng tạo hình thể nền Chơn giáo chỉ có 8 năm mà thôi. Bao giờ cũng vậy, năng lực tinh thần chẳng có lực lượng hữu hình nào tiêu diệt nó đặng. Nhờ âm điệu điều hòa trong khuôn luật mà ngày nay Ðạo Cao Ðài đã nên hình tướng, đã đứng giữa hoàn vũ nầy một cách vinh quang. Nhờ lẽ chơn thật của nó, không có lưỡi gươm bén nào trị tinh thần đặng, thì không có lực lượng nào đè nén đặng. Nó phải thắng đời để cứu đời. Một nền Chơn giáo cao thâm tinh thần dường nầy sẽ bất tiêu, bất diệt. Nhờ ơn đầu tiên của Ngài khai mở, chúng ta hãy cúi đầu cầu nguyện và cảm tạ ơn Ngài.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 13-10-Mậu Tý nhằm ngày (dl. 13-11-1948).
Q.2/55: LỄ HẠ NGƯƠN NĂM MẬU TÝ.
Tại Ðền Thánh, đêm rằm tháng 10 năm Mậu Tý (1948)
Kỳ lễ Hạ Ngươn nầy nền Chánh Giáo của Ðức Chí Tôn đã đặng 24 tuổi. Trong thời gian 24 năm, nền Chánh Giáo của Ðức Chí Tôn đã trải qua biết bao nhiêu nỗi khó khăn thiên chuyển, buồn có, khóc có, vui có, nhục có, vinh có, hận có, trong 24 năm cả thảy Thánh Thể của Ngài và toàn con cái của Ngài nam, nữ đã chịu biết bao nhiêu khổ hạnh, đã chịu biết bao nhiêu nỗi thê lương, buồn thảm; chúng ta dòm lại ngày nay, cái nền Chánh Giáo Ðức Chí Tôn cho nòi giống chúng ta, đã thành tựu rồi đó. Chúng ta suy đoán coi nó có đặng giá trị mà chúng ta đã mua chuộc trong 24 năm trường chăng?
Hồi tưởng, nếu chúng ta công tâm, nhất là cho cái lương tri, nghĩa là lấy trí não xét đoán, thì chúng ta biết nhìn nhận rằng: Với cái đại nghiệp Thiêng Liêng dường ấy, một cái cơ quan trọng yếu đã độ được toàn thể quốc dân, về phần xác và phần hồn, mà đổi chuộc cái khổ hạnh của chúng ta thì không có nghĩa lý gì hết. Chúng ta xem lại, lấy công tâm suy đoán, những khổ hạnh của các vị Giáo Chủ từ trước, vâng mạng lịnh của Ðức Chí Tôn, đến tạo Ðạo cứu Ðời chẳng phải chịu khổ não về phần hồn mà thôi, về phần xác của họ cũng bị đọa đày thảm thiết.
Còn nói về nhục thì thôi? Không vị nào không khổ nhục chơn linh, đó chúng ta nhìn thấy Chí Tôn không có thiếu nợ chúng ta bao giờ. Bởi vì Ngài không khi nào thiếu nợ con cái của Ngài, dầu tình cũng vậy, Ngài chỉ biết cho mà không biết hưởng, từ thử đến giờ chưa có kẻ phàm nào đã đem tinh thần, trí não, tâm hồn dùng làm tôi tớ cho Ngài mà bị lỗ lã bao giờ chỉ đặng lời mà thôi, thế gian người ta thường nói chúng ta chết là hết. Chúng ta thử suy đoán, với một kẻ mà đã đem trọn kiếp sanh mình làm con tế vật cứu thế như Ðức Chúa Jésus Christ đem thân ra chịu khổ hạnh truyền giáo thật ra chỉ vỏn vẹn có hai năm thôi, kế bị dân Do Thái đóng đinh trên cây Thánh Giá như kẻ thường tình kia. Một Ðấng Quân Vương, một Ðấng chủ trương, bất kỳ là xã hội nào hay là một cơ đồ nào, đối với một tội dường ấy có thể nói đến Ðấng Jésus Christ hồi còn sanh tiền đi truyền giáo cho dân lại bị khổ nhục, nhứt là bị bắt buộc mãi trong vòng tù tội, nỗi khổ hạnh cái nào mà Ngài không có, cho đến Ngài chịu chết trên cây Thánh Giá, Ngài chưa biết buổi nào là hạnh phúc trong kiếp sanh của Ngài hết. Ngài chết trên cây Thánh Giá với mảnh thân tù và tội tử hình.
Chỉ có Ðức Jésus Christ cho một Ðấng thiếu nợ mà thôi, mà Ðấng ấy là Ðức Chí Tôn là Ðại Từ Phụ là Thầy của chúng ta ngày nay đó vậy. Có một Ðấng đó thiếu nợ tiền khiên, mà đã hai ngàn năm Ðạo Thánh Gia Tô làm chủ tâm lý cả toàn thiên hạ trên khắp mặt địa cầu nầy, còn cái vinh diệu của Ngài ôi! Vô đối,( *1 ) buổi nọ Ngài nói "Con chim có tổ, con chồn có hang" mà con người nầy chỉ bởi theo nghiệp đời mà Ngài không kiếm được chỗ để gối đầu. Chúng ta thấy lời than của Ngài thì biết đời chẳng ai nghèo nàn hơn Ðức Chúa Jésus Christ. Ngày nay hiển nhiên trước mắt chúng ta thấy vinh quang vô đối của Ngài, về mặt xác thịt và linh hồn làm Chúa cả gần toàn mặt địa cầu nầy. Hỏi nợ ấy ai trả đặng, chỉ có người đó cho, là người đó trả, với một kiếp sanh vinh diệu, sang trọng oai quyền.
Từ thử đến giờ dưới thế gian Ðức Chí Tôn chưa cho người nào khác nữa. Ấy vậy một Ðấng không từ chối cái nợ của mình, với kẻ chết mà đã 2.000 năm vẫn tiếp tục đền bồi cái nợ ấy; Ðấng ấy chẳng khi nào phụ rãy cái Thánh Thể của Ngài, và con cái của Ngài. Bần Ðạo biết hẳn vậy, hằng khuyên chúng ta giữ đạo đức tinh thần đặng làm tôi tớ của Ngài, làm môn đệ của Ngài, hay là đặng làm con của Ngài, vì có bao nhiêu đó mà thôi, Ðấng ấy không hề chịu nợ tình với chúng ta. Trong 24 năm tạo nên hình tướng nền Ðạo, tạo dựng Ðền Thờ tối cao tối trọng nơi thế gian nầy, thì Ngài không hề phụ rãy bao giờ.
Bần Ðạo nói không nợ tình nhỏ nào đối với Ngài mà bị mất không được đền bù lại, trong 24 năm chúng ta làm tôi làm môn đệ cho Ngài, chúng ta chỉ có một điều duy nhứt là hiến dâng cả thi hài ta làm con tế vật cho Ngài, đặng Ngài dùng từ tâm ân xá cho toàn nhân loại đã gây tội tình với Ngài từ buổi tạo thiên lập địa tới giờ ta sẽ đạt được hồng ân của Ngài là ân xá lần thứ hai (ba?)(*2), trên mặt địa cầu nầy vậy.
Nếu kỳ ân xá ấy đạt được, thì nạn tương tàn, tương sát với nhau mới tránh khỏi. Nếu kỳ ân xá ấy đạt không được thì có một trường quyết chiến thảm khổ, sẽ trải qua trước mắt chúng ta mà từ tạo thiên lập địa đến giờ chưa hề có.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 15-10-Mậu Tý nhằm ngày (dl. 15-11-1948).
(*1) Nơi đoạn thứ 4: Chỉ có Ðức Jésus Christ cho một Ðấng thiếu nợ mà thôi,... ... ..., còn cái vinh diệu của Ngài ôi! Vô đối, buổi nọ Ngài nói "Con chim có tổ, con chồn có hang" mà con người nầy chỉ bởi theo nghiệp đời mà Ngài không kiếm được chỗ để gối đầu...
Chúng tôi xin đề nghị cho rõ nghĩa hơn: Chỉ có Ðức Jésus Christ cho một Ðấng thiếu nợ mà thôi,... ... ..., còn cái vinh diệu của Ngài ôi! Vô đối. Buổi nọ Ngài nói "Con chim có tổ, con chồn có hang" mà con người nầy chỉ bởi theo nghiệp đời mà Ngài không kiếm được chỗ để gối đầu...
(*2) Nơi đoạn thứ 6: Bần Ðạo nói không nợ tình nhỏ nào đối với Ngài mà bị mất không được đền bù lại,... ... ... từ buổi tạo thiên lập địa tới giờ ta sẽ đạt được hồng ân của Ngài là ân xá lần thứ hai (ba?), trên mặt địa cầu nầy vậy.
Chúng tôi nghĩ là lần thứ "ba", không rõ có phải sơ sót kỹ thuật chăng?
Q.2/56: ĐỨC HỘ PHÁP THUYẾT TRONG DỊP LỄ THIÊU XÁC CÁC THÁNH TÔNG ĐỒ.
ÐỨC HỘ PHÁP thuyết Kẻ nào hiếp các con tức là hiếp Thầy, mà hiếp được Thầy là một việc không dễ dàng gì vậy. Ngày kia, khi Ðạo Cao Ðài đã mạnh mẽ tràn lan khắp năm châu. Lúc ấy thế giới sẽ đua nhau về đây thỉnh Ngọc Xá Lợi của Liệt Thánh về chiêm ngưỡng cũng sẽ không kém gì cuộc cung nghinh xá lợi Phật của thế giới ngày nay vậy. Ngày rằm tháng giêng năm Ất Mùi (dl. 07-02-1955) |
Q.2/57: MÓN ĂN CỦA LINH HỒN.
Tại Ðền Thánh, thời Tý đêm mồng 1 tháng 11 năm Mậu Tý (dl. 01-12-1948)
Kỳ nầy Bần Ðạo đình thuyết về sự dục tấn của các Linh Hồn chúng ta trên con đường Thiêng Liêng Hằng Sống, đặng thuyết về một vấn đề cần yếu nhứt có ảnh hưởng yếu trọng đến phần hồn chúng ta.
Thời gian Bần Ðạo để chơn trở về Ðền Thánh, Bần Ðạo chú trọng một điều, chẳng những chú trọng mà thôi mà còn buộc cả Chức Sắc phải đi cúng tại Ðền Thánh. Lý do ấy như thế nào Bần Ðạo xin thuyết minh cho toàn cả hiểu biết, rồi mới rõ cái huyền vi bí mật phương tu của mình hầu gắng công lo tu thêm nữa.
Ai cũng thường nói mình tìm Ðạo, Ðạo đã để trước mắt mình, nói quả quyết hơn Ðạo để nơi mình, của mình. Ấy vậy là vật Chí Tôn đem đến để trong tay của kẻ làm chủ quyền sở hữu nó.
Bần Ðạo nhớ khi nền Ðạo mới phôi thai, buổi ban sơ xuống tại Thủ Ðức ở trót 7 tháng trường, nhờ ơn đức của Giáo Tông dìu dắt, giáng bút giáo hóa, buổi chưa rõ thông chơn lý của Ðạo, còn mập mờ, tìm hiểu, nhiều khi vì sự ham muốn biết, đã vấn nạn Ngài nhiều điều quá đáng, như ngày hôm nay và tương lai nếu ai xúi hỏi nữa, chắc Bần Ðạo không dám. Có một phen Ngài đến dạy Bần Ðạo, Ngài than: Cái tâm lý nhơn loại đương nhiên đã khiếm khuyết đạo đức tinh thần, vì cớ trường đời hỗn loạn, hàng trí thức hoặc tu niệm tiềm tàng thấu đáo, muốn tìm phương hay sửa chữa, cứu vãn tình thế của đời. Hại thay, buổi ấy Ðạo Giáo lu mờ, thiên lương hết tồn tại, làm thế nào mà nhơn loại biết chủ định quyền hành mình đặng tự lập, tự trị lấy mình. Cả thảy chỉ biết tự lập tự trị mình thì mới mong hiểu được huyền vi bí mật. Tự sửa mình mỗi cá nhân, đến xã hội, đến cả nhơn loại biết tự trọng mình được thì cứu vãn tình thế nguy ngập tàn diệt nầy được.
Hại thay! Tấn tuồng ta thấy trước mắt, thiên hạ bị nạn chiến tranh tàn diệt do nguyên lý của nó là tinh thần nhơn loại thiếu đạo đức, vì thiếu đạo đức nên vật dục mới xô đẩy họ tìm phương sống, tìm hạnh phúc trong phương sống ấy. Hạnh phúc không có hình dáng, tạo hạnh phúc chỉ tưởng đâu diệt nhau đặng bảo thủ phương sống của mình, chẳng khác nào như con vật chỉ biết giành sống với nhau, ngoài ra tranh giành đặng bảo thủ mạng sống không còn biết đạo đức nhơn nghĩa gì hết. Giờ phút nầy đương nhiên tấn tuồng nguy khốn cả toàn nhơn loại, do nguyên lý tinh thần đạo đức, không tồn tại, chẳng phải không tồn tại mà thôi, họ lại còn từ chối cái tinh thần đạo đức nên không còn có giá trị đối với họ. Vì cớ Chí Tôn đến tạo Ðạo.
Bần Ðạo nhận thấy cả sự bạc nhược tinh thần, đương thế kỷ hai mươi nầy, văn minh khoa học giục thúc nhơn loại mở cả tinh thần trí não đến cực điểm, họ tưởng có thể vi chủ cả sanh mạng họ mà chớ. Cũng có kẻ dầu có học thức như Phan Thanh Giản hồi đi sứ sang Pháp Triều thấy cả nền văn minh phát khởi đến huyền vi tư tưởng. Ngài là người văn học trí sĩ của nước Nam ta, đến cũng phải sợ sệt, nhận rằng nền văn minh đã đến mức cao cực độ. Ngài dâng sớ cho nhà vua, nói một câu nói dường nầy quá lẽ:
"Dĩ nghệ tề thiên địa,
Chỉ nhượng tử sanh tạo hóa quyền".
Ngài nói rằng: Cái quyền hành vi chủ, duy vật chẳng nhượng quyền tạo hóa, chỉ có chết sống mới nhượng cho quyền tạo hóa mà thôi. Thành thử mình thấy văn chương khoa học đương nhiên làm chủ tư tưởng của con người.
Hại thay! Nếu khoa học mà dìu dắt tâm lý nhân sanh đến đạo đức tinh thần thì may biết bao, trái ngược lại văn minh ấy chỉ giục thúc phương sống vật chất, họ tìm hạnh phúc trong cái sống vật hình, vì cớ Ðạo Giáo mất quyền. Bần Ðạo tưởng người khác hơn Bần Ðạo cũng lưu ý đến điều ấy, nên đã vấn nạn Ðức Lý Giáo Tông. Hỏi rằng: "Ðương thế kỷ hai mươi nầy văn minh cực điểm đã đi quá cao rồi, đem đạo đức tinh thần làm thuyết cứu thế, sợ e chẳng có kết quả. Tôi công nhận rằng trước hai ngàn năm có lẽ nhơn loại còn bảo thủ được khối thiên lương biết xu hướng đạo đức, tinh thần đạo đức buổi ấy dường như gặp một mảnh ruộng có nhiều phân nên hột giống mới mọc đặng, còn thế kỷ hai mươi nầy là thời kỳ văn minh vật chất, nếu đem đạo đức ra làm môi giới, cứu vãn tình thế cho đời, e vô hiệu quả.".
Ngài than! Nói quyết đoán rằng: "Theo lẽ Hiền Hữu nói nhơn loại ngày giờ nầy không cần đạo đức có phải?".
Bần Ðạo trả lời: "Thật vậy, nhơn loại buổi nầy không cần đạo đức, chỉ tìm hạnh phúc nơi văn minh khoa học, cũng có thể được chớ?".
Ngài cười: "Văn minh khoa học chỉ nuôi phần xác thịt họ mà thôi, còn phần linh hồn dám chắc họ sẽ đói".
Bần Ðạo vấn nạn: "Tại sao Ngài nói linh hồn đói, linh hồn có ăn sao mà đói?".
- Phải, phải có vật thực đặng bảo dưỡng nó như thi hài vậy, nếu không vật thực nó sẽ tiều tụy rồi chết mà chớ.
Luôn đó Ngài lấy triết lý cao siêu mà dạy Bần Ðạo trong một con người có ba xác thân gọi là tam hồn và bảy vía gọi là thất phách liên hệ mật thiết cùng nhau. Ðương nhiên trong thân thể của mỗi người có 3 xác thân ấy cần bảo dưỡng mới tồn tại được. Vì cớ Ðức Chí Tôn cho biết, trí thức và linh hồn trọng yếu do căn nguyên của sự sanh hoạt của nó định cái ngã tướng cho ta. Ba xác thân ấy phải nuôi sống, mới tồn tại như xác thịt thể hình ta vậy. Ðạo Giáo là tinh, phải ẩm thực, tinh mới sống, xác thịt giữa là xác thân trí thức tinh thần, ta thấy con người chẳng phải tìm món ngon vật lạ đặng bảo thủ xác thân, còn coi hát, nhảy đầm, vui chơi, cờ bạc, hút sách tưởng là tìm món ăn cho trí thức đặng bảo dưỡng, mà không biết rằng đó là hại cho trí thức.
Bây giờ tới linh hồn cũng phải có vật thực cho nó chớ. Vật thực là cả triết lý cao siêu tồn tại đấy. Ðệ nhị xác thân gọi là khí, Chí Tôn gọi là chơn thần, nó làm trung gian cho xác và hồn, hễ lương năng thì nó bảo thủ xác thịt thể hình, còn lương tri nó tìm vật thực nuôi linh hồn. Ta nuôi linh hồn bằng gì? Vật thực nuôi sống bằng xác thịt, còn linh hồn sống đặng là nhờ đạo đức tinh thần đó vậy. Ta tu tức là ta tìm phương bảo trọng cho tồn tại đạo đức tinh thần đặng nuôi linh hồn hầu đạt vị Thần, Thánh, Tiên, Phật dìu dẫn bảo trọng lấy nó để có đủ lực lượng quyền năng giong ruổi trên con đường Thiêng Liêng Hằng Sống.
Ðạo đức tìm nơi đâu mà có đặng? Tức nhiên tìm nơi cửa Thiêng Liêng Hằng Sống mới có, mà tìm nơi cửa Thiêng Liêng tức là cửa Ðạo, buổi ăn của linh hồn là buổi ta vô Ðền Thờ cúng đấy. Ta không thấy mùi của nó tức chưa hưởng được, tưởng vô Ðền Thờ là bị luật buộc, không dè mỗi phen đi cúng tức là cho linh hồn ăn vậy. Bần Ðạo tưởng thấy trong trí cần phải buộc cả thảy đi cúng, vì trong thâm tâm Bần Ðạo định cho mấy người chưa biết mùi của nó, cũng như kẻ nhà quê, đưa cho gói bánh nói thứ ăn chẳng đặng, rồi khi đã biết mùi rồi bán cả áo, cả quần mà mua ăn.
Giờ phút nầy phái Nữ chưa biết mùi ngon của món ăn cho linh hồn. Ngày giờ nào cả thảy biết mùi của nó, ngày giờ ấy có đến ít nữa với những kẻ biết hoặc đói khát dữ tợn kia mới biết ăn ngon. Phàm đói cho lung ăn mới ngon. Nhưng coi chừng Bần Ðạo khuyên một điều, đừng để quá đói mà chết đa. Hại thay vật ăn của linh hồn có quyền năng thiêng liêng vô tận, giúp ta giải bày cái ác như là cổi áo, chớ không phải mặc chật như dính vào da, rồi ngày giờ thoát xác, tinh thần thế quyền Thiêng Liêng lột từ miếng đau đớn linh hồn chẳng biết bao nhiêu, chừng đó có ăn năn rồi mới biết sợ.
Không có một điều gì mà Chí Tôn định trong Chơn giáo của Ngài, dầu Bí pháp, dầu Thể pháp mà vô ích đâu. Ðấng ấy là Ðấng tưng tiu, yêu ái con cái của Ngài lắm, thảng có điều gì không cần ích mà con cái của Ngài nói rằng không muốn, Ngài cũng bỏ nữa đa. Từ ngày Khai Ðạo, Kinh kệ, Lễ bái, sự chi sắp đặt về đạo đức cũng chính Chí Tôn tạo thành, không phải do các Ðấng khác. Ngài buộc mình làm, tức có cần yếu, hữu ích chi chi đó, Ngài mới buộc. Vì cớ nên, thời giờ nầy, thấy Bần Ðạo bó buộc nghiêm khắc có lẽ những kẻ biếng nhác cũng phàn nàn lén lút. Ngày cuối cùng các bạn gặp mặt Bần Ðạo nơi Thiêng Liêng, Bần Ðạo sẽ hỏi các bạn coi khi còn ở thế Bần Ðạo buộc cả thảy đi cúng là có tội hay có công. Công hay tội ngày giờ ấy Bần Ðạo hỏi rồi chúng ta sẽ có một tấn tuồng tâm lý ngộ nghĩnh với nhau vô cùng tận, chừng đó mới biết lẽ nên hư.
Ngày nay, giờ phút nầy, Bần Ðạo đứng tại giảng đài nầy để lời khuyên nhủ: Còn biếng nhác quá! Xác thịt đã hư rồi đến linh hồn, phải coi chừng cho lắm, kẻo ngày kia ăn năn quá muộn.
Q.2/58: NĂNG LỰC TINH THẦN ĐẠO ĐỨC.
Tại Ðền Thánh, thời Tý đêm mùng 9 tháng 11 năm Mậu Tý (dl. 09-12-1948)
Hôm nay Bần Ðạo định thuyết con đường dục tấn của chúng ta nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Có một vấn đề trọng yếu do một trường ngôn luận tại Cung Hiệp Thiên Hành Hóa, cho nên ngày nay Bần Ðạo thuyết về "Năng lực của tinh thần đạo đức". Cái sở năng của mình cũng như cái huyền bí vô cùng tận của Càn Khôn Vũ Trụ, bởi vì nó sản xuất do tánh đức di truyền của ngươn linh mỗi người chúng ta, cho nên con đường dục tấn trí thức của toàn nhơn loại trong Càn Khôn Vũ Trụ với cơ quan hữu hình tức là xác thịt họ đối lại phần vô vi, tức là ngươn linh trong Càn Khôn Vũ Trụ chưa có mức hữu định, còn dục tấn mãi. Sự dục tấn ấy Thiêng Liêng đã định phân ghi một cái mức cho bước đi mỗi người, mức dục tấn ấy là mức Thần, Thánh, Tiên, Phật rồi đến Trời là cuối cùng. Các năng lực đó đã để một trường ngôn luận kịch liệt tại Cung Hiệp Thiên Hành Hóa. Sở năng của mỗi người không đồng nhau địa điểm các chơn linh không đồng phẩm, mà không đồng phẩm tức không đồng vị, mà không đồng vị nhau tức là khác tánh chất. Cho nên không người nào giống tánh chất người nào, mỗi chơn linh có địa vị riêng tư của mình, địa vị ấy tạo thành do phương tu của mỗi người đạt đặng. Bởi không giống nhau như thế mới nảy sanh một trường hổn loạn.
Nếu cả nhơn loại trên địa cầu nầy biết được đặc điểm của địa vị mình, Bần Ðạo dám chắc mỗi người sẽ tự hiểu, tự trọng, tự an theo địa vị của mình, thì không hề có trường tranh đấu vĩ đại như ta đang thấy ngày nay. Nếu Staline biết địa điểm của mình thì không cần chiến đấu với Marshall với Truman cầm chắc, nếu Hitler biết đặc điểm của mình, địa vị chơn linh của mình thật đứng nơi nào chưa hề nghịch với Churchill, Reynaud đến nỗi có trận giặc thế giới chiến tranh thứ nhì.
Hay biết chẳng chi hơn bực tự giác kia, biết mình biết người, tự giác mình đặng, tức hiểu địa vị của mình đến đặc điểm nào, mới an phận thủ thường, mới xử vẹn đời sống của mình đặng. Người đủ biết đặc điểm địa vị chơn linh của mình đứng vào phẩm vị nào thì thủ thường tự an, tự lạc, dầu cuộc sống có đảo lộn thế nào đi nữa, đủ chủ định tinh thần mình, không ai làm cho ngã nổi, ấy là các chơn linh biết tự chủ một cách đặc sắc vậy. Nơi Cung Hiệp Thiên Hành Hóa có nhiều chơn linh ấy về đặng. Thật không có chơn linh nào dưới thế gian nầy không muốn tu. Có kẻ đổ thừa tại đời sống đa đoan, nào vợ, nào con, nào của cải, nào tiền bạc, nào ruộng nương, đổ thừa thôi đủ thứ, cả đến chức tước quyền hành. Muốn tu ngặt không có bề thế tu đặng. Sự thật cũng có nhiều chơn linh muốn tu; thật tâm muốn mà không làm được. Cũng có kẻ không thế rời cái nhà mình, thậm chí đến không rời cái bà vợ của mình ra được, rồi ngày về Cung Hiệp Thiên Hành Hóa khóc lóc thảm thiết, bào chữa lấy mình, nói: "Tôi muốn tu lắm song tình đời còn dính dấp" hỏi các Ðấng Trọn Lành nơi Cung ấy có cảm xúc chăng? Họ cười! Do ai đã đào tạo cho bạn, ai đã buộc ràng cho bạn trong khuôn khổ ấy, chẳng qua do tiền căn báo hậu, bạn đã làm, bạn phải gánh lấy. Không lẽ, như bạn mượn lúa của người ta ăn mùa trước, rồi mùa sau không trả, nói rằng không thiếu nợ. Bạn muốn tu mà không tu được tại kiếp sanh nầy, xác thịt bị lên án tử hình hữu định, tu không được nguyên do tại bạn đã làm, bạn phải chịu, không còn cượng lý gì nữa, ấy là cái nợ của buổi sanh tiền.
Nếu mình nói "Tôi không biết nguyên căn mối nợ mà tôi mắc, vì không biết nên trong kiếp sanh tôi không nhìn nó" thì các Ðấng ấy không ngần ngại gì dở Thiên Thơ cho mình được thấy quả kiếp đó mình đào tạo.
Lại chối nữa: "Con vợ tôi tại sao nó khó lòng quá, bước ra một bước đường là nó ghen, không cho tôi tu hành gì hết" tới chừng dở Thiên Thơ ra thì đây: Kiếp trước chú mầy làm vợ cũng vậy, kiếp trước chú mầy làm vợ, còn vợ chú mầy làm chồng, tấn tuồng vay trả mà thôi. Không tu được là do quả kiếp lôi kéo không cho chú mầy tu, tại nghiệp chướng của chú mầy, tu rồi ai trả quả cho chú mầy đã tạo đã tạo trước đây. Trong Thiên Thơ nợ cựu, nợ tân lút đầu, mà cửa Hư linh tức cửa Hiệp Thiên Hành Hóa. Các Ðấng Trọn Lành chưa hề mở miệng chối tội là nhờ ở năng lực tinh thần của họ, nếu quả nhiên năng lực tinh thần không có, thì Chí Tôn ngày nay chưa đến mặt thế nầy, đặng tuyển chọn cả lương sanh tức là các chơn linh hữu căn hữu kiếp, đặng tạo hình thể của Ngài. Nếu quả nhiên năng lực tinh thần không có thì Ðạo Cao Ðài ngày nay không nên lập ra.
Ta thấy có một hạng Ðại Giác, mà giống bên lành hay bên dữ, bên thiên lương hay bên quỉ quyền cũng vậy, đều có một năng lực tinh thần đặc sắc của họ. Bằng cớ hiển nhiên trước mắt, làm đảo lộn toàn cầu khiến cho nhơn loại phải điên đảo tận diệt, do đầu óc của một người là Hitler, rồi chúng ta còn thấy một bằng cớ nữa quá sức tưởng tượng là lực lượng Cộng Sản đương tàn hại cả mặt đời buổi nầy, làm đảo lộn cả tinh thần của con người. Hitler đảo lộn toàn nhơn loại nhờ nương mãnh lực của ngọn gươm mũi súng, Cộng Sản đảo lộn tinh thần nhơn loại với lý thuyết Cộng Sản của nó, người đào tạo ra thuyết ấy là Karl Marx. Chỉ có một người mà thôi. Cái năng lực tinh thần của một người còn có thể làm cho nhơn loại an toàn hạnh phúc hay tự diệt lấy mình đặng, huống hồ chi Thánh Thể của Ðức Chí Tôn do tự Ngài đến chọn, Bần Ðạo dám chắc nếu ngày nào các bạn về đến Cung Hiệp Thiên Hành Hóa, các Ðấng Trọn Lành hỏi các bạn đủ năng lực và xứng phận chăng, chắc các bạn không bao giờ dám nói không. Vì nếu không thì ra sự lựa chọn của Chí Tôn lầm lạc sao? Quả quyết Chí Tôn không hề lầm bao giờ.
Bần Ðạo nói: Năng lực của một chơn linh Ðại giác còn có thể làm cho toàn cầu đảo ngược, thì năng lực tinh thần của Thánh Thể Ðức Chí Tôn, nếu nói năng lực đó là của toàn con cái của Ngài hiệp lại tất đoạt được quyền năng mãnh liệt huyền diệu ấy, thì lo gì Thánh Thể của Ngài không tận độ thiên hạ đặng. Không có gì nghi kỵ nữa, Bần Ðạo quyết đoán phải đặng, hoặc lâu, hoặc mau, hoặc chầy, hoặc kíp, Thánh Thể của Ngài tức là Hội Thánh sẽ làm chủ tinh thần thiên hạ.
Q.2/59: VÍA ĐỨC CHÚA JÉSUS CHRIST.
Tại Ðền Thánh, đêm 24 tháng 11 năm Mậu Tý (dl. 24-12-1948)
1948 năm trước, lúc nầy có một vị Chí Tôn giáng trần giáo Ðạo tại Tây Phương, vị Chí Tôn an bang tế thế mang xác phàm lập giáo để một cái nền văn minh vĩ đại cho nhơn loại, tính ra được 1948 năm.
Trước buổi Ðức Thích Ca gần qui liễu, ANANÐA và A-Nan-Ca-Diếp đến bên Ngài khóc lóc hỏi Ngài rằng: Thầy qui vị rồi ai dạy chúng con, Ðức Thích Ca nói: Có một Ðấng đến sau ta, oai quyền hơn ta nữa. Ðức Phật Thích Ca đã nói một vị Tây Phương Giáo Chủ Jésus Christ đó vậy. Ấy là một đàn anh đã thông tri cho nhơn loại biết người em kế vị của mình sắp đến, Ngài có nói trước còn oai quyền hơn ta nữa, thì thật quả vậy.
Khi Ðức Chúa Jésus Christ giáng sanh ở Tây Phương gần thọ hình, các vị Thánh Tông Ðồ tức nhiên là Môn đệ của Ngài than rằng: Nếu Thầy thọ hình ai dạy chúng con? Ngài nói: Cần yếu ta phải đi, cần yếu ta phải về với Cha ta, ta phải về đặng an vui, rồi sau nầy sẽ có một người đến cùng các ngươi đặng an ủi dạy dỗ các ngươi nhiều điều huyền vi bí mật.
Ðức Phật Thích Ca nói sau nầy Ðấng ấy còn oai quyền hơn ta nữa, Ðấng ấy tức nhiên là Tây Phương Giáo Chủ Jésus Christ và Chúa đã cho nhơn loại hay: Sau Ðạo Thánh Gia Tô có Ðạo Cao Ðài xuất hiện đó vậy.
Có một Ðấng Chơn linh Tam Thế Chí Tôn, nhơn loại đều biết tánh danh đó. Nhứt Thế BRAHMA Phật, tức nhiên là Tạo Hóa, Nhị Thế CIVA Phật tức nhiên Tấn Hóa, Tam Thế CHRISTNA Phật tức nhiên Bảo Tồn, Ðấng trọn quyền bảo tồn ấy là lòng ái tuất thương sanh vậy.
Vì cớ cho nên Ðức Chúa Jésus Christ thương nhơn loại một cách nồng nàn thâm thúy, Ngài đã ngó thấy Nhứt Kỳ Phổ Ðộ nhơn loại ký hòa ước với Chí Tôn mà đã bội ước, nên phạm Thiên Ðiều, nhơn quả nhơn loại gớm ghiết, do nhơn quả ấy mà tội tình nhơn loại lưu trữ đến ngày nay, Thánh Giáo gọi "tội tổ tông" chính mình Ngài đến, đến với một xác thịt phàm phu, Ngài đến giơ tay để ký đệ nhị hòa ước với Ðức Chí Tôn chịu tội cho nhơn loại, ký đệ nhị hòa ước đặng dìu dắt chúng sanh trở về cùng Ðấng Cha lành của họ tức nhiên là Ðức Chí Tôn là Ðại Từ Phụ chúng ta ngày nay đó vậy.
Ðấng ấy vô tận vô biên, thấy nạn của nhơn loại đã dẫy đầy, Ngài chỉ xuống tại mặt thế nầy làm con tế vật đặng chuộc tội tình cho nhơn loại, mà lại còn đem quyền của Chí Tôn để nơi tay của nhơn loại, bàn tay đó đã ký đệ nhị hòa ước cho nhơn loại, nó làm cho Ngài thế nào? Do tay Ngài ký tờ hòa ước với Chí Tôn, nên hai tay của Ngài bị đóng đinh trên cây thập tự giá. Hai chân của Ðấng ấy đã đi trước nhơn loại dìu đường hằng sống cho họ, rồi hai chân của Ðấng ấy cũng bị đóng đinh trên cây Thánh Giá, còn trái tim yêu ái nhơn sanh vô hạn ấy bị một mũi kiếm vô tình đâm ngay cạnh hông của Ngài, lấy giọt máu cuối cùng đó đặng cứu nhơn loại, một tình ái vô biên ấy để lại cho loài người một tôn chỉ yêu ái. Tôn chỉ nhìn nhơn loại là anh em cốt nhục và khuyên nhủ nhơn loại coi nhau như đồng chủng, năm 1948 nhơn loại không tầm Giáo lý của Ngài nữa, chắc chắn như vậy. Bần Ðạo nói quả quyết rằng, nhơn loại đã quên hẳn Ngài rồi đó. Cho đến ngày nay cả toàn nhơn loại trên địa cầu nầy, không chịu nghe lời Ngài, không theo bước của Ngài, nên nạn tương tàn tương sát lẫn nhau sắp diễn ra gần đây, nhưng nếu chừng nào toàn cả nhơn loại biết tôn sùng nhau, vì tình cốt nhục, thì cái nạn tương tàn tương sát trên mặt địa cầu nầy sẽ không có nữa. Hai tấn tuồng, hai thảm trạng như thế có thể đưa nhơn loại đến chỗ tiêu diệt mà chớ, vì nhơn loại không biết nghe, Ðấng ấy đã lấy máu thịt của mình làm con tế vật dâng hiến cho Ðức Chí Tôn, để cầu xin tha tội cho nhơn loại. Nhơn loại sẽ mất đức vì không nghe theo Ðấng Cứu Thế, Ðấng ấy đã bảo anh em phải yêu ái lẫn nhau, giúp đỡ nhau, sống cùng nhau cho trọn vẹn kiếp sanh. Trái ngược lại đệ nhị hòa ước kia đã ký kết với Ðức Chí Tôn bị nhơn loại bội ước nữa, vì bội ước mà bảo sao nhơn loại không bị tội tình mắc mỏ sao được?
Ðêm nay là nhờ hiển Thánh anh linh của Ðấng Cứu Thế, Ðấng đã để lòng ưu ái vô tận mong cứu vãn tình thế nguy ngập, lấy cả tình ái ấy làm phương giải khổ cho nhơn loại.
Chúng ta để tâm cầu nguyện cùng Ngài, để Ngài mở con mắt Thiêng Liêng cho chúng sanh đặng nhìn thấy cái chơn tánh của kiếp sống họ nơi nào, đừng mê muội đừng ngu dốt, lấy tinh thần sáng suốt bỏ cái lục dục thất tình đầy tội ác nầy.
Muốn tránh cái nạn tương tàn tương sát kia, muốn cứu rỗi lấy họ, hầu làm cái nạn tiêu diệt kia được thoát khỏi ấy là lời cầu nguyện của chúng ta đêm nay đó.
Ðức Chúa Jésus Christ đã lấy máu thịt đặng chuộc tội cho loài người. Giờ phút nầy là giờ hiển Thánh của Ngài dùng quyền hành yêu ái vô biên của Ðức Chí Tôn mà tha tội cho nhơn loại đó vậy.
Q.2/60: BÁC ÁI CÔNG BÌNH.
Tại Ðền Thánh, đêm 23 tháng 11 năm Mậu Tý (1948)
Ngày nay chúng ta đình bộ nơi Cung Hiệp Thiên Hành Hóa đặng quan sát cuộc thiệt chiến, chẳng khác nào như Gia Cát qua Ngô, quan sát quân Ngô vậy.
Từ hôm trước tới nay, Bần Ðạo thuyết minh những điều vấn nạn của các chơn linh siêu thoát nhưng thiếu đạo đức tinh thần, kiếm tìm cho đủ triết lý đặng học, đặng để phổ độ họ. Chúng ta ngó thấy các Ðấng Trọn Lành nơi Cung Hiệp Thiên Hành Hóa chưa dễ thắng họ đặng. Cho nên đêm nay tưởng lại kỳ nầy là kỳ chót, kỳ nầy trọng yếu hơn hết, bởi họ vấn nạn về quyền năng của tín ngưỡng và luật điều của các vị Giáo Chủ để tại thế gian nầy. Vấn nạn kịch liệt. Chúng ta nên để ý, nhứt là Chư Chức Sắc Thiên Phong nam, nữ càng phải để ý cho lắm.
Kỳ trước Bần Ðạo đã giảng, tại chỗ nhiều Tôn Giáo làm cho nhơn tâm bất nhứt, hôm nay họ công kích về luật điều. Họ hỏi: Nếu Tôn Giáo có khuôn hữu định, chiếu theo khuôn khổ thiên định, trái lại các vị Giáo Chủ lập giáo bất đồng tánh cách nhau, vị nầy nói vầy vị kia nói khác, phản khắc nhau biểu sao tâm lý nhơn sanh không chia rẽ? Bởi không thống nhứt mà ra. Ta thử quan sát lại coi đạo pháp, đạo luật mấy vị Giáo Chủ ấy vẫn có một phương pháp kích bác nhau, phản đối nhau, không đồng tâm đồng đức nhau, không đồng tánh, không đồng tư tưởng đạo đức tinh thần, biểu sao nhơn loại không chia rẽ, mà chia rẽ tức nhiên giục loạn, làm cho mặt đời loạn lạc, sự loạn lạc ngày nay cũng vì lẽ ấy.
Các Ðấng ở Cung Hiệp Thiên Hành Hóa cười nói: Các Ngài nghĩ thử coi tánh đức của các chủng tộc trên mặt địa cầu nầy không giống tâm lý tinh thần. Ðừng nói chi Vạn quốc, trong một quốc gia, một nòi giống, tánh đức nhơn sanh còn không đồng thay. Không gì khác lạ, các Ngài buộc Phật Thích Ca Mâu Ni người Ấn Ðộ lập Giáo tại xứ sở Ấn Ðộ của Ngài, thì Ngài có đồng tánh đồng tâm với sắc dân nào khác với Ngài được, nhưng Ðạo Phật vẫn truyền bá làm chủ tinh thần khắp Á Ðông, hỏi do đâu? Do nơi bác ái và công bình. Những phương pháp của các vị Giáo Chủ lập pháp luật trong các Tôn Giáo, cốt yếu mở đường chỉ nẻo cho nhơn loại đi lên hiệp cùng chơn tướng và chơn pháp của Ðạo Giáo tức nhiên là tín ngưỡng, thờ Người và thờ Trời, luật pháp duy có bác ái công bình mà thôi. Ðức Phật Thích Ca nếu nói Ngài không bác ái công bình thì Ðạo Giáo không công bình sao? Nếu giờ nầy chúng ta không thành Phật thì Ðạo Phật không thành sao? Hỏi Ðấng ấy lập Giáo trên nền tảng nào? Có phải nền tảng bác ái chăng? Nếu không bác ái công bình, Phật chưa hề đem triết lý cao siêu làm chủ tinh thần nhơn loại đặng. Chúng ta đây ai lo phận sự nấy, lại còn giành hơn thua nữa có đâu ép mình như Phật. Nếu không vì chúng sanh, nếu không công bình tâm lý, nếu không lòng thương yêu đầy dẫy Phật chưa hề hạ mình nâng đỡ tinh thần nhơn loại dường ấy.
Ðức Lão Tử thấy loài người không biết địa điểm tinh thần mình, không biết chơn tướng tinh thần mình để nơi nào định vị cho có giá trị. Ngài sanh tại Trung Hoa tâm lý nhơn sanh không biết phẩm giá tinh thần của con người là gì, đến đổi tâm lý loài người buổi ấy sa đọa không biết phẩm vị mình nơi nào, không biết tôn trọng phẩm vị đó nên đọa xuống thú chất vật loại, nếu không vì bác ái, từ bi thức tỉnh nhơn loại cho biết phẩm vị tối cao của họ, đừng làm con vật nữa. Nếu không phải vì tâm bác ái công bình thì không hề Ngài lập giáo dường ấy. Ngày nay không phải nơi dân Á Ðông nầy thôi, mà cả Âu Châu cũng vậy, biết rõ đạo đức cao siêu của Ngài, người ta theo chẳng biết bao nhiêu.
Các Ngài xét định về mặt tinh thần, lấy cả tinh thần siêu thoát của các Ngài ngó lại coi có phải tinh thần luật pháp của Tiên Giáo chỉ do bác ái công bình mà lập đặng chăng? Phương pháp tạo ra có hình tướng ấy cốt yếu nâng đỡ tinh thần nhơn loại đến mục đích cao thượng là bác ái công bình vậy.
Ðạo Nho do Ðức Khổng Tử lập tại Trung Hoa. Tại sao có Ðạo Nho? Tại Ngài thấy nhơn luân buổi nọ điên đảo cũng như Ðức Lão Tử thấy nhơn phẩm suy đồi, không còn giá trị. Tâm lý nhơn sanh buổi ấy mất hẳn cái giá trị nhơn loại, nên tự mình xuống làm vật loại đem Nho Giáo định luật pháp xã hội trị đạo nhơn luân làm căn bản. Hễ mình biết mình tức nhiên biết Thiên Ðạo, biết Thiên Ðạo mới tùng Thiên lý, tức nhiên tùng thiêng liêng vô hình. Ngài không nói danh Chí Tôn là ngôi Chủ Tể, là phẩm tối cao tối trọng của Ðạo, chỉ lấy mặt luật bác ái và pháp công bình đặng định sống cho nhơn loại, định sống cho cả nhơn quần xã hội, định sống cho cả các chủng tộc nơi mặt địa cầu nầy dầu luật pháp của Ngài trái hẳn phong hóa nhơn loại một đôi nơi trên mặt địa cầu, nhưng nhờ tinh thần đạo đức làm môi giới, từ giờ nầy toàn vạn quốc lưu ý lấy đó đặng chỉnh đốn quốc thể mình. Vì cớ cho nên lập Ðạo Cao Ðài, Chí Tôn tiên tri rằng: Ðạo Cao Ðài là cơ báo hiệu cho Vạn quốc hay trước rằng thời kỳ Nho Tông chuyển thế đã đến.
Nói tới Ðạo Thánh của Ðấng Christ tức Công Giáo, nếu người không bác ái từ bi, không hề đem xác thịt mình làm con tế vật dâng hiến cho Chí Tôn đặng cầu siêu rỗi, xin tha thứ tội tình cho loài người, đó là người đến đem lòng thương yêu của mình ra làm tiêu chuẩn cho đời bắt chước. Vì cớ nên Công Giáo làm chủ tinh thần một phần lớn nhơn loại là đáng lắm vậy. Nếu như các Ngài còn chối cãi, dầu cho chỉ muôn đường ngàn nẽo mà các Ngài chối không tùng con đường của nhơn loại đi, là con đường tín ngưỡng Trời và Người đặng dìu dắt nhơn loại trong luật thương yêu và pháp công chánh, đến trước mặt Tòa Tam Giáo đặng cầu rỗi, tôi dám chắc chẳng hề khi nào chối tội đặng. Dầu có cượng lý bao nhiêu các Ngài cũng không chối sự chơn thật đó đặng. Nếu các Ngài muốn chối, tôi xin để bằng cớ hiển nhiên là Ðạo Cao Ðài đã xuất hiện, Ðức Chí Tôn đã đến, chính mình Ngài đến mở Ðạo 24 năm trường nay. Ngài đã ký kết với nhơn loại bản hòa ước thứ ba. Hai hòa ước kỳ trước nhơn loại đã phản bội, không giữ sở tín của mình vì cớ cho nên phải thất Ðạo, nhơn loại đi trong con đường diệt vong tương tranh, tương sát nhau. Vì lòng bác ái từ bi Chí Tôn đến ký hòa ước thứ ba nữa để trong luật điều. Chúng ta thấy các Ðấng Thiêng Liêng chỉ tấm tượng Tam Thánh biểu nhơn loại tín ngưỡng; Thiên thượng, Thiên hạ (Dieu et Humanité) về luật có bác ái, pháp có công bình, ngoài ra dầu luật pháp muôn ngàn hình tướng, Hội Thánh Ðạo Cao Ðài dìu dẫn tâm lý nhơn sanh, chỉ dẫn họ vô mặt luật tối cao là luật bác ái và vô một nền chơn pháp tối trọng là pháp công bình.
Luật pháp của Ðạo Cao Ðài, ngoài ra luật bác ái và pháp công bình, tất cả luật điều khác, đều là phương pháp lấy giả tạo chơn mà thôi.
Kỳ tới Bần Ðạo sẽ giảng về quyền năng hiệu nghiệm của luật bác ái và pháp công bình.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 23-11-Mậu Tý nhằm ngày (dl. 23-12-1948).
Q.2/61: ĐẠI HÙNG, ĐẠI LỰC, ĐẠI TỪ BI.
Tại Ðền Thánh, đêm 30 tháng 11 năm Mậu Tý (1948) ( *1 )
Ðêm nay Bần Ðạo giảng câu triết lý Ðại từ, Ðại bi. Câu triết lý ấy nguyên bổn của nó do nơi Minh Ðường, Minh Sư đã thuyết giáo, chúng ta chẳng biết Minh Ðường Minh Sư họ có phương pháp chi mà luyện hay lắm, sự triết lý đã để truyền giáo một cách vững chắc, chúng ta cũng nhìn nhận có nhiều chơn lý đặc sắc, tưởng tượng ra câu thường ngữ khi thuyết pháp họ thuyết pháp nơi câu đại hùng, đại lực, đại từ bi. Thật vậy các người tu, nếu không có đức tin dường đó thì không có thể gì thành Ðạo đặng. Triết lý nhà Phật từ tạo thiên lập địa đến giờ đã tạo ra biết bao nhiêu Ðấng đã thừa hành mạng lịnh Phật Giáo, đang hành hóa chúng sanh nơi mặt thế gian nầy, nếu không có tánh đức ấy chẳng hề khi nào lập giáo đặng. Ðại lực, câu ấy có lẽ để một phương ngôn luận, công lý của một mối đạo mình tu phải có một đức tin hùng dũng mới đặng. Bần Ðạo nói, nếu không có tánh đức hùng dũng chẳng hề khi nào thắng khảo đảo đặng. Cả thảy con cái của Ðức Chí Tôn đều biết từ ngày mở Ðạo đến giờ, một trường khảo đảo kịch liệt, từ ngày Ðạo mới phôi thai đến giờ, nếu không có tinh thần hùng dũng của con cái Ðức Chí Tôn cương quyết lập Ðạo cho thành, "cương quyết phải thắng" vì tổng số cả tinh thần hùng dũng của con cái Ðức Chí Tôn, nên ngày nay nền Ðạo mới ra thiệt tướng như vậy.
Bần Ðạo ngồi quan sát lại, quan sát từ buổi thô sơ triết lý do những điều Ðức Chí Tôn tìm chánh lý, Ngài đến cầm cây viết thiêng liêng lựa chọn đem vô Thánh Thể của Ngài, những kẻ ấy thất Ðạo, vì nguyên do buổi trước, Bần Ðạo thấy quả quyết và dám chắc như thế, nếu Bần Ðạo vạch ra thì toàn cả con cái của Ðức Chí Tôn cũng ngó thấy Bần Ðạo, mà những kẻ thất Ðạo, không theo dõi bước thiêng liêng của Ðức Chí Tôn là do nhút nhát sợ sệt, bạc nhược, sợ cường quyền, sợ luật đối phương mãnh liệt, họ chưa có chí hùng dũng quyết tranh đấu quyết thắng nên họ thất đạo, cái thất đạo của họ là thiếu chí hùng dũng, là tại nơi họ nhút nhát, bạc nhược. Tinh thần hùng dũng chẳng phải nơi cửa Ðạo mà thôi, ngoài đời cũng vậy, bực vĩ nhân đã tạo thời cải thế từ thượng cổ đến giờ, nếu không có tinh thần hùng dũng thì phải bị làn sóng đời lôi cuốn như một dề bèo trôi giữa dòng sông kia vậy. Ðức Chí Tôn có một quyền năng đặc sắc để nơi địa vị của mình, nhưng họ thiếu chí hùng dũng và cương quyết. Bần Ðạo chỉ bằng cớ hiển nhiên là khi Ðức Phật Thích Ca còn Thái Tử có kẻ nghe Ngài có bổn tánh là một vị Thánh, nên đến xin con mắt của Ngài, Ngài dám móc con mắt cho kẻ ấy, nếu không có chí hùng dũng cương quyết, tưởng chưa có người nào nơi mặt thế gian nầy làm đặng như Ngài, khi Ngài đạt đến địa vị Thiên Phẩm, tức nhiên Ngài ngồi luyện đạo, đương tịnh luyện dưới gốc Bồ Ðề, có một vị Vương Hầu đi săn, rượt theo con nai, con nai chạy ngang gần chỗ Ngài ngồi, nó tách qua nơi khác, vị Vương Hầu ấy rượt đến không thấy con nai, chỉ thấy Ngài ngồi dưới gốc Bồ Ðề mà thôi. Vị Vương Hầu ấy mới hỏi Ngài có thấy con nai chạy ngang qua đây không? Ngài suy nghĩ nếu ta chỉ chỗ thì vị hung thần nầy giết nó, thì ta có liên quan tới sát sanh, nếu ta nói không thấy thì ta nói dối tốt hơn là ta làm thinh, Ngài nhứt định làm thinh.
Vị hung thần ấy nổi giận nhiếc mắng Ngài, dầu cho ông thầy tu đi nữa, nhưng ông là một người dân của tôi, ở trong nước của tôi, tức nhiên ông là tôi tớ của tôi. Nếu tôi hỏi tiếng nữa mà ông không trả lời, tôi sẽ chặt cánh tay mặt của ông. Tôi hỏi ông có thấy con nai chạy ngang qua đây không? Ngài quyết định không trả lời. Ngài làm thinh không trả lời. Vị hung thần ấy liền chặt rớt cánh tay mặt của Ngài, xong rồi nói: Tôi hỏi tiếng nữa mà ông làm thinh thì tôi chặt cánh tay trái của ông. Ông có thấy con nai chạy ngang qua đây không? Ngài làm thinh, vị hung thần ấy liền chặt cánh tay trái của Ngài, vị hung thần ấy nói: Nếu tôi hỏi lần nữa mà ông không nói, tôi sẽ chặt đầu ông. Ngài vẫn suy nghĩ ta đã chịu chặt hai tay rồi, có lẽ đâu ta sợ chết mà phải nói, nên Ngài cương quyết làm thinh luôn. Vị hung thần ấy liền chặt đầu Ngài, Ngài xuất chơn hồn của Ngài ra ngoài thể phách, kế có một bánh xe lửa, chụp lên đầu Ngài đốt Ngài, vì quyền Ngọc Hư Cung định án Ngài tự sát. Ðã bị chặt hai cánh tay rồi, còn đầu mà không nói thấy, tức nhiên mình tự vận, và bánh xe lửa ấy nóng nảy làm sao, không thể nói được khổ não của Ngài! Cái khổ não ấy, Ngài mới suy nghĩ: Nếu bánh xe lửa nầy rớt trên đầu ai cũng chịu không nổi. Ngài suy nghĩ, ta đã chịu chặt tay, chặt đầu, bị đốt mà chịu nổi, nên Ngài cầu nguyện để cho Ngài chịu tất cả hình phạt ấy. Ngài vừa cầu nguyện, vừa tưởng tượng thì bánh xe lửa nầy bay đi, nếu Ngài không có tinh thần hùng dũng thì không thể gì làm được.
Ðức Thích Ca đã làm được, khi Ngài đạt vị tại thành "Kabikanla" tức là xứ sở quê hương của Ngài.
Quốc Vương trị an thiên hạ nơi ấy là cha của Ngài bắt tội Ngài bỏ nhà đi tu là bất hiếu, nếu làm con như kẻ thường tình trở về nói đi tìm Ðạo chắc Ngài không nỡ bắt tội, mà ông cha cốt yếu, muốn thấy Phật nên mới làm như vậy mà thôi.
Ngài truyền cho thiên hạ biết, nếu gặp Ðức Phật Thích Ca thì bắt đem về cho Ngài lên án tử hình.
Chừng Ngài nghe nói lên án tử hình ấy, Ðức Thích Ca liền ra chịu án tử hình. Ngài nói án tử hình ấy để một mình con xin chịu mà thôi. Còn tín đồ của con xin cha tha thứ để cho nó tu. Nếu không có tinh thần hùng dũng chưa ai làm được như Phật Thích Ca vậy.
Noi một chí khí hùng dũng về tinh thần của Ðức Lão Tử. Từ hồi ở nơi Thơ Viện nhà Châu bị đuổi, lên xe trâu mà về Côn Lôn Sơn, đi thì có một manh áo, một con trâu ra khỏi dinh nhà Châu. Nếu không có chí hùng dũng chưa dễ gì đương làm một vị Ðại Quan triều nhà Châu, từ nơi dinh nhà Châu ra đi chỉ có một manh áo với một con trâu mà về Côn Lôn Sơn đặng.
Ðức Khổng Phu Tử đã châu lưu lục quốc bất kỳ nơi nào cũng bị thiên hạ biếm nhẻ, chê bai, bắt dọa cho đến khúc trở về nước Lỗ, khi về Ngài còn cần cù dạy học trò. Ngài làm quan đến bực Tể Tướng và làm quan đến Gián Nghị Ðại Phu mà vẫn còn cần cù dạy học. Nếu Ngài không có chí hùng dũng thì không thể gì làm như vậy đặng.
Như Ðức Chúa Jésus Christ khi Ngài đã chết trên cây Thánh Giá, chúng đóng đinh trên cây Thánh Giá mà quân vô đạo đứng dưới cây Thánh Giá kêu Ngài nhiếc mắng Ngài, nói Ngài là con Ðức Chúa Trời quyền năng vô biên cứu cả thiên hạ đặng, đâu Người cứu thử Người trước coi, Người làm sao xuống đặng bốn cây đinh đóng hai tay hai chân của Người đó coi. Ngài chỉ ngó lên Trời cầu nguyện: Thưa Cha, xin Cha tha tội tình cho chúng nó, vì chúng nó chưa biết lỗi lầm của chúng nó. Nếu Chúa không có chí hùng dũng thì chưa có tinh thần ấy.
Mohamed lập ra Ðạo Hồi Hồi bị xô đuổi, bị bắt nhốt khám trốn chui, trốn nhủi, mà không buổi nào thất chí.
Noi một Ðấng mà chúng ta thường biết là Huệ Năng, khi thầy đi tu, đi dọc đường thấy một người đàn bà lõa thể nằm chết ở lề đường.
Kẻ tầm thường có lẽ nhắm mắt đi ngang qua chỗ đó, vì theo Ðạo Giáo nên Ngài lật một chiếc giày ra đậy chỗ lõa thể rồi Ngài mới đi. Nếu Ngài không có can đảm và hùng dũng chưa chắc Ngài đã làm đặng.
Giờ phút nầy chúng ta chỉ một người làm cho thiên hạ đảo lộn biến thành một trường ngôn luận cả toàn thể hoàn cầu là Galania Davis dám đến giữa Hội Vạn Quốc hỏi rằng: Hòa bình thế giới, các Ngài dám bảo đảm không? Tôi cốt yếu là một công dân đệ nhứt của quốc tế đến hỏi các Ngài dám bảo đảm hòa bình thế giới không? Nếu không có chí hùng dũng thì anh Galania Davis chưa hề làm được.
Còn nhiều phương nữa nếu không có chí hùng dũng, có đại lực thì chưa làm được. Hùng dũng được, tức nhiên theo lẽ phải, có hùng có lực phải từ bi. Nếu muốn vào hàng Thánh đức phải đi ngang qua cửa từ bi. Hễ Ðạo có hành tàng thì lấy từ bi làm căn bản, còn hung tàn thì đi theo cái hung, tức báo đời chớ không phải cứu đời.
Ðức Chúa Jésus Christ cứu đời có nhiều đại từ, đại bi, đại lực.
Các nhà Ðạo Giáo đi đến cửa mà vô không đặng thì trở qua Tả Ðạo Bàn Môn, còn đi thuận chiều thì là đại từ bi, qua được tức nhiên theo chiều của Ðức Chí Tôn mà đôi khi còn đi qua thiên lý, thiên số, và thiên tánh tức nhiên là chơn tánh, tức nhiên là chơn đạo. Nếu chơn đạo không biết giữ thì đại hùng đại lực sẽ biến thành đại ác Tả Ðạo Bàn Môn.
Ðương nhiên bây giờ Hitler, Mussolini, Lénine và Staline nó do đại hùng đại lực đại ác chớ không có đại từ bi thì nó nghịch chiều đó vậy.
Kết luận, cả con cái Chí Tôn thấy một trường hợp nào bất chánh thì quan sát cái trạng thái của nền Chánh Giáo Ðức Chí Tôn đã cho hay trước, nó có đại hùng đại lực rồi nó phải đi trong con đường đại từ bi, coi chừng có đường nào đi qua đại ác của nó, cả thảy đều đứng lên làm một bức tường thiên nhiên gây thành một bức tường huyền diệu của Ðức Chí Tôn đặng cản ngăn che cho Ngài, cái nền Tôn Giáo của Ngài đừng cho đi vào đường đại ác.
Tương lai thay đổi, phải mở con mắt Thiêng Liêng, lấy tinh thần toàn thể, dầu Chức Sắc Thiên Phong hay Tín Ðồ cũng vậy, con mắt phải mở. Con mắt ấy là Huệ Nhãn phải mở cho rõ ràng minh mẫn đặng coi chừng thay đổi nền Chánh Giáo của Ðức Chí Tôn vĩnh cửu trường tồn, đừng để ngày sau đổ sụp mà ân hận.
Phụ ghi:
(*1) Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Tháng 11 âm lịch năm Mậu Tý (tháng thiếu) không có ngày 30. Ngày âl. 29-11-Mậu Tý nhằm ngày (dl. 29-12-1948).
Q.2/62: LUẬT QUYỀN.
Tại Ðền Thánh, thời Tý đêm rằm tháng chạp năm Mậu Tý (1949)
Kỳ thuyết pháp trước, Bần Ðạo đã có để một dấu hỏi: "Ðạo Cao Ðài có thế đem hạnh phúc cho nhơn loại, tạo hòa bình, làm cho đại đồng thiên hạ đặng chăng?".
Ðã đặt dấu hỏi, tức nhiên phải trả lời.
Chúng ta chẳng nên mờ ám chỉ biết tin nơi Ðức Chí Tôn mà thôi, mà phải biết Ngài đến để tạo nền Tôn Giáo cốt yếu là đến ký hòa ước với nhơn sanh, tạo hạnh phúc cho nhơn sanh và làm cho thiên hạ hưởng đặng thái bình nơi mặt địa cầu 68 nầy, tức nhiên chúng ta dám quả quyết và để đức tin chắc chắn rằng thế nào cũng thành tựu, nhứt là có quyết đoán của Anh Cả Thiêng Liêng chúng ta là Ðức Lý Giáo Tông đã nói:
Ðức tin một khối tượng nên hình,
Ðã hiệp Vạn Linh với Chí Linh.
Nghĩa là Ðạo Cao Ðài đã thành, nhưng từ từ đi lên cho đến cái địa cảnh vô đối của nó.
Ta chán biết Chí Tôn đến ký hòa ước của nhơn sanh, nhứt là các liệt cường ký với nhau, khoản nầy, khoản nọ, khoản kia, đủ thứ, ký không biết mấy khoản. Với Ðức Chí Tôn chỉ có 2 khoản thôi.
Luật: Thương yêu, Ngài định luật cho chúng ta là thương yêu, không phải thương yêu nhơn loại mà thôi, mà phải thương yêu toàn cả Vạn Linh nữa.
Còn Quyền: Ngài chỉ định là quyền công chánh.
Từ thử, ta chưa thấy cái hòa ước nào đơn sơ như thế, mà nó có oai quyền làm sao? Không thế gì thật hiện đặng, dầu cho tận thế, loài người cũng chưa thật hiện ra đặng, chúng ta đã hiểu và tin rằng thế nào nó cũng thành, nhưng thời gian ta không quyết định, ta chỉ lấy lương tri, tức là lấy trí tri tìm hiểu chơn tướng Ðạo Cao Ðài làm thế nào mà đem hạnh phúc cho nhơn loại hưởng được, và tạo hòa bình cho thiên hạ đại đồng thế giới. Chúng ta duy lấy trí tri tìm hiểu thôi.
Chúng ta thấy quyền năng của luật thương yêu thế nào? Tấn tuồng đời hiển hiện từ khi có loài người đến giờ. Nếu không nhờ sức mạnh mẽ vô biên của luật thương yêu ấy thì Ðức Phật Thích Ca chưa có lập giáo thành tướng được. Khi Ngài đến Résu, luyện pháp tuyệt thực, có người theo Ngài, bốn (4) người không phải theo làm môn đệ, mà theo đặng coi Phật có đạt pháp đặng chăng. Ðến chừng Ngài từ trên ngọn núi tuột xuống núi, Ngài ăn uống lại, mấy người đợi ở chân núi thấy như vậy, cho rằng Ngài đã qui phàm rồi, không có đạt pháp chi hết, 4 người chê bỏ đi. Tới chừng Ngài đi thuyết giáo, Ngài tìm 4 người ấy, bốn người biết Ngài là chơn thật mới theo. Trong bốn người mà chỉ có hai (2) người trọng yếu hơn hết, rồi đến ngày cuối cùng còn có một người đạt đặng Phật Giáo thôi.
Ðạo Tiên, Ðức Lão Tử có một người Môn đệ và một đứa ở là Từ Giáp biết Ðạo của Ngài, duy có ông Doãn Hĩ theo Ðức Lão Tử, đạt pháp truyền giáo mà Ðạo Tiên còn tồn tại đến ngày nay.
Ðạo Khổng Phu Tử, tuy vẫn còn có Tam Thập Lục Thánh, Thất Thập Nhị Hiền, mà cả thảy Ðức Khổng Phu Tử, chưa chắc người nào đạt Ðạo đặng. Duy có một người mà thôi, là Thầy Sâm. Bằng cớ là buổi chung qui Ngài kêu Sâm nói: "Sâm hồ ngô đạo, nhứt dĩ quán chi" (Ðạo ta chỉ một người biết mà thôi).
Ðức Chúa Jésus Christ có nửa người môn đệ thôi, bởi ông Pierre chối Chúa ba lần, đến khi ăn năn khóc lóc với bà Maria mà xưng tội mình.
Mahomet có một người môn đệ phụ nữ mà Ðạo Hồi Hồi đã thành vậy.
Chúng ta suy đoán chỉ thấy có thương yêu. Duy có một người thương hoặc nửa người thương mà các vị Giáo Chủ đã lập thành Tôn Giáo tại mặt thế nầy.
Chúng ta xét lại thấy Ðạo Cao Ðài còn hạnh phúc nhiều hơn các Tôn Giáo khác, nếu nhận quả quyết thì được có ba người, mà ba người tức nhiều hơn thiên hạ rồi. Cái thiệt tướng của nền Chơn Giáo Ðức Chí Tôn đã hiện tượng, do quyền năng vô đối của Ngài mà đạt được, mà trong các vị thừa mạng lịnh của Ngài đã vẽ nên hình, nắn nên tướng của nó. Bần Ðạo kiếu lỗi toàn con cái của Ngài, không phải là tự kiêu hay tự đắc, chính tay Bần Ðạo có một phần khá lắm.Vì cớ Bần Ðạo rủ toàn thể chúng ta dùng phép "Hồi quang phản chiếu" đặng định tướng diện của mình, cốt yếu là một phần tử trong nền Chơn Giáo, hễ mình định được chơn tướng của mình, tổng số các chơn tướng đó làm chơn tướng của Ðạo.
Bần Ðạo thấy Ðạo Cao Ðài được nên hình trạng trọn vẹn, tức là hình tướng thương yêu vô tận, nó nên hình có nét đẹp thiên nhiên là nhờ vẽ với cây viết thương yêu. Trước Ðức Chí Tôn đến cầm cây viết thương yêu mà viết nét Thiêng Liêng cho cả Thánh Thể của Ngài đồ theo nét thương yêu ấy đặng tạo nên hình trạng, thành tướng một khối thương yêu. Ta không có mơ mộng và không lường gạt tâm lý nhơn sanh, trước mắt mọi người đều thấy, hỏi do quyền năng nào tạo thành quyền lực ngày nay? Quyền Ðạo ngày nay do luật thương yêu mà thành tướng, vậy đã do luật thương yêu thành tướng thì không có quyền năng nào tàn phá cho đặng. Nó có sợ chăng là luật thù hận. May thay cả lực lượng thù hận cũng không xung đột được, bởi có bàn tay Thiêng Liêng gạt thù hận ra khỏi rồi.
Nó nên hình bởi sự thương yêu, trưởng thành trong sự thương yêu, bởi hình chất của thương yêu, hễ càng ngày càng lớn lên, càng tráng kiện, nó sẽ làm chúa cả thù hận, và quyền năng thù hận không hề xâm lấn nó được. Nói quả quyết Bần Ðạo đã đánh tan thù hận ra, khi các phe đảng dùng quyền lực chiếm ngôi vị của Chí Tôn để tại mặt thế nầy, Bần Ðạo đã can đảm dùng quyền của Bần Ðạo đánh ngã ra hết, đặng bảo trọng hình tướng thiêng liêng của Ðạo. Bần Ðạo lỗ vốn cũng nhiều. Bần Ðạo gánh lấy cả thù hận ấy đặng bảo tồn hình thể của Chí Tôn cho trọn thương yêu. Bần Ðạo dùng can đảm gánh lấy cả thù hận của thiên hạ mà bảo tồn khối thương yêu của Chí Tôn vô đối, không cho hoen ố, nhơ bợn. Tại sao mà Bần Ðạo dám thí mình gánh vác thù hận đặng bảo trọng nó? Bởi biết nó là chúa cả hình ảnh của quyền trị thế tương lai, nó là thầy thiên hạ đặng trị thế, nếu không trọn vẹn, nó lưu lại kiểu vở thô bỉ nhơ nhớp, thì không thế gì làm thầy thiên hạ đặng.
Các Chi Phái buổi nọ dùng cường quyền mà đoạt vị, không lẽ Bần Ðạo là Hộ Pháp, nắm giữ chơn truyền trong tay đây, mà để cho nó đoạt ngôi soán vị như các đời vua chúa từ trước, để lưu lại cho nền Chơn Giáo của Chí Tôn sao? May thay, quyền ấy chưa xung đột được Chánh Giáo của Chí Tôn: Nó đã bại trận, bởi Thánh Thể của Ngài có người cầm luật pháp oai nghiêm, tức là cầm cây HUỆ KIẾM trong tay đặng gìn giữ nền Tôn Giáo nên hình được, nó nên được tức tạo cho thiên hạ được. Nó đã tạo oai quyền của nó thành tướng đặng thì tạo quyền cho nhơn sanh nơi mặt địa cầu nầy về tương lai đặng.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 15-12-Mậu Tý nhằm ngày (dl. 13-01-1949).
Q.2/63: TÌM HÒA BÌNH VÀ HẠNH PHÚC.
Tại Ðền Thánh, đêm 23 tháng chạp năm Mậu Tý (1949)
Ðêm nay là thời chót của đêm cúng Chung Niên năm Mậu Tý, chúng ta lấy ngày 23 là ngày Hiệp Thiên đó vậy.
Ngày nay Bần Ðạo không thuyết đạo mà thuyết thời cuộc đặng quan sát cả năm của chúng ta, ngày nay đến bước nào, nhứt là về Quốc Gia Việt Nam.
Nghe được truyền thanh dường như Pháp đã chịu lời yêu cầu của Ðức Bảo Ðại trả độc lập và thống nhất của nước Việt Nam lại cho quốc dân Việt Nam, có lẽ Bảo Ðại sẽ hồi loan. Về sở vọng của quốc dân Việt Nam đã trao nơi tay của Ngài để buộc Ngài đòi hỏi, có lẽ Ngài sẽ lấy lại được, làm cho thỏa vọng quốc dân Việt Nam, liên kết trong 80 năm và ước vọng của quốc dân Việt Nam đang thỏa mãn vậy.
Ta tìm lụng lại coi thế gì nó giúp cho tương lai kiến thiết quốc gia Việt Nam đắc lực hay không đắc lực. Chúng ta cứ quan sát xem hành tàng định cuộc thế, bàn thử tương lai của chúng ta, có một điều Bần Ðạo tưởng rất cần rất bổ ích, cái khuôn luật tạo đoan đã gọi rằng vạn vật tối linh tức nhiên mạng sanh trọng hệ nơi mặt thế gian nầy, bởi vì mạng sanh là thể của vạn năng tối linh thành tướng, bởi vậy cho nên có một khuôn luật đặc biệt. Nơi ấy làm như đã vô khuôn luật thiên nhiên để vay trả. Chúng ta thấy năm nào lúc mưa gió dữ dội, thì loài kiến nó làm ổ trên cây nó tha trứng gát lên nhành cây cao, nó có khiếu linh, hễ lụt thì hang ổ hư hết, dường như tâm linh của nó, bảo sanh của nó cho hay trước đặng nó tìm phương thế tự vệ mạng sanh của nó. Bần Ðạo ngó thấy nữa, tỷ như loài ong mà ngày mai ổ nó sẽ bị phá, bị đốt, bị lấy mật, thì nó hay trước, đêm đó hai phần ong đi trước.
Chúng ta còn ngó thấy nữa, khi chúng ta cỡi con ngựa đi trong đường vắng, thảng như có cọp, hay mãnh thú gì đón đàng bắt người cỡi và nó, khi đi gần tới chỗ đó mà người cỡi hiểu biết thì tránh được vì nó không chịu đi hay nó đi qua đường khác, vì nó biết tánh mạng của nó đi tới khuôn luật đó. Ta đây cũng vậy, khi nào ta có tai nạn gì hại đến mạng sanh của ta, dường tâm linh của ta cho biết trước, điều ấy có hiển nhiên của mỗi người, được thấu đáo đến cái nguy hại đến mỗi cá nhân cũng vậy.
Bần Ðạo thường nói lấy nhỏ mà đoán lớn, cả Vạn quốc nhơn loại trên hoàn cầu lúc nầy cũng vậy, dường như tâm linh của họ cho biết trước cái nạn nguy biến tự diệt nơi mặt địa cầu nầy. Nếu họ chia rẽ tương tàn, tương sát với nhau, không phải buổi nầy mà thôi, mà về tương lai nữa.
Khi chưa có trận giặc thứ nhất họ đã lập Vạn Quốc liên minh để bảo vệ hòa bình thiên hạ.
Hỏi cái hung tàn bạo ngược của đời có nghĩa lý gì không? Nhưng lấy tâm lý công chánh định coi chúng ta ngó thấy, nhờ có Hội Vạn Quốc liên minh mà hòa bình mới còn duy trì đến ngày nay. Nếu không có Hội Vạn Quốc liên minh bảo vệ hòa bình thì trận giặc thứ ba khởi chiến trước rồi. Bây giờ dường như thiên hạ đã ngó thấy cái tai nạn, nhơn loại ngó thấy hình tướng, hiện hình xuất tướng mà thôi.
Chúng ta ngó thấy cả toàn cầu Vạn Quốc liên minh dầu có đổi tên nhưng cái tướng của nó vẫn còn là nhỏ, cơ quan ấy là cơ quan cứu thế. Nếu không có nó thì nhơn loại đã đi đến con đường tự diệt, không còn quyền năng nào ngăn cản bước nguy hiểm của nó được.
Vì cớ chúng ta thấy, nó xuất hiện trước cũng như vị Thánh Gandhi chống cây gậy mặc một tấm chăn đi khắp cùng thiên hạ kêu gọi bác ái từ bi đặng định tâm thiên hạ; lấy đạo đức làm căn bản đặng cứu vãn cái nạn tương tàn, tương sát của nhơn loại, bảo vệ hai chữ hòa bình trong khuôn khổ đạo đức.
Ngài đã làm bên xứ Ấn Ðộ, tôi tưởng sự làm của Ngài với sự làm của Ðức Chí Tôn đi đôi với nhau. Ðức Chí Tôn không trước Ngài, mà Ngài cũng không trước Chí Tôn, ngoài ra cũng không phải ảnh hưởng cho vị Thánh Gandhi.
Tìm hiểu nhơn loại để tự giác mình, còn nhiều bậc trí thức cao siêu hơn nhơn loại, cầm vận mạng các quốc gia trù tính kế hoạch đặng bảo vệ hòa bình và bảo tồn sanh mạng cho loài người tức là bảo tồn sanh mạng cho nhơn loại.
Chúng (ta?)( *1) đã ngó thấy tại đền Chaillot, cả Vạn quốc tìm đủ phương chước để bảo vệ hòa bình mà họ còn thất bại nữa mà chớ. Chúng ta ngó thấy nạn phân chia tâm lý nhơn loại hiện giờ làm gì? Chúng ta có ba mãnh lực: Mãnh lực tư bản, mãnh lực cộng sản và mãnh lực đạo đức.
Cộng sản nói rằng: Của sở hữu nơi mặt địa cầu đủ nuôi nhơn loại trên mặt địa cầu nầy. Nhơn loại trên mặt địa cầu nầy có ít nữa 2.500 triệu người. Của cải trên mặt địa cầu nầy có thể nuôi họ đặng. Nhưng của cải phải chia đều với nhau, không ai hơn, không ai kém.
Nếu muốn chia phải làm, phải có sản xuất mới chia được. Luật chia đã đành không chánh thật, mà nó không làm thì của đâu mà chia, người làm người không thì chia sao được. Giựt ăn chớ chia cái gì. Cái thuyết cao siêu lắm mà hành tàng thì trái hẳn với chơn lý.
Một đàng tư bản nói làm cho nhiều, làm dư giã, để của cho nhiều tức thiên hạ sống hạnh phúc, mà nếu có luật buộc thiên hạ chia của, mà kẻ không làm đặng chia của, ở không mà đặng ăn là bất công, giờ toàn cả thiên hạ phải làm, làm cho qua sở vọng của loài người thì sống vô cùng hạnh phúc. Có một điều làm ra rồi người làm coi giữ quyền lợi của mình không cho thiên hạ hưởng, thành ra thuyết hay mà sự làm trái hẳn chơn lý nữa. Hai thuyết ấy tương đương với nhau, chiến đấu một cách kịch liệt thành ra hai khối Nga và Mỹ.
Bây giờ còn thuyết đạo đức có hơi khác hơn hai thuyết kia, Bần Ðạo tưởng không cần để của cho nhiều mà làm giàu, vì nghĩa lý của Ðạo, mình biết khổ với nhau, biết thiếu thốn cùng nhau, hoạn nạn có nhau, mình biết tùy thế tùy thời, dầu không có của mà gìn luật thương yêu, bảo vệ nhau tuy nghèo mà nó còn giữ gìn đặng cho nhau. Của cải nhiều không bao giờ bảo vệ đặng. Duy có hiệp cả nhơn loại, thông tri cả tâm lý tinh thần loài người như một gia đình kia. Nhơn loại ngày giờ nào mà biết yêu ái nhau, biết bảo vệ nhau như trong gia đình của các Ngài, đó mới gọi là hạnh phúc; làm việc có kẻ mạnh người yếu. Kẻ bịnh, người già không thể làm hơn kẻ tráng kiện được. Người bạc nhược không thể để cho phận sự nặng nề trong đó được. Nếu suy ra biết bao nhiêu sự bất công. Duy có tình thương yêu nồng nàn mới tạo hạnh phúc chung mà thôi. Tạo hạnh phúc chung cho nhau về mặt tinh thần hay mặt xác thịt cũng thế, con người thỏa mãn đặng về phương sống của mình với tâm tình thương yêu thì mới hạnh phúc, còn ngoài ra dám chắc mạng sống con người không khi nào hoàn toàn hạnh phúc. Bởi vì thảng như mình đương mạnh đây nhưng đi đâu đó rủi đạp nhằm cái gai cũng đủ đau đớn rồi, đương nhiên như thế mà phải chịu cảnh ăn không ngồi rồi cũng là mất hạnh phúc kiếp sống, con người ta không khi nào hưởng trọn hạnh phúc, duy có đau khổ thêm thì có chớ không có hạnh phúc gì đâu mà mơ vọng.
Hỏi thử trong kiếp sống của chúng ta có giờ phút nào có hạnh phúc chăng? Tìm thử trong kiếp sống kiếm lụng lại coi, hạnh phúc bao nhiêu? Rồi xem tổng số lại coi được cái gì có hạnh phúc, coi đó được hạnh phúc hay chăng? Ôi! Chỉ thấy cảnh khổ, cũng như ra ngoài bãi sa mạc kia muốn có giọt nước Cam Lồ rải xuống trong khi nắng hạ, vậy thì tìm hạnh phúc cho nhơn loại không khác. Nếu có hạnh phúc hay chăng thì như Bần Ðạo đã nói, làm người phải biết yêu ái với nhau, biết tôn trọng nhau, biết bảo vệ sự sống còn cho nhau ấy mới là hạnh phúc. Ngoài ra thì cũng như câu cá trên ngọn cây không hạnh phúc gì hết.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 23-12-Mậu Tý nhằm ngày (dl. 21-01-1949).
(*1) Nơi đoạn thứ 13: Chúng (ta?) đã ngó thấy tại đền Chaillot, cả Vạn quốc tìm đủ phương chước để bảo vệ hòa bình mà họ còn thất bại nữa mà chớ. Chúng ta ngó thấy ... ... ...
Chúng tôi xin đề nghị cho rõ nghĩa hơn: Chúng ta đã ngó thấy tại đền Chaillot, cả Vạn quốc tìm đủ phương chước để bảo vệ hòa bình mà họ còn thất bại nữa mà chớ. Chúng ta ngó thấy ... ... ...
CHUNGLỜI THUYẾT ÐẠO CỦA ÐỨC HỘ PHÁP |
Chúng tôi trình bày quyển Lời Thuyết Ðạo của Ðức HỘ PHÁP Năm Mậu Tý (1948) do Ban Ðạo Sử ấn hành lần thứ nhứt năm Quý Sửu (1973) có những phần khác biệt sau đây so với bản chánh về mặt hình thức (nội dung vẫn y nguyên):
1./ Sửa một số lỗi chánh tả thông thường (khi gặp phải) căn cứ vào quyển Việt Nam Tân Tự Ðiển của Thanh Nghị do nhà sách Khai Trí xuất bản tháng 12 năm 1967 & Việt Nam Tự Ðiển của Lê Văn Ðức, Lê Ngọc Trụ do nhà sách Khai Trí xuất bản tháng 4 năm 1970.
2./ Phụ ghi vào cuối một số bài khi gặp một vài nghi vấn (có thể) được Ban Ðạo Sử duyệt xét lại sau nầy.
3./ Phụ ghi ngày và tháng dương lịch (cho những bài không ghi rõ ngày & tháng) căn cứ theo Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996.
Kính cáo,
Tháng 01 năm 2004 (Tháng giêng năm Giáp Thân)
Thánh Thất NSW - Australia
) )( __)_(__ __(_____)__ (((_________))) ) ׀ ( |
|
ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
LỜI THUYẾT ÐẠO
|
Hội Thánh Giữ Bản Quyền |
In lần thứ nhứt Năm Giáp Dần (1974)
|
HIỆP THIÊN ÐÀI | ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ |
Văn Phòng | (Tứ Thập Ngũ Niên) |
Thượng Sanh | TÒA THÁNH TÂY NINH |
----- Số: 121/TS |
Thượng Sanh |
|
Kính gởi: |
Hiền Huynh Hiến Pháp Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh |
Tham chiếu quý Thánh thơ số 16/ÐS ngày 12-6-1970.
Kính Hiền Huynh,
Theo đề nghị của Hiền Huynh tôi chấp thuận cho Ban Ðạo Sử xuất bản để phổ biến những Bài Thuyết Ðạo tại Tòa Thánh của Ðức Hộ Pháp từ năm 1946 đến năm 1955.
Những bài giảng được chọn để ấn hành phải có sự kiểm duyệt của Ban Kiểm Duyệt Kinh Sách.
Nay kính,
TÒA THÁNH, ngày 14 tháng 5 năm Canh Tuất.
(dl. 17-6-1970)
Thượng Sanh
(Ấn ký)
Những bài Thuyết Ðạo trong quyển sách nầy là lời vàng tiếng ngọc của Ðức Hộ Pháp, một vị Giáo Chủ của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, một bậc vĩ nhân của thế hệ, nên một Ủy Ban sưu tầm và biên tập thành lập có Ðức Thượng Sanh chấp thuận, để xúc tiến việc sưu tầm biên tập và ấn tống các bài Thuyết Ðạo ấy. Nay cuộc sưu tầm và biên tập đã có kết quả mỹ mãn, nên Ủy Ban đem ra ấn tống cho toàn Ðạo được thưởng thức lời vàng tiếng ngọc nói trên.
Trong Ban Ðạo Sử của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ đã có sẵn một Thư Viện tàng trữ các loại Kinh Sách cổ kim và Ðông Tây cho các nhà khảo cứu và toàn Ðạo có thêm tài liệu. Những quyển "Lời Thuyết Ðạo" của Ðức Hộ Pháp cũng sẽ lưu trữ vào Thư Viện nầy để chư đọc giả đến xem.
Ðức Hộ Pháp là một trong các vị tiền bối khai sáng nền Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, đã thực hiện trước hết chủ thuyết Tam Lập: "Lập đức, lập công, lập ngôn".
Về lập đức, thì Ðức Ngài là người đầu tiên đã nghe theo tiếng gọi thiêng liêng mà khai sáng mối Ðạo cho toàn sanh chúng được chung hưởng hồng ân của Ðức Chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Ðế.
Về lập công, thì Ðức Ngài vừa lập đức vừa lập công trong việc khai sáng. Từ cái không mà làm ra cái có, bắt gió nắn hình tạo thành một đại nghiệp Ðạo ở cõi thế nầy. Nếu Ngài không phải là một đại đức thì làm sao thành công được?
Về lập ngôn, thì Ðức Ngài lưu lại lời vàng tiếng ngọc trong các bài Thuyết Ðạo mà chúng ta đang thưởng thức và còn nhiều lời giáo huấn cao siêu khác nữa mà chư quí đọc giả và toàn Ðạo nên lưu ý.
Nhơn danh Hiến Pháp Hiệp Thiên Ðài kiêm Trưởng Ban Ðạo Sử, tôi xin trân trọng giới thiệu cùng đọc giả bốn phương quyển sách quí giá nầy đáng được lưu niệm mãi mãi.
Trân trọng kính chào.
Hiến Pháp TRƯƠNG HỮU ÐỨC
Mỗi lần ly loạn là mỗi lần thư tịch bị làm mồi cho binh lửa.
Nhìn vào lịch sử, những vụ "Phần Thư", những vụ chiếm đoạt thư tịch đã xảy ra như một hệ luận trước những biến cố. Tình trạng nầy đã kéo dài qua các thời đại ấy là biện pháp của những kẻ mạnh nhắm vào mục đích thực hiện chính sách ngu dân và đồng hóa triệt để.
Những kinh nghiệm đau thương ấy là nguyên nhân thúc đẩy chúng tôi cố gắng thực hiện công việc sưu tập những tài liệu nầy.
Chúng tôi nghĩ: Nếu tài liệu kinh sách chỉ được tập trung tàng trữ vào một chỗ tránh sao cho khỏi bị hủy diệt khi kẻ cường quyền cướp đến phá. Do đó chúng tôi quyết định quây ra làm nhiều bản để gởi đến và ký thác vào những tâm hồn trung kiên với Ðạo, những người dám chết để bảo tồn những tiếng nói của Ðấng thay Trời dạy Ðạo.
Nếu một mai thời cuộc lại biến thiên, có thể các cuộc "Phần Thư" lại diễn thì thiết tưởng trong số tài liệu nầy vẫn còn có nhiều người nhiệt tâm gìn giữ được vẹn toàn.
Ðây không phải là việc làm của cá nhân hay một đoàn thể nhưng là một sự đóng góp chung của những người vô danh, nguyện đem hết năng lực của mình để phụng sự cho lý tưởng bảo tồn truyền thống giáo lý của Ðạo. Trong khi quyển tài liệu nầy đến tay quí vị thì cũng đã có người vì quá hăng say trong công việc thực hiện lý tưởng mà phải lao tâm kiệt sức hóa ra người thiên cổ.
Việc làm của chúng tôi không phải là một ý nghĩ nông nỗi của một sớm một chiều, nhưng là một hoài bảo trong suốt thời gian ly loạn. Chúng tôi hằng cầu nguyện Ðức Chí Tôn và Phật Mẫu ban bố phước lành sớm gặp dịp may để thực hiện hoài bảo ấy.
Ngày nay chân trời đã rạng tỏ, ý nguyện đã đắc thành.
Chúng tôi xin hiến dâng trọn vẹn cho Hội Thánh tất cả những tài liệu mà chúng tôi đã ghi chép, góp nhặt sau bao nhiêu năm theo đuổi mục đích bảo tồn những lời vàng tiếng ngọc của Ðức Hộ Pháp.
Từ đây bản quyền nầy sẽ tùy thuộc hoàn toàn của Hội Thánh. Kính xin Hội Thánh kiểm duyệt và ấn hành, để cho mọi người đều được nghe lời dạy dỗ đầy yêu ái của Ðức Hộ Pháp, đã dành cho chúng ta trong thời gian Ðức Ngài còn tại thế.
Tòa Thánh, ngày rằm tháng 6 năm Bính Ngọ (1966)
Ban Tốc Ký
Q.3/01: GIẢI PHÁP CỨU THẾ CỦA ĐẠO CAO ĐÀI.
Thuyết đạo tại Đền Thánh đêm 30 tháng chạp năm Mậu Tý rạng 1 tháng giêng Kỷ Sửu (dl. 28-1-1949)
Đêm nay là đêm giao thừa, năm cũ bước qua năm mới. Năm Mậu Tý đã qua năm Kỷ Sửu đến. Bần Đạo nhân danh Đức Lý Giáo Tông để lời cầu chúc cho toàn Thánh Thể của Đức Chí Tôn và cả con cái của Ngài nam và nữ. Chúng ta đã vui hiệp với nhau trong đêm nay. Tưởng cả tinh thần con cái Đức Chí Tôn buổi đầu năm đã hiến cho Đức Chí Tôn trọn ba món báu là cả xác thịt mình trí não mình và linh hồn mình đặng làm khí cụ cho Đại Từ Phụ tận độ chúng sanh.
Đêm nay cũng như những đêm 24 năm về trước. Chúng ta vẫn để tâm trí tinh thần, tâm đức làm con vật hy sinh để trên bàn thờ thiêng liêng của Đức Chí Tôn mong Ngài tha thứ toàn tội lỗi cho nhơn loại, và năm nào cũng thấy hữu hạnh nhơn loại đã đặng khoan dung tha thứ. Chẳng phải tha thứ cho nước Việt Nam mà thôi, chúng ta còn cầu xin tội tình cho nhơn loại và miệt mài xin cho nhơn loại đặng hạnh phúc ấy là phận sự của chúng ta đó vậy, và căn sinh của ta biểu ta rằng: Sống đặng làm phận sự tối yếu tối trọng của Đức Chí Tôn làm thành hay chưa mà thôi.
Một năm qua chúng ta đã ngó thấy không có đem hạnh phúc cho nhơn loại mãy may nào hết, chỉ thêm áo não cho nhơn loại mà thôi, cả vạn quốc dầu Âu, Á cũng vậy, đương sống trong một cảnh tượng hồi hộp không biết nạn chiến tranh sẽ tới buổi nào. Bần Đạo nếu không lầm thì khi nãy đã hành pháp trên liên đài, Hộ Pháp thấy đặng yếu trọng năm kế là năm Kỷ Sửu Đạo sẽ còn vẻ vang hơn nữa, còn có một phương pháp đặng làm hữu ích cho nhơn loại mà chớ.
Chúng ta biết đặng mình có đặc ân của Đức Chí Tôn, chúng ta đi tầm lấy đặc ân ấy đặng chan rưới cho toàn thể nhơn loại trước. Chúng ta muốn cả nhơn loại hưởng đặc ân như chúng ta đã tưởng. Chúng ta có một điều là, cầu xin cho toàn thể quốc dân Việt Nam là một sắc dân mà Đức Chí Tôn đã tuyển chọn làm con tin của Ngài đặng cứu độ vạn linh. Chúng ta cầu nguyện xin cho một đặc ân riêng mà đặc ân ấy chúng ta không xin gì khác hơn là tâm yêu ái vô tận của họ.(*1)
Nhơn loại phải trở lộn lại tinh thần yêu ái với nhau, bảo vệ mạng sanh của nhau mới tồn tại được, ngoài ra không có một phương pháp nào giải quyết nạn tương tàn tương sát của nhơn loại nơi mặt địa cầu nầy mà chớ. Chúng ta nên lấy nhỏ mà đoán lớn, cả một cơ quan phản trắc làm cho thiên hạ đảo huyền dầu trong nước Việt Nam cũng vậy hay toàn mặt địa cầu nầy và giữa vạn quốc cũng vậy, chỉ có hai tiếng mà thôi, tiếng "ừ" và tiếng "không". Tiếng ừ có thể bảo tồn toàn nhơn loại đặng, nói tiếng không đủ làm cho giặc giã chiến tranh, nhơn loại tự diệt.
Hỏi cái miệng lưỡi của toàn nòi giống Việt Nam nầy có thể xin họ tiếng ừ đặng không? Có chớ! Con người nó cùng nước rồi, bất kỳ là cơ quan hành tàng nào, nên hư có mức định của nó. Họ thấy cái hư không lẽ họ không chế ngự nó.
Nghĩ lộn lại con người bao giờ cũng vậy, không khi nào đặng trọn lành, đặng trọn lành có một mà thôi, là Đức Đại Từ Phụ của chúng ta đó vậy. Cả thảy con người trong Càn Khôn Vũ Trụ nầy không ai trọn lành, Đại Từ Phụ cầm cây viết thiêng liêng vẽ hai chữ trọn lành đặng họ vẽ theo, đồ theo bắt chước theo kiểu vở của Ngài mà lần vào bực trọn lành. Các Đấng thiêng liêng cầm quyền bảo vệ vạn linh nơi cung Hiệp Thiên Hành Hóa, nói tới chúng ta tưởng tượng họ được trọn lành. Tỷ thí lộn lại với Đại Từ Phụ vẫn có một, chúng ta đây cũng vậy, làm là học đòi theo Chí Tôn, bắt chước theo Ngài đồ theo kiểu vở của Ngài tưởng đâu chẳng phải trọn đặng, nhưng chúng ta cố tâm vẽ thử sẽ hay. Các cơ quan chánh trị đạo nong nả để tâm suy gẫm kiếm trong phương pháp học đòi theo, vẽ theo, đặng xem thật hư mà quyết định, vẽ theo cho ra tướng trọn lành của chúng ta, nếu chúng ta vẽ được chúng ta sẽ cứu thế.
Ngài thấy tinh thần trọn lành ấy coi có tồn tại hiện hữu mà định thế giải nguy, giải quyết đặng bảo tồn sanh mạng của vạn linh, nhứt là nhân loại.
Chúng ta đồ đặng chăng? Theo tầm khuôn khổ đạo giáo của Đức Chí Tôn mà lập thành thì đặng cái sở vọng của chúng ta, điều làm đặng duy chúng ta cần cù mài miệt cố gắng thì sẽ làm đặng.
Hại thay! Nếu không trọn lành ấy, Đức Chí Tôn để quyền nơi tay của nhơn loại. Trong thời kỳ nguyên tử nầy, nếu có con người điên kia cầm trái bom nguyên tử liệng xuống đất cũng có thể giết cả sanh mạng con người. Duy có thằng điên kia mới làm nổ trái bom nguyên tử nơi mặt địa cầu nầy để tiêu diệt cả nhơn loại mà thôi.
Phải trọn lành, trọn lành đặng bảo vệ sanh mạng của vạn linh. Nhứt là sanh mạng của nhơn loại. Nhưng tinh thần của nhơn loại đã đạt đến địa điểm đạo giáo, nên Chí Tôn giao mạng sống và mạng chết nơi tay của họ, họ có quyền sanh hay sát, cũng do họ. Đức Chí Tôn đã giao trong tay họ quyền đặc biệt ấy. Họ phải khôn ngoan, hiển hách chí linh cũng như chí linh kia họ mới bảo vệ sanh mạng của họ đặng.
Nếu họ còn mờ ám không biết vi chủ cả sanh mạng mình thì cơ quan tự diệt họ trong năm đầu ngón tay của họ. Hỏi vậy bí mật thiêng liêng kia đã để cho họ đạt đến Tiên, Phật vị, hình ảnh tối thượng tối cao kia phải chiếu ảnh ra chiếu tướng của nó đã đạt đặng. Trong vạn quốc nắm được báu vô giá là nguyên tử, thay vì để cho nó được trường sanh bất tử, mà trái ngược lộn lại là món tận diệt với nhau.
Bí pháp tiên gia nắm trong tay, mà mặt luật vô đối kia họ thi hành không đúng, tâm đức của họ không lập Phật vị cho họ, thì cả vạn pháp cả tinh thần trí não vô biên của họ sẽ biến làm một ngọn gươm bén đặng tiêu diệt lại họ mà chớ.
Họ đã đặng hình Chí Tôn để cho họ đạt đặng vạn pháp tiên gia hiện tướng ra nơi mặt thế nầy. Nhơn loại đã nắm vạn pháp tiên gia, làm chủ sanh tử của mình. Nếu họ không thể đạt Phật vị của họ thì họ sẽ tự diệt lại họ mà chớ.
Bần Đạo tưởng Chí Tôn đến cứu thế, dám chắc chưa đi đến nước đến đó. Phải có một giải pháp. Ngài đến hiệp cả giải pháp mà chúng ta tạo chưa nên hình.
Giải pháp cứu thế là giải pháp của Đạo mà có. Chúng ta có thể tạo ra giải pháp đặng cứu thế. Nếu đặng hay chăng là do nơi tâm đức của toàn con cái của Ngài trong cửa Đạo nầy đó vậy.
Phụ ghi:
(*1) Nơi đọan thứ 4: Chúng ta biết đặng mình có đặc ân của Đức Chí Tôn, ... ... .... Chúng ta muốn cả nhơn loại hưởng đặc ân như chúng ta đã tưởng....
Chúng tôi xin đề nghị cho rõ nghĩa hơn: Chúng ta biết đặng mình có đặc ân của Đức Chí Tôn, ... ... .... Chúng ta muốn cả nhơn loại hưởng đặc ân như chúng ta đã hưởng....
Q.3/02: NHƠN LOẠI PHẢI TÌM PHƯƠNG THUỐC TRƯỜNG SANH LÀ LUẬT THƯƠNG YÊU.
Tại Đền Thánh đêm 8 tháng giêng năm Kỷ Sửu (1949)
Ngày nay là ngày Lễ vía Đức Từ Phụ tức nhiên là Đức Chí Tôn đó vậy.
Ta thử xét 24 năm Đạo Cao Đài đã mở, mở do nơi tay ai? Do chính tay của Đại Từ Phụ đến mở đó vậy. Nếu chúng ta nói rằng: Trót 24 năm Đức Cha Lành của chúng ta đã chung sống với chúng ta, tôi tưởng nếu chúng ta tưởng tượng việc ấy cũng không quá đáng.
Thử nghĩ cái hạnh phúc mà chúng ta đã hưởng đặc ân của Đức Cha Lành ấy. Chúng ta xét lại coi Ngài đến chung lộn với chúng ta để làm gì? Bần Đạo tưởng cả thảy con cái của Ngài đều hiểu và quyết đoán đặng.
Ngài đến với một lời hứa hẹn rất thiết yếu, mà chính Ngài đến đặng chuyển pháp xây cơ chuyển thế Ngài đã hứa quả quyết nhơn loại sẽ là một; một về nòi giống, một về xã hội, một về tôn giáo. Lời hứa hẹn ấy nếu chúng ta không có đủ đức tin vững vàng, hay chúng ta không quyết chắc cái tay quyền năng vô biên ấy có thể làm đặng, một người nào, một đấng nào dám cả gan nói điều ấy. Chúng ta dám chắc cả thảy đều để dấu hỏi nghi hoặc. Nếu chúng ta nghi thì chúng ta phải kiếm thôi.
Bây giờ cả con cái của Ngài xin lỗi với Đức Cha Lành, rồi làm khách bàng quang tính thử cái lời ấy có kết quả chăng? Chúng ta đã ngó thấy và dám chắc biết rằng, không có một vật loại nào, một tinh thần nào mà gầy dựng một cơ quan hữu hình trong Càn Khôn Vũ Trụ mà ra ngoài quyền lực của vài điều ấy. Chúng ta đã chán biết, chúng ta bất quá là xin lỗi Ngài đặng làm kẻ phàm kia xét đoán thử coi Ông Trời nói vậy mà có thể làm đặng chăng cho biết. Làm bàng quang lấy lý trí đoán thử coi lời hứa rất khó khăn, lời hứa rất trọng yếu, trong buổi nhơn loại đang hoang mang, dở sống dở chết, có thể chúng ta cũng nên tọc mạch kiếm hiểu thử coi, cả cơ quan chuyển thế ấy quả nhiên đặng, tức nhiên nó có ảnh hưởng tối yếu, tối trọng của cơ huyền vi bí mật cứu khổ của Đức Chí Tôn đó vậy.
Lạ chi chúng ta thấy vạn vật hữu hình từ trong vật loại côn trùng thảo mộc. Cả thảy chúng ta không luận về toàn thể của nó, dầu cho các phần tử trong vạn loại ấy nó có quyền năng tinh thần đặc biệt của nó. Chúng ta thử đoán xét một vật vô tri, vô giác, có thể chúng ta tưởng tượng vật vô hồn vô giác là đá kia mà nó cũng còn có giá trị. Thứ đá có ngọc, ngọc đó để định giá trị đặc biệt trong tông môn. Ngọc đó là chúa của đá. Chúa của đá ấy để làm gì? Để làm giá trị của đá, để định giá trị của đá.
Bây giờ nói đến loài kim khí kể từ chì, kẻm, sắt, dĩ chí cho tới bạc, vàng, cũng có vàng là chúa của kim khí và có giá trị đặc biệt đặng định giá trị của kim khí.
Trong vạn vật, Bần Đạo không cần nói nhiều, dầu cho loài người loài thú cũng thế. Thấy trong ổ kiến, ổ mối, hay ổ ong kia, chúng ta cũng ngó thấy có con chúa, cả thảy đều phải tuân theo con chúa ấy, nó có quyền năng tuyệt đối đặng định mạng của nó, vi chủ mạng sống của nó, nó làm chủ xã hội nó, đặng nó định giá trị của loài ong, loài kiến.
Luận tới loài người, chúng ta thấy toàn thể xã hội sự chê khen, nào là từ bỏ vương quyền, đế quyền, thì nhơn loại cũng phải chịu dưới quyền thống trị nào mới tồn tại được.
Nếu gọi dân trị, thì để thiệt dân đi đánh đổ giai cấp như thuyết cộng sản thì cả thảy là dân đi, lập trường quan lại mà làm gì? Thành thử đánh đổ giai cấp là thuyết quái gở, lý thuyết dở sống dở chết. Chúng ta ngó lộn lại dầu cho Quốc gia xu hướng về dân trị đi nữa, thì các vị Giám Quốc hay các vị Thủ hiến quyền áp bức của họ còn hơn đế vương mà chớ, bất quá thêm duyên, thêm tánh làm cho thiên hạ tin mình đó là lòe con mắt thiên hạ, không có chánh lý, sự thật là gì hết.
Bây giờ trong xã hội nầy, chúng ta ngó thấy đảo lộn hai quyền hành khác nhau, đương tranh quyết nhau là quyền hành đế chủ và dân chủ.
Nếu chúng ta lấy đầu óc suy đoán thì hai cái như một, không cái nào hơn cái nào, cũng như một hình bóng, một khuôn khổ với nhau, lấy công lý lòe con mắt của cơ quan trị thế. Dầu cho là đế quyền hay là dân quyền cũng là một phương pháp áp bức thiên hạ mà thôi. Bởi cân công chánh nơi mặt thế nầy không có. Nếu có thì Đức Chí Tôn không đến kỳ hòa ước với nhơn sanh. Luật thương yêu mới có cân công chánh mà thôi thành thử chơn luật nơi mặt thế gian nầy cũng không có.
Ấy vậy, hiện giờ nhơn loại đương kiếm gì? Kiếm cân công chánh, kiếm luật thương yêu, kiếm ở đâu? Luật thương yêu ấy Chí Tôn đã ban bố mà nhơn loại chưa tìm được. Nhơn loại đương khao khát mà chớ. Quyền công chánh thì do nơi luật thương yêu mà có, quyền công chánh nơi mặt thế gian nầy không có, dầu trong tay đế quyền, hay dân quyền cũng không có.
Đức Chí Tôn Ngài đến do tay Ngài ký một hòa ước với một sắc dân nô lệ, sắc dân hèn mọn, đặng Ngài nài nỉ xin cho đặng hai điều trọng yếu làm cho nhơn loại đặng sống tồn tại là luật thương yêu và quyền công chánh.
Ngài đã ký, Ngài đã hứa với Thánh Thể của Ngài, tức nhiên là cả quốc dân nầy đặng tạo ra hình ảnh luật thương yêu. Nếu cả quốc dân Việt Nam lấy quyền công chánh làm thành tướng ra, rồi Ngài sẽ lấy tướng diện của nó Ngài làm món thuốc cứu sanh mạng của nhơn loại đó vậy.
Bần Đạo và toàn con cái của Ngài nhờ phương thuốc của Ngài mà tạo ra cửa Đạo Cao Đài đó vậy. Giờ phút nầy phải thật hành không thế gì không thành. Mà nó sẽ thành hình trong nầy thì chúng ta ngó thấy ở ngoài toàn cầu, vạn quốc đều thay hình, đổi dạng, đổi cả chơn tướng của nó cho phù hạp và đủ phương thế thọ hưởng hườn thuốc cứu sanh của Ngài. Tức nhiên toàn cầu xu hướng, làm cho nhơn loại thống nhứt lại làm một, chúng ta ngó thấy bằng cớ rõ ràng trận giặc thứ nhứt cả vạn quốc đều xúm nhau đặt Hội Vạn Quốc Liên Minh, rồi trận giặc thứ nhì nầy, vạn quốc cũng chưa bỏ nó và còn kiếm phương thế tăng cường nó nữa. Hỏi vậy, Vạn quốc Liên Minh là gì? Là cơ quan hiệp chung nhơn loại làm một vậy.
Đức Chí Tôn nói :
"Nhơn loại sẽ một về nòi giống, một xã hội, một về tôn giáo", tôi tưởng không xa đó vậy. Tại sao Đức Chí Tôn phải làm phương thuốc ấy đặng chi? Đặng đưa cho họ uống, đặng họ phục sanh lại, không thôi họ sẽ đi đến con đường diệt vong của họ vậy.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 08-01-Kỷ Sửu nhằm ngày (dl. 05-02-1949).
Q.3/03: LONG HOA HỘI LÀ GÌ?
Tại Đền Thánh đêm 14 tháng giêng năm Kỷ Sửu (1949)
Nay là ngày rằm Thượng Nguơn năm Kỷ Sửu. Vậy Bần Đạo nhắc lại cho toàn cả Thánh Thể của Đức Chí Tôn và toàn con cái của Ngài nhớ rằng: Bần Đạo xin thuyết minh, gần mãn Hạ Nguơn tam chuyển, khởi đầu Thượng Nguơn tứ chuyển, mỗi một Nguơn, là 12 ngàn năm, 30 ngàn năm của đệ tam chuyển. Vì cớ cho nên kinh Phật, sấm truyền của nhà Phật hay là Thánh Giáo của Gia Tô đã tiên tri rằng: Mãn tam chuyển tức nhiên của Thượng Nguơn tứ chuyển sẽ có Long Hoa Hội. Hay theo lời Thánh Giáo Gia Tô đã nói rằng: Có một thời kỳ xử đoán cuối cùng của Đức Chí Tôn nơi mặt địa cầu 68 nầy.
Long Hoa Hội là gì? Long Hoa Hội là một ngày, một buổi khảo lựa của toàn thể các chơn hồn dầu quỉ vị hay là trong thần vị cũng vậy, định khoa mục của mình đặng lập vị thiêng liêng.
Chúng ta hiểu rằng: mỗi chuyển tức nhiên là mỗi khoa mục, hễ cuối một chuyển tức nhiên Hạ Nguơn là ngày định vị của các đẳng linh hồn. Thánh Giáo Gia Tô đã nói rằng: Ngày xét đoán cuối cùng (Jugement Général) mà kỳ thật là ngày định vị cho các chư Phật đó vậy.
Bởi thế cho nên trong kinh của Đức Phật Mẫu có nói: Khoa mục của thiên vị lập vị của mình là kỳ Long Hoa Hội nầy, chúng ta đã chán biết thế thường hễ mình học, dầu giỏi hay dở mà tới ngày thi, tức nhiên là ngày điểm bài vở của chúng ta, dầu cho biết chắc mình đủ tài khoa mục, có đủ phần phước đậu đặng, nhưng bây giờ cũng lo ngại hồi hộp mà thôi.
Toàn thể chúng sanh tức nhiên nhơn loại trên mặt địa cầu nầy, giờ phút nầy tinh thần họ chẳng khác gì một cá nhân kia vậy, họ phải lo sợ hồi hộp, không biết định phận đậu rớt thế nào và trong khoa mục ấy chúng ta có đậu hay chăng, chúng ta đã ngó thấy thiên hạ lo sợ hồi hộp, mà không lo sợ cái gì?
Ôi! còn một trường náo nhiệt chúng ta đã ngó thấy cảnh tương tàn tương sát, giặc giã chiến tranh, thiên tai, nghiệt chướng, nhưng có cuộc ấy chăng? Có chi lạ hơn là trát đòi hầu của Tòa Thiêng Liêng kia vậy.
Một cái quả kiếp nhơn loại dầu ở Á Đông hay Âu Châu cũng vậy, nếu chúng ta để tâm nghiên cứu, quan sát tận tường chúng ta ngó thấy cả hình luật quả kiếp luân hồi quyền năng vô đối của cảnh thiêng liêng hằng sống.
Quyền thiêng liêng hằng sống đã cầm quyền như mặt Càn Khôn Vũ Trụ kia, chúng ta không mảy may gì sợ rớt và không mảy may gì bất công, giờ phút nầy chúng ta thấy ở Âu Châu sanh ra một trường biến loạn náo nhiệt, chưa biết có tránh khỏi trận giặc thứ ba nầy chăng? Rồi chúng ta xem lại lịch sử nhơn loại mà chúng ta thấy quả quyết họ trả quả báo một cách chánh đáng, kiếm lại coi đất Âu Châu là nòi giống Aria là nòi giống của Ấn Độ đã chiếm đoạt toàn diện. Dân bổn xứ, đoạt cả nước của người ta, sát hại không biết bao nhiêu sanh mạng, tấn tuồng có vay thì phải có trả. Giờ phút mà xử đoán cuối cùng nầy, họ phải trả quả kiếp ấy, đặng định phận họ mới đặng. Tuy chúng ta đã ngó thấy, đừng ngó đâu xa, nước Việt Nam chúng ta đây cũng thế, bởi ngày định xử cuối cùng không sót một án tiết nào hết, phải trả mà thôi, trả đặng định phận cho nhơn loại mới được.
Nếu không trả vốn lời nhơn loại không định phận được, thì tấn tuồng quỉ vị, Phật Vị bất công kia không phương gì định vị cho các đẳng chơn hồn, mà chính cửa thiêng liêng hằng sống muốn cho có một mực thước, chánh đáng tức nhiên phải xử, phải xử án cuối cùng mới được.
Nước Việt Nam ta đương tương tàn, tương sát, có lạ chi hơn là tiền án Tây Sơn đối với nhà vua, cái trận đó mà Tây Sơn thế nào thì tấn tuồng ấy phải vay trả đến ngày nay. Có trả chớ nếu không trả thì nợ ấy, vẫn còn không thể gì định vị cho nước Việt Nam nầy đặng.
Chúng ta chỉ mừng có một điều là: chúng ta thấy trả nợ đặng, có thể trả nợ đặng là chúng ta thấy nợ giàu sang vinh hiển đến trước mắt chúng ta. Chúng ta thấy trước kia hễ trả xong mối nợ tức nhiên là cái vinh quang giàu có sang trọng đứng trước mắt chúng ta kia, sự đó ngó thấy rồi bất quá là Đức Chí Tôn để cho chúng ta gội rửa cho sạch quả kiếp đặng Ngài tạo địa vị quí trọng, một địa vị vô đối Ngài dành để cho nòi giống Việt Nam mà thôi.
Hạ Nguơn phải chuyển Thượng Nguơn, Thượng Nguơn là gì? Tức nhiên là Xuân Nguơn chúng ta đương ngưỡng vọng.
Ngày nay giờ phút nầy cái Xuân Nguơn cả toàn nhơn loại nhứt là nòi giống của chúng ta đã tôn sùng mà trước đã chịu ảnh hưởng từ thượng cổ đến giờ thế nào, thì tôi tượng hình bóng là quyền năng vô đoán của cơ tứ chuyển.
Nay qua Thượng Nguơn đây có lẽ lập vị cho một sắc dân mà Đức Chí Tôn đã dành để làm con tin của Ngài mà là kẻ đồng bước của Ngài đặng dìu dắt cả toàn nhơn loại đi đến con đường hạnh phúc vô đối đó vậy. Cũng như Đức Chí Tôn dành để ngôi vị cho nước Việt nam ngày nay vậy. Ấy vậy chúng ta đoán rằng: Trong thượng Xuân Nguơn năm Kỷ Sửu nầy chắc hẳn rằng: nó sẽ đem lại cho nòi giống Việt Nam một hạnh phúc mà chúng ta không thể tưởng tượng được.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 14-01-Kỷ Sửu nhằm ngày (dl. 11-02-1949).
Q.3/04: ĐẠO CAO ĐÀI HY SINH VÌ CHỦ NGHĨA.
Tại Đền Thánh đêm 23 tháng giêng năm Kỷ Sửu (1949)
Ngày mai nầy, Bần Đạo phải xuống Sài Thành một phen nữa, đặng giải quyết một vấn đề trọng yếu là chấm dứt cuộc đổ máu Việt Pháp.
Một nền Tôn giáo mà chúng ta theo đây phải có tinh thần đặc biệt của nó, mà chỉ có tinh thần ấy mới đủ oai quyền đảm nhiệm trách vụ nặng nề của nó mà thôi. Bần Đạo đã nói rằng: nó đem cơ quan cứu thế để tại mặt thế nầy duy sở vọng của Bần Đạo định nó phải có phương pháp để chứng tỏ rằng nó đủ quyền năng cứu thế, thì nó mới có giá trị và lý do tồn tại. Bằng chẳng vậy, thì Đạo Cao Đài bất quá là một thuyết mộng ảo mà thôi.
Có lẽ toàn cả con cái Đức Chí Tôn cũng còn nhớ, cái ngày mà Bần Đạo ở Hải Đảo trở về đây sau năm năm bị đồ lưu nơi hải ngoại. Bần Đạo vừa bước chân về nước thì Bần Đạo đã thấy cơ thảm loạn, xã tắc đảo huyền nhà vua bị cưỡng bức mà phải thoái vị, bỏ cả đại nghiệp 4.000 năm của tổ tiên để lại.
Thảm thay! Khi Bần Đạo vắng mặt toàn cả con cái Đức Chí Tôn hy sinh tánh mạng, vì Đạo vì Đời mà phải tuyệt mạng. Cả một đoàn hậu tấn trung quân ái quốc, vì hiếu với Chí Tôn, vì trung với Hội Thánh hy sinh cả xương máu mà tranh thủ độc lập lại cho nước nhà được thành tựu, đáng lẽ cái cơ thể do sự hy sinh đó mà đoạt được thì phải tồn tại để nơi tay chúng nó hưởng mãi mãi sự hạnh phúc ấy mới đáng chớ! Nhưng hại thay! Vừa tạo thành thì vừa bị đoạt lại làm cho mất cả lập trường, làm cho con cái Chí Tôn phải chịu dưới ách nô lệ lại một phen nữa, mà sự tai hại ấy do bởi đâu? Ai ai cũng đều dư hiểu. Như thế mà nước Việt Nam lại còn phải mang một cái ơn trọng của nước Pháp trước mặt quốc tế và quốc tế cũng đã nhìn nhận rằng nước Pháp hy sinh mạng sống nơi đất Việt Nam nầy để giải ách Cộng Sản cho nước nhà ta. Ôi! Nếu các bạn có đọc báo Pháp văn thì các bạn đã thấy bài ai điếu của quan Tổng Trưởng Pháp Quốc hải ngoại rằng họ đem con cái của họ hy sinh tánh mạng đặng giải ách cho nước Việt Nam ta, cho nòi giống Việt Nam ta. Dầu thiệt dầu không mà toàn cầu đều nghe cái đại nghĩa của nước Pháp đã làm đối với nước Việt nam ta vậy.
Các bạn cũng biết rằng một nền Tôn Giáo tượng trưng hồn nước Việt Nam buổi nầy, đã được địa vị trong tâm hồn của toàn thiên hạ ở địa cầu số 68 nầy mà duy có một vị đại diện của Tôn Giáo ấy là Bần Đạo đây, nên buộc phải chịu một phen thử thách đáo để, Bần Đạo suy nghĩ nếu Bần Đạo không đủ đạo đức đặng cứu vãn tình thế nguy ngập, thì ít nữa Bần Đạo cũng phải có phương chi chớ chẳng lẽ khoanh tay ngồi ngó cái tai nạn gớm ghê của nhơn loại. Vì lẽ ấy mà Bần Đạo phải buộc mình áp dụng phương pháp thọ khổ nhục đặng day trở theo thời cuộc mà cứu vãn tình thế và cũng vì lẽ ấy mà Bần Đạo buộc phải nghe theo đoàn hậu tấn, tận trung báo quốc là để cho chúng nó hy sinh vì chủ nghĩa.
Nay thời kỳ ấy đã qua nên Bần Đạo thú thật, Bần Đạo nhất định hưu chiến đôi bên Việt cũng như Pháp không ai có quyền nào mà giết lẫn nhau nữa.
Bần Đạo quyết định hưu chiến, và Bần Đạo quyết đi theo sở hành của mình cho đến cùng, dầu cho đôi bên không nghe, Bần Đạo cũng dám đem sanh mạng của Bần Đạo mà đổi chọn cho đặng chấm dứt tai nạn tàn sát giữa đôi bên Việt và Pháp.
Từ đây Bần Đạo tuyên bố tranh đấu cho cuộc đổ máu ấy phải dứt tuyệt, nhứt định không cho đổ máu nữa.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 23-01-Kỷ Sửu nhằm ngày (dl. 20-02-1949).
Q.3/05: ĐỨC QUAN ÂM THỂ HIỆN CHO TỪ HÒA VÀ NHẪN NẠI.
Tại Đền Thánh đêm 18 tháng 2 năm Kỷ Sửu (1949)
(Vía QUAN ÂM BỒ TÁT)
Hôm nay là ngày Vía Đức Quan Âm Bồ Tát, Bần Đạo đã thường nói nơi cửa thiêng liêng hằng sống, Đức Quan Âm Bồ Tát là một Đấng ở trong gia tộc sang trọng oai quyền hơn hết. Cái nguyên căn của Đức Quan Âm Bồ Tát do nơi pháp thân của Từ Hàng sản xuất. Quan Âm đến thời đó chỉ rõ cho chúng ta biết nguyên căn của mình, Quan Âm là cái thời gian của luật tạo Càn Khôn thế giới, ấy là một chơn linh rất cao trọng đó vậy, cũng như Đức Lý Thái Bạch là một chơn linh của ánh sáng. Hào quang Thái Cực khi đã hiện ra tức nhiên bóng đèn chúng ta ngó thấy khối lửa có ánh sáng kia tức nhiên là Đức Lý Giáo Tông.
Đức Quan Âm Bồ Tát đã cầm quyền nhứt thống oai nghiêm chẳng cần luận thuyết, cả thảy cùng đều biết cái quyền oai của Ngài vĩ đại như thế này, nhứt là phái nữ nên để ý bài giảng nầy cho lắm. Vả chăng, thời gian chúng ta, sẽ nói thời gian mà thôi, chúng ta phải kiên nhẫn và từ hòa, nếu chúng ta hấp tấp hay lật đật, thì chẳng hề khi nào chúng ta để thời gian đến trước mặt chúng ta đặng.
Chơn linh của Người tức nhiên thể tánh của Người, chứng tỏ rằng: một Đấng đã có 52 kiếp ở trong trái địa cầu 68 nầy, và có đảm nhận trọng trách lớn lao hơn hết, là buổi trái địa cầu nầy nó chưa có thoát xác của nó, là nó đầu kiếp lụng lại cho tới đệ tứ chuyển ngày nay. Đức Quan Âm Bồ Tát đã cầm quyền điều khiển trong Càn Khôn Vũ Trụ nầy từ thử đến giờ đã 52 kiếp.
Ngài đã đầu thai thế gian nầy mấy kiếp, vì có tánh đức từ hòa và tinh thần đạo pháp mà thôi, tỷ như Bạch Vân Hòa Thượng, Bạch Vân là ai? Bạch Vân là Ngài, ngày nay Ngài ở trong cửa Đạo, trong một cơ quan trọng yếu của Tam Kỳ Phổ Độ nầy.
Bạch Vân Hòa Thượng kiếp trước là Đức Quan Âm Bồ Tát đầu kiếp ở bên nước Tàu trước, rồi mới đầu kiếp ở bên xứ Việt Nam, ta kêu là Thanh Sơn Đạo Sĩ tức nhiên là Trạng Trình đó vậy, Thanh Sơn Đao sĩ dầu kiếp bên Pháp là Ralagode Bourgall, 52 kiếp có một kiếp trọng hệ có thâm tình với nòi giống Việt Nam ta hơn hết, chúng ta có hạnh phúc lắm, mới được Ngài đầu kiếp ở trong nước hai lần, lần thứ nhứt đầu kiếp làm người đàn bà tức nhiên Thị Kính, chúng ta đã biết Quan Âm là ai rồi. Bởi vậy cho nên buổi Tam Kỳ Phổ Độ nầy Đức Chí Tôn đã chọn lựa một Đấng cao trọng cho đến mặt địa cầu 68 nầy, có lẽ chúng ta đều biết danh Ngài hết, nhứt là Ngài lựa chọn một Đấng có thâm tình với nòi giống chúng ta hơn hết, cái tánh đức từ hòa yêu ái của Ngài, chúng ta đừng kiếm Đức Quan Âm đâu xa hơn là Thị Kính. Kiếm cái đức Thị Kính thế nào, thì tánh đức trạng thái của Quan Âm như thế ấy, tánh đức của Ngài là từ hòa nhẫn nhục, hiền lương, ân tha mọi điều oan khúc, chịu nổi thắng nổi thời gian là Đức Quan Âm. Đức Quan Âm chơn linh của Ngài là thời gian cho nên tánh đức của Ngài không bao giờ thối tâm ngã lòng hay bật rật, gấp rút, lật đật. Bà là người điềm tỉnh, bởi thế cho nên Bà đầu kiếp người ta vu oan đủ mọi điều, nhưng tánh đức từ hòa nhẫn nại của Bà vẫn chịu nổi đủ phương diện khổ não và oan khúc, chịu nổi thế tình ấy là một vị Trạng Sư đắc lực và oai quyền nơi cảnh thiêng liêng hằng sống bảo vệ cả nữ phái vậy. Chúng ta lấy làm hạnh phúc lắm Bần Đạo lấy làm mơ vọng và Bần Đạo nói quả quyết rằng: rất hạnh phúc cho chơn linh kẻ nào được gia tộc của Ngài, gia tộc vinh hiển tối cao tối trọng trên cửa thiêng liêng hằng sống, dầu bên cửa Thiên Oai hay là bên Cực Lạc thế giới cũng thế.
Bần Đạo nói quả quyết rằng: Ngài là một Đấng Phật Mẫu yêu ái hơn hết, tôn trọng hơn hết.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 18-02-Kỷ Sửu nhằm ngày (dl. 17-03-1949).
Q.3/06: TÔN GIÁO VÀ ĐẢNG PHÁI PHÂN BIỆT NHAU THẾ NÀO?
Tại Đền Thánh đêm 27 tháng 2 năm Kỷ Sửu (1949)
Nước nhà nòi giống của Việt Nam ta sẽ tới một giai đoạn trọng yếu là giai đoạn định quyết vận mạng của nó, cho nên đêm nay Bần Đạo đình nghỉ giảng cuộc giục tấn trên đường thiêng liêng hằng sống, đặng giảng về Tôn Giáo và Đảng Phái phân biệt nhau thế nào.
Bần Đạo đã thấy sự ơ thờ của toàn thể Quốc Dân Việt Nam trong thời buổi nầy, sự ơ thờ ấy làm cho tâm thần hoang mang không chủ định đặng quyết hẳn hành tàng của chúng ta, đối với nòi giống nước nhà, hoang mang không biết giá trị của nền Tôn Giáo và giá trị của Đảng Phái ra sao, đặng định giá trị của mỗi cơ quan, ta phải nhận xét cho tận tường phân biệt, trọng khinh thì mới có định quyết giá trị của nó đặng.
Buổi xưa kia mấy ông mấy bà cao kỷ trưởng, họ mua một cái võng họ đếm võng mấy con, mua hàng họ quan sát kỹ lưỡng đếm từ sợi, coi mình gì, hàng hay the hay lãnh, xem xét một cách dè dặt rồi mới mua, còn buổi sau nầy con người thờ ơ, không tìm tòi giá trị của nhơn vật hình tướng, có lạ chi đâu một nền Tôn Giáo nó đặc biệt, khác hẳn với Đảng Phái, ta thấy hai hình tượng khác nhau Tôn Giáo là tinh thần của nhơn loại, trên mặt địa cầu nầy chủ hướng định thân mình vào cơ quan giải khổ cho mình, do nơi tinh thần của nhơn loại, nó đòi hỏi sự thiếu thốn của nó, mới sản xuất ra nền Tôn Giáo.
Tỷ như bên Âu Châu buổi Đạo Moïse để lại cho dân Hébreux là dân Do Thái ngày nay, trải qua mấy thế kỷ mới bày ra các Đảng Phái khác nhau, các Đảng Phái ấy phân chia bốn năm Chi phái làm loạn lạc tinh thần của Quốc Dân. Tinh thần của Quốc Dân mà không thống nhứt được, tức nhiên sanh loạn cho cơ thể hữu hình của nền chánh trị, do đó sắc dân cầm đầu tinh thần đã loạn, thành ra tinh thần của các sắc dân ở Âu Châu cũng loạn hết, rồi họ tìm tòi tìm lời tiên tri nói rằng: Sẽ có Đấng cứu thế đến, họ trông đợi, họ đòi hỏi cho đến ngày có Đức Chúa Jésus Christ đến làm chủ tinh thần họ.
Cũng như bên Ấn Độ nền Tôn Giáo tối cổ chia ra nhiều Đảng Phái, lát nữa Bần Đạo sẽ tỏ tại sao Tôn Giáo lại chia ra Đảng Phái. Bởi chia ra nhiều Đảng Phái cho nên các sắc dân Ấn Độ là nước đã nắm chủ quyền tinh thần đạo đức buổi nọ, tinh thần chia nhiều Đảng Phái thì xã hội chia nhiều đẳng cấp, làm cho thống khổ nhơn sanh chẳng biết bao nhiêu, dân một nước mà coi như thù nghịch, ngày giờ nầy ta thấy đám dân Intouchables nghĩa bất khả đụng chạm vẫn còn làm cho xã hội Ấn Độ khổ chẳng biết bao nhiêu, rồi họ tìm tòi lời tiên tri nói sẽ có Phật đến, có nhiều kẻ tu hành họ trông đợi, họ hối hả, họ giục thúc, có người thì đứng một chơn đến cả đời, kẻ thì trồng chuối ngược, người khác nằm trên chông gai, đặng đợi Phật đến họ mới thôi hành xác, họ đợi thì sẽ có Đấng đến lập Tôn Giáo.
Còn Đạo Cao Đài ngày nay tại sao mà có? Bởi vì văn minh duy vật tăng tiến quá sức tưởng tượng của loài người làm cho cả tinh thần của loài người phải xu hướng, tức nhiên họ xu hướng theo con vật của họ mà bỏ phận làm người, họ mặc kệ nhơn sanh, vì lo cho hình thể nhiều quá, họ sang trọng sung sướng không kể tâm hồn ra gì, họ xu hướng duy vật, họ phản duy tâm, làm cho nhơn loại mất cả phẩm cách, không đáng phận làm con người nữa, cả Vạn Quốc trên địa cầu này, nhìn thấy sự nguy hiểm trên bước đường tương lai, nên nhơn loại mơ mộng tìm phương pháp định phẩm đặng vi chủ vật hình nhục thể của họ. Nhơn loại mơ mộng tiềm tàng, vì đó xuất hiện Tôn giáo Cao Đài ngày nay. Tôn giáo là cả tinh thần của nhơn loại đòi hỏi mà thành tượng.
Bây giờ nói các Đảng Phái, nói Đảng Phái Tôn Giáo trước, sẽ nói đến Đảng Phái Quốc Sự sau, ta thấy các Đảng Phái của Gia Tô Giáo như: Saint Bernardin Jésuites, Dominicaine các Đảng Phái ấy nương nơi gốc Đạo Thiên Chúa mà thành lập, như Đạo Tiên có hai người đặc sắc trọng yếu, là hai môn đệ của Đức Lão Tử là Dương Châu, Mặc Địch. Dương Châu là chủ trương thuyết tồn tâm, còn Mặc Địch chủ trương thuyết siêu phàm. Trong Khổng Giáo có nhiều thuyết khác nhau, như Khổng Cấp tức là cháu Khổng Phu Tử thọ giáo với Ông nội mà nêu ra thuyết trung dung, còn Mạnh Tử là học trò của Tử Tư lại lấy thuyết nhơn nghĩa làm căn bản, thành ra hai thuyết hai Đảng Phái. Đạo Cao Đài khai sanh đã 24 năm, bởi tinh thần quá mạnh mẽ, nên các Đảng Phái biến tướng rất mau ra đủ thứ, nào là Tiên Thiên, Ban Chỉnh Đạo v.v... người ta thấy ảnh hưởng của Đạo Cao Đài mà làm ra các Chi Phái.
Bây giờ nói về các Đảng Phái Quốc Sự, nó cũng nương theo Đạo mà ra, các Đảng Phái chính trị trong toàn thể nhơn loại, phần nhiều bên Âu Châu chịu ảnh hưởng của Thiên Chúa Giáo mà thành tượng. Cũng như bên Á Đông nầy, ta thấy các Đảng Phái, đừng nói chi xa, gần đây ta thấy có Phật Giáo Hòa Hảo, phái đi tu tại gia ta thấy Minh Sư, Minh Đường v.v... đều có ảnh hưởng của Phật Giáo mà thành tượng ra. Đạo Cao Đài giờ phút này nó bị 12 phái ở Hậu Giang hiệp nhứt, ở bưng biền kháng chiến vì Quốc Sự đó.
Tình trạng của Chi Phái khác với Tôn Giáo, Tôn Giáo làm mẹ. Chi Phái là con, do nơi tinh thần của Tôn Giáo sản xuất. Bần Đạo thấy trong cửa Đạo Cao Đài nầy, con cái Đức Chí Tôn còn ơ thờ lắm, để ý coi họ có biết giá trị của họ không, mà Bần Đạo lấy làm buồn, thấy họ bỏ mẹ chạy theo con họ còn dốt quá.
Bây giờ nói về Quốc gia đương nhiên thiên hạ thấy các Đảng Phái tương tranh làm cho loạn lạc giặc giả tai nạn do các Đảng Phái đem lại đủ thứ, nào Cộng Sản Đảng, Việt Nam Quốc Dân Đảng, các Đảng Phái Quốc Sự càng nhiều làm cho nước nhà thêm biến loạn, Đảng Phái nào cũng quyết tương tranh để trong óc ý nghĩa thâu đoạt lực lượng làm bá chủ của nước, lại còn có kẻ dám cả gan xưng Vương, xưng Đế, cái mộng đó là cái mộng nhà thương Biên Hòa đa! Chúng ta thử tìm coi tại sao họ không định quyết giá trị, ai trọng ai khinh, nhà Vua xuất hiện lập nền Vương Đạo đã 4.000 năm, tượng hình đó sản xuất do nơi Đạo, nó là hiện tượng của Nho Tông của Đạo, nói là Đạo đó chớ, còn Đảng Phái kia bất quá là Đảng Phái mà thôi, chỗ nào trọng khinh đã thấy rõ rệt rồi, dầu cho các Đảng Phái có tranh Vương quyền của Bảo Đại, Bần Đạo dám quả quyết không thể gì họ thắng đặng. Thiên hạ tưởng Bảo Đại về đây sẽ loạn.
Bần Đạo dám chắc rằng: Ngài về đây đứa con nít cũng theo nữa, nếu cả nguyện ước của toàn thể Quốc Dân mong mỏi mà Ngài đạt vọng được, Ngài về đây ai cũng theo, bởi giá trị hai đàng rõ ràng khác nhau, một bên là do tướng diện của Đạo vi chủ, còn một bên các Đảng tranh quyền đoạt vị, bất quá những tấn tuồng Thái Sư soán ngôi Vua mà ta thường nghe thấy, rốt cuộc rồi cũng sụp mão, cũng chết, chớ làm gì được, để cho phép họ hoang mang thì vô lý quá, thiển kiến quá, phải biết giá trị mình đặng định quyết.
Bởi cớ bên nầy ngồi nghe tin vô tuyến điện nói Đức Hộ Pháp đem vấn đề Việt Nam ra bàn tán hoang mang, Bần Đạo chỉ cười thầm.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 27-02-Kỷ Sửu nhằm ngày (dl. 26-03-1949).
Q.3/07: ĐỨC CHƯỞNG ĐẠO NGUYỆT TÂM CHƠN NHƠN (VICTOR-HUGO).
Tại Đền Thánh đêm 22 tháng 5 năm Kỷ Sửu (1949)
Đức Victor Hugo tự xưng là Nguyệt Tâm Chơn Nhơn là một Đấng Thiêng Liêng tại Quảng Hàn Cung. Khi tái kiếp Ngài sanh tại thành Besançon Pháp Quốc nhằm ngày 26-02-1802, Ngài từ trần tại Paris ngày 22-05-1885, hưởng thọ được 83 tuổi.
Từ buổi Đạo khai tại Tần Quốc, thì Ngài giáng cơ với danh hiệu là Chưởng Đạo Nguyệt Tâm, Chưởng Quyền Hội Thánh Ngoại Giáo, Ngài là một nhà thi sĩ trứ danh của nước Pháp trong thế kỷ thứ 19, lúc còn thiếu thời Ngài thường châu lưu ở nước Italie (Ý Đại Lợi), ở nước Espagne (Tây Ban Nha) kế trở về Paris. Khi lên 10 tuổi thì Ngài đã sẵn có tài thi văn đến lúc trưởng thành thì những văn từ thi phú Ngài làm đều là những tác phẩm lỗi lạc hoạt bát tình tứ cao thâm, nên trong trường đời Ngài đã nổi danh là thi bá, đứng đầu trong các bậc kỳ nhân trong thời buổi ấy. Lần hồi tên tuổi của Ngài đã nêu danh nơi Hàn Lâm Viện và Ngài trở nên một Đại Công Thần danh dự của Pháp Triều buổi ấy.
Đến sau cuộc cách mạng 1848 tại nước Pháp, Ngài đắc cử vào Hạ Nghị Viện lớn lao để bảo tồn nền chánh trị và luật pháp trong nước. Lúc Ngài lãnh trách nhiệm trọng yếu ấy, Ngài đã lắm phen trổ tài hùng biện và binh vực quyền lợi cho dân Pháp với những lẽ công chánh nhứt là sự tự do. Nước Pháp trong buổi ấy chưa yên, nên cách 3 năm sau ngày 2-12-1851 lại có cuộc nội biến. Ngài phải buộc lòng từ giã Paris ra ngoại quốc, mãi đến năm 1870 ngày 4-9 Ngài mới trở lại trường chánh trị. Lúc đó Ngài đặng 68 tuổi, từ ấy đến sau Ngài đã đem hết nhiệt tâm mà chuyên lo cần mẫn vì nước vì dân cho đến ngày qui vị.
Trong kiếp sanh của Ngài rất vinh diệu cho nước Pháp ngoài những chuyện sử thi văn kiệt tác đối với quê hương dân tộc Pháp, Ngài còn để dấu trong trường chánh trị một danh thể bất thủ. Vì vậy mà khi Ngài qui vị, đám táng Ngài rất long trọng, quan cữu và linh vị đặng hưởng đặc ân của nước Pháp để vào Công Thần Miếu (Panthéon).
Ấy vậy thật là một vĩ nhân và một Đại Công Thần nước Pháp đó vậy. Bần Đạo cũng nên cho toàn đạo hiểu rồi đừng lầm tưởng chúng ta ngày nay đương tôn sùng lễ bái kỷ niệm một vị vĩ nhân Công Thần của Pháp như trên đã nói đó là tôn sùng người Pháp.
Nghĩ vì Ngài cũng có công trình khai đạo từ sơ khai thọ mạng lịnh Đức Chí Tôn lãnh quyền Chưởng Đạo cầm đầu Hội Thánh Ngoại Giáo. Ngài thường giáng cơ giáo hóa và phong Thánh cho chư Chức Sắc Ngoại Giáo, huống chi chúng ta ngày nay cả thảy đều đặng hiểu biết tiền kiếp của Ngài trước kia tái kiếp nước Pháp thì Ngài đã có một kiếp sanh tại nước Việt Nam là Đức Nguyễn Du là một nhà thi sĩ, tác phẩm truyện Kim Vân Kiều mà ngày nay cả thế giới đều nhận bản tác phẩm ấy là vô giá, nhứt là chúng ta dân tộc Việt Nam càng vinh hạnh hơn hết.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996:
■ Ngày âl. 22-05-Kỷ Sửu nhằm ngày (dl. 18-06-1949).
■ Ngày dl. 22-05-1949 nhằm ngày (âl. 25-04-Kỷ Sửu).
Q.3/08: LUẬT ĐẠO LIÊN QUAN VỚI LUẬT ĐỜI.
Tại Đền Thánh thời Tý mồng 5 tháng 6 Kỷ Sửu (1949)
Đêm nay Bần Đạo thuyết Đạo có liên quan với Thể Pháp tức nhiên nói rõ luật Đạo có liên quan với luật Đời.
Ta thấy cơ quan Tạo Đoan Càn Khôn Võ Trụ là cơ quan của Đức Chí Tôn đã phụng sự Vạn Linh về Chơn Pháp, vậy điều đó Bần Đạo đã thuyết rồi, thuyết ấy Bần Đạo nói rằng: đất phải hy sinh đặng phụng sự thảo mộc, nghĩa là phải hy sinh đặng nuôi cây, cây hy sinh với thú, tức nuôi thú, mà loài người đứng đầu thú mà thôi.
Vì cớ nên cổ luật buộc nói thú phải hy sinh phụng sự cho người, phụng sự không đi quá mức hy sinh đặng nuôi người, một lẽ vì lầm hiểu chơn pháp nhơn sanh lầm lạc.
Bây giờ tới mức nữa, người phải hy sinh phụng sự cho Trời chắc cả thảy đều nhớ cổ luật. Thượng Cổ khi tế Trời thì đem người ra giết, rồi thiêu người như thú vật, tế sống loài người thời hạn cổ luật ấy khá lâu đã dùng tế vật hiến cho Đức Chí Tôn, nên Bần Đạo chiếu theo sử thì đã có từ bốn chục ngàn năm, trước pháp luật ấy thử nghĩ coi số nhơn mạng buổi nọ phải đem ra làm tế vật đặng tế Đức Chí Tôn.
Mới đây trước lịch sử 6.000 năm đời Vua Jacob, trước 6.000 năm theo Đạo luật của dân Hébreux (Do Thái) luật giết người lúc hy sinh dâng con người làm của tế Trời, vẫn còn vậy.
Hỏi Đức Chí Tôn có cho như vậy chăng? Đức Chí Tôn đòi hỏi như vậy chăng? Bần Đạo dám chắc, không.
Vì chính mình Ngài tạo Vạn Linh, phụng sự cho Vạn Linh, có lẽ nào cho nhơn loại lấy sanh mạng làm tế vật đặng tế Ngài bao giờ, ta thấy phụng sự Vạn Linh, luật ấy đi từ vật loại đến nhơn loại, tức nhiên nhờ ta thấy con ong có một ong chúa phụng sự, phụng sự đến đâu nó làm chúa vẫn có quyền chúa, vì cớ nên có nhiều phận sự sanh sản nòi giống duy nhứt của nó mà thôi.
Như hồi thượng cổ trước đây 150.000 năm, loài người cũng vậy, cũng một khuôn luật vậy, Đạo pháp còn để lại ta gọi Đấng vi chủ, các sắc dân tiếng phạn gọi Manu. Hiện giờ con ong con mối Chúa nó cũng vậy, nó phụng sự cho cả ổ mối hơn ai hết. Bởi chính mình mối chúa nó phải sản xuất cả chủng tộc mối trong ổ đó.
Ta ngó thấy các triều chính trong xã hội nhơn quần, lập nền chánh trị có tương liên với quốc dân do một khuôn khổ, dân chúng chịu một pháp luật, luật pháp ấy muốn ai thi hành phải có triều chính tức nhiên chính mình nhà Vua phải phụng sự quần linh, là phụng sự trong quốc dân vậy. Mà một mình Vua trị toàn thể lê dân không kham, nên phải lập Triều chính là từ bực Tể tướng dĩ chí đến bực Phủ, Huyện, hiệp lại thành Chánh trị, quốc gia thay thế hình ảnh của Vua đặng phụng sự quốc dân mà thôi.
Ta thấy từ vật loại như mối chúa, ong chúa, là chúa của loài mối, chúa của loài ong, phụng sự của nó cũng phải lập ra có triều chính mới cầm phương pháp để phụng sự được, còn nhà Vua lập Triều chính để làm gì? tức nhiên là biến thân ra muôn, ngàn, triệu đặng phụng sự cho lê dân một nước mới được. Bây giờ Đức Chí Tôn phụng sự, Ngài phụng sự cho cả Vạn Linh toàn thiên hạ, Ngài phải làm thế nào, Ngài dùng phương pháp nào, phụng sự Vạn Linh nầy, Ngài lấy Vạn Linh phụng sự cho Vạn Linh, Ngài lấy đất nuôi cây, lấy cây nuôi thú, lấy thú nuôi người không lạ gì, lấy thú đặng phụng sự cho người, Ngài dùng căn bản ấy đặng phụng sự. Như một ông Vua lập Triều Chánh dùng dân phụng sự cho dân, một khuôn khổ mà thôi, Đức Chí Tôn ngày giờ nầy đến lập Đạo tức nhiên Ngài muốn phụng sự nhơn sanh nơi địa cầu 68 nầy.
Ấy vậy, ta thấy mối chúa vì phụng sự loài mối mới làm chúa mối. Con ong chúa vì phụng sự loài ong mới làm chúa của ong. Nhà Vua vì phụng sự quốc dân mới làm Vua.
Nên Đức Chí Tôn vì phụng sự Vạn Linh mới làm Trời, Ngài lập Triều chánh là Hội Thánh tức là Thánh Thể của Ngài, muốn Thánh Thể của Ngài đủ quyền phụng sự chính mình Ngài lập và cho quyền đặc biệt Thánh Thể Ngài là phần tử của Ngài, tức là Ngài vậy.
Ngài lấy Triều chánh trên Thiên Cung thế nào, Ngài lập Thánh Thể dưới nầy cũng y như thế ấy, như thế ta thấy Thánh Thể tức nhiên Hội Thánh có đủ các phẩm Thần, Thánh, Tiên, Phật tại thế không phải mơ mộng. Ngài chỉ dùng công nghiệp của người mà phải đền trả bồi thường.
Vậy Đức Chí Tôn đến cậy nhơn sanh làm Thánh Thể của Ngài, Ngài phải bồi thường, phải trả mắc cho người, người ta mới phụng sự cho Ngài trả bằng cách đến ký hòa ước với loài người nhứt là với dân tộc Việt Nam nầy trước đã, nếu các người thay thế cho Tôi phụng sự con cái Tôi, Tôi có phận sự lập vị Thần, Thánh, Tiên, Phật cho các người chịu không? Nếu các người chịu làm tôi cho con cái Tôi, cho vừa sức Tôi muốn, cho vừa sở ý Tôi định, thì Tôi sẽ trả mắt cho mấy người, vì công ấy Tôi thường lại ngôi Thần, Thánh, Tiên, Phật, tức nhiên Tôi đem đưa cơ quan giải thoát nơi tay mấy người, mấy người đạt được nơi thế nầy thế nào, nơi cõi vô hình Tôi cũng không chối cải.
Bởi chính mình Ngài cậy làm tôi tớ cho con cái Ngài tại thế nầy, Ngài mới đem Phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật đưa cho ta.
Nếu chúng ta đạt được, khi trở về cõi hư linh Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật và Đức Chí Tôn không hề chối cải mà chẳng có quyền luật nào định cải được phẩm vị của chúng ta do phụng sự Vạn Linh mà lập được tại thế nầy.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 05-06-Kỷ Sửu nhằm ngày (dl. 30-06-1949).
Q.3/09: CÁI ÁN TỬ HÌNH BẤT CÔNG CỦA XÃ HỘI.
Tại Đền Thánh đêm rằm tháng 6 năm Kỷ Sửu (1949)
Nhân đương thuyết về sự tương khắc của Thế Đạo và Chơn Đạo, trong cơ quan phụng sự Vạn Linh, Bần Đạo ngày nay thừa dịp ấy thuyết về vấn đề án tử hình của các xã hội nhơn quần đã dùng trị thế với một phương pháp phi pháp. Bằng cớ là Đức Chí Tôn đã phú thác cho Bần Đạo đảm nhiệm rất khó khăn và rất trọng yếu, Ngài căn dặn nhiều phen làm thế nào trừ cho được cái án tử hình, do xã hội giết người một cách phi pháp và nơi nào cây cờ Đạo trương lên bất kỳ nước nào, xứ nào, phải làm sao cho được bóng cờ ấy trở nên Thánh Địa, tức nhiên không có quyền hành nào xâm phạm nó đặng bảo vệ sanh mạng nhơn loại cả mặt địa cầu, tưởng lại ta thi thố có kết quả cùng chăng tại đó ta đã để một dấu hỏi?
Đương nhiên Bần Đạo thi thố phụng sự đối với Đức Chí Tôn để phụng sự nhơn loại. Buổi Bần Đạo ở hải ngoại về, khi ở Madagascar có quen biết hai người thân sĩ giống dân Malgache hai vị thân sĩ ấy vì tội phiến loạn tức vận động phục quốc của họ, bị Pháp triều lên án tử hình. Bần Đạo đánh điện văn xin hủy án tử hình ấy, hoặc thay bằng án nào khác hơn là án giết người. May thay! Nước Pháp là nước cầm quyền được văn minh chiếu diệu nơi địa cầu nầy, ai cũng biết, lại là nước đề xướng nhơn quyền. Ngày nay, Bần Đạo hữu hạnh thấy vụ án tử hình ấy được đem xử lại.
Lại nữa, khi Bần Đạo hội kiến cùng Cựu Hoàng Bảo Đại tại Đà Lạt trước khi về có để lại cho Người một bức cẩm nang, công việc hành tàng phục quốc trong bức cẩm nang, vấn đề đầu tiên hơn hết là bỏ án tử hình, và toàn xá các tù nhơn. Tại sao Đức Chí Tôn phải căn dặn Bần Đạo hủy bỏ án tử hình, và tranh đấu đến kỳ cùng cho kết liễu điều ấy. Bởi nó phi pháp không có quyền năng nào hơn mặt địa cầu nầy, hay là Càn Khôn Vũ Trụ đặng làm chúa mạng sống của Vạn Linh, cả cái chi mình có quyền vi chủ nhứt định xài nó, dùng nó, mình là chủ quyền đặng, cái chi không phải mình vi chủ mà mình cướp đoạt là có tội, mạng sanh không phải mình là vi chủ, Đức Thượng Đế vi chủ. Duy Đức Thượng Đế có quyền định sống chết, ngoài cái quyền của Đức Thượng Đế tức Đức Chí Tôn là Đại Từ Phụ của chúng ta thì không có quyền nào định chết sống cho ta được, chết sống ấy không phải là mình định được. Lại nữa ta biết con người sanh ra nơi cõi thế nầy có ba xu hướng:
1. Là trả quả.
2. Là học hỏi.
3. Là lập vị.
Đi đến đặng trả quả tức là làm đầy tớ cho đời, học hỏi tức là học trò của đời, còn đến lập vị, tức là đến làm học trò khó của đời.
Nếu nói từ thử đến giờ có ông chủ nào có quyền giết đầy tớ phi pháp chăng? Không có, dầu cho con vật như con ngựa kia rủi mắc chứng không chịu cỡi, ta cho kéo xe, không kéo xe được ta tập nó cày, chớ không phải nó không được một việc gì rồi đem giết. Con người đến thế nầy cũng vậy, làm đầy tớ trả quả do nơi căn quả về trí thức tinh thần họ không đủ để bảo vệ thiên lương của họ, ngoài ra phương pháp giáo hóa ấy nhơn sanh nơi mặt địa cầu này còn có nhiều điều mâu thuẫn nếu như một người nào không được chí thiện, chí nhơn, ta thử hỏi: Ai là người trên mặt địa cầu nầy dám nói mình là chí thiện, chí nhơn đặng?
Đức Chúa Jésus Christ tức là Gia Tô Giáo Chủ nói: "Nul n'est parfait ici bas seul notre Père au delà des Cieux qui est parfait". Không ai dưới thế nầy được toàn mỹ toàn thiện, chỉ có Đức Cha ta trên Thiên Cung mà thôi.
Một cơ quan tại thế nếu nói các chơn linh, mang xác phàm đặng học hỏi, họ đã học bài gì ở thế gian, ta chỉ thấy nước nầy tranh sống với nước kia, mạnh hiếp yếu, giàu hiếp nghèo, cả sự bất công nơi mặt địa cầu đã dẫy đầy không phương thế gì giải cho hết trong khi nước mình hơn nước người ta, đưa binh khí trong tay, xúi giết nhau, quen thói giết rồi, chúng giết người lại đem ra giết chính mình, đem cái giết ra dạy nó làm, rồi trở lại giết nó.
Giờ phút nào chánh trị nơi mặt địa cầu biết cung kỉnh mạng sanh nhơn loại đồng thể thì đừng dạy nhơn loại dữ. Thánh nhơn đã có nói: "Thánh" bất giáo nhi thiện, "Hiền" giáo nhi hậu thiện, "Ngu" giáo diệc bất thiện, rồi hỏi lại: "Bất giáo nhi thiện phi thánh nhi hà, giáo nhi hậu thiện phi hiền nhi hà, giáo diệc bất thiện phi ngu nhi hà".
Nhơn sanh nơi mặt địa cầu nầy vẫn nhiều từng hạng, từng lớp, biểu sao kẻ ngu làm Thần, Thánh được, kẻ dại biết phương pháp cơ quan trị thế được, đương nhiên ta thấy phương pháp giáo dân một cách phi pháp biểu sao không dữ, không tàn ác nhơn sanh buổi nầy do ông thầy xã hội nhơn quần dạy họ dữ, tới chừng họ dữ, đem họ giết phi pháp, dạy hiền đi, giờ phút nào dạy hiền mà họ còn dữ chừng đó mới giết họ chớ!
Quái dị thay! Đạo Đời vẫn tương khắc điều thiệt hại ấy do họ muốn lập quyền, giành quyền giáo hóa nhơn sanh họ cũng ngăn đạo giáo, họ giành quyền giáo hóa trong tay để họ dạy thiên hạ dữ, hỏi đem ra mặt công lý của tòa lương tâm Đạo kiện Đời thử coi? Tại sao họ giành quyền dạy người ta dữ!
Giết người ta rồi chừng ấy giữa tòa lương tâm họ sẽ trả lời thế nào? Bần Đạo nói quả quyết giờ phút nào còn một hơi thở cuối cùng, Bần Đạo cũng nhứt định chiến đấu cho tiêu hủy cái án tử hình của nhơn loại.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 15-06-Kỷ Sửu nhằm ngày (dl. 10-07-1949).
Q.3/10: TÒA THÁNH LÀ TẤM GƯƠNG SOI RỌI ĐỨC TIN.
Tại Đền Thánh đêm 1 tháng 7 năm Kỷ Sửu (1949)
Đêm nay cũng khá đông nhưng Bần Đạo để đợi đôi ba phen coi thử, nếu quả như con cái Đức Chí Tôn siêng năng biết lo liệu học hỏi đạo đức, Bần Đạo sẽ thuyết về bí pháp, để đợi kỳ giảng nữa coi. Bần Đạo thuyết về Tòa Thánh đối với Chi Phái Đạo, và các Đảng Phái Đời. Chúng ta đã đến giai đoạn phải ra gánh vác đảm nhiệm trọng trách đặng nâng đời, đặng dung hòa các Tôn giáo, đảm nhiệm ấy không dễ gì làm, nếu tinh thần chúng ta không quyết đoán định phận mình cho quả quyết, vả chăng Tòa Thánh là nơi Thánh Thể Đức Chí Tôn, cầm quyền Đạo Giáo, về mặt Đạo giá trị của nó thiên hạ định đặng là do nơi hành tàng của toàn thể con cái Đức Chí Tôn, tức toàn Thánh Thể của Ngài vậy.
Bần Đạo còn nhớ lại buổi mới mở Đạo tại Tây Ninh nầy, về một lời quả quyết của Đức Chí Tôn, đã hứa với chúng sanh Ngài quyết hẳn rằng: Chi chi cũng tại Tây Ninh nầy mà thôi, bất kỳ dầu thể pháp hay là bí pháp, dầu cả hình trạng Đạo Giáo hay tướng diện của nền Tôn Giáo của Ngài xuất hiện đều do nơi nầy mà thôi.
Buổi ấy ai cũng phân vân, Bần Đạo cũng vậy, mà chắc con cái Đức Chí Tôn cũng như Bần Đạo, buổi nọ nền chơn truyền của Chí Tôn chưa ra thiệt tướng, bởi xuất hiện nhằm thời buổi đó, khó mà định hình thể được là vì quyền đời đương cường liệt ép bức, về quyền Đạo các nền Tôn Giáo đương thời đủ năng lực đủ oai quyền có thể diệt tiêu nó đặng mà chớ, lại nữa cả con cái Ngài buổi nọ không bao nhiêu, Đạo mới mở ra nên còn thiểu số, phần nhiều là những kẻ thường nhơn nghèo khó mấy tay cầm giềng mối Đạo buổi ban sơ cũng bơ vơ không biết lập phận mình, chính Bần Đạo buổi nọ khi nghe Đức Chí Tôn nói chi chi cũng tại Tòa Thánh nầy mà thôi, ngó lại thấy hiện tượng của Đạo nghèo đến nước không phương thế làm chùa để mượn Từ Lâm Tự của nhà Thiền tức của Hòa Thượng Giác Hải làm mới nửa chừng họ muốn cho mượn đặng lợi dụng mình làm cho xong, xuất của ra làm, chừng mở Đạo vừa xong quyền Đời quyền Đạo xúm lại đè nén muốn hạ nhục làm cho rẻ giá trị, đòi chùa lại, đuổi đi, thật vậy họ đuổi đi phải đi cấp thời, mua được đất Long Thành ngó lại toàn rừng già thú dữ đầy cọp beo đủ thứ, như thế ấy mà nói chi chi cũng tại Tòa Thánh Tây Ninh nầy mà thôi. Nếu buổi ấy ai đức tin không vững chắc còn có nước trốn mà đi, một phần đã từ bỏ Đạo vì lẽ ấy, còn những người có đức tin một chút nói rằng ở coi, coi họ làm sao tương lai sẽ như thế nào? Nếu nên thì mình theo, bằng không nên thì đả đảo rồi bỏ đi. Như vậy mà vẫn còn một đám người nữa vì thương chúng sanh kính trọng con cái Đức Chí Tôn đem đức tin để trọn vẹn nơi Ngài lo lắng cho tương lai của nhơn sanh, tự hỏi: nếu lời hứa của Đức Chí Tôn không thành tựu thì Đạo Cao Đài thành sao đặng, vì cớ, những kẻ ấy đem tất cả nhiệt huyết của mình đặng cứu dân, lời hứa của Đức Chí Tôn đem cả đức tin thực hiện cho thành tựu mong mỏi cứu tình thế, thấy khổ nhơn loại mà hy sinh tạo nghiệp, Bần Đạo ngó lại hai mươi mấy năm rồi biết bao nhiêu sanh mạng về gởi rừng nầy nơi nước độc bệnh chướng, nhìn lại Thánh Địa biết bao nhiêu mồ mã biết bao xương máu.
Lớp nào còn sống thì làm nô lệ cho Đời đặng tạo nghiệp cho Đạo, hình trạng thành tướng ngày nay là do giọt máu mồ hôi nước mắt của con cái Chí Tôn, tạo ra đó vậy, vì cớ, buổi ban sơ Đạo hèn hạ bị ép bức hiếp đáp, đời kiếm thế ra trước luật hình nên mới có tấn tuồng chi phái nổi lên đủ thứ hết, mấy người biết chi phái ấy là gì không? Là những kẻ chạy non, Bần Đạo muốn nói những kẻ đó, đã chạy, mình cầm lại sao đặng, chạy đi đâu thì chạy. Họ tạo ra chi phái, họ nói quả quyết ông Trời ở đây không phải ông Trời của họ. Họ nhứt định tạo ra một ông Trời riêng rồi sau đến mình phải chịu đóng cửa đặng cho thiên hạ quên thị nhục chưởi mắng, đóng cửa đặng đào tạo những em út có tâm hồn nhẫn nại, ngày nay nghiệp Đạo ra thế nầy ngó lại 24 năm mấy em làm xong chuyện đó, nghiệp Đạo giờ phút nầy đã cao trọng rồi đa, đã quá lằng mực thiên hạ khi rẻ, dường như đã đến đài vinh quang, đài vinh quang ấy tưởng lập ra vững chắc rồi không còn sợ ai nữa, chẳng những không sợ mà thôi mà có thể làm chủ của Đời và Đạo nữa. Mấy em, Bần Đạo đứng trước giảng đài nầy thừa lịnh Đức Chí Tôn, làm Anh cả mấy em để lời tâm huyết dặn rằng: Buổi mấy em bị áp bức mấy em sợ phải bảo vệ tức là phải tranh đấu, giờ phút nầy mấy em mạnh rồi có đủ oai quyền đủ năng lực nên bỏ phương pháp tranh đấu ấy đi, trải lớp từ bi ra đặng độ thế. Qua cho mấy em biết đại nghiệp của Đạo, ngày nay đáng làm anh, làm chủ được thiên hạ, không cần tranh đấu nữa, lấy từ bi mà đối với Đảng Phái một lỗi hai lầm, ngày nay ăn năn trở lại mấy em nhớ rằng Đền Thờ nầy là Đền Thờ chung của toàn con cái Đức Chí Tôn, không phải của riêng mấy em tuy hữu công đào tạo, nhưng không phải mấy em làm chủ, toàn con cái Đức Chí Tôn làm chủ, người ta về đừng có bạc đãi khi rẻ mích lòng Đức Chí Tôn, trái ngược lại nam cũng vậy, nữ cũng vậy, lấy tình ái vô cực của Đức Chí Tôn, lấy hình ảnh Đại Từ Bi an ủi họ, nhường nơi ăn chỗ ở cho họ, đặng họ cứu vãng chúng sanh về phần hồn ấy là lời tâm huyết. Qua cầu xin nơi mấy em đối với các Đảng Phái Quốc Sự. Đạo của mấy em như: cây cao mát mẻ, như nước suối trong veo tinh khiết, họ cũng muốn trú ngụ cho mát mẻ tâm hồn, họ đến nương bóng nơi mấy em đặng lập thanh danh của họ, mấy em nên từ bi, bác ái, nâng đỡ họ, cả em út can đảm hy sinh mạng sống để bảo vệ tài lợi của họ không kể công, họ đến nương Đạo với sự che chở của mấy em, mấy em cho họ nương đặng cho họ lập thân danh họ sẽ giúp lại mấy em tạo thời cải thế, đừng có bạc bẽo với họ, nương dựa một ngày một bữa hay bao lâu, uống nước phải biết nhơn biết nghĩa cho họ hiểu. Dầu Đế Vương chi nghiệp không giữ nhơn đạo thì không giá trị gì hết, biểu họ coi gương mấy em đối với họ thế nào thì Tòa Thánh đối với chúng sanh giờ nầy cũng thế, giờ phút nầy họ hân hạnh, tinh thần nhân đạo ngày kia họ sẽ mưu ích lợi cho thân danh họ.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 01-07-Kỷ Sửu nhằm ngày (dl. 26-07-1949).
Q.3/11: ĐỨC THƯỢNG ĐẾ ĐẾN CÙNG CON CÁI NGƯỜI ĐỜI ĐỜI.
Tại Đền Thánh ngày rằm tháng 7 năm Kỷ sửu (1949)
Đêm nay Bần Đạo lấy làm vui thấy kỳ đàn này được đông đảo, ít ra phải sốt sắng như vầy, chớ nếu ba kỳ lễ mà ai cũng siêng năng thì Bần Đạo sẽ khởi giảng Bí Pháp, kỳ nầy mới có hai còn giảng một kỳ thứ ba.
Hôm nay Bần Đạo giảng vấn đề trọng yếu với thời buổi nầy cốt ý để con cái Đức Chí Tôn biết lập trường của mình đối với cơ thể đời, đương nhiên trong giờ phút khó khăn nầy là Đạo Cao Đài đối với Quốc Tế tức đối với Vạn Quốc.
Vả chăng, con cái Đức Chí Tôn, nam nữ nhỏ lớn chán hiểu rằng Đạo Cao Đài không những một Tôn Giáo mà thôi, nó là Tôn Giáo trên các nền Tôn Giáo, không phải Đạo mà thôi mà là Đạo Cao Đài, tiếng Đại Đạo không phải chúng ta muốn mà đặng, chính Đức Chí Tôn muốn mới đặng.
Từ trước đến giờ toàn nhơn sanh không biết Đại Đạo là gì? Ngài để trong tay chúng sanh đặng chăng mấy ngàn năm rồi, ngày nay Ngài đến, con cái Đức Chí Tôn đều biết rằng nền Đại Đạo nầy chính tay Đức Chí Tôn sáng lập, chính Hộ Pháp giáng trần cầm quyền Bí Pháp. Bần Đạo nhớ một nền Tôn Giáo, như Đạo Thiên Chúa khi Đức Jésus Christ ban quyền cho ông Thánh Pierre, nói trước một câu, đã lập quyền cho Thiên Chúa Giáo khoảng 2.000 năm không có quyền nào đánh đổ cho nao núng. Đức Chúa Jésus hỏi các môn đệ vậy chớ Saint Jean Baptiste là ai? Các môn đệ trả lời là Ông Thánh tiên tri. Đức Chúa hỏi ta là ai? Các môn đệ đều nói: Chúa là Ông Thánh tiên tri như Ông Saint Jean Baptiste, chỉ có Ông Thánh Pierre nói: thiên hạ nói chi thì nói, ta đây quả quyết Chúa là Đấng Chúa cứu thế, là Chí Tôn giáng sanh vậy. Đức Chúa Jésus dạy các môn đệ Ngài trước mặt Ông Pierre, phần điều ấy không phải xác thịt nầy nói, của chính nguơn linh nầy nói. Tên Pierre, nghĩa là đá, trên cục đá nầy ta tạo đền thờ của ta, cửa địa ngục kia không qua đặng, ấy vậy Đức Chúa Jésus đã đưa cho Ông Thánh Pierre mà đến giờ phút nầy chưa có quyền nào làm cho nao núng vẫn còn tồn tại mãi.
Đạo Cao Đài ngày nay do Đức Chí Tôn đến, Ngài nói ta đến ở cùng các ngươi, ta sống cùng các ngươi, ta đem chơn pháp đến cho các ngươi đặng giải thoát, ta sẽ tận độ chúng sanh cứu vớt chúng sanh một lần nữa, ta quyết định ở với con cái ta đời đời chẳng cùng đến thất ức niên. Ngài ở với con cái của Ngài nên Ngài mới đến mà thôi, các lương sanh tức là các chơn hồn, hữu căn hữu kiếp đã tiền căn ở nơi Ngài mà ra, nơi thân hình thiêng liêng vô tận của Ngài mà đến gồm lại làm Thánh Thể của Ngài tức là Hội Thánh ngày nay vậy. Ngài hứa với con cái Ngài đời đời kiếp kiếp. Thử hỏi câu ấy của Đức Chí Tôn đối với nền Tôn Giáo nầy có thể sánh quyền hành Đức Chúa Jésus Christ ban cho Ông Thánh buổi nọ với Ngài đến ban cho ta, ta cần coi trọng khinh thể nào thì biết nền Đạo Cao Đài thực hiện Trời Người hiệp một đồng trị mới có cơ quan giải thoát chúng sanh đặng. Đạo Cao Đài là trên hết các Tôn Giáo như trên đã nói thì phải thế nào, phải chi Thánh Thể Chí Tôn phải thật hiện là Ông Trời tại thế gian nầy.
Làm Ông Trời không phải dễ làm, có làm Ông Trời đặng mới có phương dìu dắt toàn cả con cái Đức Chí Tôn đến đại đồng thế giái đặng thiên hạ mơ ước, thiên hạ đã ngưỡng vọng, thiên hạ đã tin cậy, giờ phút nầy đã thấy Vạn Quốc nhứt là ở Âu Châu, muốn đi tìm tới con đường giải thoát, con đường ấy tranh đấu tàn hại. Giặc giả chiến tranh nguyên do thế nào? Nguyên do tại tinh thần nhơn sanh ngày nay bất nhứt thất lạc tức nhiên tinh thần hết vi chủ rồi, giờ nầy nhơn loại khắp hoàn cầu tự nạp mình vào vòng nô lệ cho xác thân mà nó tham muốn tàn ác, với xác thịt ta không thể làm thỏa mãn đặng, họ sợ lắm, họ sợ cái xác thịt họ biết tinh thần, biết quyền hành của đạo vi chủ họ, biết giờ nầy xác thịt vi chủ sẽ dắt họ xô đẩy đến cảnh tự diệt, trước mắt họ sợ lắm. Mà hại thay! Họ sợ giặc rồi bí quyết của họ là tăng cường tức là làm cho tột bực cường liệt, họ dùng binh khí vô cùng tàn ác tưởng bảo vệ hòa bình, ai ngờ trái ngược lại ta không thế gì lấy khôn ngoan tưởng tượng được, sợ giặc lại muốn giặc, sợ chết họ lại tầm phương chết, lấy phương pháp chết mà tìm sống tìm sao đặng? Tại sao? Giờ phút nầy đại chiến thứ ba xảy tới là do mất tín nhiệm với nhau mà có giặc thất tín, nhơn loại đã thất tín với nhau nhiều rồi, vô đạo đức nhiều rồi, nên có phương pháp chân đạo, có tâm tình chơn chất chính nơi cửa Đạo có phương pháp giải thoát dễ dàng.
Hại thay! Họ lẩn quẩn không ngó ra bởi Vạn Quốc không ai tin ai cả, ta thấy nơi gia đình từ lời nói con cái tới lời nói của cha mẹ làm họ không tín nhiệm nhau, huống chi là toàn cầu. Một gia đình mà không chuẩn thằng, không có Đạo Giáo kềm giữ, gia pháp cho công chánh, yêu ái. Gia đình còn loạn lạc thay, huống chi là toàn cầu trong giờ nầy xã hội tạo nhiều lẽ bất công đối với nhơn loại vì muôn ngàn thế kỷ tạo sự bất công càng chồng chất nhơn tâm bất nhứt lẽ bất công càng ngày càng thêm, không thấy giảm, biểu sao không phát ra phản động lực để phản đối sự bất lực của xã hội, nên mới có tấn tuồng thống khổ tương tàn tương sát. Chủng tộc khác với nhau tương tàn đã đành, đến cùng chung chủng tộc còn sát hại nhau vì cớ có cơ quan tự diệt.
Ngày giờ nào Đạo Cao Đài đủ quyền năng tinh thần đem công chánh và yêu ái làm thuốc trị bịnh, bịnh ấy tưởng đã bất trị, ngày ấy mới hòa bình thiên hạ và đại đồng thế giới, ta tự hỏi: Đạo Cao Đài làm đặng chớ? Hiện giờ các nước nào cũng tìm giữ linh hồn các bậc tài tình thượng lưu trí thức thông minh. Thấy nguy hiểm tưởng tượng lại tìm phương giải ách họ đang tìm như thầy bói mò. Cách tìm phương giải thoát chúng sanh giờ phút nầy Bần Đạo lấy làm hân hạnh thấy Đạo Cao Đài đưa ra cho họ thấy tuy vẫn ước mơ, mắt họ dòm thấy tượng hình cứu khổ giải thoát của nó. Thiên hạ đã thấy, Bần Đạo chắc con đường đi đến sẽ cứu thiên hạ và giải thoát có ngày quyết dọn cho họ đi đến, duy có điều trọng yếu là Thánh Thể của Đức Chí Tôn phải làm sao đáng Ông Trời tại thế nầy mới được.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 15-07-Kỷ Sửu nhằm ngày (dl. 09-08-1949).
Q.3/12: CÔNG NGHIỆP CỦA ĐỨC LÝ GIÁO TÔNG.
Tại Đền Thánh đêm 18 tháng Tám Kỷ Sửu (1949)
(Vía ĐỨC LÝ ĐẠI TIÊN)
Đêm nay ngày Vía Đức Lý Đại Tiên, tức nhiên Đấng cầm quyền Nhứt Trấn Oai Nghiêm nơi cõi Thiên Cung. Bần Đạo giảng giải nhơn dịp ngày lễ của Ngài, Bần Đạo cũng nên nhắc công nghiệp của Ngài, đã cầm quyền Nhứt Trấn Oai Nghiêm, còn phải chịu vì Đạo, buộc mình kiêm luôn chức Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, tức là anh cả toàn Thánh Thể của Đức Chí Tôn.
Bần Đạo nhớ lại lúc ban sơ nền Đạo mới phôi thai nền chính trị Đạo không có chi hết. Bần Đạo đã bị uy quyền ép chế thành thử buổi ấy chưa biết giá trị của mình lãnh sứ mạng nơi Đức Chí Tôn là gì hết, mà dám chịu lãnh quyền tước, khi chịu mang cái quyền tước trong mình thì thời buổi không có làm gì được hết.
Vì buổi ấy Đạo còn yếu ớt, non nớt bạc nhược, chẳng có đem lại mảy may năng lực gì cả, biết bao phen Đức Lý Đại Tiên giáo hóa khuyên lơn. Ngài chỉ có để lời ngọt dịu dạy bảo khuyên răn. Thánh Giáo dẫy đầy mà họ không biết tìm hiểu gì hết, chính mình họ, họ cũng không biết giá trị của họ là gì, Ngài đến cầm quyền định Đạo. Ngài cầm quyền Nhứt Trấn Oai Nghiêm. Vì thương Đức Chí Tôn nồng nàn đáo để mà vâng lịnh của Ngài cầm quyền Giáo Tông Đại Đạo mà hễ động đến vị Chức Sắc Thiên Phong, nam nữ nào thì Đức Chí Tôn than phiền, trách trừng răn biểu mình đừng làm chinh lòng với nhau. Thánh Giáo Đức Chí Tôn không coi mà cứ toàn mưu phá Đạo, hiện giờ có vài vị Chức Sắc Bần Đạo không nói tên, nghe lời Đức Lý răn phạt thì Đức Chí Tôn buồn, đến đổi Ngài hờn mà làm bài thi như vầy:
Con khổ mà cha sướng đặng nào,
Ai từng cắt ruột lại không đau.
Chia quyền lại sợ quyền chia lại,
Muốn liệng cho xa mảnh đế bào.
Vì giận Đức Lý rầy phạt một mình con thảm Ngài sướng đặng sao. Thật sự Bần Đạo biết thời buổi ấy Đức Chí Tôn và Anh Cả chúng ta bất hòa với nhau. Bần Đạo buổi nọ không biết gì hết, chưa biết phận sự mình là gì không biết làm sao ra cho thật hiện được, không biết quyền hành gì hết, duy có biết lý thuyết chớ không biết thi thố gì được cả.
Buổi nọ Đức Chí Tôn sợ Bần Đạo nghe lời theo Đức Lý mỗi phen chấp bút thì Ngài đều can gián. Chi chi con cũng nghe lời Thầy, đừng có nghe Thái Bạch nghe con. Khi đó rất đáo để cho Bần Đạo nếu không nghe lời Ngài, để vậy mãi, thì tiêu diệt không thể tránh khỏi, nhứt là nội loạn, còn ngoài thì Đảng Phái phá rối nền chơn pháp của Đức Chí Tôn, Ngài đến chỉ cho Bần Đạo thấy cái cảnh nguy biến của nền Đạo như thế đó. Cảnh tượng của mỗi người như thế đó. Ngài biểu Bần Đạo phải nghe lời Ngài thì mới cứu vãn tình thế, bằng không thì tiêu diệt nền chánh trị Đạo buổi đó, có mạnh mẽ duy nhứt nào cả, bên nầy là lời giáo huấn của Đức Chí Tôn, bên kia là lời dạy của Anh Cả, hai bên không biết đường nào mà đi, làm cho Bần Đạo ngơ ngẩn trong 6 tháng trường, cứ thơ thẩn đi tới đi lui nơi rừng thiên nhiên mà suy nghĩ, làm cho Bần Đạo bối rối cả đầu óc.
Đức Lý đến chỉ công chuyện như vầy rồi thăng, kế Đức Chí Tôn đến biểu đừng nghe lời, làm Bần Đạo lưng chừng, túng thế, Ngài nắm Bần Đạo ngồi trên bàn từ 9 giờ tối đến 4 giờ khuya, Ngài không cho đi đâu hết, buộc phải nghe lời Ngài viết nói đủ lẽ nguy tướng của Đạo, nếu không quyết định thì đi khỏi nền Đạo Cao Đài trước tốt hơn. Bần Đạo thấy chỉ đủ lý lẽ quả nhiên buộc phải nghe lời, nghe lời rồi Ngài mừng quá nhiều, mà Bần Đạo không hiểu không biết tại sao Ngài mừng, vì nghe lời thọ pháp quyền năng thiêng liêng đó vậy.
Trong đó có 3 Đài, có ba người chủ nắm vững.
1.- Bát Quái Đài, dưới quyền Đức Chí Tôn, Ngài Chúa cả Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật cùng Vạn Linh, chính Ông chủ Bát Quái Đài là Đức Chí Tôn.
2. Cửu Trùng Đài là quyền Giáo Tông làm chủ Hội Thánh.
3. Hiệp Thiên Đài là quyền Hộ Pháp làm chủ.
Ba Ông chủ ấy, có hai Ông nầy, Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài, nếu riêng ra không có thể gì dâng sớ cho Bát Quái Đài, tức nhiên quyền Chí Tôn ở nơi Bát Quái Đài, hai Đài Cửu Trùng và Hiệp Thiên hiệp nhứt là quyền Chí Tôn tại thế nầy, không có một quyền nào cai quản cãi qua quyền Bát Quái Đài được.
Có lần Bần Đạo nghe lời Đức Lý thì Đại Từ Phụ thất vọng thấy tội nghiệp Ngài quá đổi, Đức Đại Từ Phụ tính không thể gì bảo trọng mấy đứa kia được, biết Đức Lý nhứt định đuổi những kẻ tà tâm ra khỏi nền Tôn Giáo, Đại Từ Phụ biết không thể gì không biến sanh chi phái, nếu nẩy sanh chi phái rồi thì không phương cứu vãn và trị loạn được, thì nền Chánh Giáo của Đức Chí Tôn không có giá trị gì hết, Bần Đạo vừa nghe lời Đức Lý, Đức Chí Tôn không đến chừng ba tháng. Khi Đức Chí Tôn giáng cho làm lễ đăng điện tái quyền Giáo Tông lại chính mình Ngài đòi Đức Lý đến, Đức Lý xin từ chức Giáo Tông. Ôi thôi! Buổi ấy rất biến đổi, đến chừng Ngài triệu hồi Đức Lý trở lại, rồi Đức Chí Tôn không thể gì phản kháng với Ngài nữa Ngài thường nhắc cả toàn Hội Thánh Hiệp Thiên và Cửu Trùng làm lễ đăng điện cho long trọng khi Ngài tái nhậm phận sự rồi Ngài lên ngôi vị của Ngài, Ngài cầm cơ viết: Tôi tưởng không có vị Vua Chúa nào viết được bài diễn văn như Ngài; trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có 4 câu thi của Ngài rất ngộ nghĩnh.
"Cửu tử kim triêu đắc phục hườn,
Hạnh phùng Thiên mạng đạo khai nguơn.
Thế trung kỵ tử hà tri tử,
Tử giả hà tồn chủ "tịch hương".
"Cửu tử kim triêu đắc phục hườn" là cảnh trần ta chết đã lâu rồi, mà hôm nay ta được phục sanh lại trong Thánh Thể của Đức Chí Tôn.
"Hạnh phùng Thiên mạng đạo khai nguơn" là còn hạnh phúc đặng Thiên mạng đến khai nguơn. Tại sao Ngài nói đến? Bần Đạo đã thuyết cuối Hạ nguơn tam chuyển khởi Thượng nguơn tứ chuyển Ngài đến khai nguơn là có duyên cớ.
Bần Đạo dám chắc rằng: Đấng nào khác hơn Ngài thì không thi hành được, Ngài đến đặng mở Thượng ngươn tứ chuyễn.
"Thế trung kỵ tử hà tri tử" thế gian sợ chết mà không biết cái chết là gì, chính Ngài hỏi rồi nói.
"Tử giả hà tồn chủ tịch hương" là tịch của nữ phái, nữ phái là nguồn sống của nhơn loại, nếu nói nó chết thì Ngài đến làm chủ của nữ phái nghĩa gì? Cầm cái giống của thế gian nầy chi?
Bây giờ nói đến quyền hạn của Ngài, chính tay Ngài cầm bút viết :
Ánh Thái Cực biến sanh Thái Bạch,
Hiện Kim Tinh trọng trách Linh Tiêu.
Quyền năng vưng thửa Thiên Triều,
Càn Khôn thế giái dắt dìu Tinh Quân.
"Ánh Thái Cực biến sanh Thái Bạch" là buổi Thái Cực vừa nổ hiện ra ánh sáng Thái Cực, chính là Ngài, duy Đức Chí Tôn cầm pháp, xin cả thảy nhớ nghe khi Đức Chí Tôn cầm pháp hiện ra hai lằn Hạo nhiên khí đụng lại với nhau nổ, tức nhiên trái khối lửa đó tạo Càn Khôn Vũ Trụ ánh sáng Thái Cực đó là Ngài.
"Hiện Kim Tinh trọng trách Linh Tiêu" là các cung đẩu trên mặt địa cầu nầy đều hưởng ánh sáng ấy, mà chính ánh sáng vi chủ và điều khiển là Ngài.
"Quyền năng vưng thửa Thiên Triều" là quyền năng vưng lịnh của Thiên điều.
"Càn Khôn thế giái dắt dìu Tinh Quân" là các cung đẩu trong Càn Khôn thế giái nầy có Ngài vi chủ hết thảy.
Tinh quân thọ sắc thuở Phong Thần,
Cho đến Đường triều mới biến thân.
Thái Bạch Kim Tinh đang trị thế,
Trường Canh trích tử đến thăm trần,
Động đình thi rượu đong muôn đấu,
Bồng Đảo Câu Tiên nắm một cần.
Vâng lịnh Ngọc Hư nay xuống thế,
Tam Kỳ độ rỗi các nguyên nhân.
"Tinh quân thọ sắc thuở Phong Thần" là Ngài đoạt ngôi vị cùng quyền hành của Ngài có sắc phong thiệt hiện hồi đời Phong Thần.
"Cho đến Đường triều mới biến thân" là đến đời Đường Ngài mới biến thân.
"Thái Bạch Kim Tinh đang trị thế" là vì nguyên linh ấy cầm quyền trị thế.
"Trường Canh Trích Tử đến thăm trần"
"Động Đình thi rượu đong muôn đấu"
là nơi Động Đình hỏi đến Ngài thì thiên hạ đều biết danh Ngài hết.
"Bồng Đảo Câu Tiên nắm một cần" là nơi Bồng Đảo Ngài cầm Thiên Thai cho Khổng Giáo.
"Vâng lịnh Ngọc Hư nay xuống thế" là buổi Đại Đạo Tam Kỳ khai mở đây Ngài thọ lịnh Ngọc Hư đến trị Đạo.
"Tam Kỳ độ rỗi các nguyên nhân" là (92) chín mươi hai ức nguyên nhân, thì Tam Kỳ này Ngài độ rỗi.
Bần Đạo quên nói cái tiên tri của Ngài rất ngộ nghĩnh, thời buổi ấy Ngài đến dạy biểu Bần Đạo nghe lời, nếu hiền hữu không nghe lời, ngày kia cái tai họa ấy tiêu diệt hay đoạt Đạo thì hiền hữu gánh trách nhiệm ấy nặng nề trước cả. Bần Đạo buổi nọ không hiểu gì cả. Bần Đạo nói toàn Thánh Thể Đức Chí Tôn cả triệu con người cớ sao một mình Bần Đạo gánh vác. Nói tiên tri ấy là thời giờ Ngài giao quyền Giáo Tông nầy cho Bần Đạo chưởng quản luôn Cửu Trùng Đài, nếu không nghe lời thì Bần Đạo gánh hết. Nếu không nghe lời Ngài buổi nọ thì gánh nầy giao lại cho ai? Như giờ phút nầy có nên bỏ, chớ không thể sống với Đạo.
Bần Đạo xin nói thế gian nầy cầm quyền trị cơ quan chính trị đạo nào hay định luật trước dưới Bát Đạo Nghị Định lập nên chính trị của nước như Ngài, Bần Đạo chưa ngó thấy Đức Lý ra Bát Đạo Nghị Định mà Ngài lập trọn vẹn hết, chúng ta cũng nên tôn sùng đáng kính, đáng sợ quá đổi Đấng cứu Đạo như thế, Bần Đạo cũng khen kính Người ấy cho đến ngày tận thế.
Nếu nền Đạo Cao Đài còn mãi mãi thì công nghiệp Đức Lý Giáo Tông vẫn còn tồn tại trong tâm trí nhơn sanh luôn luôn.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 18-08-Kỷ Sửu nhằm ngày (dl. 09-10-1949).
Q.3/13: TRIẾT LÝ TRỜI NGƯỜI ĐỒNG TRỊ.
Tại Đền Thánh đêm 27 tháng 8 năm Kỷ Sửu (1949)
(Vía Đức KHỔNG PHU TỬ)
Hôm nay ngày lễ của Đức Khổng Phu Tử, tức là Đức Đại Thần Chư Thánh Văn Tuyên Vương chuyển giáo đạo Nho. Đạo sử của Ngài Bần Đạo đã thường thuyết lập đi lập lại không ít, vì đêm nay là ngày lễ của Ngài, Bần Đạo thuyết về triết lý Trời Người đồng trị.
Chúng ta đã ngó thấy Ngài là tiền bối của Đức Chúa Jésus Christ mà Ngài ít đặng hạnh phúc hơn Jésus Christ; năm trăm (500) năm về trước cái thuyết của Ngài, tâm lý nhơn loại buổi ấy chưa có nạp dụng đặng, lại nữa Ngài đến cái danh từ một nhà triết lý mà thôi. Ngài không có hân hạnh không có can đảm đến với danh từ con cái Đức Chí Tôn cũng như Jésus Christ, vì cớ lý thuyết vẫn có một, nhưng giáo đạo của Ngài không có hạnh phúc hơn Jésus Christ đó vậy. Ngài chỉ có làm chứng rằng có một Đấng thống trị cả Càn Khôn thế giái, đấng ấy Ngài để danh hiệu là "Nhứt Đại" mà thôi, tức nhiên là "Thiên" mà Ngài không nói ra như Jésus Christ. Ngài chỉ làm chứng rằng có một đấng tối cao mà thôi, thất bại của Ngài là vì lẽ đó. Đắc thế của Jésus Christ nói quả quyết nhơn loại có Ông Cha, mà Ông Cha ấy là Chúa Tể Càn Khôn Vũ Trụ đắc thế của Jésus Christ là vậy.
Nếu chúng ta biết lấy theo triết lý học thì chúng ta nên lấy cái gương của một nhà đại gia tư tưởng, nhà đại gia triết lý học là Descartes người nói: "Je pense donc je suis" (tôi tưởng là tôi có vậy) con người là một động vật ở nơi mặt địa cầu nầy, chúng ta ngó thấy hiện hữu phải vận hành phải xao động, bởi nó là động vật, nó phải hoạt động, nếu không hoạt động thì chết. Trong cơn đương hoạt động có hai phần đặc biệt:
1.- Hoạt động về thi hài xác thịt, tức nhiên như thân thể chúng ta giờ phút nầy vậy, mỗi ngày chúng ta phải hoạt động mới có sống, bằng không hoạt động thì chết luật Tạo Đoan quả nhiên vậy.
2. Còn cái hoạt động nữa, hoạt động vô hình chúng ta không thể thấy được mà chúng ta nhìn quả quyết có hoạt động về tinh thần trí thức. Vì cớ hai cái hoạt động của con người chia ra hai phần.
1. Hoạt động về phần Đời
2. Hoạt động về phần Đạo.
Là vì cái thi hài phàm tục này nó là con vật, nó phải hoạt động theo con vật, hoạt động theo giác thể của nó, nó chưa có biết hoạt động theo chơn linh. Vì cớ cho nên Đức Chí Tôn tạo nên hình tướng nó, để tạo nơi mình nó. Ngài còn sắp đặt một kỷ cương để cho tinh thần nó vi chủ hình hài của nó, còn để cho thân thể nó vi chủ tâm hồn của nó, nó sẽ ngây cuồng ngu dại, nó sẽ đi đến chỗ tự diệt nó mà thôi. Bởi vậy chúng ta ngó thấy hai phần Đạo đặc biệt ấy, chúng ta buộc phải nhìn về phần Đời chúng ta, chúng ta phải chung sống cùng xã hội nhơn quần, tức nhiên sống theo khuôn khổ quốc gia dân tộc ấy, nên luật khuôn khổ quyết định hơn hết. Nếu trên cái sống ấy, sống theo trên kia chúng ta thấy, chúng ta phải nhìn có một đấng cầm quyền trị về phần tâm hồn, trí não chúng ta. Đấng đến giờ phút này đến ở cùng chúng ta, nhìn chúng ta là con cái của Ngài, Ngài đến với một danh từ là Thầy của chúng ta, mà chẳng phải làm Thầy mà thôi, còn làm Cha nữa.
Chúng ta tưởng tượng lụng lại, để tinh thần bình tĩnh suy xét từ thử đến giờ coi các sắc dân nào trên mặt địa cầu nầy đặng hạnh phúc dường ấy chăng?
Hai ngàn năm về trước Đức Khổng Phu Tử đến tạo Đạo không đạt được thuyết quý báu cao trọng ấy, cũng do nơi duyên cớ, chúng ta tưởng Ngài đến tình cờ, không có gì là tình cờ trên mặt địa cầu này hết, không phải tình cờ mà Ngài đến.
Ngài đến trong đời chiến quốc tức nhiên trong buổi ly loạn (không có buổi nào trên mặt địa cầu này chịu ly loạn bằng nước Trung Hoa buổi nọ) đời chiến quốc Ngài đến trong buổi ly loạn, thiên hạ đương chiến đấu với nhau, giành phương sống của mình, lấn quyền thế trong lục quốc phân tranh không ai nhường ai, tranh sống với nhau một cách kịch liệt Ngài mới đến. Ấy vậy Ngài đến không phải tình cờ, nếu chúng ta tưởng tình cờ thì đấng cầm cân Thiêng Liêng nơi cõi Hư Linh hằng sống chẳng có hay sao? Bằng cớ hiển nhiên là Chúa Jésus Christ cũng đến lập Đạo của Đức Chí Tôn như Ngài trong buổi loạn ly. Buổi mà La Mã làm bá chủ, các sắc dân bị chinh phục quật cường chiến đấu để giải ách nô lệ của mình, buổi ấy cũng là chiến quốc vậy. Hai người đến không phải là tình cờ mà đến đâu. Cũng một thuyết với nhau đem Đạo Lý cứu vãn nhơn loại, mỗi phen nhơn loại chịu thống khổ về tâm não dường nào thì có Đấng Từ Bi độ tận đưa tay ra cứu với họ luôn luôn, đặng mà cứu khổ, nhơn loại mãi mãi không bao giờ sơ sót hết, chúng ta quan sát tận tường thời buổi nào, các vị Giáo chủ đến giáo đạo đều có lý do hết.
Nếu như không có Đấng cầm quyền năng trị tâm lý tinh thần nhơn loại thì chưa chắc có ai làm nổi. Cái thi hài của nhơn loại tức nhiên thân thể còn tồn tại được để quyết định tương lai của nhơn loại đương nhiên, hai cái lý thuyết duy tâm và duy vật. Ngày giờ nào hai thuyết ấy tương hòa đặng thì chúng ta ngó thấy cơ quan giải thoát đặng. Ngày giờ nào Người, Trời hiệp một cùng nhau đồng trị với nhau tức nhiên Người trị thế, Trời trị hồn.
Hai Đấng cầm quyền thế gian này cõi Hư Linh hằng sống hiệp với nhơn loại mới được hạnh phúc, tương lai mới được vững chắc và tồn tại.
Bằng chẳng vậy con đường chiến đấu đặng sống của họ, họ sẽ xô đẩy họ đến con đường tự diệt.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 27-08-Kỷ Sửu nhằm ngày (dl. 18-10-1949).
Q.3/14: LỄ VÍA ĐỨC PHẬT TỔ THÍCH CA MÂU NI VÀ BÀ NỮ ĐẦU SƯ LÂM HƯƠNG THANH.
Tại Đền Thánh đêm 7 tháng 4 năm Kỷ Sửu (1949)
Đêm nay là Vía Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni mà cũng là ngày vía Chị Cả của chúng ta là Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh, chẳng biết ngẫu nhiên hay là tiền định mà Bà Nữ Đầu Sư qui liễu nhằm ngày Vía Đức Phật Thích Ca. Theo Bần Đạo hiểu biết tưởng những người ái mộ Đạo Phật nồng nàn hơn hết. Chúng ta có thể nói rằng: Bà Đầu Sư cũng là người đứng trong đầu sổ của thiên hạ vậy. Trước ngày Đức Chí Tôn chưa mở Đạo, Bà Đầu Sư duy có biết Đạo Phật mà thôi, chính miệng của Người thuật lại với Bần Đạo. Từ bé Người đã để tâm ham mộ Đạo Phật không biết có quyền năng lạ lùng của Đức Chí Tôn tiền định hay chăng, mỗi khi niệm câu chú của Phật để tồn tại, thì Đức Chí Tôn Ngài đứng trong nhà Phật, gọi là Tam Thiên Đại Thiên Thế Giái, Đức Chí Tôn là Phật vị nên Bà đã thương lắm, thương một cách nồng nàn. Khi Đức Chí Tôn mở Đạo Cao Đài tức nhiên Phật Giáo chấn hưng đó vậy.
Ngày nay là lễ của Đức Phật Thích Ca và của Chị chúng ta, chúng ta nên để tâm cầu nguyện chơn linh của Ngài và của Bà tức nhiên là Long Nữ, cả thảy chúng ta đều biết cái bí mật ấy.
Bà Nữ Đầu Sư, Chơn Linh Long Nữ, Long Nữ là ai? Thật ra là người đòi của Phật Quan Âm Bồ Tát đó vậy. Bần Đạo hiểu về cái thuyết bí mật của Đức Quan Âm Bồ Tát lãnh trách nhiệm trọng yếu vâng lịnh của Đức Di Lặc Vương Phật Chưởng Quản điều khiển Bát Nhã Thuyền, vì cớ cho nên Đức Quan Âm Bồ Tát không có thể giáng trần được, chính mình Long Nữ là người hầu của Bà, tình nguyện giáng trần đặng hiệp với các Chơn Linh, các cung các điện và Hộ Pháp đặng mở nền Chánh Giáo của Đức Chí Tôn, hầu tận độ Vạn Linh tạo cơ giải thoát.
Hôm nay là ngày Vía Phật Thích Ca, chúng ta cũng nên hiểu triết lý cao siêu của Đức Phật Thích Ca, Ngài đã đạt đặng và đã truyền giáo, theo nền Tôn Giáo của nhà Phật là nền Tôn Giáo tối cổ, Bần Đạo thường thuyết, loài người vừa đến mặt thế nầy thì đã có Phật nơi mình rồi. Chính Đức Phật Thích Ca đã chịu ảnh hưởng Phật Giáo ấy và chính chơn linh của Ngài có sứ mạng đến đặng độ bá ức Nguyên nhân qui hồi cựu vị. Ngài vì sứ mạng ấy mà Ngài phải tìm cho hiểu biết cơ quan giải thoát ấy phải định phương nào cho đạt được. Tại sao các nguyên nhân không qui hồi cựu vị? Vì lẽ gì có sứ mạng đem cơ giải thoát đưa nơi tay bá ức nguyên nhân cho họ đạt vị? Ngài tìm thế nào triết lý cho nhơn sanh khỏi bị đọa lạc. Ngài hiểu rằng: Tứ Diệu Đề làm cho các nguyên nhân phải đọa lạc không giải thoát đặng, Ngài để cơ quan giải khổ tức nhiên thoát "Tứ Diệu Đề" vì cớ cho nên triết lý cao siêu của Ngài tính sau này tìm cái phương pháp bá ức nguyên nhân đạt pháp đặng qui hồi cựu vị mà thôi, theo Bần Đạo đã biết, đã hiểu Ngài định hạ trần đầu kiếp cho vật loại tạo cái tam thập lục phẩm Liên Hoa của Ngài.
Tôi tưởng các vị Phật nơi Niết Bàn đã tạo nơi Kim Tự Tháp, dầu có bực cao siêu hơn Ngài là Đấng Di Đà đi nữa cũng chưa bằng bằng từng Liên Hoa chót của Ngài, nó vinh diệu làm sao đâu. Tôi dám chắc chưa có vị Phật nào có can đảm tạo được nhứt phẩm Liên Hoa tốt đẹp như từng chót hết của Ngài. Bần Đạo dám chắc còn lâu lắm Ngài mới đến viếng mặt thế gian này vì Ngài đã sợ sệt, đã gớm ghiết hơn ai hết. Ngài tạo phẩm Liên Hoa chót của Ngài rồi thôi. Vinh diệu là biết bao nhiêu, vì khổ ấy mới đoạt được vinh diệu.
Hại thay! Những người không có đoạt được cái huyền vi bí mật tạo đoan, đạt Đạo họ tưởng dễ lắm, dễ dàng lắm, họ tưởng một cái ăn, cái ở mà họ đạt được. Cái oái oăm đó bởi tinh thần người se sua mơ mộng lầm tưởng nội cái ăn cái ở, lại làm màu mè bao nhiêu đó đủ đạt Đạo.
Coi lụng lại kiếp sống của Phật Thích Ca, năm đạt đạo có 32 tuổi mà thôi, Ngài đạt coi dễ dàng chớ không phải như thuyết mơ mộng của nhơn loại, ta thường thấy Ngài không cần gì, Ngài đã dày sành đạp sỏi trong kiếp sanh đã chịu khổ hạnh cho tới 82 tuổi. Cái năm chót của Ngài 82 tuổi mà Ngài còn truyền giáo, buổi qui vị của Ngài mà còn truyền giáo Ngài không có ở cảnh Chùa nào hay mảnh đất nào mà thiên hạ đã hiến cho Ngài. Ngài chết giữa hai cội Bồ Đề buổi Ngài 82 tuổi mà Ngài không có nghỉ, mỗi ngày ôm bình Bát Du đi xin cơm nuôi trẻ khó tật nguyền khổ não. Đức Phật Thích Ca đã chịu bao nhiêu khổ hạnh, phản phúc đủ điều, các môn đệ của Ngài khổ hạnh là đi xin ăn mà sống. Bần Đạo không tả nhiều, ai cũng biết cái cảnh ôm bình Bát Du đi xin ăn có đủ no không? Các môn đệ của Ngài đã chịu khổ hạnh quá, khi tới bên xứ Bénarès dân đó ăn cá, chỉ có cá với cơm, có vị môn đệ yêu ái nhứt của Ngài là Vadatha ăn trường chay, cái thuyết của Ngài là cái thuyết ăn chay cao siêu Vadatha ăn trường chay, nghĩ một điều là trên sáu ngàn môn đệ đi đến đâu đều ăn xin của thiên hạ, ai cho ăn cái gì thì ăn cái nấy.
Đến xứ Bénarès thiên hạ cho ăn cá, người môn đệ Vadatha nói nếu ăn cá thì không phải là Phật, nếu phải dùng theo luật buộc cả thảy đều ăn là được, Đức Phật Thích Ca cho ăn thì người môn đệ Vadatha xúi giục môn đồ của Ngài chia ra dắt đi một mớ, lập phe phân phái làm phản lại với Phật Thích Ca, như nạn Cao Đài đã bị tấn tuồng không có gì hết mà sanh ra phản Đạo, lập ra chi phái giết Đạo.
Một buổi trưa Ngài đang tham thiền nhập định tại chơn núi, chính Vadatha lăn đá xuống để cho Ngài chết, một vị Phật chẳng lẽ chết "bất đắc kỳ tử" như thế được, nên khiến một cây cản lại có miểng văng rớt xuống trúng chơn trái của Ngài đổ máu, Ngài giựt mình ngước mặt lên thấy Vadatha ở trên núi. Đức Phật Thích ca nói: Sao dám làm đổ máu nhà Phật; có lời nói làm cho nhà Phật đổ máu mà Vadatha phải chết, nòi giống của Vadatha phải tiêu tàn, vì Vadatha giết Phật chẳng kể gì sự sống của Phật.
Ngộ nghĩnh thay! Bên xứ Jérusalem là dân bất động "Juif" tức nhiên dân Do Thái giết Đức Chúa Jésus Christ đã phân định tội tình, nước người phái chịu điêu tàn, nòi giống người phải chịu lưu xứ. Quốc Thể các người không còn. Ngày giờ nào các người lập lại Tổ Quốc các người là ngày tận thế. Tiếng tận thế của Thiên Chúa Giáo, ngộ nghĩnh thay sự tình cờ mà chúng ta nên để ý. Ngày nay Đức Chí Tôn mở Đạo Cao Đài thì dân Do Thái phục quốc lại, dân bất động đặng huờn nguyên ấy là ngày ân xá của Đức Chí Tôn cho đám tội nhơn đứng đầu của nhơn loại là dân Do Thái là dân bất động. Chúng ta suy nghĩ bao nhiêu đó, chúng ta thấy Đức Chí Tôn lập nền Tôn Giáo của Ngài đặng độ tận chúng sanh, quả nhiên có hiển hiện trước mắt chúng ta đã thấy đó.
Bần Đạo nói tiên tri rằng: Làm như thế dân Do Thái lập quốc, mình cũng như dân "Intouchable" nó sẽ qui nguyên của nó lại, vì nó đã đặng ân xá của Đức Chí Tôn, cả hình phạt ấy do Đức Phật Thích Ca định nó cũng như dân Do Thái bị Đức Chúa Jésus Christ định án nó mà nó đã được ân xá, coi lời nói của Ngài hứa, đã thi hành đó, nếu ai còn mơ hồ nữa chết không còn hồn vậy.
Vì cơ quan tận độ chúng sanh Đức Chí Tôn đến lập thành quả nhiên cơ quan ấy hiện hữu hiển nhiên, nếu chúng ta không tưởng tới, ngày kia về Bạch Ngọc Kinh không còn hồn, chừng đó người ta vạch ra không thế mình gian lận được.
Hạnh phúc thay cho nhơn loại! Hạnh phúc thay cho các đẳng chơn hồn có duyên phần mộ đạo, gặp buổi Đức Chí Tôn đến ở chung cùng mình, nếu không giải thoát được, Bần Đạo chưa dám chắc trái Địa Cầu nầy phải chuyển kiếp lần thứ ba nữa cho thoát khỏi nghiệp chướng đặng qui hồi cựu vị.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 07-04-Kỷ Sửu nhằm ngày (dl. 04-05-1949).
Q.3/15: Ý NGHĨA SỰ SỐNG CỦA CON NGƯỜI.
Tại Đền Thánh đêm 30 tháng 10 năm Kỷ Sửu (1949)
Đêm nay Bần Đạo đình thuyết Bí Pháp, cái nguyên do thế nào Bần Đạo xin minh biện ra. Vã chăng, chúng ta đương ở trong hoàn cảnh náo nhiệt, vì hai thuyết duy tâm và duy vật đương chiến đấu với nhau, chúng ta dầu Chức Sắc Thiên Phong hay là mấy em nam nữ cũng thế, là một phần tử trong Thánh Thể Đức Chí Tôn. Ngài đã tạo tinh thần chúng ta, vì sự thương yêu của Ngài, Ngài lập thiên vị tại thế này cho con cái thương yêu của Ngài, Ngài biểu chúng ta ký hòa ước với Ngài, để thay thế hình ảnh cho Ngài, đem hết tinh thần từ bi công chánh của Ngài, đối với Vạn Linh, tức nhiên chúng ta phải thay thế hình ảnh cho Ngài, dung hòa Vạn Linh hiệp với Chí Linh, tức nhiên Ngài cho ta cái sứ mạng để dung hòa Đời với Đạo.
Cái lý thuyết duy vật, là cái lý thuyết sống của đời, còn cái lý thuyết duy tâm phải chăng là cái sống của Đạo. Đáng lý ra chúng ta phải tùng bên mặt duy tâm thì mới phải, bởi chính mình chúng ta có sứ mạng thay thế vi chủ của duy tâm tức nhiên chúng ta phải ngã bên mé duy tâm hơn hết, vì đã có ký hòa ước với Đấng Chí Linh kia giữ công chánh đặng dung hòa tinh thần Đời với Đạo, vì mức công chánh ấy chúng ta không nên nghiêng đổ đó vậy.
Chúng ta tìm tàng, chúng ta định lụng lại, là có cái lý do này, Đạo Cao Đài không cần dùng mê tín dị đoan là cho sự tín ngưỡng đặng mạnh mẽ của nó. Chúng ta không cần trái ngược lụng lại, đem hết triết lý chơn thật để lại thế nầy mà thôi. Bởi vì dối trá dầu cho Đạo hay Đời, trường dối trá ấy đã làm cho cơ thể Tạo Đoan nghiêng ngữa. Chúng ta không cần xu hướng, theo cái dối trá thường tình nữa, chúng ta phải tiêu diệt cái dối trá ấy. Lại nữa trong hoàn cảnh chúng ta đương làm trung gian giữa Đạo và Đời, chúng ta chẳng nên mượn thế lực mê tín dị đoan để làm khiếp phục đặng quyết thắng tà quyền đương làm tinh thần loài người điên đảo, một trường ngôn luận xù xì đã kiếm thế hèn tiện của thiên hạ đang tính tạo thành một phản động lực đặng làm mất giá trị của nền chơn giáo Đức Chí Tôn. Bần Đạo nói thật, muốn đánh tiêu cả sự dối trá, gian ngược ấy, chẳng phải dễ, người có thể làm cho thiên hạ mê tín dị đoan được là Bần Đạo, mà Bần Đạo không làm. Bởi vì Bần Đạo coi sự làm ấy hèn tiện và vô đạo đức, Bần Đạo chỉ lấy một triết lý chơn thật của Đức Chí Tôn để giáo đạo cho con cái của Ngài mà thôi.
Bần Đạo duy muốn làm bạn với con cái Ngài, nên phẩm vị Phật sống của Đức Chí Tôn để cho Bần Đạo, mà Bần Đạo chưa có ngồi. Ấy vậy mê tín dị đoan trong cửa Đạo Cao Đài không có và không cần có, quả quyết hẳn vậy, nên đình lại bí pháp chơn truyền, nếu thuyết ra là lấy cái quyền năng mê tín dị đoan mà thắng thiên hạ là một điều hèn nhát nên Bần Đạo không dùng, để khi nào dùng được Bần Đạo sẽ dùng. Bần Đạo hứa chắc sẽ giáo hóa cho con cái Đức Chí Tôn mà thôi.
Bây giờ Bần Đạo xin thuyết "Ý vị và ý nghĩa lý sống của con người". Vã chăng, chúng ta đến với một phần xác ở tại thế nầy, chúng ta phải biết cái sống của nó có ý vị gì? Đã sanh đứng làm người sống tại mặt thế gian nầy, chúng ta nên tìm hiểu cho thấu đáo cái ý vị của cái sống ấy và cái ý nghĩa của nó thế nào trước cái đã. Vì thế mà từ Thượng Cổ đến giờ tinh thần loài người vẫn đeo đuổi mãi mà thôi, vì cớ cho nên tượng trưng các hình tướng, các nền Đạo, các Tôn giáo.
Chúng ta quan sát cả triết lý của cái sống phải có lý do nào? Sống đương nhiên của chúng ta có hai cái sống.
1.- Sống về vật chất, mà nói rõ ra sống về phương pháp thú chất.
2.- Sống về tinh thần, tức nhiên sống về phương pháp hiển hách, anh linh của nó, chúng ta thấy có hai cái quyền năng ấy, nó tương tranh với nhau mãi mà thôi. Vì cớ cho nên mới nảy sanh ra thuyết duy tâm và duy vật. Chúng ta thử nghĩ do lịch sử của loài người, thì chúng ta biết loài người như đã nói cái thuyết kia là phải "Connais-toi, toi-même" Nghĩa là: "Người biết người hơn hết". Mình muốn biết mình đặng chi? Đặng tìm hiểu cho thấu đáo cái nghĩa lý sống của mình.
Chúng ta ngó thấy Thượng Cổ, bực cổ nhân, nhứt là hạng vĩ nhân. Dân Âu Châu thì có Socrate cũng trong thời đại nhơn sanh đó, chính Ngài lấy thuyết Đấng Chí Linh trong Càn Khôn Vũ Trụ, cái thuyết làm cho phản động lực coi Ngài như kẻ thù nghịch đến nước, cái quyền năng buổi nọ coi mạnh mẽ thế nào? định tử hình Ngài, cho Ngài lấy chén thuốc độc mà tự tử. Khi giam Ngài trong ngục, Ngài có phương thế hội đàm với các nhà triết học. Tới giờ chúng đem chén thuốc độc đưa trong tay của Ngài biểu Ngài uống. Ngài bưng chén thuốc độc ấy để từ giả các bạn của Ngài mà Ngài nói như chơi vậy.
Ngài nói: "Tôi biết rằng: Ngoài cơ thể Tạo Đoan của đời nầy nó còn có cơ quan vô hình tối trọng kia, tôi đã quả quyết rằng có, thì cái chết nầy ta mong lắm chớ, giờ phút ta cầm chén thuốc độc nầy ta uống thì ta sẽ được hội hiệp với các vị hiền triết được làm bạn với họ thì có gì hơn" Nói rồi: Ngài bưng chén thuốc độc Ngài uống.
Giờ chết của Ngài, giờ ngặt mình của Ngài thì môn đệ của Ngài hỏi: "Ngài chết đây rồi Ngài sẽ đi đâu? hay sẽ làm gì ?". Ngài cười nói: "Ta chưa biết, ta sẽ làm chúa cả cơ thể Tạo Đoan nầy, để điều đình cả cơ quan vĩ đại của Càn Khôn Vũ Trụ hay ta sẽ làm chơn của con châu chấu, dầu thế nào cũng có Đấng cầm mực thước định cho ta làm cái gì, thì ta làm cái nấy". Cái chết đối với Ngài không có nghĩa lý gì hết.
Đức Lão Tử khi đạt được bí mật của Bát Quái Đồ rồi, Ngài từ giả nhà Châu, Ngài về Côn Lôn Sơn mà an nghỉ, môn đệ của Ngài hỏi: Ngài về Côn Lôn Sơn để làm gì? Có hạnh phúc hay không? Ngài trả lời: "Duy có cái biết của ta mà nó làm cho ta có cái thú vị sống đặc biệt riêng, không cần nói rõ hạnh phúc ấy ra thế nào? Nhưng ta chỉ nói rằng: cái biết của ta nó làm cho ta hưởng được thú vị an ủi của cái sống ấy".
Đức Khổng Phu Tử từ giả quan trường về giáo Đạo cho các môn đệ của Ngài, thiên hạ gọi là vô phước, mà cảnh thiệt vô phước của Ngài là lúc làm quan cho nhà Châu, làm quan cho nước Tề, nước Yên, và lúc châu lưu trong lục quốc.
Bây giờ Ngài về sống với thất thập nhị hiền, tam thiên đồ đệ của Ngài, là Ngài hạnh phúc hơn hết, vì Ngài biết thú vị cái sống của Ngài thế nào, cái sống của Ngài vui về Đạo mà thôi.
Giờ trái ngược lại, sống chúng ta ngó thấy trước kia sống của Tần Thủy Hoàng, sống như Sở Bá Vương, hai tay trắng lập nên nghiệp đế, đè ép cả tinh thần dân chúng buổi nọ, vị Chúa của họ sanh sát tàn ác không có điều chi mà họ không làm, quyền hành của họ tàn sát lắm.
Cái sống của Tần Thủy Hoàng thế nào? Dòm lụng lại, thấy cái chết của Ngài, Ngài than: Cái tài tình thâu cả nghiệp Đế ta thắng được, duy có cái chết ta thắng không được, vì thế mới cho người đi kiếm thuốc trường sinh bất tử, mê tín đến nước người ta cho ăn dái ngựa mà cũng ăn nữa, ăn đặng sống mà anh ta cũng chết.
Nả Phá Luân đã được cơ hội làm nên nghiệp đế, hồi buổi đó làm cho cả toàn dân Âu Châu, các nước chư hầu đều cúi đầu hết thảy, đến chừng chết, chết trong ngục Le Saint Hélène.
Ông vua giàu có sang trọng hơn hết là Louis (XIV) thiên hạ hồi thế kỷ đó cho Ông là vua Trời "Le Roi Soleil" cả thiên hạ đều tùng phục, kính trọng, kiêng nể, Âu Châu buổi nọ, có thể nói Ngài là một Vị Bá Chủ của thiên hạ, không có cái gì mà anh ta không có, "Phú Hữu Tứ Hải" sang trọng vô biên có một điều là đền Vua của Ngài "Palais Louis XIV quân lính canh từng bảy vòng, cấm cái chết vô trong Hoàng Gia của Ngài mà không đặng, chết cả con cháu của Ngài cho đến nỗi gần hết trong Hoàng Gia. Rốt chuyện Ngài truyền ngôi báu lại cho đứa cháu nội mà thôi. Ngài than rằng: Hại thay! Hoàng Thành của ta mấy vòng canh nghiêm nhặt mà không cản được cái chết đến nhà ta.
Chức vị sang trọng của mình sống như cọp vậy, bắt được thịt ăn cho đã rồi nằm ỳ ra đó ngủ mà chúng cũng kiêng cũng sợ, nhưng chúng chưa biết thương, sống như cá Ông không ai thấy, mà chiếc ghe nào chìm thì cá Ông cũng đỡ. Cái sống con cọp không có ai thờ, còn cái sống của cá Ông có người ta thờ.
Hai cái sống đặc biệt ấy là cái sống duy vật và duy tâm. Bần Đạo tả ra cho con cái Đức Chí Tôn mỗi người lấy đó mà suy gẫm.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 30-10-Kỷ Sửu nhằm ngày (dl. 19-12-1949).
Q.3/16: CÁI HIẾU CỦA ĐỨC JÉSUS ĐỐI VỚI ĐỨC CHÍ TÔN VÀ CÁI NGHĨA CỦA ĐỨC CHÍ TÔN ĐỐI LẠI VỚI NGÀI.
Tại Đền Thánh đêm 24 tháng 12 năm 1949 (âl. Kỷ Sửu)
Đêm nay một đêm kỷ niệm Jésus Christ tức nhiên là Phật Christna giáng sanh bên Âu Châu mở Đạo. Thường năm hễ đến lễ Giáng Sanh này thì Đạo Cao Đài chúng ta vẫn tôn sùng Giáo Chủ Gia Tô cũng như Vị Phật của chúng ta vậy, chúng ta coi Ngài cũng như một Vị Giáo Chủ của một nền Tôn Giáo đương nhiên đã để tại mặt thế này. Âu Châu văn minh cầm quyền thiên hạ gần có ba trăm triệu năm (300.000.000).
Thường năm Bần Đạo thuyết minh cái lịch sử của Ngài lập đi lập lại cũng thừa. Vậy hôm nay Bần Đạo chỉ thuyết cái hiếu của Ngài đối với Đức Chí Tôn và cái nghĩa của Đức Chí Tôn đối lại với Ngài. Chúng ta sẽ ngó thấy và đã ngó thấy một cái gương "Phụ từ tử hiếu" nơi mặt thế này chưa hề có.
Khi Đức Chúa Jésus Christ, tức nhiên Chúa Jésus đến thọ pháp giải oan nơi tay Ông Saint Jean Baptist, giải oan cho Ngài tại bờ sông Jourdais. Khi Ngài thọ pháp vừa rồi thì liền có đạo hào quang hiện giữa không trung chiếu diệu ngay đầu của Ngài, tượng hình ba con bồ câu trắng và giữa không trung nghe lời nói rằng: Này đứa con yêu dấu của ta, ta đã tín nhiệm nơi con đó. Đức Chúa Jésus Christ trong buổi ấy đã được Đại Từ Phụ nhìn nhận là con yêu dấu của Ngài, vì cớ cho nên Ngài có quyền xưng là con của Đức Chí Tôn, Ngài có quyền kêu Đức Chí Tôn bằng cha, đã chẳng phải Ngài dụng quyền ấy mà thôi, Ngài lại còn muốn toàn thể nhơn loại hưởng đặc ân được làm con của Đức Chí Tôn như Ngài, vì cớ cho nên Đạo Thiên Chúa đã truyền bá toàn mặt địa cầu này.
Chúng ta đã ngó thấy 3 năm Ngài hành Đạo, Ngài đã bị cái quyền Đạo Giáo, tức nhiên với cái quyền lực của Moïse khủng bố bắt buộc chẳng khác nào như chúng ta đã bị, mà Thiên Chúa Giáo cũng vẫn bị khảo dượt mãi thôi, giờ phút này cũng chưa dứt khủng bố bắt Đạo và bắt Ngài do toàn quyền Hérode Antipas của Nước Palestine xử tử Ngài.
Chúng ta ngó thấy thời buổi ấy gần ngày lễ trọng hệ của đạo Polse, ngay lễ ấy người tù nhân được tha án tử hình, trong hai người: Tướng cướp giết người cướp của tàn hại nhơn sanh không biết là bao nhiêu, bị án tử hình đem ra giữa quốc dân Juifs, tức nhiên dân Do Thái, trong hai người này, cướp của sát nhân là Baraba, còn Jésus Christ chúng lên án "mê hoặc quốc dân phiến loạn". Hỏi vậy quốc dân muốn tha ai, dân Do Thái nói tha Baraba, giết Jésus Christ.
Ba năm truyền bá có lẽ chúng ta ngó thấy thế nào. Trong ba năm truyền giáo không lâu, giữa nước Israel buổi nọ bị thâu chiếm thuộc địa do dân Romain tức nhiên dân La Mã. Sự truyền giáo của Ngài không có đắc lực mảy may nào cả, nên buổi ấy đã lên án Ngài là kẻ trộm, kẻ cướp đồng án với kẻ sát nhơn, nên đóng đinh Ngài lên cây Thánh Giá như kẻ tội nhơn tử hình kia vậy.
Trong Đạo Sử buổi nọ có tên Christ can về tội cướp bị tử hình, vì lẽ chúng tôi gian dối, nói rằng: Ngài mê hoặc con cái Juifs nên bị án tử hình đóng đinh trên cây thập tự giá, Ngài chết như thế ấy, nếu không phải con mắt Thiêng Liêng oai quyền của Đức Chí Tôn thì cái chết của Jésus Christ mai một mờ ám mà thôi, không có cái gì gọi là chí Thánh cả, không phải vậy Đức Chí Tôn đã hứa, đã nhìn nhận là con và chính mình Ngài đã ở trọn hiếu cùng hy sinh tánh mạng của mình làm cho danh của Đức Chí Tôn cao trọng, và làm cho nhơn loại đặng hưởng đặc ân của Đức Chí Tôn chan rưới, làm con cái của Ngài biết cái hiếu của Jésus Christ đối với Đức Chí Tôn từ thử đến giờ chưa có một vị Giáo Chủ nào đã làm.(*1)
Giờ chót, chúng đem lên đóng đinh trên cây thập tự giá gần trút linh hồn mà khát nước làm sao, vì bị chúng bỏ đói bỏ khát. Ngài biết bây giờ xin nước uống, chúng nó sẽ cho uống mật đắng, mà bây giờ khát nước quá không thể nhịn được nữa mới xin nước uống, nó liền lấy bông đá nhúng trong chén mật đắng đưa cho Ngài uống, Ngài uống mật đắng, ấy đặng lãnh phần khổ não của nhơn loại. Khi uống rồi ngước mặt lên không trung Ngài kêu Cha nói: Con đã làm xong phận sự của Cha phú thác, vậy xin dâng linh hồn của con trong tay Cha, vừa nói đến đó thì vừa tắt hơi.
Cái hiếu của Ngài đến giờ chót đối với Đức Chí Tôn đã trọn, còn Đức Chí Tôn, nếu không phải giữ "Nghĩa" với đứa con yêu dấu con hiếu hạnh của Ngài, thì cái chết của Jésus Christ bất quá như kẻ tù nhơn chết mà thôi, có đâu lên phẩm vị Giáo Chủ ngồi trên ngai Thiêng Liêng vô cùng quí báu trên mặt địa cầu nầy gần hai ngàn năm (2.000) tức nhiên (1949) một ngàn chín trăm bốn mươi chín. Trong lúc Đức Chúa Jésus Christ làm con hiếu hạnh có ba năm mà thôi, mà Đức Chí Tôn trả lại cái danh dự sang trọng cho Ngài đến một ngàn chín trăm bốn mươi chín năm là năm nay. Bài học ấy nó sẽ quí báu cho toàn thể con cái Đức Chí Tôn đương nhiên ngồi trong lòng Ngài, bây giờ nói toàn thể chúng ta đây không lẽ không có một người hiếu hạnh như Đức Chúa Jésus Christ đối với Đức Chí Tôn.
Bần Đạo để dấu hỏi? Nếu có một người hiếu hạnh với Đức Chí Tôn như Jésus Christ thì toàn thể con cái của Ngài có hạnh phúc lắm, có người như vậy thì nhơn loại sẽ thế nào?
Bần Đạo để cho toàn thể con cái Ngài tìm hiểu, kiếm hiểu, và làm cho đặng như vậy thì hạnh phúc cho nhơn loại không thể gì tả đặng.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày dl. 24-12-1949 nhằm ngày (âl. 05-11-Kỷ Sửu).
(*1) Nơi đọan thứ 7: Trong Đạo Sử buổi nọ có tên Christ can về tội cướp bị tử hình, vì lẽ chúng tôi gian dối, nói rằng: Ngài mê hoặc con cái Juifs nên bị án tử hình đóng đinh trên cây thập tự giá,... ...
Chúng tôi xin đề nghị cho rõ nghĩa hơn: Trong Đạo Sử buổi nọ có tên Christ can về tội cướp bị tử hình, vì lẽ chúng tội gian dối, nói rằng: Ngài mê hoặc con cái Juifs nên bị án tử hình đóng đinh trên cây thập tự giá,... ...
Q.3/17: TINH THẦN THƯỢNG VÕ CỦA CHƯ LIỆT THÁNH.
Tại Đại Đồng Xã ngày 25 tháng chạp năm Kỷ Sửu (1949)
Trước Bần Đạo để lời cám ơn Chư Chức Sắc Thiên Phong Hội Thánh Cửu Trùng Đài, Hội Thánh Phước Thiện, Quân Đội và toàn thể con cái của Đức Chí Tôn, nam nữ có mặt tại đây để làm lễ truy diệu các vong linh của chiến sĩ anh dũng ngày hôm nay.
Bần Đạo là một vị Giáo Chủ tưởng chẳng cần minh bạch nói thẳng thắng ra cho toàn thể điều biết cái khối thương tâm của Bần Đạo thế nào, mỗi người đã cân lường nó.
Trót hai mươi bảy năm trường, nói rõ ra là từ khi mới mở Đạo, đi theo cái bóng vô hình của Đức Chí Tôn, lãnh một sứ mạng thiêng liêng đem nền chơn giáo của Ngài đến nơi mặt thế này, đặng cứu độ chúng sanh. Ngài đã giao cho một đặc điểm khó khăn hơn hết là tìm thế giải ách nô lệ cho nước Việt Nam hầu đem lại hai mối cảm tình của hai nước Pháp Việt làm khuôn khổ đặng để nơi mặt thế này một kiểu vở hòa bình tâm lý. Muốn cho đôi đàng hòa, hòa với nhau một cách hợp pháp, hòa với nhau một cách xứng đáng thì ít nữa phương diện danh giá đôi đàng phải ngang nhau, đồng thể với nhau mới đặng. Vì cớ cho nên Bần Đạo lập giá trị nước Việt Nam này làm thế nào cho ngang hàng phẩm giá trị của Vạn Quốc, nên dùng nòi giống Việt Nam làm Thánh Thể Đức Chí Tôn, hầu gieo truyền nền Chơn Giáo của Ngài toàn trong thiên hạ.
Ôi! Biết bao nhiêu hy sinh, nhứt là buổi sau này, khi đã bị đồ lưu hải ngoại qui hồi cố quốc thì một trường chiến tranh đã nổi dậy, con cái yêu dấu của Đức Chí Tôn đã hy sinh biết bao xương máu để làm cho xong cái sứ mạng thiêng liêng của mình.
Thật Bần Đạo ngày nay đứng nói đây, Bần Đạo thú thật rằng: trường hợp như thế Bần Đạo chưa hề tưởng tưởng đặng, càng nghĩ càng nhớ cái bí mật vô biên của Đức Chí Tôn đã tiên định trong bài thi của Ngài, năm Bính Dần là năm mới khai Đạo Ngài đề bài thi này.
"Phong Thần đừng tưởng việc mơ hồ,
Giữa biển ai từng gặp Lão Tô,
Mượn thế đặng toan phương giác thế,
Cũng như nương viết của chàng Hồ".
Thật ra Bần Đạo không ngờ mà Ngài đã tiên định rằng: Cái thời cuộc đương nhiên hôm nay là tấn tuồng của Phong Thần diễn lại đó vậy.
Trước Linh Vị của các Anh Linh Chiến Sĩ Bần Đạo tưởng tượng chẳng khác nào Côn Lôn Sơn của Đức Lão Tử chịu tâm khổ lập bản Phong Thần, Ngài đã chịu đau thảm về tinh thần thế nào, thì ngày nay Bần Đạo cũng chịu y như thế ấy.
Bao nhiêu xương máu con cái yêu dấu của Đức Chí Tôn tức nhiên bao nhiêu sanh mạng anh hùng Liệt Sĩ Cao Đài. Mỗi một giọt máu là một giọt huyết lệ chan hòa trong ấy.
Muốn tương lai nước Việt Nam sau có ngước mắt dòm cả toàn thiên hạ không thẹn thì ít nữa trong Quốc Dân, trong con cái của nước Việt Nam phải đủ can đảm, đủ tinh thần, đủ tâm đức trung liệt ái quốc nồng nàn mới đem lại cái hạnh phúc chơn thật cho nòi giống nước nhà được. Những kẻ ấy chúng ta muốn tìm đặng duy có.... Bần Đạo xin lỗi duy cửa Đạo Cao Đài này mới có mà thôi.
Mỗi sanh mạng ấy chúng ta đã thấy hiển nhiên trước mắt, ngày nay người dám hy sinh là người đã tỏ rằng mình là con cái xứng đáng của nước nhà chủng tộc đó vậy. Các vị anh hùng đó là con cái xứng đáng của nước Việt Nam, là nòi giống trung thành của nước Việt Nam, các Đấng ấy đã dám hy sinh cho Tổ Quốc họ. Hỏi chúng ta mất kẻ ấy chúng ta có tìm lại đặng hay chăng? Câu hỏi ấy Bần Đạo để dấu hỏi mơ hồ.... Nếu có hay chăng tương lai sẽ chỉ rõ, Bần Đạo mơ uớc một điều là những gương hy sinh đó được để trong tâm não các chiến sĩ Cao Đài và Bần Đạo mơ ước phải nhớ mãi ấy là danh giá cao thượng của Đạo đó vậy.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 25-12-Kỷ Sửu nhằm ngày (dl. 11-02-1950).
Q.3/18: LỄ ĐẦU XUÂN.
Thời Tý tại Đền Thánh
Đêm mùng 1 tháng giêng năm Canh Dần (dl. 16-02-1950)
Đêm nay đã mãn một năm, khởi đầu qua năm mới, là năm Canh Dần, tưởng chúng ta có thể đoán trước rằng: Đức Chí Tôn đã dành để cho nước Việt Nam, một sắc dân của Ngài đã lựa chọn, để gởi cái Chơn Giáo của Ngài, tạo một cơ quan cứu khổ toàn thiên hạ.
Bần Đạo nhớ lại năm Bính Dần, cũng đêm nay, cũng giờ này Đức Chí Tôn giáng cơ; buổi ấy có Đức Cao Thượng Phẩm và Bần Đạo phò loan, Ngài kêu cả hai người đứng dậy, Ngài viết nói: Biểu toàn thể con cái nam, nữ của Ngài chun ngang qua cây cơ đặng Ngài ban ơn cho mỗi đứa, cây cơ chống lên cả thảy đều chun qua. Sự làm của Ngài hồi năm Bính Dần thế nào, đêm nay cũng vậy. Hiện giờ trong óc não Bần Đạo quả quyết rằng: Mỗi năm giờ này đêm này Ngài hằng ở gần con cái của Ngài, và cũng đêm nay Ngài ban ơn riêng cho toàn thể con cái của Ngài, chúng ta nên tin đi, nên quả quyết đi.
Chúng ta có thể quả quyết rằng: Ngài đã nói với chúng ta 24 năm trước, Ngài phải làm thế nào cho Quốc Dân Việt Nam này được giải ách nô lệ mới xứng đáng làm thánh thể của Ngài. Chính sứ mạng thiêng liêng khó khăn ấy Ngài đã giao trọn trong tay của Bần Đạo thiệt hiện đặng điều ấy.
Ôi! Nếu hồi tưởng lại hai mươi mấy năm trước giờ phút nầy Bần Đạo tưởng tượng lại; tưởng Ngài biểu lên Thượng Thiên gỡ mặt nhựt, mặt nguyệt đem xuống để nơi thế gian này cho thiên hạ thấy thì tưởng có thể đặng, còn giải ách nô lệ cho nước Việt Nam Bần Đạo chưa chắc đã làm đặng hay chăng?
Giờ phút này Bần Đạo ngó thấy Ngài giữ lời hứa và đã thực hiện đặng cho toàn cả con cái của Đức Chí Tôn, tưởng lại coi không có năm nào được vui như năm nay.
Bần Đạo thú thật từ khi mới lọt lòng mẹ tới giờ và đã biết sống với đời cho tới ngày nay không có năm nào Bần Đạo hưởng cái hạnh phúc vui sướng cho bằng năm nay, nó vui sướng làm sao đâu. Bần Đạo rất thỏa dạ thi hành sứ mạng thiêng liêng của Đức Chí Tôn; ngọn cờ cứu thế do nơi cửa Đạo Cao Đài nầy, do tay của Đức Chí Tôn đến ban tinh thần để giải ách nô lệ cho nước Việt Nam và đòi cả sự độc lập thống nhứt Hoàng Đồ lại cho họ. Mỗi phen Bần Đạo đứng nơi Giảng Đài nầy nói điều ấy thì trước kia chưa có chi hết; ngày nay Bần Đạo dám đảm đương bảo kê rằng sự độc lập và thống nhứt của nước Việt Nam phải có, phải đặng và đến nay đã đặng.
Năm Canh Dần là năm Bần Đạo 61 tuổi, đã chung sống nơi cõi tạm nầy, mới một lần đầu tiên Bần Đạo hưởng được hạnh phúc vô đối của Đức Chí Tôn đã ban cho đó vậy.
Bần Đạo xin nhắc lại, xin làm chứng cho cả thảy con cái của Đức Chí Tôn; nam cũng vậy, nữ cũng vậy, nếu toàn thể con cái của Ngài, một đôi triệu chơn linh mà có đức tin vững chắc như đức tin của Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt, Đức Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư và Hộ Pháp Phạm Công Tắc, nếu cả thảy đều có đức tin vững vàng dường ấy, Bần Đạo dám nói chắc rằng: Các người dời núi Bà xuống Châu Thành Saigon cũng được, có thể nói, nền Đạo Cao Đài này thiệt hiện được như ngày nay là nhờ đức tin của Thượng Trung Nhựt.
Bần Đạo nói, ngày nay sự độc lập và thống nhứt nước Việt Nam đã thiệt hiện, quả sự thật vậy, Bần Đạo đứng giữa đây không thêm không bớt, sửa soạn đi đăng hưởng hạnh phúc vô đối của Đức Chí Tôn ban cho.
Ngày mùng năm tháng Giêng năm Canh Dần đến đây toàn thể Quốc Dân Việt Nam sẽ hân hoan thế nào, nếu ai có biết vui sướng hân hạnh. Ấy là ngày giờ đơm trái trước mặt cho họ ngó thấy.
Bần Đạo sẽ sắp đặt thế nào cho cuộc lễ biểu tình được long trọng để thúc tinh thần con cái của Đức Chí Tôn và toàn thể Quốc Dân được hưởng hạnh phúc mà họ đã chờ đợi trên 80 năm nay.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Đêm 30 tháng chạp năm Kỷ Sửu rạng 1 tháng giêng Canh Dần nhằm ngày (dl. 16-02-1950).
Q.3/19: MỤC ĐÍCH NỀN CHƠN GIÁO LÀ AN ỦI CHIA SỐNG LẪN NHAU.
Tại Đền Thánh thời Tý
đêm mùng 8 tháng giêng năm Canh Dần (1950)
Đêm nay nếu chúng ta co tay đếm lại Đức Đại Từ Phụ đã đến chung hiệp cùng chúng ta, đem Chơn Giáo Ngài làm phương cứu thế đã 25 năm rồi. Bần Đạo nhớ lại khi Đại Từ Phụ mới đến, Ngài gởi con cái của Ngài với sứ mạng thiêng liêng đến thế gian nầy cùng Ngài, đến chung hiệp làm một cùng nhau đặng lập thành thánh thể của Ngài. Hai mươi mấy năm, chúng ta tưởng lại sự khổ tâm nhọc trí của Ngài, chúng ta phải bùi ngùi cảm động. Đức Đại Từ Phụ với lòng đại từ đại bi của Ngài không thể gì nói đặng, hai mươi mấy năm trường Ngài đến Ngài độ từ đứa, Ngài dụ từ người, đem cả một thể thống thiêng liêng vô cùng vô tận, quí hóa kia đổi lại một tấm yêu ái của chúng ta đặng làm cơ quan cứu thế, buổi Ngài mới đến, Bần Đạo thú thật phần nhiều anh em chúng ta buổi nọ không hiểu Đạo là gì, dầu đàn anh chúng ta đã có sứ mạng nơi mình lãnh trách nhiệm làm thánh thể cho Ngài khi ấy cũng không biết Đạo là gì cả, chỉ nhắm mắt theo Ngài mà thôi; chính Bần Đạo buổi nọ, Đại Từ Phụ nói với Bần Đạo một lời thiết yếu: "Tắc, dâng cả mảnh thân con đặng Thầy tạo Đạo cứu Đời con có chịu chăng?"
Bần Đạo trả lời với Ngài một cách quả quyết rằng: Nòi giống con còn nô lệ, nước nhà còn lệ thuộc thì làm thế nào con tu cho đặng. Ngài cười nói: Nhưng điều ấy các con làm không đặng đâu, để cho Thầy, tiếng để đó cho Thầy, Bần Đạo nhớ lại dễ như không, mà đã hai mươi mấy năm trường rồi đó, Ngài hứa khi Ngài mới đến cùng Cao Thượng Phẩm và Bần Đạo cuối năm Tý đó vậy, theo phàm tánh của chúng ta có lẽ buồn, nhưng vì chúng ta sống trong thời gian, còn Đức Chí Tôn sống trong không gian, chúng ta tính từ ngày, tháng, năm, còn Ngài chỉ lấy quyết định của Ngài làm căn bản mà thôi. Lời hứa đơn sơ ấy ngày nay chúng ta đã thấy rằng Ngài không bao giờ thất hứa với chúng ta đó vậy, nếu chúng ta đoán xét kỹ cơ quan của Ngài đã thi thố giải ách nô lệ cho nòi giống Việt Nam, chúng ta ngó thấy một hành tàng khắc khe khó nói, thi thố với một cách mà trí óc phàm chúng ta không thể đoán đặng và Bần Đạo nói rằng: Không có một tay phàm thi thố đặng; muốn giải ách nô lệ cho nước Việt Nam mà dùng quyền phép vô biên của Ngài đào độn cả Vạn Quốc hoàn cầu đặng làm cho sôi nổi một trường chiến tranh của toàn thế giới, giục thúc các nước còn lạc hậu chiến đấu lấy cho đặng quyền sở hữu của họ, giành cho được độc lập cho nòi giống và Quốc Gia của họ, quyền sở hữu ấy là quyền định sống của họ đó vậy. Nơi cõi Á Đông nước nào còn lạc hậu đều đặng giải thoát, đều chiến đấu đặng tranh độc lập và thống nhứt. Nước nhà nòi giống Việt Nam cũng tấn triển theo khuôn luật ấy mà định vận mạng lấy mình, không coi lại sự độc lập và thống nhứt nước Việt Nam, có nhiều điều khắc khe, mà trí óc phàm nầy không thể làm đặng nên phải dùng tay của Đức Chí Tôn, và cả con cái của Ngài. Bần Đạo đứng nơi Tòa Giảng nầy không nói thêm không nói bớt; khó nhứt là nước Việt Nam, nòi giống Việt Nam, quốc gia Việt Nam đã thiếu Ngài một nợ tình không biết giá trị nào nói cho đặng, thâm tâm của Ngài muốn gieo món nợ tình với Quốc Dân Việt Nam đặng chi, ta nêu một dấu hỏi? Thêm cho đủ yếu lý ấy, Bần Đạo nói sự mơ ước của Ngài rất đơn giản rất nhẹ giá trị không cùng, chỉ muốn Quốc Dân Việt Nam là thánh thể của Ngài, thay thế hình ảnh của Ngài đặng chia khổ cho Ngài, chung hiệp cùng Ngài hầu nâng đỡ kẻ khổ, an ủi tâm hồn nhơn loại đang đau đớn trong buổi cạnh tranh giành sống của họ, của cơ quan tranh đấu cho kỳ đặng độc lập đặng bảo vệ sanh mạng của họ, nếu không mực thước chuẩn thằng định tâm lý của họ, dầu cho đấu tranh để lập quyền sống của mình, ít nữa phải có Nhơn Đạo đặng giúp mạng sống của người, chớ đừng bảo vệ mạng sống của mình để chiếm đoạt mạng sống của kẻ khác, tấn tuồng ấy Bần Đạo chỉ nói là quả kiếp mà thôi. Đức Chí Tôn Ngài đến lập nền Chánh Giáo của Ngài cốt yếu làm thế nào cho họ đừng cướp sống lẫn nhau mà an ủi với nhau ấy là chí hướng của Ngài đó vậy.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 08-01-Canh Dần nhằm ngày (dl. 24-02-1950).
Q.3/20: LỄ KỶ NIỆM ĐỆ TAM CHU NIÊN QUÂN ĐỘI CAO ĐÀI.
Ngày mùng 8 tháng giêng năm Canh Dần (1950)
Thưa Chư Chức Sắc Thiên Phong nam, nữ, Hội Thánh.
Thưa các Quan Viên, Chức Sắc.
Thưa các bạn đồng chí và chiến binh Cao Đài.
Bần Đạo hôm nay đến đứng trên Giảng Đài nầy có tình cảm khác hơn hai kỳ trước.
Bần Đạo thú thật đã trót hai mươi mấy năm lãnh sứ mạng thiêng liêng hòa tâm cho toàn thiên hạ nắm cơ thiêng liêng của Đức Chí Tôn phú thác, đem cái thuyết Bác ái từ bi ra cứu vãn tình thế cho nhơn loại đương cực kỳ đảo lộn, sợ e cho sự nhiệt huyết tranh đấu của họ, đặng định phương sống tự do của họ, dìu dẫn xô đẩy họ đến con đường diệt vong mà chớ. Nếu không có năng lực đạo đức bảo thủ Nhơn đạo họ cho chắc chắn vững vàng thì họ sẽ đi đến con đường diệt vong.
Thưa các Ngài, từ bao giờ ai đã đi trên con đường chiến đấu thì chỉ ngó con đường quyết thắng mà thôi, còn cái khuôn khổ ái tuất thương sanh, họ đã liệng ra ngoài hành tàng của họ.
Bần Đạo hồi tưởng lại, khi trở về bản xứ sau 5 năm bị đồ lưu nơi hải ngoại, thì thấy một trường náo nhiệt chiến tranh đã biến sanh trong nước. Cái lẽ mất còn của chủng tộc, có lẽ tùng theo cái khuôn luật tấn triển trên thế giới.
Hôm nay cái quyền năng tranh đấu của họ, đã chán hiểu không có một năng lực nào kềm thúc cái chí hướng của nhơn loại định vận mạng lấy mình, tranh thủ cho tồn tại và độc lập nơi mặt địa cầu nầy.
Tuy đã biết bổn phận như thế, nhưng có một điều ân hận hơn hết là chính giữa nước Việt Nam thân ái của đồng đạo dầu cho Bần Đạo là tượng trưng tinh thần Quốc Tế, nhưng xin thú thiệt nòi giống của Bần Đạo vẫn là Việt Nam, Bần Đạo còn thiếu nợ tình của Việt Nam, Bần Đạo buộc phải trả.
Trót một đời tranh đấu cốt yếu để giải ách nô lệ cho người Việt Nam không phải vì chủ hướng chủng tộc, mà vì công lý.
Bần Đạo hôm nay vẫn tiếp tục cho đến cùng tới giờ chót; nhưng cái lý do giải ách nô lệ cho các sắc dân lệ thuộc là đầu tiên hơn hết.
Bần Đạo chán hiểu trường tranh đấu phải hủy bỏ nhơn tình, nhưng Bần Đạo thú thật có một điều làm cho náo nhiệt là cảnh tượng của những tay dẫn đạo tương lai cho nước nhà chủng tộc, lại vô tình tiêu diệt các phần tử ái quốc chơn chánh nồng nàn, vì lý tưởng và vì cạnh tranh của đảng phái.
Một điều mà Bần Đạo lấy làm lạ hơn hết là: những công nghiệp vĩ đại của Cao Đài khi tự cường ngày mùng 9 tháng 3 năm 1945. Đáng lẽ các quân công ấy, cả Quốc Dân Việt Nam điều thiếu mối nợ tình của họ mới phải. Trái lại khi Bần Đạo trở về thấy con chiên vô tội của Đức Chí Tôn và Quốc Dân vô cớ, Việt Nam bị đứng giữa hai đường tên đạn, một bên là Pháp, một bên là Việt Minh Cộng Sản.
Ôi! Biết bao nhiêu sanh mạng đã hy sinh một cách vô lối và vô nhơn đạo, ấy là một điều làm cho Bần Đạo ra khỏi lập trường tranh đấu đứng giữa để bảo vệ sự tàn sát cho đám Quốc Dân vô tội ấy.
Vì cớ cho nên xuất hiện ra đạo binh Cao Đài đứng giữa hai vòng tên đạn, để đở một là đường tên mũi đạn của Pháp, một là đường tên mũi đạn của Việt Minh, đặng bảo vệ sanh mạng cho nòi giống Việt Nam.
Vì lòng từ bi bác ái và vì chí hướng cao cả thiêng liêng của Quốc Dân mà thôi. Nhứt định hy sinh mình đặng tượng trưng cây cờ: "Bảo Sanh Nhơn Nghĩa Đại Đồng" và từ bi bác ái! Chủ hướng của Quân đội Cao Đài để trên cây cờ. Họ mong cứu vãn tình thế phục hồi Quốc Thể.
Bần Đạo hôm nay đứng giữa đây, Bần Đạo không có thẹn thuồng với tuổi già của Bần Đạo, hôm nay đã 61 tuổi hưởng một hạnh phúc cuối cùng do công lý thiêng liêng của Chí Tôn đã để nơi mặt thế này, hiển hiện là nước Việt Nam được độc lập thống nhứt và nòi giống Việt Nam được giải ách nô lệ.
Bần Đạo để lời cám ơn toàn thể chiến sĩ hy sinh vì nghĩa vụ ấy.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 08-01-Canh Dần nhằm ngày (dl. 24-02-1950).
Q.3/21: LÀM NGƯỜI ĐỨNG GIỮA XÃ HỘI PHẢI TÌM PHƯƠNG LẬP VỊ MÌNH.
Tại Đền Thánh thời Tý,
rằm tháng giêng năm Canh Dần (1950)
Đêm nay là đêm Rằm Thượng Nguơn tức nhiên là cái lễ tối yếu tối trọng của Đạo buổi khai niên đó vậy, bình thường ngoài đời dầu cho quan dân, tứ dân, tứ thứ: Sĩ, Nông, Công, Thương, Ngư, Tiều, Canh, Mục, họ thường đi lễ đầu năm kiếm hiểu coi giá trị của mình trong một năm qua thể nào. Ngày nay Bần Đạo bắt chước theo họ tìm hiểu cân lường thử coi giá trị của chúng ta đã là phần tử của thánh thể Đức Chí Tôn ra thể nào.
Hội Thánh, mấy em nam, nữ lưỡng phái còn trong hàng Tín Đồ nghe Qua nói rõ: Thánh thể Đức Chí Tôn không phải Chức Sắc Thiên Phong mà thôi, các phần trong nền Chánh Giáo của Ngài mấy em phải biết trong thân thể của mấy em thế nào chẳng phải đầu óc mặt mũi tay chân là cơ quan trọng hệ gọi là trọng yếu, dầu cho một sợi tóc móng tay cũng trọng yếu vậy; các phần tử trong thánh thể của Đức Chí Tôn Qua nói rõ chẳng phải Chức Sắc Thiên Phong mà trọng yếu, chính mình bản đồ của Đức Chí Tôn đã vẽ rõ: Trên Đại Từ Phụ dưới là mấy em đó đa nghe! Chớ chẳng phải thánh thể Đức Chí Tôn là Chức Sắc Thiên Phong mà thôi, bây giờ Qua nói: Qua thuyết đêm nay cho mấy em Tín Đồ nam, nữ với mấy đứa nhỏ hậu tấn nghe đó vậy phải để ý hơn hết nghe! Phàm chúng ta đã sanh trưởng làm người đứng giữa xã hội nhơn quần chúng ta đương nhiên phải tìm phương lập vị mình, ai ai cũng như ai, nhưng sở dụng của mỗi người đều muốn làm thế nào cho giá trị mình trên thiên hạ lẽ hằng nó vẫn vậy, khi lập thân danh của mình rồi dầu muốn dầu không trí não mình vẫn so sánh cân lường định giá trị của nó coi hạng nhơn sanh nào, mình đứng vào hàng phẩm nào và thân danh của mình giá trị bực nào lẽ tự nhiên trí óc ai cũng vẫn vậy. Chúng ta ngó thấy một vị quan chẳng cần nói cao kỳ cho đến Vương Đế công thần chỉ lấy bực thường theo quan viên có sứ mạng cầm quyền trị dân, có cái sở hướng định chí của họ làm thế nào để lưu lại miệng đời cái danh tiết yếu trọng, danh để cho thiên hạ tôn sùng kính nễ, vì thế cho nên trường quan lại không luận để lại một phương sống là Tam Cang Ngũ Thường, còn ba hạng nữa, trước khi xuất sĩ buộc mình phải cho có đủ là liêm, khiết, để lại trong trí não thiên hạ một cái giá trị. Nhà giàu làm lụng cực nhọc cốt yếu làm cho có của tô điểm danh giá của mình; tôi không được sang mà đều tôi có của tôi làm oai cũng được vậy, lẽ tự nhiên thời đại nó vẫn vậy, lấy giá trị nó cân lường giá trị, coi nó lập cho mình năng lực bao nhiêu, khinh trọng quí hèn dường bao, chúng ta ngày nay cũng vậy, mấy em cũng vậy, phàm mấy em cũng nghe một lời huyền bí thiêng liêng của Đại Từ Phụ đến cùng chúng ta với một phương pháp phi thường là ngòi bút, đến đặng tương thân, tương ái với chúng ta và cả thảy đều nghe đều ngó thấy đều xu hướng chạy theo Ngài, chịu biết bao nhiêu khổ não truân chuyên cùng Đạo, ít nữa mình phải kiếm coi cái hy sinh của mình ở đâu, chạy theo Ngài giá trị thế nào là lẽ tự nhiên phải vậy, ta phải làm cho được đặng định giá trị của mình.
Bần Đạo nói dầu cho bực Công Khanh Vương Hầu Khanh Tể giá như phú hữu tứ hải thế nào đi nữa nội trong một kiếp sanh là hết, chúng ta ngó thấy trường đời nào là Đài Tần Đảnh Hớn, ngày nay danh thể có còn tồn tại chăng? Chúng ta đặng ngó thấy trên mặt địa cầu nầy đã có một quyền hạn trị thế biết bao nhiêu danh giá cao trọng, nhơn loại đã lập vị nơi mặt thế này, chúng ta chỉ đọc lại mấy trang sử không có chi lạ, là sự giàu sang của họ tạo để nơi mặt địa cầu này, đời này qua đời kia biết bao nhiêu là giai đoạn. Sự tồn tại của nó chẳng khác như cái bông sớm nở tối tàn không giá trị chi hết. Chúng ta để trí não so sánh bao nhiêu đi nữa, chúng ta chỉ ngó thấy hình bóng bất quá như ánh sáng hào quang của mặt Trời đi ngang qua cửa sổ mà thôi, không có chi trọng hệ. Đương nhiên bây giờ chúng ta đã ngó thấy con đường trước mắt giục thúc nhơn loại tranh đấu vì danh lợi, quyền thế, thế nào chúng ta móc cân tinh thần để định giá trị coi, thấy rằng không có giá trị chi hết, như giấc chiêm bao, giấc huỳnh lương mộng mà thôi. Chúng ta mang danh ra trước thời kỳ ngộ Đạo, đứng giữa con đường Đức Chí Tôn đi ngang qua đầu chớ không thấy hình ảnh của Ngài, nhưng chúng ta cũng hưởng được mùi vị sống, mùi vị thiêng liêng của Ngài chỉ biết được điều mượn mảnh hình hài xác thịt này làm con thuyền Bát Nhã độ thế cứu đời, lấy cả khối trí óc tinh thần này làm câu kinh vô tự đặng chuyển cả tinh thần loài người tiến tiến triển trên mặt nhơn đạo của họ, đặng bảo thủ cái sống còn trên mặt thế gian nầy, đem mảnh thân nầy đưa trong tay Đức Chí Tôn cho Ngài lập phương cứu khổ, chẳng phải sống của đời mà thôi, chúng ta còn đảm nhiệm cái sứ mạng thiêng liêng quí hóa hơn trước, chúng ta còn lấy linh hồn chúng ta làm mực thước đặng cứu vớt các linh hồn sa đọa làm cho họ có danh giá cao trọng. Bần Đạo nói sơ qua bao nhiêu đó cho cả thảy con cái Đức Chí Tôn để ý tìm coi thể nào rồi tự định giá trị lấy mình.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 15-01-Canh Dần nhằm ngày (dl. 03-03-1950).
Q.3/22: NGÀY NÀO NHƠN LOẠI BIẾT YÊU ÁI NHAU LÀ NGÀY HÒA BÌNH HẠNH PHÚC.
Tại Đền Thánh
đêm mùng 1 tháng 2 năm Canh Dần (1950)
Đêm nay Bần Đạo đem sự sưu tầm hạnh phúc của nhơn loại sẽ đưa đẩy mình đến đâu.
Mỗi 15 ngày mới tới kỳ đàn, mỗi kỳ đàn cúng rồi cả thảy đều mệt, cúng thường có một giờ rưỡi, hay một giờ bốn mươi phút nên thường lệ lên giảng đạo Bần Đạo tìm thế thúc nhặt gói ghém lại, nhưng trong thời gian ngắn ngủi không thế gì thuyết minh nhiều vấn đề trọng yếu.
Nói thật có nhiều vấn đề giảng mà Bần Đạo viết thành quyển sách sưu tầm sự sống của nhơn loại nơi mặt địa cầu nầy, kiếp sống của họ, chúng ta thử hỏi họ có tìm hạnh phúc đặng chăng? Không thế gì đặng... có tìm đặng chăng chỉ tìm với cái bóng dáng mà thôi chớ không khi nào tìm đặng.
Nơi thế gian nầy có hai lẽ:
1. là tìm với bóng dáng thì sẽ đưa đẩy đến con đường tận diệt.
2. là tìm hạnh phúc đi đến đại đồng thế giới.
Chúng ta thử nghĩ theo triết lý nhà Phật có nói rằng: Khi chúng ta mang xác phàm đến thế gian này, chúng ta chịu trong vòng thúc phược của tứ khổ, khi chúng ta khổ, chúng ta mong mỏi tìm hạnh phúc, nhưng hạnh phúc đâu mà kiếm.
Bần Đạo nói thật hạnh phúc của nhơn loại tìm bây giờ chỉ là mơ mộng, tìm chẳng khác nào tìm cá trên ngọn cây. Giá trị của nhơn loại thử trong cảnh khổ của họ tìm, Bần Đạo không chối là do sự cố gắng miệt mài của họ, đã đo được bước đường tấn hóa, họ đạt đến thời đại văn minh, thời kỳ nguyên tử lực, họ bay lên Trời được, lặn xuống nước được, họ có thể tiêu diệt trái địa cầu này được, họ muốn làm thế nào do cách vật trí tri của họ giúp họ phương pháp hóa học tạo ra máy móc, như bay lên trời thì có máy bay, chun xuống nước thì có tàu lặn, muốn chạy mau phải có chiếc xe máy, các điều ấy phải có tiền mua sắm mới được, mà muốn cho có tiền thì phải làm mới có đặng sắm, khi có tiền muốn lên trời hay xuống nước cũng được, có tiền thì dễ như không.
Coi lại như lời Đức Chí Tôn khi lập Thiên Chúa Giáo để lại trong sám truyền: "Các ngươi hãy sống, có thể sống với giọt mồ hôi nước mắt của các ngươi".
Muốn tìm hạnh phúc phải làm cho có tiền, nhưng tìm mà là mồ hôi nước mắt của nhơn loại thì nó xô đẩy nhơn loại vào trường tranh đấu náo nhiệt, tranh đấu cho sự sống còn của họ.
Chúng ta thử nghĩ, rồi can đảm nhìn nhận kiếp sống của chúng ta từ khi mẹ đẻ tới giờ chúng ta đã có hạnh phúc buổi nào chưa?
Chúng ta thấy cái khổ của nhơn loại chẳng khác nào kẻ kia mang mụt nhọt đau nhức sợ quá, rồi rờ mãi, mà sợ mãi đau vẫn còn đau, có ai dám can đảm nặn mụt nhọt cho đau thử coi... không có... nơi mặt địa cầu nầy chưa ai dám làm, vì mình khổ cần tìm giải pháp nào đặng trừ cái khổ.
Bởi vậy trường chiến tranh hạnh phúc náo nhiệt ấy là tranh sống; tranh sống vì hạnh phúc giả, họ phải đổi giọt mồ hôi nước mắt của họ, nên trong khi đổi chọn phải tranh đấu, náo nhiệt đương nhiên giờ này là trường tranh đấu, tranh đấu đặng tìm cái hạnh phúc giả ấy.
Chúng ta tìm thấy đương nhiên giờ này có hai lý thuyết :
1) Cộng Sản.
2) Tư Bản.
Đương tranh đấu nhau, một đàng thấy họ tìm hạnh phúc họ vì các của cải sẳn có, họ muốn lên Trời, xuống nước tìm hanh phúc, họ bay lên Trời được, xuống nước được, nên họ đánh họ giết. Một đàng thì nói tao có làm tao mới sống hạnh phúc, tao có thì tao hưởng. Họ đang chiến đấu nhau vì hai thuyết ấy, mà tranh đấu là giặc giã, tức nhiên là cơ tự diệt, họ gớm, họ ghê, sợ giặc lắm, giờ phút nầy cho đến nhà binh cầm vận mạng quốc dân họ cũng sợ chiến tranh sẽ tới, bởi chiến tranh không phải như hai trận chiến vừa qua, mà nó chiến tranh bằng bom nguyên tử và khinh khí, không phải vì sự sống mà họ sợ họ chạy đi sưu tầm hạnh phúc giả nên họ chiến đấu mãi thôi. Mà sợ chiến tranh nên họ mới kêu gọi hòa bình, tìm kiếm hòa bình với đường tên mũi đạn của họ đặng họ sống mâu thuẫn làm sao... Họ sợ chiến tranh mà tức nhiên họ tạo chiến tranh.
Ban đầu họ sợ, họ tìm phải có hòa bình, bởi hòa bình là phương sống còn. Nếu chiến tranh là tự diệt của họ, họ mơ mộng kiếm hạnh phúc để sống, họ nhè đẩy vào hạnh phúc giả cho chết.
Nên họ tìm lập vào hội Vạn Quốc Liên Minh v.v... giờ phút nào cũng vậy, tấn tuồng xảo trá mạnh đặng yếu thua, khôn còn dại mất vẫn còn diễn mãi, sự chơn thật đâu thấy mà hòa bình thế giới, nếu các nước yếu ớt toàn mặt địa cầu này đừng bị cái ách thâu chiếm thì mới có thể hòa bình trở lại.
Như hai trận đại chiến xảy ra xô đẩy nhơn loại vào đường tàn sát nhau ghê gớm.
Bây giờ họ muốn kiếm phương thế đặng dung hòa hai thuyết ấy, một đàng thì nói phái vô sản, với đẳng cấp bảo vệ hòa bình cho thiên hạ mới đi đến đại đồng thế giới.(*1)
Một đàng nói: Phải thực hiện hạnh phúc nhơn loại với sức mạnh làm ra của cải, phú hữu, tứ hải phương pháp giành giựt cướp bóc.
Hai thuyết ấy đang chiến đấu nhau giờ này... có điều ngộ nghĩnh sẽ tới trước mắt ta, lạ lùng thay! Huyền vi mầu nhiệm của Đức Chí Tôn Ngài để cho Quốc Gia Việt Nam hát một tấn tuồng dị hợm... giờ phút này là giờ phút chúng ta đang giải ách nô lệ, ta có thể nói nước Việt Nam đã đứng ngang mặt với Vạn Quốc.
Hại thay! Nước Việt Nam chúng ta lại là một trường chiến địa của hai khối sẽ đối chọi nhau, hai khối ấy đang gầm hét nhau, nơi địa giới Việt Nam.
Thử hỏi nó sẽ làm nơi chiến địa cho Vạn Quốc không?
(Bần Đạo nói ra thiên hạ sẽ cho Bần Đạo là mê tín dị đoan) Bần Đạo nói: Nếu như nòi giống Việt Nam đối với các sắc dân họ biết bảo vệ sanh mạng họ trước đã, đặng họ làm kiểu vở cho Vạn Quốc bắt chước theo, may ra Chí Tôn gồm Vạn Quốc để trước mắt dân Việt Nam sẽ có bí ngôn nói với họ rằng: Cả toàn thể nhơn loại tìm hạnh phúc đều là giả, cả phương pháp của người đều trật hết, duy có phương pháp vô đối là: Giờ phút nào nhơn loại biết yêu ái hòa bình, biết lấy thân mình giúp thân nhơn loại, lấy thân mình giúp lẫn nhau, hạnh phúc mới có thiệt tướng.
Còn những phương pháp của các người thi thố như giọt nước mưa rơi xuống.
Vì giả dối với nhau thì không thể nào tìm hạnh phúc cho ra đặng.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 01-02-Canh Dần nhằm ngày (dl. 18-03-1950).
(*1) Nơi đoạn thứ 21: Bây giờ họ muốn kiếm phương thế ... ..., một đàng thì nói phái vô sản, với đẳng cấp bảo vệ hòa bình cho thiên hạ mới đi đến đại đồng thế giới.
Chúng tôi xin đề nghị cho rõ nghĩa hơn: Bây giờ họ muốn kiếm phương thế ... ..., một đàng thì nói phải vô sản, với đẳng cấp bảo vệ hòa bình cho thiên hạ mới đi đến đại đồng thế giới.
Q.3/23: ĐỨC CHÍ TÔN LÀ CHA CỦA CHƠN LINH, CÒN TRÍ NÃO VÀ XÁC THỊT LÀ DO ĐỨC PHẬT MẪU ĐÀO TẠO.
Tại Báo Ân Từ ngày rằm tháng 2 năm Canh Dần (1950)
Hôm nay chúng ta luận một việc cần phải luận cùng nhau, nếu chúng ta tin chắc chắn rằng: Đức Phật Mẫu là Mẹ sanh chúng ta, ta phải để đức tin nơi Người, theo ý Bần Đạo tưởng cái gì thuộc về xác thịt này đều do Phật Mẫu đào tạo cả, Đức Đại Từ Phụ duy làm cha của chơn linh chúng ta mà thôi, như cha mẹ phàm này Ông cha duy nhứt điểm chơn linh (*1), còn huyết khí do nơi bà mẹ đào tạo mà có, Đức Chí Tôn duy có nhứt điểm linh còn tạo nên trí não và xác thịt của ta hình tướng là do tay Phật Mẫu. Hai chủ quyền ấy rất cao trọng hễ khôn ngoan muốn cầu cho được siêu thoát thì không ai hơn Đức Chí Tôn, còn phần xác thịt nếu đau đớn khổ sở mỗi cái gì đều xin Mẹ thì chắc hơn hết, có nhiều điều ta đến xin với mẹ thì mẹ cho chớ xin Cha thì không đặng phải vậy không? Nhứt là phái nữ tâm hồn phải nương theo Phật Mẫu một cách mạnh mẽ, hơn nữa hoặc sanh con không đặng tráng kiện hoặc đức tin còn yếu ớt sao không đến xin mẹ; chính mẹ có đủ quyền năng ban ơn ấy cho con, như mấy em nhớ đã có vợ có chồng thì nên phụng sự Đức Mẹ cầu xin cho đặng sanh con tốt cho đứa nào đến của mình sẽ là một chơn linh cao siêu, ấy là thiệt khôn đó, nhớ nếu mà chúng ta tin quả quyết có điều ấy thì tự nhiên có như vậy, Bần Đạo thấy nữ phái lãnh đạm điều ấy lắm.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 15-02-Canh Dần nhằm ngày (dl. 01-04-1950).
(*1)Nơi đọan thứ 1: Hôm nay chúng ta luận một việc cần phải luận cùng nhau, ... ... ... như cha mẹ phàm này Ông cha duy nhứt điểm chơn linh,... ...
Chúng tôi xin đề nghị cho rõ nghĩa hơn: Hôm nay chúng ta luận một việc cần phải luận cùng nhau, ... ... ... như cha mẹ phàm này Ông cha duy nhứt điểm tinh,... ...
Q.3/24: ẢNH HƯỞNG THIẾT LÝ ĐẠO GIÁO CỦA ĐỨC THÁI THƯỢNG ĐẠO TỔ.
Tại Đền Thánh thời Tý đêm rằm tháng 2 Canh Dần (1950)
Hôm nay là ngày Vía Đức Thái Thượng Đạo Tổ, mỗi năm đến ngày Vía của Ngài, Bần Đạo và Chư vị đại Thiên Phong đã có thuyết minh Đạo Sử của Người, nếu có thuyết lại cũng không bổ ích, vì cả thảy đều biết; Bần Đạo ngày hôm nay chỉ thuyết ảnh hưởng triết lý Đạo Giáo của Ngài đã để lại thế nào.
Thời buổi hổn loạn, nhơn loại nơi mặt địa cầu nầy, Bần Đạo nói họ đương dung ruổi trên con đường quyền lợi triết lý cao siêu của Đức Thái Thượng Đạo Tổ để lại, giờ phút này nhơn loại chịu ảnh hưởng triết lý ấy thế nào Bần Đạo xin luận thử cho cả con cái Đức Chí Tôn tìm hiểu hơn nữa.
Đức Thái Thượng Đạo Tổ lấy căn bản tinh thần vi chủ của Ngài trong mỗi kiếp sanh con người có thể tấn triển mãi thôi, tấn triển về trí thức tinh thần, thật ra nhơn loại đã hưởng được cao siêu của triết lý ấy, nhứt là các nhà học thức đã tìm đã đạt huyền vi bí mật và năng lực của cơ thể tạo đoan mà đào luyện kiếp sanh hôm nay, có lẽ chúng ta đã tưởng đi đến một đặc điểm khá cao. Bần Đạo nói thời kỳ nguyên tử nhơn loại đã đạt đặng do sự xu hướng đặc biệt huyền vi bí mật dòm bên kia quyền năng tạo đoan cũng khá nhiều.
Nhưng chỉ có một điều là đạt được cái năng lực của cơ thể tạo đoan ấy thay vì để phục vụ nhơn loại với đạo đức nhơn nghĩa. Trái ngược lại cả tài tình của họ đào luyện thâu hoạch quyền lực, cơ tạo đoan của nhơn loại nắm trong tay là để làm một cái lợi khí tiêu diệt nhơn loại.
Thật nguyên tử lực của các nhà học thức Bác sĩ, Bác Vật đã đạt đặng. Đức Thái Thượng Nguơn Thủy đã biết nó trước duy có một điều vi chủ hướng của Ngài bảo tồn sanh mạng con người chớ Ngài không tiêu diệt người như ngày nay.
Bí truyền của Ngài để nơi tinh thần luyện khí cốt yếu là đạt đặng nguyên tử lực vào con người vậy, bí mật của sự luyện khí là do đó, điều Ngài biết đã chính mình Ngài thâu hoạch được trước 2.500 năm. Ngài tưởng năng lực ấy để bảo vệ nguyên linh ta thắng được phản lực của hình thể ta, tinh thần ta vi chủ kiếp sống của chúng ta.
Hại thay, những nhà truyền giáo tưởng đã đủ năng lực bảo vệ sanh mạng loài người bằng triết lý cao siêu ấy.
Trái ngược lại, ta thấy những nhà hành Đạo truyền giáo họ thúc giục tương tranh, tương đấu nhau vào đường chiến trận mà thôi, ta thấy lịch sử lưu lại triết lý Tiên Gia chỉ giục loạn chớ không trị bình đặng.
Ngày giờ nào nhơn loại biết chỗ chơn thật của triết lý ấy thấu triệt đặng phụng sự nhơn loại với cái trí hóa khôn ngoan trong năng lực của Ngài, thì ngày giờ ấy nhơn loại mới hưởng được đặc ân của Ngài đã để nơi mặt thế nầy.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 15-02-Canh Dần nhằm ngày (dl. 01-04-1950).
Q.3/25: NHIỆT TÂM CỦA ĐỨC CAO THƯỢNG PHẨM.
8 giờ ngày mùng 1 tháng 3 năm Canh Dần (1950)
(Tại Tháp)
Mỗi năm đến ngày nay là ngày của toàn thể con cái Đức Chí Tôn đã thương tiếc nhứt là Qua đây, một người bạn còn mấy em là một người anh. Nếu Đức Cao Thượng Phẩm còn sống đến ngày nay thấy một cái hạnh phúc của giống dòng Việt Nam, thấy mối Đạo ngày nay đã đến địa điểm nó cam lãnh một trách nhiệm trọng yếu Thiêng Liêng, đặng định vận mạng tương lai cho toàn thiên hạ, nếu mấy em biết được giá trị của Người đã khuất thì mấy em thương tiếc quá lẽ!
Đức Cao Thượng Phẩm không những cố tâm ái quốc nồng nàn với nước Việt Nam, không những lo giải thoát ách nô lệ toàn thể giống nòi mà Ngài còn vì lòng thương cả toàn thể nhơn loại bị giam hãm trong lẽ bất công của Xã hội nhơn quần, Ngài vì công lý, vì ái tuất thương sanh nên hy sinh trong một kiếp sống đặng thọ lãnh cây Phướn cứu khổ của Đức Chí Tôn. Qua nói thiệt, buổi gần mãn công quả của Ngài tức nhiên buổi Ngài gần qui hồi cựu vị Ngài chỉ có tiếc một điều, tiếc không đồng khổ không còn ngày giờ đặng gánh vác cái khổ của mấy em đặng tạo dựng cho nên hình tướng nền chơn giáo, để giải thoát cho toàn thể nhơn loại trong lẽ bất công của Xã hội nhơn quần, Ngài tiếc có một điều đó mà thôi. Trong bài thơ của Người cốt ý nói về nước Việt Nam yêu ái nồng nàn, Ngài biết rằng:
1) Thế nào nước Việt Nam cũng phải làm ngọn đuốc thiêng liêng đặng soi cho toàn thể nhơn loại biết cái sống của mình ở nơi nào.
2) Nước Việt Nam sẽ làm biểu hiệu ngọn cờ cứu khổ ấy.
3) Sẽ làm đài vinh diệu cho toàn thánh thể của Ngài dựng trên đấy, đưa tay điều độ thiên hạ cho ra bảo sanh của Ngài.
Mấy em phải biết cái khổ hạnh của Ngài, cố tạo dựng nên cho nước Việt Nam này trước đã, nhơn loại mới có bóng đuốc sau, tiếc thay cơ quan thành tựu đương nhiên bây giờ chớ phải chi Ngài còn sanh tiền với óc não cao thượng, chí khí cương quyết, ái tuất thương sanh nồng nàn của Ngài không biết chừng giúp cho chúng ta đạt đặng nhiều thắng lợi mạnh mẽ, nhiều giá trị và may mắn hơn nữa.
Tiếc thay! Chúng ta đã mất một tinh thần, năng lực giúp ích cho chúng ta thi hành phận sự trong sứ mạng thiêng liêng đó vậy, tiếc chăng là tiếc giờ phút thiêng liêng này đương buổi này, anh linh Ngài vẫn đeo đuổi theo mấy em mà nhứt là bên Quân Đội đặng bảo sanh nhơn nghĩa cầm cờ thiệt hiện ra.
Ngày giờ này, Qua tưởng mấy em sẽ thắng đặng đem hạnh phúc cho nhơn loại mới đặng, nếu mấy em phải bại thì tương lai của nhơn loại để dấu hỏi mơ hồ nguy hiểm.
Mấy em phải cương quyết lên, anh linh của Ngài giờ phút này vẫn ở bên mấy em đó vậy.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 01-03-Canh Dần nhằm ngày (dl. 17-04-1950).
Q.3/26: VÍA ĐỨC CAO THƯỢNG PHẨM.
Tại Đền Thánh đêm mùng 1 tháng 3 năm Canh Dần (1950)
Đêm nay là ngày vía Đức Cao Thượng Phẩm, Bần Đạo sẽ thay thế tiếng của Ngài đặng thuyết một bài. Buổi nọ Đức Chí Tôn mới đến đây thuyết đạo, duy có hai người thôi, hễ Bần Đạo thuyết thì Đức Cao Thượng Phẩm làm thính giả, hễ Cao Thượng Phẩm thuyết thì Bần Đạo làm thính giả, cốt yếu Đức Chí Tôn đến dạy phương pháp thuyết đạo.
Khi ấy, Cao Thượng Phẩm chú ý đến tình trạng đương nhiên của nước Trung Hoa. Chúng ta đã ngó thấy một tấn tuồng thống khổ náo nhiệt tương tàn, tương sát ghê gớm trước mắt; dám chắc từ khi lập quốc nước Trung Hoa đến giờ, chưa có buổi nào như thế, ấy là một nguồn cội gốc rễ của Nho Tông, một nền Tôn giáo bị yếu, nên Chí Tôn đã đào tạo một nền văn minh tối cổ cũng rán lưu truyền nơi cõi Á Đông này trên 2.500 năm, nhứt là nước Việt Nam chịu ảnh hưởng nền Tôn Giáo ấy, nền văn minh nước Việt Nam cũng do nền Tôn Giáo ấy xuất hiện. Điều trọng yếu hơn hết là chúng ta phải nhìn rằng Đạo Cao Đài nầy lấy căn bản ấy mà ra, dầu cho ai cũng phải để ý đến tương lai của nền Tôn Giáo tối cổ của Đức Chí Tôn tạo dựng làm nền tảng cho tinh thần loài người đó.
Đức Cao Thượng Phẩm buổi ấy Ngài cũng nghĩ đến điều đó, làm cho Ngài phải thắc mắc là trong buổi nọ nước Trung Hoa thống trị một đại cường quốc chỉ lấy tinh thần làm căn bản vĩ đại trị vì thiên hạ thái bình, giờ phút này đeo đuổi theo nền văn minh tối tân mà chúng ta gọi là văn minh hóa học, chỉ biết tương tranh mà sống, lấy mạnh làm căn bản, tức nhiên lấy gươm đao làm phương trị thế, hai cái phương pháp, hai cái hành tàng ấy để trước mắt nhơn loại đều thấy rõ phương nào hay, phương nào dở, nên hay hư, một nền văn minh vĩ đại vi trị tức nhiên thiên hạ và thiên thượng đồng trị. Cái làm cho chúng ta cảm kích hơn hết, tấn tuồng đã diễn ra đây chưa có định quyết ngày giờ nào chấm dứt, tội nghiệp thay cho Trung Hoa làm chủ một nền văn minh dường ấy, nắm trong tay một mãnh lực phi thường mà hôm nay phải chịu nạn tương tàn tương sát dường ấy.
Hôm rồi Bần Đạo đến Kim Biên có gặp một vị Võ quan tức nhiên là quan sáu Des Basaords, Ngài hỏi một điều lạ thường là Đức Khổng Phu Tử sanh trước Đức Chúa Jésus Christ 500 năm, Mahomet sanh sau Đức Chúa Jésus Christ 500 năm, Ngài vừa nói đến đây Bần Đạo liền chú ý đến ba người ấy tương lai cũng như một, bởi thuyết Trời, người đồng trị của họ đó vậy. Bần Đạo liền nói: Ba người ấy cách biệt nhau 500 năm mà ba người vẫn như một, Ông lại cười, Ông biểu Bần Đạo đã quan sát tấn tuồng triết lý của ba nền Tôn Giáo ấy, Trời, người đồng trị phải chớ, nếu không vậy, sự sống chết, còn mất, của nhơn loại phải làm sao, hành tàng của họ tồn tại hay chăng? Trường cửu hay chăng? Hay nạn tiêu diệt hầu đến ấy là vấn đề trị nước đến giờ vẫn để trong óc các nhà đại tư tưởng của nhơn loại, chúng ta đã ngó thấy có trường tranh sống để quên cái chết, lại có cái trường tưởng cái chết quên cái sống hai lẽ bất đồng.
Hại thay! Cho nhơn loại nếu toàn thể nhơn loại đều hưởng cái triết lý vô đối trung dung đạo đức của Khổng Phu Tử để lại thì mạng căn kiếp số của nhơn loại chưa đến mức nguy hiểm, chưa đến mức hại tương lai họ, không biết chừng đưa đẩy họ không đến nạn diệt vong mà chớ! Đương nhiên bây giờ có hai triết lý oái oăm:
1) Một đàng nói tôi chủ về phần xác đây, tôi biết sống chớ không biết chết, duy có cái tranh sống hay ăn thịt, hay giết người để thay thân.
2) Một đàng nói tôi bỏ phế kiếp sống, thân hình này không đáng kể, chỉ trọng linh hồn mà thôi.
Hai đàng đều quá khích, biểu sao không có trường tranh đấu náo nhiệt về tinh thần và hình thể nơi mặt địa cầu này, vì sự tranh đấu ấy mà nhơn loại xáo trộn không biết theo bóng nào để nương thân cho được tồn tại.
Đức Cao Thượng Phẩm luận rồi, bây giờ tới triết lý của Bần Đạo luận thuyết của Đức Cao Thượng Phẩm là thuyết Trời người đồng hợp, triết lý thắc mắc ấy đang làm cho nhơn loại để dấu hỏi? Từ trước đến giờ chưa có ai giải quyết, có giải quyết đặng hay chăng chơn lý ấy, mà tinh thần nhơn loại vẫn còn mờ mịt, chưa có biết chơn chánh hay chơn lý ấy đã thực hiện rồi. Ngài nói thảng như ta sống theo đạo chánh, họ cũng có tam cang ngũ thường cũng đủ sống theo triết lý đạo chánh, họ quyết lấy sanh mạng nó mà bảo trọng các sanh mạng nô lệ kia mà thôi, các người không có năng lực nào bảo trọng các người, thì các người sống cũng như con vật, chính các người dòm cả vạn vật đương nhiên sẽ cho các người biết triết lý thâm diệu và cao thượng.
Bí mật các người không có tức nhiên các người không tồn tại nghe!
Dầu các người mạnh thì các người sống với phương pháp mạnh, yếu sống với phương pháp yếu mà cái sống ấy các người chưa có làm chủ được, cái sống tạm này chưa có cái sống thiệt. Cái sống thiệt là sống có nguồn cội, cái sống chủ quyền, cái sống đó là cái sống trong tay Đấng Tạo Đoan mà ra, cái sống nầy mới là thiệt, cái sống các người không có bảo trọng được không có vi chủ tức nhiên phải nhìn Ông Trời có quyền trị về phần xác thịt và linh hồn của chúng ta nữa.
Thảng như, không có quyền hành ấy ta nói mặt thế gian này không ai biết sợ ai, không ai biết kiêng nể ai, thì sống như vật vậy. Ta phải tranh đấu, giựt giành cái sống của cả thảy đặng làm cái sống của mình, khi ta chết nó sẽ ra con vật mà thôi không có nghĩa lý gì, nếu ta nói vậy thì ta không có tin ai, nếu ta tin có số hay chăng là sợ Đấng nầy, Đấng có thể tiêu diệt cả hình thể và linh hồn sa đọa nơi địa ngục mới sợ, nếu biết sợ mới giữ được, không thì trường tranh sống mãi tiếp diễn.
Ngài dòm lại nạn tương tàn, tương sát nước Trung Hoa, Ngài nói mình đã hưởng một đặc ân, một chủ quyền Trời người đồng trị dường ấy, mà ngày giờ này người chạy theo con đường tranh sống. Vì tranh sống, tiêu diệt với nhau mà chết.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 01-03-Canh Dần nhằm ngày (dl. 17-04-1950).
Q.3/27: ĐỨC NGÀI TƯỜNG THUẬT CHUYẾN ĐI ĐÀ LẠT.
Tại Đền Thánh thời Tý ngày 13 tháng 3 năm Canh Dần (1950)
Đêm nay Bần Đạo giảng đạo buổi bất thường, cũng như mấy kỳ trước, bất kỳ đi đâu về cũng vậy, ngó thấy toàn cả con cái Đức Chí Tôn nhao nhao trông ngóng để nghe tin tức, muốn hiểu hành tàng của Đạo, cho nên mỗi phen đi đâu về cũng thuật lại cho nghe, nhưng hôm qua bị mệt nghỉ một ngày, ngày kế đây thế nào cũng nói cho nghe, không thì trong lương tâm bứt rứt lắm. Nên cho cả thảy hiểu biết, hiểu đặng khỏi bị thiên hạ lường gạt.
Đương nhiên tinh thần nhơn loại ở trên mặt địa cầu nầy đang bị trong vòng bất định, vì quả kiếp của họ đã tạo nhiều cho nên ngày nay họ phải chịu cái bất công của xã hội nhơn quần; đã lắm gây quả cho nên ngày nay phải chịu, không được ở trong cảnh nghỉ ngơi phải chạy quanh trong vòng bất định, vì xã hội lấy cường lực, lấy tàn ác sát hại sanh vật làm căn bản, nhìn thấy cảnh mạnh đặng, yếu thua, khôn còn, dại mất, đã lưu lại tấn tuồng thảm não nơi mặt địa cầu này cái quả nghiệp vô tận vô biên của họ hôm nay họ phải trả. Chúng ta được ở ngoài vòng phồn ba náo nhiệt là nhờ ơn riêng của Đức Chí Tôn đem chúng ta để nơi thanh tịnh cảnh, có thể dòm ngó xem coi, còn thiên hạ bị đứng trong vòng ác nghiệt.
Chúng ta thấy trước mắt đã diễn một tấn tuồng thiếu đạo đức tinh thần, nhứt là đạo nhơn luân căn bản của nhơn loại đã bị hủy hoại tiều tụy, nó sẽ bị tiêu diệt nữa mà chớ, vì nó thiếu kinh nghiệm, thiếu kinh nghiệm thì vẫn gây thù nhau, ghét lẫn nhau thì không thế gì lập hạnh phúc cho đặng. Phải tin với nhau, nếu không tin với nhau thì không có giờ phút nào nhơn loại hòa bình được.
Nước Việt Nam cũng bị hoàn cảnh ấy, đứng trong trường hợp ấy, sau tám mươi mấy năm nô lệ họ đã đứng trong quả kiếp. Muốn bảo thủ sống còn cho các chủng tộc Á Đông họ phải chiến đấu với Âu Châu, định tương lai cho nòi giống Việt Nam cũng ở trong trường hợp ấy, trong giờ phút này tuy cuộc chiến tranh mãnh liệt, chiến đấu không ngừng còn tiếp tục mãi là tại họ thiếu kinh nghiệm, vì cái thiếu kinh nghiệm mà họ giết lẫn nhau, cho tới đồng chủng đồng loại họ cũng vậy, hễ thiếu kinh nghiệm thiếu hòa giải thì loạn, không thế gì đem hạnh phúc lại được, cái loạn ly này cũng bởi không tin cậy nhau, đối với nước Việt Nam, dầu cho trước mặt Quốc Tế chúng ta cũng thắng, đối với sự lãnh đạo của Đức Bảo Đại cũng được 28 nước nhìn nhận cho độc lập. Dầu cho bên khối Nga với sự lãnh đạo của Cụ Hồ Chí Minh cũng được toàn thể bên khối ấy cho nước Việt Nam được độc lập.
Tình trạng đương nhiên bây giờ phải lấy trí thức quyết định, không cho ai lường gạt nữa. Bần Đạo thấy hiển nhiên giờ phút nầy Việt Nam đã được độc lập trước mặt Vạn Quốc đã nhìn nhận rồi, dầu muốn dầu không cũng đến đã có chứng cớ hiển nhiên mạnh mẽ. Nước Pháp không còn thế gì thối bước, hay dừng bước lại không chịu nhìn nhận sự độc lập cho nước Việt Nam được.
Bây giờ nói đến quyền nội bộ của nước Việt Nam, chúng ta đã bị nước Pháp thu chiếm trên tám mươi mấy năm, giờ phút nầy chúng ta phải đòi quyền sở hữu lại, quyết đòi cho được nắm trong tay thôi; nhưng sự thâu đoạt quyền nội bộ chúng ta lại còn thắc mắc lắm. Chánh phủ Pháp đã nói muốn thí nghiệm đưa quyền ấy cho, nhưng phải đưa cho trong tay kẻ nào có thể bảo thủ được, nước Pháp chỉ sợ có một điều là quyền ấy đưa trong tay kẻ giữ không được sẽ bị họ giựt họ lấy đi, cho nên quyền nội bộ chưa giao. Muốn cho thiên hạ không chối cãi, ít nữa quân bị phải thống nhứt bảo vệ cho được hiển nhiên, để trước mắt cho toàn thể thiên hạ thấy, thì chúng ta mới có đủ phương pháp, đủ năng lực bảo thủ nền độc lập, không còn lý do nào Pháp không trả được, nhơn loại đã nhìn nhận sự độc lập thì cố nhiên phải trả.
Trước khi Pháp thu chiếm nước ta, là một nước thái bình thạnh trị, hoàn toàn độc lập, chúng ta đã có Văn Hiến, đã có phong hóa, có đạo đức, cả nền Chánh trị vững chắc của Tổ Tiên lưu lại 4.000 năm, không cần xin ai hay nhờ ai nữa, trước kia làm thế nào thì bây giờ cũng lập y nguyên lại như thế ấy.
Muốn nói cho chúng ta chung đứng trong Liên Hiệp Pháp thì Liên Hiệp Pháp phải trả quyền nội bộ lại cho chúng ta thì chúng ta đem tới cho, bằng không thì thôi, không ai được phép buộc ta đem quyền sở hữu hiến cho họ, nếu có chánh phủ nào dám can đảm nói lời nói đó với họ thì không có tới ngày nay, từ trước đến giờ chưa có miệng lưỡi nào ra nói, mới có đây là miệng lưỡi của Bần Đạo. Giờ phút này Bần Đạo đã giao quyền quân trị trong tay Đức Quốc Trưởng Bảo Đại, cả quân bị hôm nay phải giao trong tay Ngài, đặng Ngài chiến thắng mới đặng. Quân Đội Cao Đài từ đây không còn Quân Đội Cao Đài nữa mà nó là căn bản tương lai Việt Nam, Quân Đội Quốc gia Việt Nam.
Bần Đạo đi Đà Lạt có ở Sài Thành trong một tuần lễ, sắp đặt đã hoàn toàn giúp cho các cơ quan ấy và thay đổi cho Chánh Phủ Việt Nam đi đến mục đích độc lập cùng thống nhứt như lời của nước Pháp đã hứa trước Vạn Quốc công nhận.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 13-03-Canh Dần nhằm ngày (dl. 29-04-1950).
Q.3/28: TƯỜNG THUẬT VỀ CÔNG CUỘC ĐI NAM VANG.
Tại Đền Thánh thời Tý đêm 27 tháng 3 năm Canh Dần (1950)
Hôm nay Bần Đạo lên giảng đài buổi bất thường, biết rằng mỗi lần đi đâu về toàn thể Chức Sắc Thiên Phong, Hội Thánh nam, nữ lưỡng phái con cái Đức Chí Tôn đều trông ngóng để nghe, muốn nghe muốn biết lắm nên tội nghiệp đi đâu về cũng nói lại cho nghe bằng chẳng vậy xốn xang lắm.
Từ thử đến giờ Bần Đạo chưa có buổi nào đặng hưởng hạnh phúc đại thắng lợi một cách mỹ mãn như kỳ Bần Đạo đi Cao Miên; thật sự như vậy đã trải qua 11 năm Bần Đạo mới để bước lại Cao Miên tức nhiên Tần Quốc. Trước đồ lưu 2 năm Bần Đạo có đến một lần, về sau Bần Đạo đã bị thiên hạ bạc đãi, đồ lưu nơi Hải Ngoại, khi trở về Quốc Sự trong buổi náo nhiệt hổn loạn Tần Quốc phải chịu một tai nạn loạn ly cũng như ai kia vậy. Nhưng người ta có phúc hậu hơn, sự phá hoại của nước người ta có ít hơn; nên Bần Đạo không có thẹn mới đến sắc dân ấy, sắc dân trí hóa về tinh thần, ngày nay Bần Đạo thấy tiến xa lắc, trong thời gian ngắn ngủi mà sao dân ấy tiến triển về tinh thần trí hóa, làm cho thiên hạ phải để mắt suy nghĩ.
Bần Đạo lại có dịp nữa chăng, hại thay nói sự tiến triển tinh thần trí hóa toàn thể dân của họ mà thôi, Bần Đạo lại còn gặp Giáo Chủ của họ tức nhiên Đức Vua của họ, người đạo đức tinh thần không thua gì ai, cao kỳ huyền bí có thể Đạo ấy có cơ quan làm tăng về tinh thần đạo đức của toàn thể nhơn loại được mà chớ.
Bần Đạo xuất hành tại Tòa Thánh, cốt yếu tính đi bằng xe, người ta khuyên đi bằng máy bay phương tiện nhanh hơn, nhưng Bần Đạo quyết đi đường bộ, đi đường bộ đặng chi? Đặng coi sắc dân yêu mến của Bần Đạo sống thế nào, coi sự sống siêu thoát có bề tiến triển hay chăng, Bần Đạo lấy làm hạnh phúc được thấy họ tấn triển một cách mau chóng, dọc theo con đường biên giới gia đình của dân phải di cư, những nhà cửa gần biên giới nước Việt Nam bị tiêu hủy về sự phá hoại, duy có từ Sway Riêng lên tới kinh đô còn giữ tồn tại lại được, nhưng cũng hư hao chút ít, lên tới Kiêm Biên rồi mới thấy sự tiến triển, sự biến chuyển trong nước rất lạ thường, có trí để mà coi cả sự tiến triển về đạo đức, tiến triển về kinh tế, tiến triển về quân sự, tiến triển về chánh trị sáng láng đủ mọi phương diện.
Ngộ nghĩnh một nước được hưởng hạnh phúc đã có một ơn riêng, nên xứ Tần được tiến triển đẹp đẽ. Bần Đạo thấy từ Vua tới dân, trước trường quan lại đã để trong một đời nghị luận khéo giữ nền chánh trị họ, họ tranh đấu trí thức tinh thần họ thuộc về đầu óc cương quyết biết tôn trọng cái quyền dân, quyền nước hơn lợi lộc.
Bây giờ kể từ Sway Riêng tới Kinh Đô, Bần Đạo đã thấy cái tự do của nước người được hưởng, trong nước của người ta trương cờ xí của Đạo lên dọc dài theo đường đặng nghinh tiếp vị Giáo Chủ của mình một cách tự do không ái ngại e lệ chi cả, nhứt là nơi bên đó ở Ba Nam đem biểu ngữ ra ngoài đường trương cờ tiếp lễ từ Ba Nam cho tới Kinh Đô rần rần rộ rộ, lên tới thấy sắp đặt khéo lắm, Bần Đạo được lễ nghinh tiếp rất trọng hậu.
Trong mấy ngày Bần Đạo, Bảo Thế và Tiếp Đạo ở đó cũng tự do không có điều gì làm mất tự do cả, nhứt là nhà binh Pháp, mấy ngày ở Kinh Đô canh tuần nghiêm nhặt, sự cung kính đối đãi Bần Đạo và các bạn lấy làm cảm kính vô hạn, chúng tôi có mời Quan Sáu Desesseares ở Tần Quốc đến hội kiến làm cho cả nhà binh thỏa mãn có vẻ cảm kính với chúng ta lắm.
Kế tiếp chúng tôi đi đến nhà Vua, thì Vua dùng lễ Đế Vương mà tiếp rước chúng tôi tại tư dinh của Ngài, nơi ấy là nơi để rước những người thân yêu của nhà Vua, rước chúng tôi làm cho chúng tôi ngạc nhiên sự đối đãi của nhà Vua rất trọng hậu không thể tưởng tượng được.
Khi nào tới, Bộ Nhạc đến trước ngai Vua trương Quốc kỳ, khi đến đó lật đật bước xuống xe, nhạc trổi lên, quân lính bồng súng lên nghinh tiếp, chúng tôi liền đến trước cây Quốc kỳ bái đãnh lễ, khi xong truyền bách bộ đi vô Điện, chúng tôi vẫn giữ lễ ấy, có lính bồng súng đứng giữ lễ, từ ngoài đến Cung Ngài, Ngài thấy chúng tôi đi bách bộ vào Ngài, Ngài sai quân lính ra tiếp rước, tôi không có dè Ngài lấy một trọng lễ tiếp rước như thế, bước vào thấy Ngài mặc đồ Âu phục coi đẹp lắm, mặt sáng láng có vẻ một Vị Vương Đế. Vào đến Ngài chấp hai tay bái, làm cho Bần Đạo phải bái lại xong Bần Đạo đưa tay ra bắt ngang nhau nói chuyện đi vô tại trong Cung. Cung Ngài thường để rước khách quí trọng của Ngài, Ngài mời Bần Đạo ngồi, Bần Đạo nhường lại cho Ngài, Ngài nhứt định nhường lại cho Bần Đạo phải ngồi, Ngài chỉ ngồi né một bên nói chuyện với Bần Đạo.
Trong sự luận đàm với Bần Đạo, Bần Đạo thấy vị Vương Đế yêu nước, yêu dân một cách lạ lùng làm sao, Bần Đạo nói chuyện với Ngài chọn tiếng nào đáng nói mới nói và Bần Đạo lấy làm hữu hạnh được biết Ngài và có thể làm cho hai nước Việt Nam và Miên quốc hiệp với nhau đem hạnh phúc lại cho hai nòi giống.
Nhưng dầu Ngài đã nói với Bần Đạo, không nên lặp lại, đây Ngài nói quả quyết với Bần Đạo: Ngài ước mong một điều là làm phương nào cho hai nước hiệp chung lại với nhau đặng định vận mạng cho nước, Ngài than làm thế nào cộng hiệp lại được, Ngài để một dấu hỏi nhỏ, điều ấy làm cho Bần Đạo thắc mắc, nếu giúp cho hai nước cộng lại, ngoài ra có Đức Chí Tôn định cho; Bần Đạo chưa biết làm thế nào cho kết quả đặng, trong khi nói chuyện Bần Đạo mơ ước làm sao gặp Vua Sãi, kế Ngài tiếp nối Đức Giáo Chủ thế nào Vua Sãi cũng thế ấy nói chắc như vậy.
Khi chúng tôi đã viếng Thủ Tướng rồi dầu biết cả tâm tình trí óc của họ đã mơ ước thế nào, khi ra khỏi Điện nhà Vua, rồi có tin Vua Sãi mời đến nhà thờ Norodom nhà thờ đặc biệt từ trước đến giờ của nhà Vua, khi đến nhà thờ thì Đức Vua Sãi cũng tiếp rước đối đãi với vị Giáo Chủ vậy. Riêng Bần Đạo có một điều là khi Bần Đạo vô nhà thờ dặn trước các bạn đi theo phải giữ lễ trước những khi vào, họ ngó thấy Bần Đạo làm cái gì họ đều làm theo vậy nên không có sái phép tới mấy vị Sĩ Quan theo hầu, theo đạo nhà Phật thì lễ phép, nên lo sợ của Ngài cho mấy Ông Quan nhỏ kia không biết có giữ lễ phép không, dòm lại thấy họ cũng làm y như vậy.
Tiếp chuyện đạo đức với nhau tâm đồng ý hiệp là về Giáo Lý; giờ phút này Bần Đạo nói thật đạo của nước Tần và Vua của nước Việt Nam có thể hiệp một cùng nhau đặng. Nếu ơn thiêng liêng Đức Chí Tôn định thì Hội Thánh Cao Đài có thể hiệp nhứt với Đạo của nước Tần, chung hiệp là một đặng đem Giáo Lý đạo đức làm con thuyền Bát Nhã đặng độ thiên hạ mà chớ.
Khi Bần Đạo vô tận Cung nhà Vua Bần Đạo có một cảm tình làm sao, lạ lùng hơn hết, vì Cung Điện ấy không lạ với Bần Đạo ở năm 1927 Bần Đạo đã vâng lịnh của Đức Chí Tôn đến Tần Quốc đặng kiến diện Sisoh và lên đó với Ông lão (Silipe) Bần Đạo phải mặc sắc phục của nước Tần đặng Bần Đạo được dẫn đến Sihohvade.
Trước khi bước ra đền thấy những bức tranh củ kỹ ấy trước mắt chúng ta, làm cho Bần Đạo nhớ đến Ông bạn già của Bần Đạo buổi nọ là Ông Silipe gặp nhiều trở lực lắm, muốn vào điện không phải dễ gì vào, buổi nọ có một vị tên Trần Thị Hương người đẹp lắm không hiểu duyên cớ gì mà bị thiên hạ bắt đem nạp cho vua Norodom làm cung phi. Vua ấy trọng hậu người lắm, chừng Vua Norodom thăng hà (chết) Bà Trần Thị Hương cũng vẫn còn sống, khi làm cái tháp tượng hình cho ông Norodom, trong ba vị cung tần có hình Bà Trần Thị Hương trong nầy (hình lõa thể) chính mình bà có dự trong cuộc lễ đó, khi làm lễ xong rồi Bà ra khỏi Điện tự hổ thẹn thất tình mà chết. Đức Chí Tôn phong làm Nội Quan Thần Nữ, Thị Hương có giáng đàn cơ. Bần Đạo khi đến Tần Quốc vào cung nhớ kêu danh của Bà, nhớ cái ơn ấy mà Bần Đạo làm Thiên Đạo đặng mỹ mãn.
Trong Cung ấy ngộ nghĩnh làm sao! Khi nói chuyện thấy ba bốn người dòm phía sau, Bần Đạo liếc mắt qua, chẳng ngờ trong ấy người dòm phía sau đây có một. Nhìn Đạo Cao Đài sẽ biết Bần Đạo, nếu có người biết Đạo Cao Đài được thế ấy vui không biết bao nhiêu, nếu có người được biết Bần Đạo đến kiến diện Sihohvade buổi nọ mà bây giờ được nhà Vua lấy lễ Đế Vương tiếp rước thì họ thỏa mãn không thế gì nói đặng, Bần Đạo ở đó được một tuần lễ.
Khi Bần Đạo về đi xuống Sài Thành đặng hội các đảng phái quân sự, Bần Đạo thấy có nhiều vấn đề hay, họ định thi hành, nếu thi hành được thì tương lai Quốc Gia Việt Nam có thể gỡ được điều ấy cũng nhờ ơn riêng của Đức Chí Tôn, nếu Bần Đạo nói ra sẽ được thỏa mãn, nhưng Bần Đạo chưa có thể nói bây giờ được, vì có ba điều bí mật chừng nào Bần Đạo thi hành được rồi Bần Đạo sẽ minh thuyết cho toàn thể con cái Đức Chí Tôn nam, nữ nghe.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 27-03-Canh Dần nhằm ngày (dl. 13-05-1950).
Q.3/29: LỄ HƯNG QUỐC KHÁNH NIỆM.
Ngày 2 tháng 5 năm Canh Dần (1950)
Hôm nay trước khi nhắc lại những võ công oanh liệt của Đức Cao Hoàng, một giọt máu của dòng họ Nguyễn, một bực anh hùng đã không nài vào sanh ra tử, khổ sở gian lao để tạo lên một san hà như hoa như gấm chạy dài từ cửa Nam Quan đến mũi Cà Mau, mà chúng ta con cháu của Ngài được thừa hưởng ngày nay.
Bần Đạo xin nói qua về tôn chỉ của Cao Đài. Phải cần nhắc tới lập trường và tôn chỉ của Cao Đài lúc này vì tôn chỉ của Cao Đài có liên quan mật thiết với sự tồn vong của lãnh thổ, sự suy thịnh của Quốc Gia.
Về phần xác một tín đồ Cao Đài là một tượng trưng của sự quả cảm, sự hy sinh, sự tận tụy với tổ quốc, vì tin rằng một dân tộc vô tổ quốc thì dân tộc không làm nên một việc gì; cũng như dân tộc có tổ quốc mà không có đạo thì dân tộc ấy cũng là cái xác phàm phu của Trời ban cho không có tâm hồn để điều khiển.
Về phần siêu hình, Bần Đạo đã nhiều lần giải rõ bởi Linh hồn của người vô đạo luôn luôn bị điều khiển chế ngự bởi cái xác, sa ngã vào cái vòng dục vọng cạnh tranh phù hoa hảnh diện; kẻ đó còn đâu cái bản năng cao cả, cái lý trí sáng suốt để nghĩ đến chủng tộc giống nòi; trái lại cái linh hồn của kẻ có đạo là linh hồn của Đấng Chí Tôn tạo thành luôn luôn lựa đường quang đi, nẻo rậm tránh, dám hy sinh tất cả cho quyền lợi Quốc Gia, vì kẻ đó nghĩ rằng Quốc Gia có chủ quyền thì nước mới có Đạo; mỗi nước có Quốc Đạo thì dân tộc ở trong nước mới tìm thấy lẽ sinh tồn.
Nhắc tới những sự nghiệp của Đức Cao Hoàng thì Bần Đạo thấy rằng Ngài cũng vì quyền lợi tổ quốc vì không muốn bản đồ của nước Việt Nam phải vì thời gian mà bị xóa nhòa trong trí nhớ của hậu thế, mới ra công nằm gai nếm mật khôi phục sơn hà lưu cho cháu con ngày nay một dãy non sông như dệt gấm thêu hoa.
Mặc dầu nước Việt Nam của chúng ta đang bị hăm dọa bởi nạn xâm lăng, nhưng Đức Cao Hoàng một Đấng anh quân đã dày công gầy dựng san hà, thì theo chân Ngài cái chí phục quốc ấy phải có ở mỗi người dân Việt. Ngày nay, phải cần có một Đấng anh quân như vậy để bảo tồn nòi giống, gầy dựng giang san, người anh hùng ấy, bực anh quân ấy là ai Bần Đạo còn đang trông đợi.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 02-05-Canh Dần nhằm ngày (dl. 16-06-1950).
Q.3/30: ĐÁP TỪ LỄ "CHÚC THỌ" CHO NGÀI TẠI ĐẠI ĐỒNG XÃ.
Ngày mùng 5 tháng 5 năm Canh Dần (1950)
Trước khi mở lời đặng cám ơn cả toàn thể con cái Đức Chí Tôn Nam, Nữ lưỡng phái và Thánh Thể của Ngài tức nhiên Hội Thánh. Bần Đạo xin nghiêng mình chào các nước lân bang đã có tình thân hữu cho các vị lãnh sự Sứ thần đến dự cuộc lễ này, Bần Đạo xin để lời cảm tạ thâm tình ấy.
Thưa cùng Hội Thánh, mấy em Nam, Nữ lưỡng phái. Nhứt là đám thanh niên, đồng ấu, những lời của Bần Đạo nói ra đây côt yếu để vào óc các em hơn hết. Sáu mươi mốt tuổi tưởng như các người mà đặng hưởng hạnh phúc vô biên ấy. Bần Đạo tưởng có lẽ Bần Đạo đây cũng đứng một trong các người ấy.
Hơn nữa là hai mươi bốn năm qua Bần Đạo không hề tưởng tượng được một cái hồng ân vô đối của Đức Chí Tôn đã chan rưới cho giống nòi Việt Thường nầy giữa hồi nhơn tâm điên đão, quyền hành tinh thần đạo đức điêu linh tâm hồn loài người thống khổ vì thiếu phương an ủi, ta đã ngó thấy nhiều lẽ bất công của xã hội diễn ra trước mắt nhiều tấn tuồng đau thảm không thể tả ra bằng ngôn ngữ đặng; Bần Đạo chỉ nói rằng trong thời buổi hổn độn cả nhân luân của nhơn loại sập đổ; Đức Chí Tôn đến, Ngài đến với một phương pháp đơn giản tạo nền Chơn Giáo của Ngài. Bần Đạo nhớ lại buổi Ngài mới đến, Ngài xin với mấy vị Tông Đồ ba món báu gọi là Tam Bửu.
1) Là xác thịt.
2) Là trí não.
3) Là linh hồn hay phách.
Của mọi người hiến dưng cho Ngài, đặng Ngài làm cơ quan cứu thế độ đời.
Hồi buổi nọ chúng ta chưa hiểu nghĩa lý là gì? Biết bao nhiêu kẻ, biết bao Tín Đồ đã để dấu hỏi Đức Chí Tôn đến xin ba món báu đặng tạo quyền gì kia chớ?
Thưa cùng toàn thể con cái của Đức Chí Tôn, ba món báu ấy không có giá trị chi hết. Ngài lấy trong một số ít của Thánh Đức Ngài tạo cho thành tướng một khối thương yêu vô tận, có một điều làm cho chúng ta ngạc nhiên hơn hết là từ thử đến giờ nhơn sanh đã hiểu quyền năng vô đối của quyền lực thương yêu nhưng họ chưa hiểu biết thống nhứt cả khối thương yêu ấy đặng làm phương cứu thế độ đời, hay là làm phương châm tạo hạnh phúc cho kiếp sanh của họ trái ngược lại họ chỉ thống hiệp tinh thần thù hận, oán ghét làm cho mặt địa cầu nầy biết mấy phen đẩm máu, nhơn loại tương tàn tương sát với nhau là vì họ bội tín của họ, biết thù hận hơn là thống hiệp thương yêu.
Một vị Thượng Sĩ Quan cao cấp của nước Pháp Maréchal Lyautey nói rằng: "On ne peut pas réaliser sans avoir de l'amour" nếu Bần Đạo nói thêm nữa: et un peu de justice, cái lịch lãm của của vị Thượng Sĩ Quan ấy là quan sát tình thế định hướng của mình mà định cái chơn thật ấy.
Bần Đạo ngày nay đứng đây xin thú thật rằng: mấy em, toàn thể con cái Đức Chí Tôn đừng có tưởng rằng tới ngày nay Qua mới hưởng được cái hạnh phúc của mấy em đã trải ra trước mắt đây, mà Bần Đạo hưởng hạnh phúc trước ngày Đức Chí Tôn hiệp mấy em lại làm thành thánh thể của Ngài, trong khối thương yêu vô tận của Ngài tạo dựng nên một đại gia đình thiêng liêng mà từ thử đến giờ mặt địa cầu này chưa có, mấy em đã ngó thấy có bạn có cha, có anh, có em, có thân bằng cố hữu, có chủng tộc, thiên hạ dưới thế gian này chưa hề tưởng tượng giá trị nó được, gia tộc hiện hữu đã có nó, mất còn tại đây. Còn gia tộc thiêng liêng trong đại gia đình mấy em nó vẫn trường tồn mãi mãi bất tiêu bất diệt, mấy em suy nghĩ điều ấy kẻ nào hưởng giá trị ấy mới có hiểu cái mùi vị cao siêu của nó, cái ơn ban thưởng của Đức Chí Tôn nó còn giá trị và quí trọng hơn nữa.
Mấy em là Qua. Qua là mấy em nam, nữ cũng vậy, cả thảy mặt địa cầu này ngày giờ nào nhơn loại biết hiệp với nhau làm cho thành tựu cái gia tộc tại mặt thế này là đại gia đình thiêng liêng đó vậy. Giờ ấy cần yếu cho nhơn loại phải có và hiện tượng cho thành tựu mới đặng, nếu không làm thiệt hiện ra đặng thì cái hòa bình hạnh phúc trong đại đồng thế giới chẳng hề khi nào kết liễu đặng.
Cây cờ cứu thế Đức Chí Tôn, nó đã hiện tượng một cái quyền thiêng liêng vĩ đại giờ phút này và còn tới nữa, thật quyền năng vô đối của nó là quyền năng thương yêu vô tận của mình đó vậy.
Ngày giờ nào toàn thể nhơn loại biết thương yêu với nhau như lời Đức Chí Tôn đã dạy, thì giờ ấy là hạnh phúc cho nhơn loại đã đoạt đặng. Chúng ta đã ngó thấy những điều Đức Chí Tôn đến nói không phải là mới, vì trước kia có hai Đấng đã làm:
Đấng thứ nhứt: là Đấng mỗi bữa mang Bình Bác Vu đi hành khất xin ăn, đem về "Cấp Cô Độc Viên" nuôi những kẻ đói khổ là Đức Thích Ca Mâu Ni Phật đó vậy.
Đấng thứ nhì: là Đấng bẻ từ miếng bánh mì, chia từ miếng cá, cho đến mảnh áo "Tam Tinh" của Ngài cũng lột cho kẻ rách, Đấng ấy là Đấng Jésus Christ.
Bần Đạo nói quả quyết hai vị Giáo Chủ đã làm nên nền tảng tinh thần đạo đức ở cõi Á Đông và Âu Châu là hai nền Công Giáo và Phật Giáo. Nếu đã được thi thố như thế ấy lưu lại cho đời một khối vĩ đại là do năng lực thương yêu của Đấng ấy. Ấy vậy không chi mới mẽ hết.
Cây cờ cứu khổ của Đạo Cao Đài là thương yêu mà thôi, sau nữa là quyền công chánh. Nếu thi hành hai điều ấy được thì mới đem hòa bình thực hiện nơi mặt địa cầu này được.
Bần Đạo xin để lời cảm ơn toàn thể Hội Thánh nam, nữ và Quân đội cùng các con đồng ấu đã làm vẻ vang kiếp sanh của Bần Đạo, làm cho Bần Đạo hưởng được mùi vị thâm thúy về yêu thương của toàn thể con cái Đức Chí Tôn đó vậy.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 05-05-Canh Dần nhằm ngày (dl. 19-06-1950).
Q.3/31: LỬA OAN NGHIỆT MUÔN XE, MỘT GIỌT NƯỚC CAM LỒ KHÔN TƯỚI TẮT.
Tại Đền Thánh
Thời Tý đêm mùng 1 tháng 6 năm Canh Dần (1950)
Bần Đạo lâu đi cúng, thấy Bần Đạo vắng mặt nơi Đền Thánh coi muốn trống.
Hôm nay Bần Đạo vẫn còn đau nhưng rán đi cúng vì có một sự hệ trọng.
Vả chăng hôm kỳ lễ đáo tuế của Bần Đạo, Đức Hoàng Thái Hậu Từ Cung và Đức Bảo Đại có biếu một vật là Ô Kim bằng đồng đen, Bần Đạo hiểu thâm ý ấy chẳng qua là muốn chia phần công quả nơi Đền Thánh, nên Bần Đạo vội đem để ngay giữa Đền Thánh, và dâng lời khẩn nguyện của hai Ngài: "Thiên hạ thái bình nước Việt Nam vĩnh cửu, đảnh nghiệp nhà Nguyễn trường tồn". Hôm nay Bần Đạo đi cúng đây vì lẽ ấy.
Luôn đây Bần Đạo cũng nên nói cho toàn cả con cái Đức Chí Tôn hiểu một điều, đặng hiểu để biết trước một điều, đặng đủ lịch duyệt nơi đó, đủ tương lai của Đạo và Đời.
Rồi đây e cái án nhơn loại bất công của xã hội nhơn quần, đã gây loạn từ trước đến giờ, nay quả báo ấy tới nữa.
Trận chiến tranh 1914-1918 đã qua, Đức Chí Tôn đến chỉ nghĩa để khảo đảo nhơn loại nơi mặt địa cầu này cho trả quả kiếp, chúng ta thấy nhiều bằng cớ hiển nhiên trước mắt sự tàn ác bất công của xã hội nhơn quần nơi mặt địa cầu này, cái án ấy không có miệng lưỡi nào chối cải đặng, có nhơn quả thì có quả báo còn cái sống chết nơi cửa Đạo cốt yếu chúng ta không phải giá trị gì cả, thiên hạ tưởng sống cốt yếu trả nợ cho xác thịt vậy thôi, đến khi thác tất nhiên là cơ quan giải thoát, nên Bần Đạo nói quả quyết, nếu chúng ta biết thì sẽ mong mỏi cái chết hơn cái sống, nhưng xét vì Thánh đức của Chí Tôn, chết vì nhơn loại, chết vì đạo đức tinh thần; chết ấy mới vui, còn chết có hại chăng, là chết đặng trả quả báo, chết ấy không có mùi vị gì.
Qua trận giặc 1914-1918 Đức Chí Tôn Ngài nói, nếu Đạo trễ một ngày là hại cho nhơn loại, nên Ngài mới thúc giục thánh thể của Ngài đặng đem cơ cứu khổ độ rỗi cho nhơn loại mà thu hồi cho nhơn loại, hầu có nghe lời từ bi bác ái của Ngài chăng? Bần Đạo tưởng Chí Tôn cốt yếu Ngài lập Đạo và Ngài giục thúc Thánh Thể của Ngài thọ mạng lịnh nơi Ngài đến trước gom cả con cái của Ngài lại đặng đợi Ngài, bất quá là tiếng nói của Ngài thúc giục cả thánh thể Ngài, đến nơi mặt địa cầu để làm theo ý muốn của Ngài là cứu toàn nhơn loại, nhưng ngọn lửa tàn ác của nhơn loại, vẫn muôn xe, mà một giọt nước Cam lồ của Ngài tưới sao tắt đặng?
Đây qua trận giặc 1939-1945 muốn rạp, kế tới trận đại chiến thứ ba này nữa, tuy vẫn trước mặt thấy một trường thảm khổ vô luận, chúng ta đã thấy một kỳ đại chiến là nhơn loại đều phải trả quả kiếp, nếu biến tướng của quả kiếp để giảm bớt tội tình, thì oai linh của Đạo Cao Đài lại tấn triển thêm một bước nữa.
Ấy vậy cả toàn thể thánh thể nên bình tâm đừng ỷ lại, một điều cần yếu Bần Đạo dặn dò cả thánh thể Chí Tôn nên hợp lại làm một khối thương yêu vô tận, thì ngày khốn khổ vẫn được tự nhiên, còn những kẻ không biết, chia lìa rời rạc nhau sự khốn khổ lại càng đeo đuổi, lời ấy là lời Bần Đạo dặn cho đám thanh niên nên nhớ.
Bần Đạo nói cái đại nghiệp này có tồn tại hay chăng là do tinh thần nơi đó phải khôn ngoan, phải minh mẫn sáng suốt, phải có đạo đức hơn nữa, đặng cầm cho vững tương lai sau này, đó là hạng thanh niên.
Còn một điều nữa là: Phụ nữ, đám con ở trong lòng mấy người. Bần Đạo quả quyết nó sẽ nối truyền nơi cửa Đạo, thì phải lấy giọt sữa từ bi, bác ái của Chí Tôn mà nuôi lấy nó, ngày kia sẽ còn nối hương hỏa của Đạo.
Bần Đạo gởi gấm sắp nhỏ.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 01-06-Canh Dần nhằm ngày (dl. 15-07-1950).
Q.3/32: TRONG CUỘC LỄ AN TÁNG ÔNG PHỐI SƯ THƯỢNG SÁCH THANH (Đỗ Văn Sách).
Tại Báo Ân Từ
Ngày 19 tháng 6 năm Canh Dần (1950)
Thưa cùng Chư Thánh, chư Chức Sắc Thiên Phong Cửu Trùng Đài.
Hôm nay, chúng ta nam cũng vậy, nữ cũng vậy, phải chịu một cái tang chung của người bạn đồng khổ với chúng ta là Phối Sư Thượng Sách Thanh, đã qui liễu. Cái trạng huống đời bao giờ cũng vậy, mảnh xác thịt này của chúng ta chung sống với nhau trong một thời gian thôi, dầu cho ngắn ngủi bao nhiêu đi nữa, chúng ta cũng lưu lại một thâm tình thương mến nồng nàn; nếu không có luật thiên nhiên ấy, chắc cả kiếp sống ta vô vị không có chi hết, theo chơn pháp của Đức Chí Tôn ngày chúng ta vui, vì đã biết bạn trọn trung cùng Hội Thánh, trọn hiếu cùng Đức Chí Tôn và Phật Mẫu, ngày giờ này bạn đã hưởng một đặc ân riêng của Đức Chí Tôn đã dành để.
Thương thay!
Cả công nghiệp của ông bạn đồng khổ với chúng ta đây là ông Phối Sư Thượng Sách Thanh. Kể từ khi phế đời hành đạo, dầu cho gia đình nghèo khổ khó khăn bao nhiêu nhưng ông chỉ biết Đạo, không biết đời, biết Hội Thánh không biết gia đình.
Thảm cho một điều là bao phen nền Đạo chinh nghiêng, bị khảo đảo như thế mà người vẫn lo vẫn làm, vì đầu óc người biết tư tưởng về hành tàng của mình, biết thi thố đầu óc sở định chớ không muốn nói, mà tánh người cũng ít hay nói nữa. Cả thảy Quân Đội, kể từ lúc đảo chánh, đều có ý thấy tại sao một người bịnh hoạn, ốm yếu mà hoạt bát không buổi nào ngừng hành Đạo, không buổi nào nghỉ, mảnh thân yếu ớt bạc nhược mà lo hơn ai hết, lo cho nghiệp Đạo, nghiệp Đời, không nói mà làm là tại sao? Tại cái lòng ái quốc, ái chủng nồng nàn của ông. Một nỗi nữa, cái phần của Đạo quyết đem mảnh thân làm sao cho nên, lấy cái năng lực của mình, đem mặt công lý cho toàn thể thiên hạ thấy rõ cái quyền năng vô tận của Đạo thế nào, sở hành của ông không nói chỉ làm mà thôi, có tư tưởng không ngôn ngữ. Công nghiệp của ông kể sơ từ trước đến giờ:
• Mùng 4 tháng 10 năm Bính Tuất, ông khai công nghiệp.
• 11 tháng 10 năm Bính Tuất, Thánh Lịnh thuyên bổ trách nhậm Khâm Trấn Đạo (Biên Hòa).
• 12 tháng 8 năm Đinh Hợi, bổ làm Thượng Thống Lại Viện.
• 17 tháng 4 năm Mậu Tý thăng thưởng lên Phối Sư.
• 11 tháng 3 năm Canh Dần xin phép nghỉ dưỡng bịnh, chính mình Bần Đạo thấy yếu ớt, bịnh hoạn, nên biểu nghỉ, nếu không thì người nhứt định không nghỉ, nhứt định làm Đạo cho đến chết mà thôi. Bần Đạo biết nên để cho nghỉ, mà trong lúc nghỉ không có nghỉ gì hết, nghỉ gì được, người đầu óc như thế mà nghỉ, lo mãi thôi, phải biết cái tuổi già hồi hưu chỉ lấy an nhàn làm căn bản nhưng không, vẫn giúp đỡ đạo, vẫn tìm phương thế làm cho đạo, đời chung hưởng hồng ân của Đức Chí Tôn chan rưới.
Ấy vậy, cái công nghiệp của người bạn đồng khổ với chúng ta ngày giờ này chúng ta đã giao và chính tay Bần Đạo đã giao chơn linh của người đến nơi tay của Đức Chí Tôn cho người lập vị; còn mấy em, mấy con trong tang quyến cả thảy nên nhớ lời Bần Đạo nói đến, nếu cửa thiêng liêng vẫn mở, thì có thể ông cha của mấy em đặng hưởng tình yêu vô tận trên cảnh thiêng liêng hằng sống, cảnh đó mới là cảnh hạnh phúc, còn cảnh này đây là cảnh khổ mà thôi. Hy sinh mạng sống tạo nghiệp, mà không phải tạo nghiệp đời cho mấy em, bởi nghiệp đời vinh hiển bao nhiêu đi nữa cũng không giá trị gì hết, bao nhiêu xã tắc, sơn hà, vương đế từ trước đến giờ đã tạo dựng mà ngày nay còn tồn tại cái chi không? Trái lại ông cha của mấy em, đã tìm một con đường vinh hiển cho mấy em là "đạo nghiệp" nghiệp đạo còn thì giọt mồ hôi, giọt máu của ông cha mấy em còn, mấy em biết giữ nó cho tồn tại là cái hiếu của mấy em đó. Biết bao nhiêu ông cha đã thương con, lo cho con, nhưng thương là nhiều cách khác nhau, cha mấy em đã tạo dựng cơ nghiệp cho mấy em đây, mấy em không còn trách cứ được nữa, cha mấy em đã làm xứng đáng một ông cha. Bần Đạo xin làm chứng cho mấy em đã được người cha xứng đáng.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 19-06-Canh Dần nhằm ngày (dl. 02-08-1950).
Q.3/33: CÁI KHỔ CỦA THÁNH THỂ ĐỨC CHÍ TÔN.
Tại Đền Thánh đêm mùng 1 tháng 7 năm Canh Dần (1950)
Hôm nay Bần Đạo thuyết cái khổ về phần của thánh thể Chí Tôn.
Trong buổi định vận mạng của nước Việt Nam. Chúng ta đã đủ hiểu rằng: Dầu cho con người có tinh thần chiến thắng nơi mặt thế này dường nào đi nữa mà phàm vẫn là phàm. Vì cớ cho nên Đức Chí Tôn đã nói nơi mặt địa cầu này không có ai đặng trọn lành và cả toàn thiên hạ cũng không trọn lành, tức nhiên mặt thế này nhơn loại chẳng hề khi nào lành đặng.
Khi Đức Chí Tôn đến tạo Đạo, Ngài đã ký hòa ước với chúng ta buộc chúng ta phải thiệt hiện cho đặng cơ quan cứu khổ của Ngài, trọng hai chữ bác ái và công bình. Ngài đem ngôi vị thiêng liêng Thần, Thánh, Tiên, Phật đổi lại cho chúng ta, mong lấy có bao nhiêu đó thôi.
Hại thay! Khi Ngài đến nước Việt Nam đặng chịu dưới ách lệ thuộc quyền hành sở hữu các Tôn giáo không vui thấy cây phướn cứu khổ của Ngài thiệt hiện ra đặng, mà quyền hành trị thế cũng không vui thấy cái triết lý cứu khổ của Ngài.
Hại thay! Ngài lựa sắc dân nô lệ này làm Thánh thể của Ngài dĩ nhiên cái khổ hạnh Thánh thể của Ngài là cả toàn con cái của Ngài trong cửa Đạo không thế gì chối cãi đặng. Đạo đã chịu cái khổ hạnh thế nào thì toàn con cái của Đức Chí Tôn tức là Thánh thể của Ngài đều chung chịu như thế ấy.
Ôi! Biết bao nhiêu khổ, nếu chúng ta không phải mang danh Thánh thể của Ngài thì chúng ta viết một quyển sách kể cái khổ hạnh mà chúng ta đã chịu từ thử đến giờ, dám chắc rằng: Không có một người nào xem mà không đổ lụy đặng, chánh sách ấy đương nhiên sống với cái triết lý nhắm mắt, nhăn răng, cái triết lý đương tranh đấu của loài người vẫn vậy mà chúng ta đem cái triết lý cứu khổ với nhơn nghĩa của Tổ Phụ Việt Nam đã để lại thiệt hiện nó ra là khó khăn không thể nói được. Kìa chủng tộc Việt Nam đang tranh đấu đặng định quốc của mình, một bên họ chỉ lấy tinh thần chủng tộc làm căn bản đặng định Quốc, tức nhiên Quốc Gia; còn một bên họ nương theo cái quyền lực Quốc Tế đặng họ làm năng lực tranh đấu cho họ; do hai con đường, thánh thể của Đức Chí Tôn phải đi con đường nào chớ?
Nếu phải đi với cây phướn cứu khổ với hai chữ nhơn nghĩa của Đức Chí Tôn đã định thì ngoài con đường Quốc gia ra không thể đi con đường nào khác nữa được. Nếu chúng ta có chiến đấu thì cũng khó mà định phận cho nó. Chiến đấu không lẽ chúng ta đem cái oán mà đổi oán, đem thù mà đổi thù, nếu đem lẽ ấy chiến đấu thì còn gì Thánh thể Đức Chí Tôn phải ra phàm, trái ngược lại chúng ta phải dĩ ân báo oán.
Cả toàn Thánh thể Đức Chí Tôn! Giờ phút này thiên hạ đương suy nghĩ, nhứt là chủng tộc Việt Nam, họ đã hỏi tâm lý thường tình của họ: Cao Đài bị thiên hạ dày xéo, Cao Đài dưới ách nô lệ chà đạp, đương nhiên họ có thể báo oán đặng không? Họ ngu muội thế nào, họ đã đi ngược với chủng tộc Việt Nam? Cái triết lý tối cao tối thượng dĩ ân báo oán, từ bi, bác ái và công bằng vô tận trong cửa Đạo Cao Đài chúng ta đã bị biếm trách, điều ấy chúng ta đủ hiểu, chúng ta làm thì nhứt định chịu, bởi chúng ta biết rằng biếm trách ấy giờ phút này nó sẽ làm đại vinh dự cho chủng tộc Việt Nam ở tương lai.
Họ thù oán chủng tộc Việt Nam bao nhiêu thì tương lai kia sẽ định cho họ thiếu nợ tình trong cửa Đạo bấy nhiêu. Hại thay! Cho những kẻ mù quáng đang tâm giết những con cái Đức Chí Tôn, trong buổi họ định vận mạng tương lai cho nòi giống Việt Nam của họ.
Thế gian này không có cái gì cướp bốc, hay cái gì xin xỏ được của Đạo Cao Đài, đối với cái vinh dự cho nước Việt Nam bằng giọt máu nhơn nghĩa, tưởng cái giá trị ấy từ thử đến giờ chưa có ai làm đặng chỉ có cửa Đạo Cao Đài nầy thôi, thì biểu sao Thánh thể Đức Chí Tôn không khổ hạnh?
Vậy Bần Đạo xin khuyên hãy vui đi, lấy đó làm danh dự giá trị của nó thì bao nhiêu cái khổ hạnh kia sẽ được cao thượng, Đức Chúa Jésus Christ đã chết trên cây Thánh Giá làm con tế vật cho Ngài buổi nọ. Buổi hôm nay chúng ta đem cả tinh thần đạo đức làm con tế vật cho Ngài đó vậy.
Hãy vui đi, cứ tự tôn tự đại đi! Từ thử đến giờ chưa có ai làm được, mà mình làm được và đã làm được. Có như vậy mới đáng an vui và hy sinh như thế thì mình mới có giá trị cao thượng.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 01-07-Canh Dần nhằm ngày (dl. 14-08-1950).
Q.3/34: KHÔNG CÓ CÔ HỒN, CÓ CHĂNG LÀ NGẠ QUỈ.
Tại Đền Thánh đêm 14 tháng 7 năm Canh Dần (1950)
Hôm nay là ngày rằm Trung Nguơn có một điều từ thử đến giờ bên Phật Giáo lạc lầm về chỗ các đẳng linh hồn mà người ta gọi cô hồn đó, không có cô hồn đâu.
Hoặc may ra, có lẽ mấy vị khi trước đã đạt pháp gặp đám ngạ quỉ súc sanh phần nhiều là con nít, các đẳng chơn hồn về súc sanh, cho nên các chơn hồn trẻ mãi thôi, vì cớ cho nên người ta làm áo thí cô hồn nhỏ nhỏ vậy.
Không có cô hồn đâu, nếu như Bần Đạo không lầm thì người ta đã có một vị là cô hồn, ấy là người con gái, là Thanh Tâm Tài Nữ đã chết, là khi người tắm ở tại Cap St. Jacques bị chết chìm. Thanh Tâm Tài Nữ chết như thế mà không phải là cô hồn đâu.
Các phẩm chơn hồn đạt phẩm vị nhơn phẩm không có cô quả bao giờ. Nơi cảnh Hư Linh hằng sống kia người ta còn có gia đình, thân tộc bạn tác anh em của người ta, không có một chơn hồn nào đã đạt nhơn phẩm mà gọi là cô hồn đặng. Có hay chăng là thiên hạ tưởng tượng vậy thôi. Tưởng người chết không con nối hậu, không ai phụng sự, xiêu mồ lạc mã, người ta cho là cô hồn, sự thật là không phải.
Bần Đạo lập lại lần nữa, không có cô hồn, chỉ có đám ngạ quỉ súc sanh mà thôi, như các đẳng chơn hồn mà chúng ta cầu nguyện trong Trung Nguơn đây là cốt yếu để cho họ giải quả thoát kiếp, có lẽ trước kia người ta biết một điều bí mật là các ngạ quỉ súc sanh hay ăn uống thường phá khuấy thiên hạ đặng kiếm ăn, còn chúng ta ngày Trung Nguơn hay là Thượng Nguơn chúng ta cúng kiến là cúng Ông Bà Tổ Phụ, Ông Bà và bạn tác đồng sống với chúng ta mới qui liễu.
Ngày cúng ấy là ngày chúng ta nhắc lại sự đau thảm chia ly với nhau trong kiếp sống. Còn kiếp chết của chúng ta sẽ được tương ngộ trên cảnh hư linh hằng sống kia, cái cảm tình của chúng ta ngày đó dầu cho dưa muối mà chúng ta nhớ cái thâm tình ấy là quí trọng. Quí trọng hay chăng là cái lòng yêu ái của chúng ta dưng cho họ, nhớ tưởng đến họ mà thôi, sanh như tiền, tử như thị, ấy là Đạo nhơn luân của chúng ta, nhứt là Đạo phong hóa của nhà Nam.
Bần Đạo lập lại lần nữa không có đám cô hồn đâu, nếu vị nào đạt được nhơn phẩm ở thế gian này dầu cho cô quạnh thế nào, nơi cảnh thiêng liêng hắng sống kia họ cũng có anh em bạn tác gia đình của họ, chúng ta không có người nào cô quả hết chỉ sợ có một điều là bạn tác, anh em chị em đồng sống với chúng ta mà họ không tu, khi về cảnh thiêng liêng hằng sống không thế gì mà gặp nhau được, cái đó mới vô phước và đáng sợ hơn hết, ngoài ra không có cô hồn, chỉ có đám ngạ quỉ súc sanh mà thôi.
Bần Đạo thuyết tiếp về tam nguơn, tại sao trong Càn Khôn Võ Trụ chia làm tam nguơn, là khi Càn Khôn Võ trụ chưa lập ra, ban đầu cả tinh khối sanh lực của Càn Khôn bao trùm hết, khi biến thiên mới tạo ra vạn vật, hồi lúc Đức Chí Tôn giáng linh gọi là Thượng Nguơn. Người giáng linh nắm cả nguyên khí ấy luyện trong Càn Khôn Võ Trụ biết hoạt động nương theo cái sanh lực là chữ khí đó (Hộ Pháp chỉ ra Liên Đài Hộ Pháp có chữ khí) tượng hình của mình.
Kế tiếp nữa là Trung Nguơn Đức Chí Tôn tạo vạn vật dầu cho loài người cũng ở trong vạn vật ấy. Giờ phút Đức Chí Tôn đến cho loài người được cái linh, tức nhiên cho họ cái khôn ngoan hiển hách khác hơn vạn loại kia, gọi là giáng khí vì cớ Đức Hộ Pháp bắt Ấn Trung Nguơn hai bàn tay phải hiệp lại với nhau là âm dương tương hiệp, theo cái thiên linh của Đức Chí Tôn đến cái nhơn linh của loài người.
Đến Hạ Nguơn Đức Chí Tôn giáng Thần, tức nhiên là cái thiên vị Đức Chí Tôn mở ngôi Thần, Thánh, Tiên, Phật cho Vạn Linh đặng cho các chơn hồn đạt vị của mình, chuyển luân trong quả kiếp sanh sanh tử tử mà đạt pháp lập thiên vị; Đức Chí Tôn giáng trần Hạ Nguơn là cốt yếu như vậy. Vì cớ nên Hộ Pháp bắt ấn hạ nguơn là tới tuần trà: hai bàn tay úp nhau, tả là Dương trên, Hữu là âm dưới; chụp lên đầu Kim Tiên đưa xuống giáng thần cho thiên hạ ba cái Bí Pháp đó là vậy.
Bây giờ Thượng Nguơn trở lại, trong Càn Khôn Võ trụ Nhựt Quang có bảy trái địa cầu (Sept planètes du système solaire) nhơn loại ở được bảy trái đó đi chung quanh giáp một quận gọi là đại chuyển thì có: 61.000.000 năm (sáu mươi mốt triệu năm là một chuyển). Trong sáu mươi mốt triệu năm nếu chúng ta tính coi thì chúng ta ngó thấy trái đất này nó tái kiếp lại, nghĩa là chết rồi phục sinh lại bảy lần 61 là 427 triệu năm, thì trái đất đã chết một phen cốt hài của nó còn lại là mặt trăng đó.
Kể từ nó mới phục sinh lại đến nay là ba chuyển rồi nó sẽ đến Thượng Nguơn tứ chuyển. Mỗi trung chuyển là 61.000 năm, Hạ chuyển lại là: sáu ngàn một trăm năm. Một Giáng là sáu ngàn một trăm năm cũng chia ra ba Nguơn vậy. Một Giáng là sáu ngàn một trăm năm thì mỗi Nguơn là hai ngàn ba trăm ba mươi năm hễ mỗi Nguơn ấy tới 2.333 năm 33 ngày 33 giờ 33 phút, qua trong mấy cái ba mươi ba đó sẽ có một vị thiêng liêng ở cung Phật hay cung Tiên giáng thế chuyển Đạo. Vì cớ nên tượng hình Càn Khôn Võ trụ có ba Nguơn tạo đoan vạn vật.
Trung Nguơn là Nguơn giáng khí, như chúng ta tin dị đoan thì Trung Nguơn này chúng ta nên cầu khẩn Đức Chí Tôn để thức tỉnh trí thức tinh thần loài người đặng cho họ minh tâm kiến tánh cho thiên linh, của họ khôn ngoan đặng bảo tồn sinh mạng của họ.
Giờ phút này đừng cầu nguyện cho cô hồn nữa, mà chúng ta cầu nguyện cho con cái Đức Chí Tôn cho họ đủ năng lực để minh tâm kiến tánh, bảo trọng sanh mạng của họ mà thôi.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 14-07-Canh Dần nhằm ngày (dl. 27-08-1950).
Q.3/35: LỄ HÀNH PHÁP ĐỘ THĂNG CHO GIÁO HỮU THƯỢNG SANG THANH.
Tại Đền Thánh ngày 19 tháng 7 năm Canh Dần (1950)
Lời dạy của Đức Hộ Pháp căn dặn có một điều nên để ý là làm sao ngày qui liễu, gởi thánh cốt tại đất Thánh Địa vì trái địa cầu 68 nầy không có chổ đất nào quí hóa cho bằng đất Thánh Địa, nếu để được cốt hài nơi đây rồi thì rất hạnh phúc cho tương lai con cháu.
Cái quí trọng của đất Thánh Địa, là có Lục Long phò ấn nên Đền Thánh nằm ngay trung tim của 6 con rồng doanh lại.
Dầu nơi Cực Lạc cũ, hay đất mới cùng là Nghĩa Địa; đất 50 mẫu ở Long Thành cũng vậy, Bần Đạo đã biết bên nước Tàu; hễ ông, bà, cha, mẹ họ có qui, họ quàng lại để chọn ngày hoặc chỗ đất tốt có hàm rồng, dầu phải 5, 3, năm họ cũng đợi kiếm được mới làm lễ an táng, vì bên nước Tàu có nhiều nhà biết thiên văn, hay khoa coi bói họ giỏi.
Phần nhiều là các nhà giàu có hay chọn lựa. Ngày nay dân tộc Việt Nam có phước Chí Tôn đã tiền định cho dòng giống Lạc Hồng sẽ hưởng điều phúc hậu tương lai, ai có duyên mà về đây gởi cốt hài là có phước lắm vậy.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 19-07-Canh Dần nhằm ngày (dl. 01-09-1950).
Q.3/36: DANH TỪ TÀ VÀ CHÁNH TRONG TÔN GIÁO.
Tại Đền Thánh đêm mùng 1 tháng 8 năm Canh Dần (dl. 12-09-1950)
Hôm nay Bần Đạo thuyết về danh từ tà chánh mà thiên hạ đã ban cho các nền Tôn Giáo, dùng nghĩa lý của nó trước về mặt Tôn Giáo.
Về mặt Đạo thì chúng ta phải để tâm suy xét cho tận cùng, hiểu cho thấu đáo phận sự con người tức nhiên là phận sự của nhơn loại ở nơi mặt địa cầu này đã làm sao?
Vả chăng con người là một vật ở trong vạn vật cùng tạo đoan, vì cớ nào Đức Chí Tôn lại giáng linh trong một con vật?
Tức nhiên Ngài có chủ định cho nó làm, mới cho quyền hành vô đối như thế lẽ dĩ nhiên con người khôn hơn vạn vật, đã đành khôn thì làm chúa của sự dại, tức nhiên Đức Chí Tôn muốn cho loài người làm chúa của vạn vật. Chúng ta không cần kiếm hiểu hay xét đoán, việc làm chúa để làm gì đó? Phận sự đối vạn vật thế nào? Mình đã xuất hiện trong khuôn luật của tạo đoan, tức nhiên mình thọ ân tạo hóa của Chí Tôn ban cho mình một tánh linh, cốt yếu để cho mình đảm nhiệm phần bảo vệ cơ quan tạo đoan của Ngài, tức nhiên dễ dàng bảo thủ luật tạo đoan chớ không phải dễ tiêu diệt luật tạo đoan.
Chúng ta đã xét đoán thấy mặt địa cầu này khi trước buổi thoát xác của nó, các đẳng linh hồn đạt được biết bao nhiêu Phật vị. Mặt địa cầu này kiếp trước của nó đã tạo nhiều đấng có đủ quyền hành điều khiển, cầm quyền trong Càn Khôn Võ Trụ này, hay các nơi khác nữa, chớ chẳng phải đây mà thôi. Bần Đạo có thuyết khi trái địa cầu này đã thoát qua, chính mình Đức Di Lặc Vương Phật thời kỳ này cầm quyền Càn Khôn Võ Trụ chỉ là một "dã nhơn" mà thôi. Còn Đức Phật Thích Ca là người quê dốt. Trong ba đại chuyển mà Đức Thích Ca, Đức Di Lặc lập vị mình một cách vinh hiển oai quyền như thế, mặt địa cầu nầy cốt yếu Đức Chí Tôn giáng để làm một trường học tạo cấp bằng cho nhà Phật.
Cái bảo vệ cho tạo đoan không có quyền diệt hóa phải bảo hóa mà thôi. Cơ quan bảo hóa tức nhiên chánh, cơ quan nào diệt hóa tức là tà. Nếu chúng ta lấy cái lý xét đoán dầu cho bên vật chất hay bên tinh thần cốt yếu cho loài người làm môi giới, điều độ các chơn linh tấn triển mãi cho đến Phật vị. Về mặt hình thể, cơ quan nào không có ích cho cơ thể tạo đoan tức là không có ích cho nhơn loại.
Việc bảo vệ sanh mạng của nhơn loại trong khuôn khổ tạo đoan, tức nhiên là cơ quan nào nâng đỡ bảo trọng thêm cái sống này giúp cơ thể tạo đoan và bảo vệ sanh mạng của vạn linh nơi mặt địa cầu này, nó là chánh, triết lý nào giúp cho nhơn loại tức nhiên bảo trọng cơ quan tạo đoan bền bỉ vững chắc nó là chánh. Triết lý nào xúi giục làm cho vạn vật tàn sát với nhau diệt hóa tức nhiên triết lý ấy là tà.
Chúng ta ngó thấy cơ thể tạo đoan trước kia cũng vậy chớ không phải trong cửa Đạo Cao Đài này mà thôi. Trong Vương Đạo và Bàn Môn ta thấy khuôn luật định của nhà Vua tức nhiên là Vương Đạo đi ngay con đường chánh mà thôi, buộc nó phải bảo vệ sanh mạng cho xã hội nhơn quần, tức nhiên bảo vệ trong một nước phải lấy chánh tâm định phận con người. Lấy chánh đó là Vương Đạo. Còn các triết lý hay các cơ thể nào đi ngược lại với cái chánh ấy là làm cho thiên hạ phải loạn lạc, xao xuyến tâm hồn, không biết cái chủ nghĩa kính sùng cái sống lẫn nhau, tương tàn tương sát với nhau làm rối loạn cả luật pháp thiêng liêng kia; diệt hóa tức nhiên là Bàn Môn,Tả Đạo.
May thay cho chúng ta, nhờ Đức Chí Tôn đến, Ngài quả quyết nói rằng: Những điều ở thế gian này tín ngưỡng từ trước đến giờ là khi trái địa cầu mới phục sanh lại, vạn vật còn trong buổi sơ sanh dốt nát mà từ từ họ tấn triển đến mãi cho tới phẩm vị Phật hay ngang phẩm cùng Thầy đều đi trong các lý do của chữ Đạo. Ấy là người với Trời "Reliron" do chữ "Relior" mà ra là liên kết người với Trời. Cơ quan nào liên kết người với Trời tức nhiên là Đức Chí Tôn đến với chúng ta. Ngài nói: Ngài đến đặng dạy một chơn lý tức nhiên đem một chơn lý để cho các con biết; các con thờ đây duy có thờ mình và thờ Thầy mà thôi. Bởi cơ quan này có hai quyền vi chủ.
1) Thầy.
2) Nhơn loại tức nhiên các con.
Chúng ta chỉ nhờ có hai Đấng ấy mà thôi, bây giờ muốn bảo hóa, đừng diệt hóa Đức Chí Tôn biểu gì? Ngài để một định luật trước mặt là bác ái và công bình. Chúng ta tỉ thí như con chó kia đẻ ra mấy con, người ta đến xin, dòm thấy con nào thương được, người ta mới xin, xin đặng nuôi dưỡng nó, vì cái thương ấy mới nuôi dưỡng. Bây giờ trồng một cây gì người ta ham thích nó, tức nhiên người ta thương nó nên mới trồng, mới bảo vệ mạng sống của cây ấy.
Vạn vật muốn bảo trọng toàn vẹn cái luật tạo đoan cho bền chắc duy có mặt luật thương yêu mà thôi. Trong khuôn luật thương yêu ấy định cho mình bảo trọng cơ thể tạo đoan, giúp hay cho luật tạo đoan mà thôi.
Bây giờ thương yêu ấy không thể thương yêu là tại cần cái này, bỏ cái kia, chê cái nọ, khen cái khác. Chúng ta phải lấy công tâm định, tùy theo khuôn luật tạo đoan đặng định phận cái sống mình cho còn tồn tại, chúng ta muốn bảo vệ phải có công bình và tâm lý mới được.
Xã hội nhơn quần, chúng ta đã sanh trong một nước, giống nòi tông tộc chúng ta, thì chúng ta không biết thân phận của mình đối với đồng chủng thế nào.
Ta sanh ra trong một nước, nhờ ơn ngọn rau tấc đất ta mới sống, ta nhờ nương nơi đó mà ta lập vị định phận của ta, nếu ta không biết thương yêu thì phận con người của ta chưa đúng vậy. Vì cái phận ấy, vì lẽ công bình ấy, vì thương yêu mới đem hy sinh mình phụng sự cho toàn thiên hạ.
Cơ quan phụng sự ấy Đức Chí Tôn biểu chúng ta dâng cả thi hài trí hóa và tâm hồn đặng Ngài làm cơ quan phụng sự cho nhơn loại bảo tồn khuôn luật tạo đoan vững chắc, tức nhiên dắt chúng ta đi trên con đường chánh Đạo đó vậy.
Q.3/37: THẢM TRẠNG CỦA QUỐC DÂN VIỆT NAM.
Tại Đại Đồng Xã trong dịp Tết Trung Thu, ngày rằm tháng 8 năm Canh Dần (1950)
Nói về cái thảm trạng của quốc dân Việt Nam hồi thuở lập quốc, một tình trạng thống khổ đã làm cho Bần Đạo phải nghẹn ngào. So sánh lại 5 năm bị đồ lưu nơi Hải Ngoại thảm khổ đường nào, chẳng cần minh tả ra cả thảy con cái Đức Chí Tôn cũng đều thấu đáo, và quyết định giá trị thế nào?
Bần Đạo xin quả quyết rằng: Thống khổ 5 năm đồ lưu nơi Hải Ngoại không bằng đã thấy cái thống khổ hiện trước mắt một cái tấn tuồng đau đớn là nòi giống Việt Nam tàn hại lẫn nhau, Bần Đạo đã trọn một kiếp hy sinh để tạo hạnh phúc cho toàn thể con cái của nòi giống Lạc Hồng, chính Bần Đạo cũng là một phần tử trong ấy.
Cái tranh đấu đem cả sanh mạng ra để làm giá trị chung cho đời cho Đạo thì chưa có biết thối bước trước tình trạng khó khăn nào, dầu thống khổ dường bao? Không có năng lực nào làm ngăn trở bước đường của Bần Đạo được. Quyết thắng, quyết đi cho đến mục đích cuối cùng.
Thật ra là Hành Chánh Đạo trót cả một đời chưa có khi nào làm cho Bần Đạo đã thấy, hiện nay là quốc dân Việt Nam đương chiến đấu đặng giải ách nô lệ cho quốc dân đã chịu tám mươi năm, đem văn hiến, đem tinh thần tối cao của nòi giống để làm giá trị, là phương pháp thâu đoạt cho đặng độc lập và thống nhứt thiệt hiện đối với nước chinh phục chúng ta là Pháp. Cái yếu điểm tranh đấu với Pháp là cái quan niệm giải phóng cho nòi giống Việt Nam.
Hôm nay đã gần đạt thành mục đích, chính một trường thảm khổ đã trải trước mắt nòi giống Việt Nam là người ta đem cho nền độc lập thống nhứt Việt Nam bằng chủ nghĩa cộng sản, nhưng Bần Đạo không phiền trách cái tranh đấu của họ, bao giờ họ cũng tranh đấu để tạo hạnh phúc chung cho nòi giống họ đặng trọn quyền. Duy có một điều là họ chuyên quyền tàn sát nòi giống của họ.
Bần Đạo chỉ sợ có một điều là ách nô lệ 80 năm, với một quốc dân hai mươi lăm triệu này chưa có thể chiến thắng đặng, sợ e cho những kẻ quả quyết dùng thuyết duy vật ngoại bang đem vào đây cho nòi giống Việt Nam phải điêu tàn, sẽ trở nên người Mườn, Mán, Mọi hay là Lô Lô chẳng hạn.
Bây giờ họ còn chung sống trong hoàng đồ của chúng ta, chúng ta phải coi chừng, nòi giống Việt Nam phải cho khôn ngoan sáng suốt, vận mạng tồn vong hay vinh quang đều ở trước mắt chúng ta, chúng ta đừng để cho kẻ thù địch mưu chước lợi dụng xương máu của chúng ta, mà nòi giống Việt Nam phải đi đến con đường tự diệt và tự mình hại lấy mình thì không phương pháp nào? Dầu cho Đức Chí Tôn cứu vãn tình thế này định tương lai cao trọng thế nào cũng không cứu vãn đặng; phải thương yêu với nhau, hiệp đồng cùng nhau, mới có thể quyết thắng đặng.
Giờ phút quyết liệt này Bần Đạo tiên tri rằng: Nếu quốc dân Việt Nam không tin với nhau, để cho Bắc thuộc lần thứ hai nữa, thì không có phương pháp nào giải ách nô lệ cho đó vậy.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 15-08-Canh Dần nhằm ngày (dl. 26-09-1950).
Q.3/38: BAN PHÉP LÀNH CHO BA GIA ĐÌNH ĐÔNG CON.
Tại Đền Thánh ngày 16 tháng 8 năm Canh Dần (1950)
Mấy em, ngày hôm nay là ngày kỷ niệm của Đức Phật Mẫu.
Qua đã nhứt định để cho các gia đình của mấy em hưởng đặc ân của Chí Tôn, để một mình làm chủ một ngày lễ đặng hiểu rằng: Có nhiều lời tâm huyết can đảm, mấy em nam, nữ tức là cha mẹ của đám ấu sinh kia, mấy em đã lãnh trách nhiệm thiêng liêng của Đức Chí Tôn, và Phật Mẫu đã phú thác gởi gấm giao phó cho mấy em, các Đấng chơn linh đến làm Thánh thể của Ngài. Mấy em nam, nữ đã lãnh trách nhiệm trọng yếu mà gìn giữ báu vật của Chí Tôn và Phật Mẫu đã phú thác gởi gấm và giao phó cho. Năm nào Qua cũng căn dặn mấy em. Tuy vẫn trẻ ấu sinh do huyết khí của mấy em tượng nên hình. Những chơn linh đó là bạn của mấy em, Đức Chí Tôn phú thác cho mấy em, mấy em nên hiểu rằng: Trước khi Đức Chí Tôn để chơn đến mặt thế này mấy em biết đến với mấy em trước không? Qua nói: Ngài đến với mấy em trước. Trong Thánh thể đương nhiên giờ phút này Ngài lựa chọn, Qua vẫn biết làm cha trong gia đình khó khăn thế nào? Qua cũng hiểu cái khổ não của mấy em lo tảo lo tần mà nuôi con cái của mấy em, có ngày Hội Thánh cũng biết.
Qua nói rõ cho mấy em hiểu rằng: Cơ thể hữu vị của Đức Chí Tôn đến đào tạo đây: mấy em có biết để cho ai chăng?
Cốt yếu để tạo nghiệp cho mấy em đó vậy. Qua nói cho mấy em hiểu, trừ ra Đền Thánh và các Đền Thờ, Qua không dám nói đến, bởi nó sẽ tượng hình mà gom góp lập thành Chí Thánh. Qua nói của cải đào tạo dành để cho mấy em nuôi con cái của mấy em đó vậy. Giờ phút nào Qua còn thấy trước mắt Qua mấy em khổ não nhọc nhằn đói khó, Qua có can đảm dỡ từng miếng ngói mà nuôi nó, Qua xin mấy em đừng hất hủi chúng nó để cho trọn vẹn đạo làm cha mẹ, Qua chẳng cần nói mấy em cũng chán biết.
Qua lặp lại một lần nữa, mấy em có chủ quyền trọn vẹn của mấy em để giáo hóa là do Đức Chí Tôn phú thác đó thôi.
Ngày giờ nào mấy em không phương lo nuôi không nổi, đem nó cho Qua giao cho Hội Thánh, ngày giờ nào Qua còn sống thì giao lại cho Qua. Qua cấm hẳn, Qua không chịu để cho nó đói rách. Qua nói cho mấy em hiểu, mấy em phải lấy giọt sữa đạo đức mà nuôi con, hột cơm của mấy em nuôi nó là cơm đạo đức.
Trái lại, nếu mấy em không bảo trọng phận sự của thiêng liêng phú thác, để cho nó hung tàn bạo ngược như kẻ ngoài đời kia thì tội tình của mấy em nơi cửa Ngọc Hư Cung chẳng hề dung thứ. Mấy em nên nhớ giờ nào Qua cũng muốn tìm phương thế sang bớt cái nhọc nhằn của mấy em, nào là tạo cơ sở Cô Nhi, tạo Đạo Đức Học Đường, tạo các cơ quan giáo hóa, để giúp mấy em, nhưng trước hết làm Thầy đắc lực hơn hết là mấy em, chớ không phải giáo viên lập được tánh đức của nó, tương lai của nó là do nơi mấy em, phải tạo khuôn luật, cái quyền nghiêm khắc là do nơi gia đình, mà gia đình nào có con hung tàn bạo ngược thì gia đình ấy phải chịu nhọc nhằn.
Hội Thánh nhứt định sẽ trừng trị, Qua cho biết liệu nuôi nổi thì nuôi, nếu không nuôi nổi thì giao lại cho Qua, chớ không quyền hất hủi nó, điều ấy là điều cần thiết hơn hết.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 16-08-Canh Dần nhằm ngày (dl. 27-09-1950).
Q.3/39: TRONG BUỔI TIỆC CỦA NHẠC SỸ TÂN KHOA.
Tại Bộ Nhạc Lễ đêm 16 tháng 9 năm Canh Dần (1950) lúc 8 giờ 40.
Lễ Nhạc là hai điều trọng hệ của Đức Chí Tôn, khi Ngài đến vẫn chú ý về hai điều ấy, chúng ta cũng vẫn biết, nền Đạo Cao Đài là Nho Tông chuyển thế, thì tức nhiên của toàn cả xã hội nhơn quần nơi mặt địa cầu này nhờ Đạo Nho sửa đoan chỉnh đốn thiên hạ lại, chúng ta thấy xã hội tinh túy đạo đức của họ dường như đảo ngược lại khủng hoảng tinh thần mà ra vậy. Nho đạo đã lập xã hội ở Á Đông từ Tam Hoàng qua tới nhà Châu rồi Ngài Châu Công chỉnh đến Tân Dân; lễ nhạc sản xuất do nơi Huỳnh Đế với Châu Công; ấy vậy mình phải biết nhạc khi nào cầm cây đờn, năm mười cây hòa lại nó một giọng thì tức nhiên chữ hòa do nơi nhạc sanh ra vậy.
Lễ nhạc do nơi âm thinh, bởi thế nên chúng ta thấy Vạn Quốc giờ phút nầy, dầu văn minh thế nào mà hiểu đặng nền tăng tiến của Trung Hoa thì đều khen ngợi, từ thử đến giờ, trên mặt địa cầu này, có nước Tàu là do Đức Khổng Phu Tử chỉnh đốn hoàn bị nên lễ nhạc có phương thế làm môi giới làm khí cụ cho toàn vạn quốc đương buổi nầy, lấy tư cách lễ độ làm ngoại giao, tưởng chắc không nghịch nhau, chúng ta thấy tấn tuồng của vạn quốc họ đều thất lễ ấy, mà thế giới khởi chiến tranh.
Mấy em nhạc tự biết mình chẳng phải làm nghề sơ lược của bọn đờn thổi ngoài đời như họ vậy, thành ra hèn hạ, còn nếu muốn biết tánh cách quan trọng của nó thì dở lịch sử ra xem mới biết, dầu nước văn minh nào ở mặt địa cầu nầy cũng không thể cãi bỏ nhạc được.
Mấy em phải biết cái tinh túy mà người ta có thể đo lường nhạc cao thấp mà hiểu được, vì cớ cho nên mỗi nước có bản quốc thiều. Qua nói cùng mấy em rõ, giờ phút nầy mấy em cầm cây đờn, giữ giá trị riêng để tự trọng lấy mình, Qua nói rõ hồi lúc Qua học đờn tài tử, Qua đờn không cần ai khen, không sợ ai chê, hễ cầm cây đờn lên giọng đều như nói chuyện về tinh thần với cây đờn của mình, nhứt là Đức Cao Thượng Phẩm sanh tiền buổi nọ, lấy cây đờn mà làm bạn thiết, hết thảy ngôn ngữ thường tình đều khinh rẻ, Qua nghe từ ngôn ngữ của nhạc, Qua biết nó là bạn tri âm, tri kỷ, cao thâm hoạt bát của nó, nên lấy trí luận thì từ trước kia Bá Nha là bạn tri âm của Tử Kỳ, biết tri kỷ đặng để làm gương, hễ cầm cây đờn thì phiêu phi ở giữa lừng trời, nhiều khi tiếng đờn hợp với tinh thần, thấy dường như tượng trưng ra khỏi xác thân để giúp tinh thần cường liệt vô đối, cái năng lực của cây đờn là ấy vậy, kẻ ngoài bàn luận, phê bình tánh cách hòa nhã mà thôi, mình biết tinh túy của mình, trọng hay khinh là do nơi mình, nếu mình biết trọng thì họ trọng, nếu mình biết khinh thì họ khinh, mấy em tưởng tượng nghe đờn của mấy em, giờ phút nầy mấy em có thể nghĩ nó có giới hạn, và có thể làm bạn với ta, từ thượng cổ, từ bực yếu trọng, họ nói là bạn với nó vậy, chí hướng tự trọng của nó, từ trước kia những bực tiền nhân của chúng ta là bạn thế nào, thì ngày nay chúng ta cũng làm bạn như thế ấy.
Mấy đứa thi đậu kỳ nầy, con đường Thánh thể của Đức Chí Tôn đã mở rộng cho mấy em cứ khoan thai bước tới, Qua để hy vọng tương lai kẻ nào cầm vận mạng của nó phải biết giá trị và tánh chất hòa hợp với tiếng đờn yểu diệu, hiền từ, lịch lãm, khí khái của mấy em đã đào tạo, ngày kia nó có giá trị và ảnh hưởng cho cả quốc hồn là cây đờn của mấy em, nó sẽ là tương lai vận mạng của nước, nhớ từ đây sắp về sau phải biết tự trọng lấy mình, mà biết tự trọng lấy mình thì sau thiên hạ mới trọng mình vậy.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 16-09-Canh Dần nhằm ngày (dl. 26-10-1950).
Q.3/40: VÍA ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG THƯỢNG TRUNG NHỰT.
Tại Tòa Thánh ngày rằm tháng 10 năm Canh Dần (1950) (*1)
Hôm nay là ngày kỷ niệm của Quyền Giáo Tông, toàn thể anh em chúng ta nên để tâm tưởng niệm một người anh cả lớn nhứt, vĩ đại nhứt của chúng ta. Một người anh yêu ái của toàn thể chúng ta đó vậy.
Hai mươi bốn năm trước, nếu chúng ta tưởng tượng lại nền Đạo của Đức Chí Tôn thì không được như ngày nay, Bần Đạo tưởng chắc cái khổ hạnh của người Anh cả Cửu Trùng Đài chưa đến nỗi phải đổ lụy nhiều phen vì Đạo. Một nền chơn giáo gặp trong thời buổi trí thức tinh thần của con người đã bị tài năng hóa học đào độn không còn cái quyền vi chủ tâm lý của mình.
Thời buổi thuyết duy vật đương đánh đổ thuyết duy tâm cái quyền năng đạo đức phải thối bộ trước cái cường lực của trí thức tinh thần, tài tình nhơn loại thấy tưởng chắc rằng trí thức tinh thần của họ được vi chủ cả tương lai, rồi chê bỏ phụ rải cả triết lý tinh thần đạo đức.
Trong buổi ấy Đức Chí Tôn lại đến, Ngài đến với một nền Tôn Giáo mà từ thử đến giờ nhơn loại chưa buổi nào có, biểu sao không trăm ngàn lần khó khăn đã chồng chất. Chúng ta hồi tưởng lại, suy gẫm cái khó khăn, cái phản động lực ấy nó làm trở ngại đến mức nào? Thánh thể Đức Chí Tôn, tức nhiên cả toàn Hội Thánh phải chịu một cường lực đè ép về tâm hồn hình thể, do nơi tay người Pháp. Chúng ta cũng nên tìm cho thấu đáo trong ngày kỷ niệm của Anh cả mình "quang tiền vũ hậu" chẳng phải một điều vô ích đó vậy.
Đạo Cao Đài, Đức Chí Tôn thượng cây Phướn cứu khổ đặng cứu thế giữa mặt địa cầu nầy, nên chúng ta được biết tâm hồn của nhơn loại chia ra làm ba:
1) Hạng nguyên nhân.
2) Hạng hóa nhân.
3) Hạng quỉ nhân.
Đã là cơ quan tận độ, thì không có kỵ ai bao giờ. Vì cớ cho nên đương thời buổi truyền bá chơn giáo của Đức Chí Tôn một cách cường thạnh tuyên bố một cách phi thường, cái hoạt động toàn Thánh thể của Ngài buổi nọ, chúng ta không thế gì tưởng tượng được.
Hại thay! Đã trót trên 10 năm trụ cả đức tin vừa mới vững chắc. Mở đạo nơi Chùa Gò Kén Đại Từ Phụ vẫn để cho quỉ tàn phá giữa đại đàn, Ngài mở rộng cho ba phần chơn hồn ấy. Biểu sao quỉ không trọn quyền dự thí để phá hoại làm cho cả đức tin thiên hạ gây thêm một trường chống báng chê bai khinh rẻ, chẳng khác nào như vừa cất lên một cái đài vinh dự, Ngài cho kẻ nghịch thù của Ngài tàn phá tiêu hủy, rồi phải lo tu tạo lại như buổi ban sơ, phải mất cả hai năm truyền bá gầy tạo tinh thần của con người lại, vì lẽ ấy cho nên tâm lý của nhơn sanh phải mờ hồ.
Bần Đạo làm chứng rằng cho đến con cái chí hiếu của Đức Chí Tôn, tức nhiên cả Chức Sắc Thiên Phong, nam, nữ mấy vị có trách nhiệm lãnh Thiên mạng của Đức Chí Tôn làm Thánh thể cho Ngài cũng thế, họ cũng mờ hồ, đức tin của họ cũng chẳng có gì hết. Bởi vì thiếu đức tin ấy làm cho Hội Thánh phải nghịch lẫn nhau tranh quyền lấn thế cùng nhau. Trong cơ khảo đảo tranh quyền lấn thế ấy mới xuất hiện ra đảng phái Tả Đạo Bàn Môn.
Bây giờ về phần đời của Ngài là Thượng Nghị Viện tại Nam bộ này, tức nhiên là người Anh đứng đầu trong thiên hạ buổi nọ vậy, nắm quyền trong tay, tuy vẫn còn dưới quyền thuộc địa của người Pháp.
Về phương diện đứng đầu trong xã hội nhơn quần, chẳng phải nói đứng đầu trong Quốc dân Việt Nam này mà Anh cả chúng ta còn có phần đặc biệt ít ai dám khi rẻ, từ Nam chí Bắc danh của Anh cả không người nào không biết. Thói thường tình của con người, hồi còn lúc đương quyền họ nương bỏng, họ bợ đỡ, họ kiếm phương thế lại gần đặng núp sau lưng Anh cả của chúng ta để lợi dụng quyền thế kiếm phương bán cả danh giá của Ngài đặng thâu đoạt lợi quyền.
Hai mươi bốn giờ, Đức Chí Tôn biểu bỏ hết gia nghiệp cho tới sự ăn chơi cũng thế, Đức Chí Tôn kỳ có 24 giờ mà thôi, hai mươi bốn giờ Anh cả chúng ta phải trường chay, 24 giờ Anh cả phải dưng cả sự nghiệp cho thiên hạ, trong 24 giờ Anh cả chúng ta phải từ bỏ chức Thượng Nghị Viên, dưng mảnh thân phàm cho Đức Chí Tôn làm ngọn cờ cứu khổ.
Cảnh tượng ấy, thiên hạ thấy cái sang cái trọng kia, thấy cái quyền hành kia trả lại từ trên tới dưới, đứng địa vị tối cao xuống địa vị tối thấp, vì cớ nên xúm nhau khi rẻ, vì không còn hưởng được lợi quyền nào và không còn mơ ước bợ đỡ lợi dụng được thì phản trắc.
Một trường bịa đặt ngôn luận đủ mọi điều, không cái gì mà thiên hạ không nói, buổi nọ tình thế ấy, từ giá trị đến đời sống của Ngài đều bị thiên hạ chê bai một cách vô lý không thế gì tả được cái ích kỷ của đời.
Về quyền hành của Đạo, không biết vì cớ gì Đức Chí Tôn đã định cho Ngô Văn Chiêu làm Giáo Tông của Đạo, Đức Chí Tôn biểu may Thiên Phục Giáo Tông và may rồi trong 10 ngày lại thôi, Ngô Văn Chiêu bị biếm vậy. Hại thay! Tước vị ấy để treo lên đó mà thôi, dùng để cho ai hưởng, trái ngược lại Anh cả của chúng ta phải chịu mạng lịnh cầm quyền ấy, làm cho tâm lý giữa Đạo và đời phải điên đảo phân phân bất nhứt, gây thù kết oán với nhau, sanh ra các đảng phái đánh đổ Hội Thánh.
Hại thay! Ngài phải chịu một trường hợp khó khăn đã chịu một điều oan khúc tình cờ không thế gì tự bào chữa lấy mình cho đặng, đàng sau Anh cả chúng ta buổi nọ, cả Chức Sắc Thiên Phong nam, nữ cả tín đồ đều phân phân bất nhứt, đàng sau Anh cả chúng ta buổi nọ không có cái hậu thuẩn chi hết, cả thảy đều bo bo chết anh, anh chịu, chết em, em chịu, không biết binh vực lẫn nhau, không có một hậu thuẩn biểu sao cường quyền không áp chế bắt cầm tù đặng thị nhục.
Nhớ lại, nếu Anh cả không đủ tinh thần đạo đức, không đủ trí thức tài tình, một trường chiến đấu buổi nọ, không phải dễ gì mà thắng. Họ nhốt trong khám mấy bữa vì nạn không có tiền đóng thuế thân cho bổn đạo, chúng bắt bỏ tù luôn Ngũ Đẳng Bội Tinh trong mình Ngài nữa, chừng ra rồi Ngài gỡ trả Ngũ Đẳng Bội Tinh lại, vì nó không có giá trị gì hết, nếu có giá trị thì không thị nhục dường ấy. Trả mà người ta chưa dám lấy, năn nỉ đưa lại cho Ngài. Tình trạng Anh cả chúng ta như vậy.
Ngộ nghĩnh thay! Thế gian này từ thử đến giờ chưa thấy ai có đức tin lạ lùng như Ngài vậy.
Nền chơn giáo của Đức Chí Tôn mà triết lý không ai biết đặng, con người ta phải có trí thức để suy gẫm, lấy trí thức tinh thần để đoán xét cả sự tin tưởng nơi thế gian này chúng ta thấy trí thức tinh thần tiềm tàng cho thấu đáo, cái đức tin của Ngài.
Bần Đạo giờ phút này, đứng tại đây để dấu hỏi đâu mà có? Tức nhiên ở trên Trời vâng mạng lịnh đến mà thôi. Người vâng mạng lịnh Trời tức nhiên do theo tiếng Trời kêu mới biết rõ; nếu nói rằng: Đức tin thấu đáo đặng thì Bần Đạo chưa có trí thức tinh thần nào tưởng tượng cho thấu đáo.
Bần Đạo đứng giữa đây, Cửu Trùng Đài nam, nữ nhứt là nam phái, Bần Đạo ngó thấy người cầm đầu nam phái có tinh thần vững chắc lắm. Còn đức tin nữ phái buổi nọ không bằng của nam phái.
Phái nam được hưởng một đặc ân của Đức Chí Tôn, ngày nay lập quyền Cửu Trùng Đài nam phái là nhờ đức tin lạ lùng của Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt buổi nọ lưu lại họ hưởng đó vậy.
Bần Đạo lấy công bình nói quả quyết, ngày giờ nào Chức Sắc Đại Thiên Phong hưởng đặng vinh hạnh sang trọng nơi mặt địa cầu này, là Cửu Trùng Đài không có quyền quên ơn Người thứ nhứt của mình đã tạo nên khối đức tin để lại đó vậy. Đức Quyền Giáo Tông là ơn đệ nhứt của Thánh thể Đức Chí Tôn Cửu Trùng Đài mà thôi.
Bần Đạo đứng tại đây làm chứng cho toàn thể hậu tấn đều nghe tiếng của Bần Đạo nói: Bần Đạo lập lại giùm, mỗi khi có tiếng nhắc lại cho họ nghe thấy là phương pháp của toàn thể trong Đạo đền ơn cho Ngài đó.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 15-10-Canh Dần nhằm ngày (dl. 24-11-1950).
(*1) Ngày kỷ niệm của Đức Quyền Giáo Tông là ngày 13-10 âm lịch hàng năm: âl. 13-10-Canh Dần nhằm ngày (dl. 22-11-1950).
Q.3/41: THỜI KỲ ÂN XÁ CỦA ĐỨC CHÍ TÔN.
Tại Đền Thánh ngày rằm tháng 10 năm Canh Dần (1950)
Đêm nay là lễ Hạ Nguơn, Bần Đạo đã thuyết minh trong buổi Hạ Nguơn Tam Chuyển vừa qua, khởi đầu Thượng Nguơn Tứ chuyển rồi. Bần Đạo nhắc lại phen nữa, đặng cho toàn thể con cái của Đức Chí Tôn biết Long Hoa Hội là gì? Trái đất nầy, Bần Đạo đã có thuyết minh nếu tính theo toán số thì mỗi chuyển là 61.000.000 sáu mươi mốt triệu kêu là một kỷ thế.
Trong một chuyển phân ra ba Nguơn, thành ra chúng ta tính lụng lại mỗi nguơn chuyển của một đại chuyển có hai chục triệu, ba trăm ba mươi ngàn, ba trăm ba mươi ba năm, ba mươi ba ngày, ba mươi ba giờ, ba mươi ba phút (20 triệu 333 ngàn 333 năm 33 ngày 33 giờ 33 phút) thì có Long Hoa Hội chỉ nghĩa là qua một chuyển.
Các chơn linh trong Càn Khôn Vũ Trụ, giờ phút nơi mặt địa cầu 68 nầy đều có các chơn linh ở nơi đây dự vào khoa mục; khoa mục của chúng ta thi rồi xong trong hoàn vũ nầy chúng ta tấn triển tới cho được; giờ phút nầy là giờ phút có quyền thiêng liêng vô tận của Đức Chí Tôn ghi công và định vị.
Bần Đạo không cần nói; buổi buộc thì khó, buổi mở thì dễ. Đức Chí Tôn Ngài đến để hai chữ ân xá thì chúng ta đoán hiểu rằng: Ngài đã đến rồi và Ngài biết con cái của Ngài đã chịu khổ nhiều rồi, đã có nhiều phương pháp giải khổ của Ngài đến giao nơi mặt địa cầu nầy, từ thử đến giờ cái thống khổ tâm hồn của nhơn loại bao nhiêu, thì Ngài thống khổ bao nhiêu. Ngài đến đem Long Hoa Hội cốt để bảo thủ hai chữ ân xá, trong bao nhiêu đó, chúng ta cũng đủ thấy lòng thương yêu vô tận của Ngài thế nào?
Bần Đạo nói thật, thời buổi nầy chúng ta không tìm phương giải thoát cho Cửu Huyền Thất Tổ thì không có thời buổi nào có năng lực độ rỗi Cửu Huyền Thất Tổ của mình cho đặng, không có buổi nào hạnh phúc làm đặng như vậy.
Bởi thế nên toàn thể con cái của Đức Chí Tôn nam, nữ cũng vậy, có tấm lòng yêu ái nồng nàn hoài vọng giọt máu mảnh thân mình, giờ phút nầy là giờ phút nên để trọn tâm cho thanh tịnh đặng cầu nguyện siêu thoát cho Cửu Huyền Thất Tổ.
Bần Đạo dám nói giờ phút nầy, mấy người có thể nhỏng nhẻo với Đức Chí Tôn được. Ngài sẵn sàng để hai chữ ân xá, thì mấy người xin cái gì thì ông cũng cho cái nấy.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 15-10-Canh Dần nhằm ngày (dl. 24-11-1950).
Q.3/42: LỄ MÃN KHÓA HẠ SĨ QUAN (KHÓA THƯỢNG TÔN KỲ NHỨT).
Ngày 23 tháng 10 năm Canh Dần (1950)
(Lúc 8 giờ ban mai)
Trong giờ phút nầy không thể trì hoản được vì dân tộc đang mong đợi nơi anh em để đưa họ tới mục đích tối cao là tranh thủ độc lập và thống nhất thật sự.
Binh Sĩ Cao Đài sẽ là hơi thở của họ, binh sĩ Cao Đài sẽ là nguồn sống của họ, sự đoàn kết, sự thống nhứt dân tộc họ đã được thấy thật hiện ở người binh sĩ Cao Đài, thì không còn lý do gì mà các con không cứu vớt họ, để thực hành các mục đích thiêng liêng của ta là bảo sanh nhơn nghĩa, sự độc lập không ai có quyền nắm giữ. Trước kia có sự chia rẽ, sự lấn áp là vì dân tộc bị trị hơn tám mươi năm, tinh thần yếu kém, nhưng nay đã nhận rõ đường đi, lối bước, các con có quyền nắm giữ lấy cái độc lập đó và cũng có nó, nếu còn kẻ nào dùng cường quyền chiếm đoạt mặc dầu chúng có súng đồng, tàu lặn, máy bay nhưng một khi chúng ta đã làm cái việc trái với Thiên Đạo trái với nhơn tâm thì các con có phận sự phải tranh đấu, phải chống lại cái cường quyền ấy dầu cho phải hy sinh tới giọt máu cuối cùng.
Tổ Phụ ta đã tranh đấu trong bốn ngàn năm, Bần Đạo sẽ nối chí ấy mà tranh đấu, con đường mà Tổ Phụ ta đã vạch sẵn, Thầy sẽ dắt dẫn các con noi theo, và Thầy quả quyết rằng sẽ thắng và nhứt định thắng.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 23-10-Canh Dần nhằm ngày (dl. 02-12-1950).
Q.3/43: TRẤN PHÁP NƠI TRÍ HUỆ CUNG THIÊN HỈ ĐỘNG.
Tại Đền Thánh đêm 14 tháng chạp năm Canh Dần (1950)
Ngày mai nầy Trấn Pháp Thiên Hỉ Động Trí Huệ Cung. Bần Đạo lấy làm mừng đã làm tròn phận sự đặc biệt của Bần Đạo. Từ thử đến giờ Bần Đạo đã nhiều phen giảng giải về hình thể Đức Chí Tôn.
Bần Đạo đã gánh vác về thể pháp Cửu Trùng Đài, tạo nghiệp cho Đạo là làm giùm cho thiên hạ chớ không phải phận sự của Bần Đạo. Ngày nay là ngày vui mừng của Bần Đạo hơn hết, là Bần Đạo còn sức khỏe đầy đủ cầm Bí Pháp của Đức Chí Tôn đã giao phó, ấy là phận sự đặc biệt của Bần Đạo đó vậy.
Hộ Pháp đến kỳ Long Hoa nầy cốt để rước Cửu nhị ức Nguyên Nhân là bạn chí thân của Người đã bị đọa lạc nơi hồng trần không phương giải thoát, muốn rước các bạn chí thân của Bần Đạo, Đức Chí Tôn buộc phải lấy Pháp Giới tận độ chúng sanh.
Hôm nay là ngày mở cửa Thiêng Liêng và đưa nơi tay các Đấng Nguyên Nhân ấy là một quyền năng đặng tự giải thoát lấy mình hai món Bí Pháp ấy là:
1. LONG TU PHIẾN của Đức Cao Thượng Phẩm để lại.
2. KIM TIÊN của Bần Đạo.
Hiệp với ba vòng Vô Vi, tức nhiên Diệu Quang Tam Giáo hay là hình trạng Càn Khôn Võ Trụ, mà đó cũng là tượng ảnh Huệ Quang Khiếu của chúng ta đó vậy.
KIM TIÊN là gì? Là tượng hình ảnh điển lực điều khiển Càn Khôn Võ Trụ mà chính nơi đó là điển lực tức nhiên là sanh lực đó vậy. Với nó mới có thể mở Đệ Bát Khiếu, trong thân thể con người có Thất Khiếu và còn có một khiếu vô hình là Huệ Quang Khiếu, vì nó là điển lực, nên nó mở Khiếu ấy mới được.
Nói rõ con người có Ngũ quan hữu tướng và Lục quan vô hình mà phải nhờ cây Kim Tiên ấy mới có đủ quyền hành mở Lục quan của mình đặng.
LONG TU PHIẾN có thể vận chuyển Càn Khôn Vũ Trụ, do nguơn khí đào độn sanh ra đó vậy. Nó có quyền đào độn nguơn khí, thâu hoạch nguơn khí để trong sanh lực.
Con người nắm được điều ấy là kẻ đắc Pháp, nhờ nó mới có thể luyện TINH hóa KHÍ, luyện KHÍ hóa THẦN được.
Ấy là Bí Pháp trấn tại Thiên Hỉ Động Trí Huệ Cung. Toàn thể ngó thấy không có gì hết, mà trong đó có quyền pháp vô biên, vô giới. Giải thoát đặng cùng chăng là do bao nhiêu đó.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 14-12-Canh Dần nhằm ngày (dl. 21-01-1951).
Q.3/44: ĐỨC CHÍ TÔN MỞ CON ĐƯỜNG THIÊNG LIÊNG HẰNG SỐNG.
Tại Trí Huệ Cung
Ngày 16 tháng chạp năm Canh Dần (1950)
Bần Đạo để lời cám ơn toàn thể con cái Đức Chí Tôn nam, nữ nhứt là Thánh thể của Ngài.
Ngày hôm nay nếu chúng ta biết đặng hồng ân của Đức Chí Tôn ban thưởng thế nào, thì đây là một ngày vui của chúng ta không thế gì tả đặng. Bởi giờ phút nầy, sau khi 20 năm chúng ta chịu khổ hạnh vì Đạo mà lăn lóc, cực nhọc về phần xác lẫn phần hồn.
Ngày nay Đức Chí Tôn đã mở cho chúng ta một con đường Thiêng Liêng Hằng Sống và Bần Đạo đã vâng mạng lịnh Đức Ngài tạo dựng một bến giải thoát cho toàn thể nhơn loại trên mặt địa cầu nầy.
Bần Đạo nói: từ đây, kể từ ngày nay cửa Thiêng Liêng của Đạo đã mở rộng, Bần Đạo kêu toàn thể con cái Đức Chí Tôn, ai hiểu biết mình đứng trong hàng phẩm Cửu nhị ức Nguyên Nhân (92 Ức Nguyên Nhân) hãy tỉnh mộng lại đặng về cùng Đức Chí Tôn.
Cửa nầy là cửa của các người đến đoạt Pháp, đặng giải thoát lấy mình đến trong lòng Đức Chí Tôn, vì Đức Chí Tôn đã đưa tay ra nâng đỡ, mà chúng ta không đến, không tưởng nghĩ đến, thì sau nầy ắt sẽ bị đọa lạc nơi cõi Phong Đô. Giờ phút ấy không còn trách Đức Chí Tôn rằng: không thương yêu con cái của Người, không đem cơ quan tận độ chúng sanh để nơi mặt địa cầu nầy cứu vớt nữa.
Bần Đạo để lời cám ơn toàn thể con cái Đức Chí Tôn một phen nữa.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 16-12-Canh Dần nhằm ngày (dl. 23-01-1951).
Q.3/45: TRÍ HUỆ CUNG THIÊN HỈ ĐỘNG LÀ CỬA THIÊNG LIÊNG HẰNG SỐNG CỦA CÁC ĐẤNG CHƠN LINH.
Tại Trí Huệ Cung
Ngày 26 tháng chạp năm Canh Dần (1950)
Hôm nay là ngày Thuyết Đạo trọng yếu, cả thảy rán để ý nghe cho rõ, đừng để rồi sau hối hận, Bần Đạo xin cả thảy lắng lặng nghe cho rõ.
Trước khi mở lời, Bần Đạo cám ơn toàn thể con cái Đức Chí Tôn nam, nữ nhứt là để lời yếu thiết nồng nàn cám ơn Thánh thể của Ngài tức nhiên Hội Thánh.
Các bạn, ngày nay Bần Đạo tạm giải chức Hộ Pháp; giờ phút nầy là người bạn tu của các bạn mà thôi. Bần Đạo tạm giải chức Hộ Pháp đặng đến với các con cái của Ngài, với một tình nồng nàn, Hộ Pháp cũng là người bạn Thiêng Liêng về phần hồn với con cái của Ngài.
Trí Huệ Cung là một cơ quan tận độ chúng sanh đã xuất hiện nơi cửa Đạo Cao Đài nầy. Bần Đạo nói rằng: nó không phải của ta, của đặc biệt của chúng ta, mà nó là của toàn thể nhơn loại nơi mặt địa cầu nầy; bởi nó tượng trưng hình ảnh Chí Linh Đức Chí Tôn nơi thế nầy, mà hễ tượng trưng hình ảnh Chí Linh tức nhiên không có quyền nào nắm nó được, vì nó là của đặc biệt của toàn thể nhơn loại, tức nhiên toàn thể con cái Đức Chí Tôn. Nó không có phép phân biệt đảng phái, Tôn giáo hay nòi giống nơi mặt địa cầu nầy.
Cửa Thiên Hỉ Động là cửa Thiêng Liêng Hằng Sống của toàn thể các đẳng chơn linh, nên nó không chịu thúc phược hay là nô lệ cho một tư tưởng nào, hơn là tượng trưng cái quyền vô tận, vô đối của Đấng Chí Linh, hằng tạo dựng đại nghiệp cho con cái của Ngài nơi mặt địa cầu nầy, tức nhiên toàn thể nhơn loại đó vậy.
Nó đã đến, đến đặng chi?
Đặng làm bạn chí thân cùng toàn thể con cái của Ngài, thì nó phải có độ lượng yêu ái nồng nàn nó không phân biệt tư tưởng hay hình thể, nếu nó có còn tư tâm để cả tinh thần nơi một chủ hướng nào, thì nó đã phạm quyền vô biên của Đức Chí Tôn tại thế đó vậy.
Ấy vậy, toàn thể con cái của Đức Chí Tôn, các bạn đồng cùng Bần Đạo không phân biệt đảng phái hay nòi giống tư tưởng nào, Bần Đạo đã thọ mạng lịnh Đức Chí Tôn đến làm bạn với các con cái của Ngài, nhứt là Cửu nhị ức Nguyên Nhân tỉnh mộng lại. Những hình thể của thiên hạ đã do nơi trí óc con người từ thử đến giờ, chưa có ai đặng quyền nắm cơ giải thoát, thì giờ phút nầy Cửu nhị ức Nguyên Nhân vẫn còn đọa lạc.
Bần Đạo cả tiếng kêu con cái Đức Chí Tôn nhứt là Cửu nhị ức Nguyên Nhân tỉnh mộng lại, ngó nơi Trí Huệ Cung phải vào cửa ấy mới đoạt đặng mà thôi, đoạt cơ giải thoát đặng, mới nhập vào cửa Thiêng Liêng Hằng Sống mà Đức Chí Tôn đã tạo dựng riêng biệt dành để cho mọi người.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 26-12-Canh Dần nhằm ngày (dl. 02-02-1951).
ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ | |
Văn Phòng | (Tứ thập cửu niên) |
BAN ĐẠO SỬ | TÒA THÁNH TÂY NINH |
Kính Hiền Huynh, Hiền Hữu, Hiền Tỷ, Hiền Muội;
Sách LỜI THUYẾT ĐẠO của ĐỨC HỘ PHÁP Quyển I với Quyển II và Tiểu Sử ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG đã xuất bản và phát hành Toàn Đạo là nhờ sự ủng hộ của Quí ân nhân mới được thành công mỹ mãn.
Hôm nay in tiếp "LỜI THUYẾT ĐẠO của ĐỨC HỘ PHÁP Quyển III", xuất bản trong hoàn cảnh khó khăn, vì gặp buổi vật giá gia tăng, tài chánh eo hẹp trở ngại nhiều trong việc in thành quyển. Nhưng các việc được lướt qua là nhờ sự cố gắng, nhẫn nại, thêm đa số Quí ân nhân ủng hộ về mặt tinh thần cũng như vật chất.
Nhờ sự tận tình giúp đỡ, nên hôm nay sự khó khăn đã vượt qua và đã xuất bản thành hình quyển III THUỲẾT ĐẠO của ĐỨC HỘ PHÁP.
BAN ĐẠO SỬ KÍNH LỜI "CHÂN THÀNH CẢM TẠ" CHƯ QUÍ ÂN NHÂN NỒNG HẬU VỚI THÂM TÌNH THÂN MẾN.
Mong ước Quyển sách nầy sau khi phát hành, Chư Quí Hiền Huynh, Hiền Tỷ, Hiền Hữu, Hiền Muội, thông cảm sự khó khăn vì vật giá hiện tại đối với sự xuất bản của chúng tôi.
Trân trọng
BAN ĐẠO SỬ
CHUNGLỜI THUYẾT ÐẠO CỦA ÐỨC HỘ PHÁP |
Chúng tôi trình bày quyển Lời Thuyết Ðạo của Ðức HỘ PHÁP Năm Kỷ Sửu - Canh Dần (1949-1950) do Ban Ðạo Sử ấn hành lần thứ nhứt năm Giáp Dần (1974) có những phần khác biệt sau đây so với bản chánh về mặt hình thức (nội dung vẫn y nguyên):
1./ Sửa một số lỗi chánh tả thông thường (khi gặp phải) căn cứ vào quyển Việt Nam Tân Tự Ðiển của Thanh Nghị do nhà sách Khai Trí xuất bản tháng 12 năm 1967 & Việt Nam Tự Ðiển của Lê Văn Ðức, Lê Ngọc Trụ do nhà sách Khai Trí xuất bản tháng 4 năm 1970.
2./ Phụ ghi vào cuối một số bài khi gặp một vài nghi vấn (có thể) được Ban Ðạo Sử duyệt xét lại sau nầy.
3./ Phụ ghi ngày và tháng dương lịch (cho những bài không ghi rõ ngày & tháng) căn cứ theo Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996.
Kính cáo,
Tháng 01 năm 2004 (Tháng giêng năm Giáp Thân)
Thánh Thất NSW - Australia
) )( __)_(__ __(_____)__ (((_________))) ) ׀ ( |
|
ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
LỜI THUYẾT ÐẠO
|
Hội Thánh Giữ Bản Quyền |
In lần thứ nhứt Năm Ất Mão (1975)
|
HIỆP THIÊN ÐÀI | ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ |
Văn Phòng | (Tứ Thập Ngũ Niên) |
Thượng Sanh | TÒA THÁNH TÂY NINH |
----- Số: 121/TS |
Thượng Sanh |
|
Kính gởi: |
Hiền Huynh Hiến Pháp Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh |
Tham chiếu quý Thánh thơ số 16/ÐS ngày 12-6-1970.
Kính Hiền Huynh,
Theo đề nghị của Hiền Huynh tôi chấp thuận cho Ban Ðạo Sử xuất bản để phổ biến những Bài Thuyết Ðạo tại Tòa Thánh của Ðức Hộ Pháp từ năm 1946 đến năm 1955.
Những bài giảng được chọn để ấn hành phải có sự kiểm duyệt của Ban Kiểm Duyệt Kinh Sách.
Nay kính,
TÒA THÁNH, ngày 14 tháng 5 năm Canh Tuất.
(dl. 17-6-1970)
Thượng Sanh
(Ấn ký)
Những bài Thuyết Ðạo trong quyển sách nầy là lời vàng tiếng ngọc của Ðức Hộ Pháp, một vị Giáo Chủ của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, một bậc vĩ nhân của thế hệ, nên một Ủy Ban sưu tầm và biên tập thành lập có Ðức Thượng Sanh chấp thuận, để xúc tiến việc sưu tầm biên tập và ấn tống các bài Thuyết Ðạo ấy. Nay cuộc sưu tầm và biên tập đã có kết quả mỹ mãn, nên Ủy Ban đem ra ấn tống cho toàn Ðạo được thưởng thức lời vàng tiếng ngọc nói trên.
Trong Ban Ðạo Sử của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ đã có sẵn một Thư Viện tàng trữ các loại Kinh Sách cổ kim và Ðông Tây cho các nhà khảo cứu và toàn Ðạo có thêm tài liệu. Những quyển "Lời Thuyết Ðạo" của Ðức Hộ Pháp cũng sẽ lưu trữ vào Thư Viện nầy để chư đọc giả đến xem.
Ðức Hộ Pháp là một trong các vị tiền bối khai sáng nền Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, đã thực hiện trước hết chủ thuyết Tam Lập: "Lập đức, lập công, lập ngôn".
Về lập đức, thì Ðức Ngài là người đầu tiên đã nghe theo tiếng gọi thiêng liêng mà khai sáng mối Ðạo cho toàn sanh chúng được chung hưởng hồng ân của Ðức Chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Ðế.
Về lập công, thì Ðức Ngài vừa lập đức vừa lập công trong việc khai sáng. Từ cái không mà làm ra cái có, bắt gió nắn hình tạo thành một đại nghiệp Ðạo ở cõi thế nầy. Nếu Ngài không phải là một đại đức thì làm sao thành công được?
Về lập ngôn, thì Ðức Ngài lưu lại lời vàng tiếng ngọc trong các bài Thuyết Ðạo mà chúng ta đang thưởng thức và còn nhiều lời giáo huấn cao siêu khác nữa mà chư quí đọc giả và toàn Ðạo nên lưu ý.
Nhơn danh Hiến Pháp Hiệp Thiên Ðài kiêm Trưởng Ban Ðạo Sử, tôi xin trân trọng giới thiệu cùng đọc giả bốn phương quyển sách quí giá nầy đáng được lưu niệm mãi mãi.
Trân trọng kính chào.
Hiến Pháp TRƯƠNG HỮU ÐỨC
Mỗi lần ly loạn là mỗi lần thư tịch bị làm mồi cho binh lửa.
Nhìn vào lịch sử, những vụ "Phần Thư", những vụ chiếm đoạt thư tịch đã xảy ra như một hệ luận trước những biến cố. Tình trạng nầy đã kéo dài qua các thời đại ấy là biện pháp của những kẻ mạnh nhắm vào mục đích thực hiện chính sách ngu dân và đồng hóa triệt để.
Những kinh nghiệm đau thương ấy là nguyên nhân thúc đẩy chúng tôi cố gắng thực hiện công việc sưu tập những tài liệu nầy.
Chúng tôi nghĩ: Nếu tài liệu kinh sách chỉ được tập trung tàng trữ vào một chỗ tránh sao cho khỏi bị hủy diệt khi kẻ cường quyền cướp đến phá. Do đó chúng tôi quyết định quây ra làm nhiều bản để gởi đến và ký thác vào những tâm hồn trung kiên với Ðạo, những người dám chết để bảo tồn những tiếng nói của Ðấng thay Trời dạy Ðạo.
Nếu một mai thời cuộc lại biến thiên, có thể các cuộc "Phần Thư" lại diễn thì thiết tưởng trong số tài liệu nầy vẫn còn có nhiều người nhiệt tâm gìn giữ được vẹn toàn.
Ðây không phải là việc làm của cá nhân hay một đoàn thể nhưng là một sự đóng góp chung của những người vô danh, nguyện đem hết năng lực của mình để phụng sự cho lý tưởng bảo tồn truyền thống giáo lý của Ðạo. Trong khi quyển tài liệu nầy đến tay quí vị thì cũng đã có người vì quá hăng say trong công việc thực hiện lý tưởng mà phải lao tâm kiệt sức hóa ra người thiên cổ.
Việc làm của chúng tôi không phải là một ý nghĩ nông nỗi của một sớm một chiều, nhưng là một hoài bảo trong suốt thời gian ly loạn. Chúng tôi hằng cầu nguyện Ðức Chí Tôn và Phật Mẫu ban bố phước lành sớm gặp dịp may để thực hiện hoài bảo ấy.
Ngày nay chân trời đã rạng tỏ, ý nguyện đã đắc thành.
Chúng tôi xin hiến dâng trọn vẹn cho Hội Thánh tất cả những tài liệu mà chúng tôi đã ghi chép, góp nhặt sau bao nhiêu năm theo đuổi mục đích bảo tồn những lời vàng tiếng ngọc của Ðức Hộ Pháp.
Từ đây bản quyền nầy sẽ tùy thuộc hoàn toàn của Hội Thánh. Kính xin Hội Thánh kiểm duyệt và ấn hành, để cho mọi người đều được nghe lời dạy dỗ đầy yêu ái của Ðức Hộ Pháp, đã dành cho chúng ta trong thời gian Ðức Ngài còn tại thế.
Tòa Thánh, ngày rằm tháng 6 năm Bính Ngọ (1966)
Ban Tốc Ký
Q.4/01: LỜI HIỆU TRIỆU CHIẾN BINH CAO ĐÀI NHƠN DỊP LỄ XUẤT QUÂN.
Đại Đồng Xã, ngày mồng 8 tháng giêng năm Tân Mão (dl. 15-02-1951)
Thưa cùng chư Viên Quan, thưa cùng chư Chức Sắc Thiên Phong, chư Tín Đồ Nam Nữ, các Chiến Binh Cao Đài.
Mỗi phen Bần Đạo lên giảng đài để kêu gọi tâm hồn toàn thể quốc dân Việt Nam tưởng niệm đến tương lai Tổ Quốc là buộc mình Bần Đạo nhắc lại sau tám chục năm nô lệ, ngày nay giải ách đặng độc lập cùng vạn quốc. Mỗi phen Bần Đạo kêu gọi là mỗi phen làm cho Bần Đạo xốn xang nhiều chuyện khiến cho Bần Đạo chẳng minh tả được.
Một người đứng trong trường hợp như Bần Đạo đã tượng trưng tinh thần cho toàn thể nhơn loại, có nơi mình một sứ mạng thiêng liêng của Đức Chí Tôn phú thác, thì người tượng trưng tinh thần ấy, buộc phải kính nể, tôn sùng cả tinh thần của người khác, lẽ thường vẫn vậy, luật Thiên nhiên đã định vậy. Trước mặt Bần Đạo không có một điều chi nói phân cách với nhau tất cả về mặt tinh thần cũng như hình thể.
Hành tàng của đời, từ thượng cổ tới giờ vẫn có một khuôn luật, khuôn luật tiến triển của tinh thần và hình chất, cái khuôn luật ấy nó xúi giục xô đẩy nhơn loại phải tranh đấu, buổi nào cũng tranh đấu để phương thế bảo trọng sanh mạng của mình, đặng định luật bảo tồn chung cho đồng loại của mình. Luật tiến triển buộc con người phải tranh đấu, nhưng có một điều là trong phép tranh đấu ấy không bao giờ qua khuôn luật nhơn đạo. Nếu không có nhơn đạo thì không còn công lý nơi mặt địa cầu này chút nào cả.
Nhơn loại phải sống chung với nhau trong khuôn khổ nhơn đạo mà thôi, nếu nhơn đạo bị tiêu diệt, thì sanh mạng của loài người nơi mặt địa cầu này phải tiêu diệt, bởi không còn khuôn luật xã hội nhơn quần, nếu muốn nhận thức thì Bần Đạo nói thế này: Dầu họ muốn biết hay chẳng muốn nhìn hay chối cũng không được, cả thảy quốc dân Việt Nam và các nước Liên bang chúng ta đã nhìn nhận rằng: Quân đội Cao Đài đã hy sinh đặng bảo tồn nhơn đạo ấy. Bần Đạo thử hỏi có hành tàng cao thượng nào hơn là hy sinh mình đặng bảo vệ sanh mạng của thiên hạ chăng? Có chí hướng cao cả nào hơn nữa, là bảo tồn nhơn đạo đặng bảo thủ tương lai sanh mạng cho toàn thể nhơn loại nơi mặt địa cầu này chăng? Chí hướng ấy Quân đội Cao Đài đã có, vì chính nó đã hy sinh để trương ngọn cờ Bảo Sanh Nhơn Nghĩa Đại Đồng và đã thực hiện đặng trước mắt Bần Đạo có một lý tưởng về tinh thần nào phản khắc với nhau đặng, vì tư tưởng đâu phải do một luật tuồng đời xuất hiện. Các Ngài đã ngó thấy rằng luôn luôn Bần Đạo không cố chấp một điều chi về mặt tư tưởng thì người ấy rộng mở hành tàng, trong hành tàng nên hư cũng thế, duy có thời gian mới định cái nên hư, trọng khinh cho nó mà thôi. Bần Đạo không phê bình các đảng phái, quốc gia hay đối phương. Về tư tưởng, trước mắt Bần Đạo không phân biệt, và Bần Đạo nhứt định không phân biệt, duy có phân biệt một điều là hành tàng vô nhân đạo mà thôi. Vì lẽ hành tàng vô nhân đạo của họ, mà Bần Đạo phải đứng ra trương cờ Quân Đội Cao Đài để bảo vệ những sinh mạng vô cớ, vì có bổn phận bảo vệ sinh mạng của những kẻ yếu hèn, không phải bảo vệ sanh mạng của mình.(*1)
Trong thời buổi loạn ly, cả nòi giống Việt Nam bị chúng giết một cách tàn nhẫn vô nhân đạo vì cớ cho nên Bần Đạo trương cờ nhân nghĩa xúi giục con cái yêu thương của Bần Đạo hy sinh mình để bảo vệ sinh mạng thiên hạ, hành tàng cao thượng đó dầu thiên hạ có chối cùng không thể chối đặng.(*2)
Bần Đạo nói, nếu ai đã đứng trong trường hợp cũng như Bần Đạo thì họ cũng thi thố bằng phương pháp để bảo vệ sinh mạng đồng chủng mình trước đã. Sau kiếm giải pháp nào có thể đúng hợp các tư tưởng, các chí hướng đảng phái Tôn giáo của Quốc Dân Việt Nam sản xuất trong lúc giặc giã. Muốn giải quyết phương pháp ấy phải tìm người không vì đảng phái, chỉ phụng sự cho Tổ Quốc, một cách trung thành mới có phương thế giải quyết đặng. Người ấy Bần Đạo đã chọn lựa Đức Quốc Trưởng Bảo Đại, vì cả giang san nầy người có quyền vi chủ, nhưng để mất, thì Ngài phải đòi cho đặng để trả lại cho Quốc Dân Việt Nam.
Chánh thể như lời Ngài đã tuyên bố hôm Tết, Ngài nói rằng: không có một hành tàng nào có đủ quyền lập chánh thể nước nhà đặng, không có một đảng phái nào, Tôn Giáo nào vi chủ chánh thể được, chỉ do toàn thể Quốc dân định cho nó mà thôi.
Ấy vậy Bần Đạo đặt ra cả tín nhiệm tương lai nước nhà trong tay Đức Quốc Trưởng Bảo Đại.
Bần Đạo hứa không bao giờ quên lời nói ấy.
Phụ ghi:
(*1) Nơi đoạn thứ 5: Nhơn loại phải sống chung với nhau trong khuôn khổ nhơn đạo mà thôi, ... ... ...Chí hướng ấy Quân đội Cao Đài đã có, vì chính nó đã hy sinh để trương ngọn cờ Bảo Sanh Nhơn Nghĩa Đại Đồng và đã thực hiện đặng trước mắt Bần Đạo có một lý tưởng về tinh thần nào phản khắc với nhau đặng,...
Chúng tôi xin đề nghị cho rõ nghĩa hơn: Nhơn loại phải sống chung với nhau trong khuôn khổ nhơn đạo mà thôi, ... ... ...Chí hướng ấy Quân đội Cao Đài đã có, vì chính nó đã hy sinh để trương ngọn cờ Bảo Sanh Nhơn Nghĩa Đại Đồng và đã thực hiện đặng trước mắt Bần Đạo không có một lý tưởng về tinh thần nào phản khắc với nhau đặng,...
(*2) Nơi đoạn thứ 6: Trong thời buổi loạn ly, ... ..., hành tàng cao thượng đó dầu thiên hạ có chối cùng không thể chối đặng.
Chúng tôi xin đề nghị cho rõ nghĩa hơn: Trong thời buổi loạn ly, ... ..., hành tàng cao thượng đó dầu thiên hạ có chối cũng không thể chối đặng.
Q.4/02: LỜI CĂN DẶN CÁC CƠ QUAN CHÁNH TRỊ ĐẠO, VÀ QUÂN ĐỘI CAO ĐÀI TRƯỚC KHI ĐỨC HỘ PHÁP NHẬP TỊNH.
Tổng Hành Dinh, ngày 15-01 năm Tân Mão (dl. 20-02-1951)
(Lời khai mạc của ĐỨC HỘ PHÁP ngồi chủ tọa).
Trước khi mở hội Bần Đạo xin cho cả thảy biết, vì cớ làm sao ngày hôm nay có cuộc hội nghị nầy. Trong 3 tháng Bần Đạo nhập tịnh, với thời cuộc đương nhiên bây giờ chúng ta nên dè dặt cho lắm, Bần Đạo biết không thể gì chúng ta biết trước được. Hiện nền Chính trị Đạo ngày giờ nầy nó đã cấp tiến, có sự thật đó vậy.
Sự biến chuyển của Quốc Gia Việt Nam, giờ phút nầy chưa có đến mức quyết định của nó hẳn hòi, nên nó còn biến thiên không thể gì nói cho được. Trong thời buổi 3 tháng Bần Đạo nhập tịnh vào Trí Huệ Cung, cả tinh thần hồn phách của Bần Đạo tương liên với Đức Chí Tôn mà thôi, ngoài ra không còn biết điều chi nữa hết, điều đó là trọng yếu nên Bần Đạo định cho các cơ quan Chánh trị Đạo, mỗi cơ quan đều có chủ quyền sở hữu của mình giữ gìn đừng để mất.
Một điều Bần Đạo xin giải nghĩa, trong thời buổi Bần Đạo vắng mặt, Bần Đạo xin một điều là bỏ hết trích điểm với nhau, ai cũng vậy, mặt thế gian nầy không ai trọn vẹn được, chúng ta đã thấy, chính Đại Từ Phụ là ĐỨC CHÍ TÔN kia mà cũng chưa vừa lòng ai hết, chính Ông cầm quyền Càn khôn vũ trụ vững chắc, mà nội cái mưa nắng cũng chưa vừa lòng thiên hạ, cho nên mình cũng không nên trích điểm ai, nên giúp đỡ lẫn nhau một cách mật thiết là hay, đừng ngồi trích điểm thì rất dỡ, giúp lẫn nhau thì khó, muốn trích điểm thì rất dễ, đứa con nít trích điểm cũng được nữa, ở thế gian nầy không có ai trọn lành hết, duy có Cha cả chúng ta là ĐẠI TỪ PHỤ kia mà thôi.
Cả hành tàng trong thời buổi nầy khó khăn lắm, chúng ta phải cố gắng hết sức làm được mức nào hay mức nấy. Nền Đạo nầy đến thất ức niên, chớ chẳng phải thời buổi gì mà cấp tiến. Luật cấp tiến Bần Đạo đã có thuyết minh, luật cấp tiến thiên nhiên Trời đã định, nếu không cấp tiến thì nhơn loại sẽ chán nản ngã lòng không tấn triển được gì hết, nhờ luật cấp tiến đó mà chúng ta định phận chúng ta đó vậy, có nhiều khi gặp trở lực chúng ta phải biết nhẫn nại đợi cho đến cái mức hay của nó, tới thời thế chúng ta cấp tiến mới được, có nhiều khi dục tốc bất đạt, vì giục thúc cấp tiến quá đã không có lợi mà có hại như chúng ta đã thấy Nguyễn Ái Quốc tức nhiên Hồ Chí Minh tánh nong nảy, cấp tiến quá không quan xét kỹ nên thất bại, nếu lấy lý mà nói đã muốn làm cách mạng, muốn thực hiện Cộng sản mà cách mạng làm chưa rồi, một gánh còn chưa nổi mà muốn mang trên vai hai gánh biểu làm sao không đổ, mà nếu đổ thì đổ hết, sự thật vậy, cấp tốc nó có hại lắm.
Bần Đạo vắng mặt trong 3 tháng vào Tịnh Thất, Bần Đạo đã định rồi sẽ ủy quyền trọn vẹn cho các cơ quan cầm quyền nhiếp chánh của Đạo trong khi Bần Đạo vắng mặt. Bần Đạo xin một điều là đừng có trích điểm với nhau, phải giúp đỡ lẫn nhau mà thôi, bỏ trích điểm, liệu phương thế hay giúp đỡ lẫn nhau mà thôi, nếu một cơ quan làm không được thì hai cơ quan, hai cơ quan làm không được thì ba hay bốn cơ quan hiệp lại sẽ làm được, đừng trích điểm, trích điểm dở, nếu trích điểm là vạch lưng mình ra cho người ta coi thẹo mà thôi, Bần Đạo xin điều đó nhứt hơn hết, nếu toàn thể chấp thuận lời xin của Bần Đạo, đưa tay lên cho Bần Đạo làm tin.
Q.4/03: NGÀY 16-01 TÂN MÃO ĐỨC HỘ PHÁP NHẬP VÀO TRÍ HUỆ CUNG.
Tại Đền Thánh ngày 15-01 năm Tân Mão (1951)
Kể từ ngày 16 tháng giêng năm Tân Mão, tức là ngày mai đây Bần Đạo nhập vào Trí Huệ Cung.
Bần Đạo đã nghe ngoài đời đồn rất dị thường, Bần Đạo lên giảng đài cốt để giải rõ nghĩa lý của Bần Đạo nhập Trí Huệ Cung.
Bần Đạo xin cho cả thảy con cái Đức Chí Tôn biết rằng: Nền Đạo Cao Đài Đức CHÍ TÔN đến lập, do nơi chơn lý tối cao, chính mình Đức Chí Tôn đến để diệt mê tín dị đoan, Ngài chỉ đem đến nền Đạo chơn chánh này mà thôi.
Nó có hai quyền năng sở hữu của nó nơi mặt thế này, cả hành tàng sống chết của nó đều chịu dưới hệ thống của hai quyền năng. Sống về xác thịt của ta đây, có thời gian sống của nó, từ buổi sanh ra đến lớn lên, đến già rồi chết, luật thiên nhiên ấy không ai qua khỏi, luật thiên nhiên có giới hạn, có định luật chuẩn thằng cho kiếp sống của chúng ta, nơi mặt thế gian này là hình thể, còn về mặt chơn linh của chúng ta, tức nhiên hồn của chúng ta phải chịu hệ thống dưới quyền vi chủ của nó, mà người làm chủ của nó không ai khác hơn là Đại Từ Phụ tức nhiên Thượng Đế.
Nhơn loại mê tín dị đoan đã nhiều rồi, tinh thần loài người đã bị gạt gẫm nhiều rồi, bởi thế không gạt được nữa. Chỉ có hai quyền năng ấy, không còn có mặt luật nào khác hơn nữa, ta chỉ tùng hai quyền năng ấy mà thôi, ngoài ra là giả dối.
Bần Đạo vào Trí Huệ Cung tịnh luyện, điều ấy không nói được Đức Chí Tôn cho cùng không, chính Bần Đạo cũng không biết được. Ngài ban cho chúng ta cùng chăng là do hồng ân đặc biệt của Ngài mà thôi, ấy là lời Bần Đạo giải nghĩa về mê tín dị đoan cho toàn thể nhơn loại nơi mặt địa cầu này vậy.
Bần Đạo vào Trí Huệ Cung là do lẽ nhơn loại phạm Thiên Điều, vì loài người quá dữ gây oan nghiệt nơi mặt địa cầu nầy đầy dẫy, vì cớ, nếu không có tội tình ấy, Bần Đạo dám quả quyết rằng: Chí Tôn không có đến dạy hội hiệp con cái của Ngài lập cơ giải thoát tận độ con cái của Ngài bao giờ. Ngài đến đây bởi tội tình của con cái Ngài không phương cứu rỗi nên chính mình Ngài phải đến.
Bằng cớ hiển nhiên chúng ta đã thấy, Vạn Quốc xô nhau đến con đường tử lộ, bởi quả kiếp, họ chỉ biết cái sống của họ mà chẳng biết cái sống của người khác. Nhứt là bạn đồng sanh của chúng ta, để mắt coi họ giết không biết bao nhiêu, giết đặng ăn, ăn đặng sống, sống đặng bao nhiêu tuổi? Giỏi cho lắm kiếp sống của họ không quá tám mươi tuổi rồi chết, thử hỏi, như thế biểu sao không gây oan nghiệt tội tình quả kiếp.
Các Tôn giáo hiện hữu họ cố tìm phương cứu rỗi, kiếm phương này không được họ tìm phương khác, cả toàn thể vạn quốc họ cũng bày ra Vạn Quốc Thống Nhứt, đặng tìm giải pháp duy trì hòa bình, tìm một giải pháp đặng tránh cho khỏi nạn tương tàn, tương sát với nhau.
Ôi! ỷ tài, ỷ tận, lấy trí khôn ngoan để tìm cái chết. Cả quyền năng Thiêng liêng kia đã ban cho họ, họ lại làm món lợi khí tận diệt lấy họ. Đó là bom nguyên tử, họ lấy cái khôn của họ tìm ra cái chết, chớ không phải tìm cái sống, coi mạng sống của mình không ra chi hết, không biết đạo đức luân thường chi cả, không còn kể quả kiếp tội ác, như thế chết cũng vừa.
Rồi họ lại tìm đủ cách để tránh tội, nhưng không qua mặt luật Thiên Điều, Thiên Điều kia họ không thể vi chủ nó được, vì nó là điều cầm sanh mạng của họ, chết hay sống đều do mặt luật Thiên Điều mà thôi. Họ không tìm phương pháp nào để giải quyết được hết.
Thử coi trong 3 tháng Bần Đạo quì gối dưới chân Đức Chí Tôn, khóc lóc thỉnh cầu nơi Ngài cứu thử sanh mạng loài người đặng chăng cho biết, toàn thể con cái Đức Chí Tôn nam nữ cũng thế, rán giúp Bần Đạo, Bần Đạo xin một điều là trong 3 tháng Bần Đạo vào trong cảnh tịch mịch ấy, tương thân cùng Đức Chí Tôn, ở ngoài rán cầu nguyện giúp sức với Bần Đạo.
Bần Đạo xin rán nhớ một điều này là "Xin cho đồng bào của mấy người, cũng như xin cho nhơn loại nơi mặt địa cầu này được phương cứu rỗi, ấy là may!".
Bần Đạo chỉ đặt cái máy truyền thanh chỗ đó mà thôi, đặng cùng chăng là do nơi tinh thần của toàn con cái Đức Chí Tôn đó vậy.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 15-01-Tân Mão nhằm ngày (dl. 20-02-1951).
Q.4/04: BẦN ĐẠO NHẬP TỊNH TRONG 3 THÁNG CŨNG NHƯ ĐỨC CHÚA JÉSUS RA NGOÀI SA MẠC 40 NGÀY VÀ ĐỨC PHẬT THÍCH CA VÀO VƯỜN BỒ ĐỀ.
Đền Thánh, đêm 17-04 năm Tân Mão (1951)
Thưa cùng Chư Chức Sắc Thiên Phong.
Trước khi Bần Đạo để lời về đạo đức tinh thần cho toàn con cái Đức Chí Tôn, Bần Đạo xin cảm ơn toàn thể nam, nữ.
Nhờ tình cảm của toàn thể chư Đạo hữu mà Bần Đạo được hưởng một đặc ân của Đức Chí Tôn ban cho.
Kể từ ngày nhập tịnh nơi Trí Huệ Cung, chắc con cái Đức Chí Tôn đều đánh dấu hỏi? Đức Hộ Pháp nhập tịnh để làm gì? Muốn làm gì? Nghĩa lý gì mà nhập Trí Huệ Cung trong 3 tháng nay?
Vậy Bần Đạo giải rõ hành tàng trong 3 tháng mà Bần Đạo đã làm, cái hành tàng đó cũ kỹ chớ không mấy lạ gì. Cái hành tàng về mặt Đạo giống như 40 ngày của Đức Chúa Jésus ra ngoài sa mạc cầu khẩn với Đức Chí Tôn ban bố hồng ân cho toàn nhơn loại, đặng đem cơ quan cứu thế của Ngài giao cho khắp xã hội nhơn quần được hưởng, giống như Đức Thích Ca vào vườn Bồ đề ngồi thoàn định đặng xin giải thoát cho chúng sanh.
Còn về mặt thế, nó giống như Vua David vì tội tình nhơn loại mà buổi nọ ra đồng Sa mạc cầu đảo, xin giải pháp cứu khổ cho dân Y sơ Ra Ên, giống như Vua Hạ Võ mặc hài gai đội nón lá, chịu phong trần đặng cầu đảo cho quốc dân khỏi tội.
Muốn nói rõ hành tàng căn mạng của toàn thể nhơn loại và toàn thể quốc dân Việt Nam đã làm cho Bần Đạo phải chịu 3 tháng nơi chốn tịch mịch, để cầu khẩn với Đức Chí Tôn ban hồng ân đặc biệt đặng cứu rỗi lấy họ, là đem cơ quan cứu khổ của Ngài đã thiệt hiện cho toàn thể nhơn loại nhứt là sắc dân yêu ái đồng chủng cùng Bần Đạo là sắc dân Việt Nam.
Chúng ta thử hỏi, một người tượng trưng tinh thần của một dân tộc, tinh thần đạo đức cho nước Việt Nam đã có sứ mạng đem tinh thần đạo đức ấy cứu khổ cho thiên hạ, sửa lại cái hành tàng hung ác của người đời cho thành giọt nước Thiêng liêng của Đức Chí Tôn, nước Thiêng liêng đạo đức của Ngài gội rửa con đường Thánh Đức cho sạch sẽ đừng cho nhơ bẩn, ấy là nước chí thánh của Ngài, cầm giọt cam lồ đem rưới khắp toàn thể con cái của Ngài tức là cả chúng sanh nơi mặt địa cầu nầy, người ấy còn phải làm thế nào hơn?
Ôi! Cái cao vọng buổi nầy ai cũng muốn làm, được hay chăng không phải do quyền của mình, kẻ xin thì khác, mà kẻ cho lại khác.
Hại thay, tạo nghiệp của nhơn loại từ khi có nơi mặt địa cầu nầy, đến bao giờ mới bảo vệ được sanh mạng của họ, cấp tiến trong con đường giải khổ, họ đã gây thêm trong sự nghiệp của họ tội chướng thì nhiều, mà phúc hậu lại ít, biểu sao không có trường lưu huyết!.
Nếu chúng ta dở lịch sử ra xem từ năm mươi năm nay, khởi đầu thế kỷ hai mươi dĩ chí đến 1951, không buổi nào nhơn loại hưởng đặng hanh phúc hòa bình, chỉ tương tàn tương sát với nhau mà thôi. Nếu không có quyền năng Thiêng Liêng kia thì Bần Đạo nói quả quyết rằng: Không ai cứu chữa tội tình nhơn loại được. Chúng ta thương nhơn loại không bằng cha sanh ra con đã sanh họ ra vừa hình thể, vừa linh hồn tức là Đại Từ Phụ. Ngài đã cầm quyền sanh mạng của nhơn loại mà không cứu chữa tội tình của nhơn loại được, phải chịu khoanh tay ngồi để lụy, vì căn quả của nhơn loại đã định vậy. Chính mình Đức Chí Tôn cũng không phương sửa cải, nếu có phương sửa cải, thì không cần gì Bần Đạo phải vào Trí Huệ Cung cầu khẩn, Ngài đã làm trước rồi.
May thay! Nhờ đạo tâm của toàn Thánh Thể của Ngài và toàn con cái nam, nữ cũng vậy, nhứt là đám thiếu niên đã làm cho cảm động Đức Chí Tôn, nên Ngài cho Bần Đạo hội diện cùng quyền năng thiêng liêng 4 phen trong 3 tháng.
Bần Đạo nói rằng: Cái định mệnh của nhơn loại, cũng như cái định mạng của toàn thể quốc dân Việt Nam, trong giờ phút nầy ở trong tay Đức Chí Tôn và Bần Đạo dám quả quyết rằng: Luật nhơn quả của nhơn loại chưa hết thì chưa tạo hạnh phúc được.
Cái mơ vọng của thiên hạ đạt đặng cùng chăng là khi nào khối Thánh đức của họ cao hơn phàm tâm của họ, thì giờ phút ấy hạnh phúc của họ mới có, và cơ quan cứu khổ của Đức Chí Tôn mới thiệt hiện được.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 17-04-Tân Mão nhằm ngày (dl. 22-05-1951).
Q.4/05: CÔNG NGHIỆP CỦA QUÂN ĐỘI CAO ĐÀI. TRÁCH VỤ THIÊNG LIÊNG.
Tổng Hành Dinh, ngày 18-04 năm Tân Mão (1951)
Bần Đạo lấy làm hân hạnh hưởng cái nghĩa, cái hiếu của toàn thể mấy anh em vì Đạo, vì chủng tộc nước nhà mà mấy em đã hy sinh lập một danh thể cao trọng dường ấy. Nếu chúng ta là một thường nhân có thể hãnh diện nói rằng: Cái tương lai của nước Việt Nam hay là tình trạng đương nhiên về danh giá buổi nầy của nước Việt Nam là do bàn tay của toàn thể Quân đội Cao Đài đào tạo, điều đó chẳng sai chút nào hết, công cuộc đã xây dựng nên tướng diện ngày nay đầu tiên hết là Quân đội Cao Đài.
Có thể nói rằng: Công nghiệp của Quân đội Cao Đài trước sau đều tương liên với nhau một cách mật thiết rõ rệt, điều nầy chẳng cần phải khen hay để lời phủ huấn. Các cấp chỉ huy Sĩ quan quân đội đều lập được đại công về cái trách vụ hơn hết, chỉ nghĩa là toàn thể Quân đội Cao Đài biết cái trách vụ cao thượng của mình, cái trách vụ thiêng liêng đặng nâng cao cây cờ Bảo Sanh Nhơn Nghĩa Đại Đồng cho nó có nhân nghĩa thiệt tướng cho cả thảy người trong nước, ngoại bang nghe được cũng phải trầm trồ khen ngợi.
Vả chăng, nơi mặt thế gian nầy có hai mặt Luật, một là năng lực vô quyền, hai là năng lực quốc pháp.
Bần Đạo giải cái tồn tại của xã hội nhơn quần nơi mặt địa cầu nầy, dầu muốn dầu không cũng phải tranh đấu, vì mặt luật tranh đấu của xã hội nhơn quần buộc phải có một lá cờ võ lực đặng định quyền của mình, hay là về năng luật tinh thần đạo đức, nhưng về năng lực tinh thần đạo đức Bần Đạo không cần gì minh tả mà cả thảy cũng đều biết.
Cả thảy hai điều đã nói trên đây, không phải các Quốc gia nơi mặt địa cầu nầy có hạnh phúc hưởng được cả hai bao giờ. Nếu được điều nầy thì mất điều kia, chỉ được một trong hai điều đó mà thôi, nhưng Quốc gia Việt Nam may thay được ân riêng của Đức Chí Tôn cho trọn vẹn cả hai năng lực ấy. Một là về hình thể, hai là về tinh thần đạo đức; hình thể là Quân Đội Cao Đài, tượng trưng tinh thần đạo đức là Hội Thánh, tức nhiên là Thánh Thể Đức Chí Tôn trong cửa Đạo Cao Đài.
Hai điều đó, chúng ta phải cố gìn giữ làm thể nào cho đi đôi với nhau, ăn một nhịp mới có thể định vận mạng tương lai cho nước Việt Nam được bằng để sơ xuất, mất đi rồi thì rất có hại, về điều đó Bần Đạo coi chừng hết sức vì từ trước đến giờ nó vẫn mâu thuẩn làm cho điều hòa không phải dễ. Cốt yếu Bần Đạo làm cho điều hòa là nâng đỡ về tinh thần đạo đức cường liệt hơn. Bần Đạo nói cho rõ cái năng lực và võ lực chỉ nghĩa áp lực về quân khí, nó không thể định vận mạng tương lai bền bĩ được. Nếu nó có đủ quyền năng định được thì xã hội nhơn quần không có tương tàn tương sát với nhau như ngày nay vậy.
Muốn định vận mạng tương lai cho nước Việt Nam, cho nhơn loại, phải có một tinh thần đạo đức cao trọng chớ không phải thâu phục thiên hạ nơi mặt địa cầu nầy bằng võ lực được.
Bần Đạo nói: Ngày giờ kia Quốc Gia Việt Nam sẽ thâu phục thiên hạ với một tinh thần đạo đức. Ấy vậy, cái tu chỉnh về tinh thần đạo đức mà một điều tối yếu tối trọng hơn hết. Vì cớ cho nên Bần Đạo chịu 3 tháng nơi Trí Huệ Cung, tuy không thấy gì hết, nhưng thật là ảnh hưởng mạnh mẽ lắm, rồi đây bên Quân Đội sẽ thấy điều đó.
Nhưng hôm qua đây khi Bần Đạo nghĩ mình là Giáo Chủ Cao Đài sao không đi thăm viếng ai hết, như Đại tướng Cao Ủy Pháp đến, ai ai cũng đi thăm, đến các vị Giáo Chủ, các nền Tôn giáo cũng thế, riêng về Giáo Chủ không đi rước thăm ai hết làm cho họ để dấu hỏi. Có phải chăng người đó tự kiêu tự đắc, tự trọng hay là người đó vô chốn tịch mịch đặng đòi cái gì? Cho cái gì? Mà cốt yếu của Bần Đạo là vô chốn tịch mịch đặng đợi chờ may ra được ân riêng của Đức Chí Tôn ban cho được ngó thấy, thì Bần Đạo còn ngồi ở Trí Hụê Cung nữa chớ chưa có ra đâu, cả thảy nên biết hôm qua Bần Đạo hạ mình đến thăm Tham Biện, thăm Mission. Có người nói Ông Già đó sao hạ mình một cách như thế, nhưng cao thượng lắm đó, các con rồi đây để tâm suy gẫm sẽ thấy ngộ nghĩnh lắm.
Cái tương lai năng lực của mình là tranh đấu, Bần Đạo trông mong và sở vọng tín nhiệm trong tay Quân Đội Cao Đài. Vậy hình thể và tinh thần đôi bên tương liên với nhau, yêu ái với nhau, biết giữ mặt luật công bình của Đức Chí Tôn đã để hai cái đó mà thực hiện đúng vậy thì không có quyền hành hay huyền diệu nào dời cho nổi với năng lực của Cao Đài.
Ấy vậy nên hư, đặng thất là do trong tay toàn thể chiến binh Quân Đội Cao Đài.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 18-04-Tân Mão nhằm ngày (dl. 23-05-1951).
Q.4/06: PHƯƠNG PHÁP LẬP THIÊN VỊ.
Đền Thánh ngày 19 tháng 4 năm Tân Mão (1951)
Đêm nay Bần Đạo giảng phương pháp lập thiên vị của mình. Ngày Bần Đạo đến tại Trí Huệ Cung, có đặng nhiều bức thơ của mấy bạn chúng ta cầu xin nhập vào Trí Huệ Cung một lượt với Bần Đạo nhiều lắm.
Ngày giờ ấy chính mình Bần Đạo cũng chưa biết thế nào tuyển chọn những chơn linh đem vào cửa Thiêng liêng ấy đặng. Đang lo không biết giải quyết thế nào về phương pháp nhập Trí Huệ Cung nên chưa quyết định. Nhứt là về mặt tuyển chọn không biết trả lời làm sao. May duyên thay Đức Chí Tôn thấy không thể giải quyết đặng, mới cho hội diện cùng các Đấng cầm quyền Thiêng liêng của Đạo. Khi đặng hiểu rõ rồi, Bần Đạo lấy làm hân hạnh thấy rằng: "Cái nền Chơn Giáo của Đức Chí Tôn vẫn là đường đường ngay chánh, nhứt định về thể pháp Chơn truyền, không hề mê hoặc ai cả thảy". Và Bần Đạo cũng quả quyết rằng: "Những phương pháp mê hoặc của thiên hạ về Đạo lý sẽ bị Chơn truyền của Đức Chí Tôn từ từ tiêu diệt hết".
Muốn định Thiên vị của mình, quyền Thiêng liêng đã buộc. Buộc hẳn mà chớ, phải có tam lập của mình mới được, gọi là nhơn luân. Điều ấy Bần Đạo có truyền cho Chức Sắc Hiệp Thiên Đài hay trước rồi và dường như Đức Trần Khai Pháp đã có thuyết minh điều ấy rồi. Bần Đạo không cần luận thêm nữa. Bây giờ chỉ nói tại sao phải có tam lập ấy mà thôi.
Nếu người nào không có tam lập thì không có ở chung với ai được hết, chính mình đối với cơ thể hữu vi của đời, tức nhiên thể pháp mà không có bằng cớ chi hết thì ai tin rằng có Bí pháp để đạt pháp, đạt Đạo. Thể pháp mà không làm đặng, Bí Pháp vẫn khó, làm sao cho rồi, nếu mà không rồi hành tàng của họ về Bí Pháp tức nhiên mê hoặc chúng sanh mà thôi. Phải có hình mới có bóng, khi nào thấy bóng tức nhiên chúng ta quyết định có hình, bóng hình phải tương liên với nhau mới đặng.
Ấy vậy tam lập là: Lập Đức, lập Công, lập Ngôn, con người khi sanh ra mặt địa cầu nầy không có tam lập thì giá trị con người không có gì hết. Tam lập ấy quyết định cho ta, ta phải có mới sống chung với xã hội nhơn quần được.
Nếu con người không có đức thì làm sao xử sự trong gia đình, ngoài xã hội đặng.
Con người không có công thì ở với ai cũng không được. Người ta làm ngã ngửa, còn mình ngồi đó hả họng hưởng, không làm gì có nghĩa với người, với đời, thì sống với ai?
Cũng như người ta thì chơn chất thật thà, hiền lương đạo đức, còn mình xảo ngữ lường gạt, không chút dạ nhơn từ, thì dầu cho người có tài tình đến mấy mà thiếu ba điều đó thì không thể gì sống với ai được hết, như vậy thì địa vị mình tại mặt thế nầy chưa rồi...
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 19-04-Tân Mão nhằm ngày (dl. 24-05-1951).
Q.4/07: HUYỀN DIỆU CƠ BÚT.
Đền Thánh, đêm 30-04 năm Tân Mão (1951)
Đêm nay Bần Đạo thuyết về Huyền diệu cơ bút cả Thánh Thể Đức Chí Tôn, cả con cái của người nam, nữ cũng vậy đã biết về Huyền diệu cơ bút, nó là vấn đề chúng ta không thể gì lấy trí khôn, tưởng tượng của chúng ta mà định cái chơn giả của nó đặng.
Tại sao? Trong cái Huyền diệu Thiêng liêng ấy nó gồm cả bí mật huyền vi của cơ thể tạo đoan hữu hình và vô vi của Càn Khôn Vũ Trụ, chúng ta thử nghĩ các bậc chơn tu đắc pháp họ chỉ tìm đặng hiểu vô vi cảnh, đặng lập Giáo là khó khăn thể nào, từ thử đến giờ biết bao nhiêu kẻ tu mà tính lại coi được bao nhiêu người đắc Pháp đắc Đạo? Tìm thấu đáo cho đặng cái bí mật huyền vi vô định của Càn Khôn Vũ Trụ nó lại khó khăn quá lẽ, chẳng hề khi nào chúng ta lấy trí khôn định quyết đặng, định nó chỉ có chúng ta tìm hiểu lấy trí thức mình, đặng định cái chơn tướng của vạn vật hữu hình, tức nhiên chúng ta chỉ học phương pháp cách vật trí tri. Chúng ta đã thấy cái trở lực biết bao nhiêu khó khăn huống chi các việc trong cơ bút thống hiệp cả sự khó khăn của Huyền vi Cảnh với Hữu hình Cảnh nữa, nó khó lắm nếu luận điều ấy Bần Đạo phải ngồi viết không biết bao nhiêu sách mới có thể tả ra mảy may được, lên tại giảng đài nầy 15 phút hay nửa giờ thuyết về cơ bút chẳng khác nào chúng ta cầm ly nước đổ xuống biển.
Ấy vậy, Bần Đạo chỉ lấy cái đại cương của nó, nói cho Thánh thể Đức Chí Tôn và toàn cả con cái của Ngài nam, nữ thấu đáo mảy may chút ít, đặng khỏi bị cơ bút làm cho đức tin tàn phá tiêu diệt mà chớ.
Bần Đạo buộc mới đây phải lập Thánh Lịnh định khuôn luật của cơ bút có nhiều lẽ Bần Đạo khoan dung. Khoan dung ấy làm cho phiền lòng đức Lý, cho nên Đức Lý trách Bần Đạo cầm quyền Hộ Pháp trong tay điều trị, điều ấy mà không định luật của nó để rối loạn cơ bút, nên Bần Đạo lập Thánh Lịnh đó, cùng chẳng đã mới lập Thánh Lịnh, vì từ trước đến giờ Bần Đạo để cho cơ bút tự do, Bần Đạo nói thật tại giảng đài này, Bần Đạo thấu đáo được thánh ý Đức Chí Tôn, Ổng lấy cái giả đặng lập cái thiệt chớ hành tàng của cơ đời họ đều lấy cái giả đặng lập cái thiệt chỉ có tay ông Trời làm được mà thôi chớ không có ai làm đặng hết. Chính mình Đại Từ Phụ hồi mới ban sơ đến đề 4 câu thi như vầy:
Phong Thần đừng tưởng chuyện mơ hồ,
Giữa biển ai từng gặp Lão Tô.
Mượn thế đặng toan phương giác thế,
Cũng như nương viết của chàng Hồ.
Lấy cái giả của đời, Ngài tạo cái thiệt của Ngài duy có Ông Trời làm được mà thôi. Cái giả mà Ngài làm được. Chính Bần Đạo có thí nghiệm. Bần Đạo có người bạn thiết ở ngoài đời, thi giỏi văn hay, bạn đồng chí với nhau biết tài lực nhau, người ấy nghĩ rằng cả cơ bút trong cửa Đạo xuất hiện ra do đầu óc của Cao Thượng Phẩm và Bần Đạo, người ấy cho rằng văn Cao Thượng Phẩm cũng hay, chính mình Bần Đạo thì cũng giỏi, người ấy cho rằng cả Thánh Giáo ấy do Cao Thượng Phẩm và Bần Đạo xuất hiện.
Bần Đạo thấy cái nghi ấy bây giờ muốn độ người, Bần Đạo phải làm thế nào? Muốn thử giả thiệt đặng biết ông Trời là ai, bạn làm ơn cầm cây viết đây, bạn là nhà văn muốn viết chi thì viết, còn Bần Đạo sẽ dâng sớ với Đức Chí Tôn, Bần Đạo làm một bài thi tứ tuyệt cầu xin với Đức Chí Tôn cho biết sự chơn giả các quyền năng của Ngài đặng độ bạn. Người bạn ấy cầm cây viết, viết ra 4 câu thi tứ tuyệt, chừng viết rồi Bần Đạo đưa 4 câu thi Bần Đạo đã làm để trong bao thơ, chừng xé ra coi họa đúng với 4 câu thi của bạn Bần Đạo hỏi. Bần Đạo chỉ đầu óc phàm, trí khôn của ta là khí cụ của Đấng Chí Linh kia cho bạn ngó thấy.
Đấng Chí Linh kia lấy cái giả của bạn làm cái thiệt đó vậy. Người bạn ấy tỉnh giấc lại, tự mình theo Đạo, sự thật vậy.
Ôi! Huyền diệu cơ bút, chúng ta không thể gì tả cho được, trong Càn Khôn Vũ Trụ có hai ông chủ: ông chủ vô hình của Càn Khôn Vũ Trụ, ông chủ vô hình trên cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống, ấy là Đấng Tạo Đoan, là Đấng Chí Linh, là Đấng Đại Từ Phụ, ông chủ thứ nhì là người tối linh trong vạn vật, tối linh trong vạn vật cốt yếu của Đức Chí Tôn sanh ra loài người đặng lấy quyền của Ngài cầu quyền vạn linh hữu hình là cầm quyền vạn linh vô hình của Ngài đó vậy. Bởi vậy Tiên Nho chúng ta nhìn nhận Thiên Thượng, Thiên Hạ. Thiên Thượng là Đức Chí Tôn, Thiên Hạ là loài người. Muốn đặng thấu đáo Càn Khôn Vũ Trụ tinh thông trong vạn vật, Đức Chí Tôn dùng cơ bút Ngài nói rằng: Một phần của con và một phần của Thầy hiệp nhứt mới thấu đáo Càn Khôn Vũ Trụ tinh thông vạn vật. Hai người chủ quyền ấy, một người về hữu hình, một người về vô hình hiệp lại với nhau làm chủ cơ thể Càn Khôn Vũ Trụ có lạ chi ? Lạ chăng là cây cờ của chúng ta đưa lên hợp lực hai quyền năng ấy, trong đó có cây cơ đưa lên là lấy hai cái sống của hai ông chủ làm chủ cái sống duy nhứt, đặng phục lịnh quyền hành Thiêng liêng Đức Chí Tôn xử dụng mà thôi, thì nó là cây viết Thiêng liêng của Đức Chí Tôn đó vậy.(*1)
Khéo, chúng ta phải khéo, cảnh vô tri Hữu Tử Thiên lại cũng có Vô Tử Thiên, chừng nào vô hàng phẩm đứng địa vị Vô Tử Thiên, tánh chất của họ cao siêu không còn phàm chất của họ. Các Đấng Thiêng Liêng còn ở trong Hữu Tử Thiên họ cũng như ta vậy, cũng có quân tử tiểu nhơn, cũng cá nhân cá tánh như ta vậy. Các Đấng ấy thế nào ta thế đó, có nhiều hàng phẩm ta không luận cùng, cũng có kẻ thì thân với ta, mà cũng kẻ thù nghịch đáo để với chúng ta, không thể gì chúng ta hòa giải họ đặng. Chúng ta đã ngó thấy Đạo Pháp nếu có Phật thì có Ma, có Trời thì có Quỉ, chúng ta chịu hai cửa, một là cửa thua hai là cửa ăn.
Các Chơn Linh, từ bậc Hữu Tử Thiên trở xuống biết bao nhiêu mà nói. Họ không đáng gì là Thầy ta mà họ mơ vọng dạy ta, biểu ta làm học trò họ, đám chơn linh đó nhứt là ở trong Đại Hải Chúng, đệ nhứt nguy hiểm hơn hết là Kim Quang Sứ tự là Quỉ Vương, nếu chúng ta đã tu rủi lầm nghe người thì làm đầy tớ cho người, làm môn sanh của người. Có một điều Bần Đạo thấy hiển nhiên trước mắt, khi Đạo mới mở, Thánh Thể Đức Chí Tôn còn thương yêu hòa ái với nhau, chưa đến đổi chia rẽ, chưa đến nỗi thù địch, kế người đến, Kim Quang Sứ đến cầm cơ cây viết câu này:
- Chín phẩm Thần tiên nể mặt ta.
Ông Giáo Sư B... ở Kim Biên nói: "Ông nào đây chắc lớn lắm", bước ra quì xuống lạy. Cơ viết luôn:
- Thích Ca dầu trọng khó giao hòa,
Kế ông C... bước ra quì xuống lạy nữa. Cơ viết tiếp:
- Lấy chơn đem giả tô thiên vị,
- Thắng bại, phàm tâm liệu thế à ?
Tới chừng ký tên Kim Quang Sứ mới biết là Quỉ vương, là Tà Giáo. Hai người này đã theo nó, bằng cớ hiển nhiên các bạn ngó thấy các bạn của ta đã lầm cái thiệt ra cái giả. Nếu không giải quyết được cái hư thiệt chúng ta phải theo Tà Giáo mà chớ. Duy có Đức Chí Tôn lấy cái giả làm cái chơn được.
Kỳ tới Bần Đạo giảng về Bí Pháp nhập Tịnh Đường.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 30-04-Tân Mão nhằm ngày (dl. 04-06-1951).
(*1) Nơi đọan thứ 9: Ôi! Huyền diệu cơ bút, chúng ta không thể gì tả cho được, trong Càn Khôn Vũ Trụ có hai ông chủ: ... ... ... Lạ chăng là cây cờ của chúng ta đưa lên hợp lực hai quyền năng ấy, trong đó có cây cơ đưa lên là lấy hai cái sống của hai ông chủ làm chủ cái sống duy nhứt,...
Chúng tôi xin đề nghị cho rõ nghĩa hơn: Ôi! Huyền diệu cơ bút, chúng ta không thể gì tả cho được, trong Càn Khôn Vũ Trụ có hai ông chủ: ... ... ... Lạ chăng là cây cơ của chúng ta đưa lên hợp lực hai quyền năng ấy, trong đó có cây cơ đưa lên là lấy hai cái sống của hai ông chủ làm chủ cái sống duy nhứt,...
Q.4/08: LỄ KỶ NIỆM NGÀY HƯNG QUỐC.
Tại Đại Đồng Xã, ngày 02-05 năm Tân Mão (1951)
Thưa cùng Chức Sắc Thiên Phong, Hội Thánh nam nữ và chủ quyền các cơ quan Chánh trị Đạo. Lời nói hôm nay nhứt là để thấu tai toàn thể quốc dân Việt Nam, Bần Đạo chỉ cái kết liễu mỹ mãn vận mạng quốc gia Việt Nam ngày nay là do ngọn cờ nhơn nghĩa Quân Đội Cao Đài đó vậy.
Bần Đạo phải giải quyết rõ rệt nghĩa lý cuộc lễ và Bần Đạo coi ngày lễ Hưng Quốc Khánh Niệm này, là một ngày trọng hệ trong cửa Đạo Cao Đài, tức là cửa Thiêng Liêng Hằng Sống, mà Đức Chí Tôn đã để nơi mặt địa cầu này, nó không phải vì một xã hội nhơn quần, không phải vì một chủng tộc, chính nó là cơ quan tạo hạnh phúc cho toàn thể nhơn loại nơi mặt địa cầu này.
Một kiếp sống Bần Đạo rất may duyên được Đại Từ Phụ, tức nhiên Đức Chí Tôn đã chọn giao cái trách nhiệm Thiêng Liêng là gầy dựng sao cho đặng hạnh phúc cho toàn thể con cái của Ngài, tức nhiên toàn thể nhơn loại. Càng suy gẫm càng tìm tòi thấy không phải vì mê tín mà biết cái tư tưởng hành tàng cao thượng về đời ấy. Bần Đạo nói rằng: Nếu không phải Đấng Tạo Hóa của Vạn linh chủ trương thì không có một trí óc phàm nào chủ trương cho được. Bần Đạo tự nghĩ nếu nói Ngài mà lầm, lựa chọn một người thiếu đạo đức giao cái trách nhiệm đem hạnh phúc cho toàn thể con cái của Ngài là Ngài lầm, Ngài phải lựa một người dẫy đầy lòng yêu ái vô tận như Ngài, đặng thực hiện tương lai mong mỏi của Ngài. Nhưng đặt nơi nào cho chắc hơn? Ngài đã lựa chọn Bần Đạo, Bần Đạo lấy làm ngạc nhiên, và tự hiểu rằng Ngài không có lầm.
Ngài đã giao cho một trách nhiệm tạo dựng hạnh phúc cho người nào biết yêu ái nhơn loại hơn hết, cái lựa chọn của Ngài để lại nơi tâm trí của Bần Đạo một bài học là lựa chọn không lầm. Bần Đạo cũng phải lựa chọn người nào như Ngài đã lựa chọn Bần Đạo vậy. Lựa chọn những tay nào có thể tạo dựng hạnh phúc cho nhơn loại, trước nhứt phải thí nghiệm với Dân Tộc Việt Nam là bạn chí thiết của Bần Đạo, là máu mủ của Bần Đạo, là đồng bào của Bần Đạo, thí nghiệm trước với một sắc dân ấy rồi mới có thể thí nghiệm toàn thể nhơn loại nơi mặt địa cầu này tức nhiên toàn thể các xã hội nhơn quần.
Bần Đạo là người đơn giản thật thà lắm, không biết xảo mị, không biết một triết lý gì quá mức tưởng của nòi giống Bần Đạo. Bần Đạo phải kiếm một lý lẽ gì đơn giản. Bần Đạo hiểu rằng: Cái hạnh phúc không ai cho đặng, không ai cướp đặng, không có tay nào đào tạo cho vừa sức mình muốn đặng. Hạnh phúc đã có sẵn cho chúng ta, cũng như thân thể chúng ta vậy, nó phải phù hạp với tâm tình thân thể của chúng ta, dầu cho ai có đủ thừa hạnh phúc ấy mà cho chúng ta, cũng không phù hạp với chúng ta được. Không phù hạp thì không có hạnh phúc gì hết.
Vậy cơ quan đào tạo hạnh phúc là một cơ thể liên quan trọng yếu với ta, mỗi người sanh ra phải đặng tự do không bị ai cướp quyền hay lệ thuộc cho ai mới có đủ quyền năng tạo dựng hạnh phúc của mình, nếu chúng ta mất tự do, mất độc lập, mất tự chủ thì không phương thế gì tạo hạnh phúc mình được. Bởi vậy cho nên muốn đào tạo hạnh phúc ấy, Bần Đạo phải tiêu diệt các trở lực làm cho chúng ta không thiệt hiện được. Vì mỗi cá nhân đều ở trong vòng thúc phược thì không thể gì tạo hạnh phúc cho mình được.
Bần Đạo đơn giản thật thà lắm, Bần Đạo lấy cái tỉ thí nhỏ đặng định tương lai cho toàn xã hội nhơn quần, dầu cho con em của chúng ta, chúng ta cũng phải lựa chọn người để gởi gấm, coi trong thân tộc của mình người nào biết thương yêu nó, biết bảo trọng tương lai của nó, để cho nó nương năng lực của người ấy tạo thân danh cho được vững chắc. Điều đó làm cho cha mẹ ai cũng có tinh thần ấy. Bần Đạo đây cũng thế, Bần Đạo lựa người, lựa người đặng gởi đồng bào của Bần Đạo, tức nhiên gởi Quốc Dân Việt Nam trong tay của người nào biết yêu ái, đặng đem tạo hạnh phúc cho họ, có thể chúng ta nói rằng: Muốn tìm người giao cho đặng không phải dễ, hoặc là kẻ có tài mà không đức, kẻ có đức lại không tài. Kẻ có tài chúng ta nhìn thật quả là tài, nhưng tinh túy tài tình kia chúng ta còn để dấu mơ hồ, chúng ta không lựa chọn người đó được. Còn người có dù bất tài, nhưng không biết chúng ta có thể nói rằng: Họ gây được nhiều cái phải, cái phải ấy chúng ta có đủ chủ quyền chuyên cho được, người ấy đã cùng sống với chúng ta, cũng chia khổ với chúng ta, gieo nơi tâm não chúng ta nhiều tình cảm, ta có thể chọn lựa được hơn người kia.
Bây giờ nói trắng ra Vương Quyền của Việt Nam với Cộng Sản, thà là Bần Đạo giao cái tạo dựng hạnh phúc nòi giống cho nhà Vua hơn là Cộng Sản. Bần Đạo cũng nhận rằng: họ có lỗi với Bần Đạo nhưng có thể tạo dựng hạnh phúc được, còn hơn người kia không thể tin họ, giao cho họ được, cho nên Bần Đạo gởi trong tay của nhà Vua. Nếu nhà vua lỗi với Bần Đạo, Bần Đạo có thể trích điểm được. Có ăn thì phải có chịu. Còn kẻ vô cớ kia tạo hạnh phúc bằng những lý thuyết mơ hồ, nếu không sáng kiến được để cho nòi giống Việt Nam lệ thuộc lần thứ hai nữa, mà lệ thuộc trong thế kỷ nầy dám chắc không ai giải thoát cho đặng đó vậy.
Nhứt định Bần Đạo không lầm, quả quyết không lầm lựa tay đào tạo thống nhứt Hoành đồ ấy, có thể bảo trọng được Hoành Đồ đã có sẵn cầm nơi tay, để cho thiên hạ chiếm đoạt, ngày nay đòi lại được thì có thể cầm quyền bảo thủ tồn tại được, người ấy là kế chí, kế nghiệp cho nhà Nguyễn tức nhiên kế nghiệp cho Hoành đồ nước Việt Nam, đặng vi chủ định quyền sở hữu tạo hạnh phúc cho nó, quả quyết được cho nên ngày Hưng Quốc Khánh niệm mồng 2 tháng 5 nầy, Bần Đạo đề xướng ra trọng hệ hơn hết, đối với các xã hội nơi mặt địa cầu nầy, hạnh phúc của Quốc Dân Việt Nam không ai cho đặng, họ có chủ quyền hạnh phúc ấy, họ phải đào tạo cho mà thôi. Hạnh phúc ấy quyền Thiêng Liêng cho ai nấy hưởng, hạnh phúc của mình không ai có quyền nào làm cản trở hay tiêu diệt nó được.
Nếu Quốc Dân Việt Nam có đủ phương pháp bảo vệ hạnh phúc được, thì có thể làm môi giới bảo vệ hạnh phúc tương lai cho các sắc dân tộc khác được.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 02-05-Tân Mão nhằm ngày (dl. 06-06-1951).
Q.4/09: LỄ KHAI GIẢNG HẠNH ĐƯỜNG PHƯỚC THIỆN.
Hạnh Đường Phước Thiện, ngày 02-05 năm Tân Mão (1951)
Hồi 4 giờ chiều Đức Hộ Pháp đến chứng lễ khai trường trong trường có lập bàn thờ Đức Mạnh Tử Tiên Sư. Đức Hộ Pháp hỏi cả môn đồ trong trường, tại sao Đức Khổng Phu Tử Ngài truyền giáo Đạo khi trước mà không thờ Ngài, lại thờ Đức Mạnh Tử.
Cả thảy đều có trả lời nhưng không trúng lý, Đức Hộ Pháp nói trong thời kỳ Đức Khổng Phu Tử lập Đạo giáo giáng sanh nhằm lúc thời bình lập đời quân chủ, khi Đức Mạnh Tử giáo dân nhằm lúc thời loạn phong trào sôi nổi, giặc giã tứ phương, bởi vậy cho nên Ngài lập đời lấy cái thuyết Quân Chủ dân quyền, tức là Quân Chủ lập hiến mới thâu phục được lòng dân, ấy vậy mới phù hạp với thời kỳ nầy, tại vậy mới thờ Ngài.
Đức Hộ Pháp hỏi câu thứ nhì: Tại sao Tam giáo qui nhứt Thích, Đạo, Nho nghĩa là Phật, Thánh, Tiên mà sao không lập hội Phật Tông chuyển thế hay là Tiên Tông chuyển thế?
Lại lấy Đạo Nho lập thành Hội Thánh mà Chí Tôn đến khai Đạo, kỳ nầy lại dụng Nho Tông chuyển thế (cả Chức Sắc đều có trả lời nhưng không rõ tột ý) Đức Hộ Pháp nói: Đạo Thánh, cốt yếu chuyển đời, mà chỉ có biết quyền, chớ không biết người biết mình, không biết Trời, nên còn khuyết điểm, có công rèn luyện tâm tánh, mà không chỉ rõ đường siêu thoát cho nhơn loại, vì chỗ thiếu đó mà Đức Chí Tôn mới đến đặng thêm sức, Trời và người hiệp một đặng lập Đời Thánh Đức, nhơn lực phải tùng Thiên lực để đạt cơ mầu nhiệm, thì tu hành mới mong siêu thoát nên lập thành Hội Thánh ba Đài Bát Quái, Hiệp Thiên, Cửu Trùng Đài đặng chấn hưng ba nền Tôn Giáo lại làm một, gọi là Tam Giáo Qui nguyên Ngũ Chi Phục Nhứt, là thêm Thần Đạo và Nhơn Đạo gọi Ngũ Chi Đại Đạo.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 02-05-Tân Mão nhằm ngày (dl. 06-06-1951).
Q.4/10: LÒNG YÊU ÁI PHỔ HÓA CHÚNG SANH.
Tại Đền Thánh, ngày 05-05 năm Tân Mão (1951)
Ngày giờ nầy, chính Bần Đạo đã hưởng được cái tình cảm của toàn thể con cái của Đức Chí Tôn, ngoài cái tấm lòng thương yêu vô tận, Bần Đạo trong cái kiếp sống nầy, Bần Đạo cũng không biết lấy chi để bồi đáp cho xứng đáng.
Bởi vậy Bần Đạo dám quả quyết: Nếu không nhờ tấm lòng thương yêu vô bờ bến của toàn con cái của Đức Chí Tôn, thì cơ quan đại cuộc của nền Đạo ngày giờ nầy chưa chắc đã thành hình thiệt tướng, để cho toàn thể dân tộc Việt Nam cùng ngoại quốc để tâm sùng kính.
Bần Đạo thú thật rằng, ngoài cái chí cố gắng của Bần Đạo, còn có một quyền năng vô đối Thiêng Liêng, lúc nào cũng nhắc nhở Bần Đạo phải đem hết lòng yêu ái đặng phổ hóa chúng sanh, vì thật ra cái sứ mạng ấy, Đức Chí Tôn đã tìm nơi Bần Đạo mà giao phó.
Đối với Quốc dân Việt Nam, là đồng bào của Bần Đạo, là máu thịt của Bần Đạo, là chủng tộc của Bần Đạo như thế nào, thì các dân tộc khác cũng vậy, thì cái tình cảm của Bần Đạo là cả toàn thể nhơn loại, nó có một đặc sắc của nó đời đời kiếp kiếp chẳng hề phai lợt.
Ấy vậy, Bần Đạo để lời cám ơn cả toàn thể.
Chiến sĩ anh dũng các con!
Cái sự nghiệp của Đạo ngày nay, được đứng vững theo chơn truyền, cũng là một phần do nơi công trình của các con đào tạo. Thầy đã thấy và công nhận cái chí hy sinh ấy.
Nhưng các con ơi! Thầy cũng đã khổ hạnh nhiều rồi mà Thầy cũng không khỏi thẹn một điều là Thầy chưa đem giọt máu của Thầy mà chung hòa giọt máu của mấy con.
Thầy đã hiểu các con chiến binh hy sinh, liều chết đặng bảo vệ sanh mạng và tài sản của toàn thể nhơn loại, các con dám làm, các con dám hy sinh, cái ân nghĩa giá trị ấy giờ phút này, kẻ nào còn sanh mạng và tài sản là nhờ ơn của các con đó.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 05-05-Tân Mão nhằm ngày (dl. 09-06-1951).
Q.4/11: BÍ PHÁP CỦA ĐỨC CHÍ TÔN.
Đền Thánh ngày 15-05 năm Tân Mão (1951)
Trước Bần Đạo đã hứa kỳ này giảng về Bí Pháp, ấy là một điều giảng rất khó khăn, Bần Đạo lấy cả tinh túy của nó thuyết ra đây, chẳng phải đứng nơi tòa giảng này mà thuyết cho đủ được. Nếu như không có điều gì trở ngại về bí quyết, Bần Đạo thuyết minh cho toàn thể con cái Đức Chí Tôn thấu đáo, hiểu cho tận tường cái bí pháp Đức Chí Tôn đến trong thời kỳ này để trong nền chơn giáo của Ngài. Ấy vậy Bần Đạo có một điều mơ mộng tìm phương trụ cả đức tin con cái của Ngài nam nữ, đặng cái đức tin ấy làm một ngọn huệ quang Thiêng liêng nó dìu dắt Thánh Thể của Ngài trong con đường Thiêng Liêng Hằng Sống tức nhiên con đường giải thoát.
Bí Pháp là gì? Là những cái hình trạng của Đạo về hữu hình, tức nhiên hình trạng của Hội Thánh, tức là hình trạng của Thánh Thể Đức Chí Tôn tại mặt thế này. Là quyền năng điều khiển Càn Khôn Vũ Trụ tức là quyền năng vô đối của Đức Chí Tôn đã cầm nơi tay, Ngài đến cùng con cái của Ngài, đặng Ngài ban cho một quyền hành đủ phương pháp, đủ quyền năng tự giải thoát lấy mình.
Tiên Nho chúng ta có trạng tả một điều vô hình, để tả ra một hình trạng hữu vi, nó vô tướng mà nó hữu lý làm sao đâu. Tiên Nho gọi chúng ta là khách trần, gọi mặt thế gian, tức là mặt địa cầu 68 nay là "Quán tục" ta là khách, cõi trần này là Quán, nó hay là sao đâu, không lấy tỉ thí gì minh bạch chơn chánh hơn tỉ thí đó. Chúng ta thử nghĩ toàn cơ quan huyền diệu vô biên Đức Chí Tôn đào tạo trong Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật hữu hình, chúng ta có thể quan sát trước mắt chúng ta đây, chúng ta ngó thấy đều do khuôn luật Thiên nhiên tương đối mà ra, hễ có khuôn luật tương đối tức nhiên nó phải có đối cảnh. Bởi khuôn luật tạo ra hình, hễ có hình thì có cảnh, hễ có khuôn luật tương đối tức nhiên phải có đối cảnh, tức nhiên có hình thì có bóng, vô bóng tức nhiên vô hình.(*1)
Chúng ta thử nghĩ luật tương đối, chúng ta lấy điều đơn sơ quan sát chúng ta thấy sống trong giấc ngủ, và chúng ta sống trong khi thức, ngủ là sống với Vạn Linh, thức là sống với vạn vật. Chúng ta quan sát được hai đối cảnh sống với khuôn luật Càn Khôn Vũ Trụ kia cũng vậy không có gì khác, có cảnh sống có cảnh chết, sống chúng ta thể nào chết chúng ta thể nấy, không có chi la. Sống chúng ta là khách của "Quán tục" này, ta chết tức nhiên ta trở về quê Tổ, tức nhiên ta nhập trong cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống chớ không có chi lạ.
Bây giờ hai hình trạng ấy chúng ta thử nghĩ nó có liên quan mật thiết với chúng ta thể nào? Đơn sơ chúng ta nên lấy tỉ thí một cách khoa học là khi chúng ta thức mơ vọng điều gì, làm điều gì cái năng lực trong hành tàng thường thức của chúng ta, trong giấc ngủ chúng ta nằm mộng mơ nói tầm xàm làm đối cảnh của nó, đối buổi thức tức nhiên buổi sống ấy vậy. Thức ngủ là trong khuôn luật sống chết, cái sống phải có cái chết, hành tàng của cái sống chúng ta thể nào thì buổi chết của chúng ta nó cũng hiện tượng ra nguyên vẹn, ấy vậy không có điều gì lạ hết.
Bây giờ luận về phần Thiêng Liêng tức nhiên phần linh hồn của chúng ta. Bần Đạo nói mỗi cá nhân con cái Đức Chí Tôn đều có phẩm vị của họ có từ thử đến giờ, khuôn luật vẫn có một mà thôi. Chúng ta thấy trong Bí Pháp của Phật Tổ Ngài đạt đặng bí pháp Ngài để khuôn luật giải thoát. Chúng ta đã ngó thấy tại sao người khác Đức Chí Tôn không để "Tam Diệu Đề" tức nhiên, Lão, Bịnh, Tử trước mắt đặng lãnh giáo Ngài, lại để cho Đức Phật Thích Ca thấy Tam Diệu Đề, khi Phật Thích Ca thấy Tam Diệu Đề Ngài mới thêm một đề Sanh nữa là Tứ Diệu Đề: Sanh, Lão, Bịnh, Tử, Đức Phật Thích Ca nhờ bí pháp của Đức Chí Tôn để trước mặt Ngài mà Ngài đạt được cơ quan giải thoát có chi đâu. Muốn tránh Tứ Diệu Đề tức nhiên Tứ Khổ thì đừng gây Nhân, có Nhân tức nhiên có Quả, muốn tránh Sanh, Lão. Bịnh, Tử thì phải diệt cho hết Quả, lẽ dĩ nhiên đó vậy...
Bí Pháp Đức Chí Tôn đã cho Phật Thích Ca thế nào, Đức Chí Tôn cũng có thể cho con cái của Ngài mỗi đứa để tự giải thoát lấy mình.
Nếu Đức Lão Tử không làm Thượng Thơ Tịch vô Đại thơ phòng nhà Châu, nếu Ngài không vô Thư Viện nhà Châu lật Bát Quái Đồ của Phục Hi để lại, chưa chắc rằng Ngài đã đoạt pháp, Ngài ngồi tìm tòi coi Bát Quái Đồ để trong Thư Viện nhà Châu, tức nhiên Bí Pháp của Đức Chí Tôn dành để cho Lão Tử. Khi Ngài đã đạt được Bát Quái Đồ rồi, Ngài được trở nên vị Giáo Chủ danh vọng đến đời nay.
Bây giờ tới Đức Chúa Jésus, vị Giáo Chủ danh vọng đương buổi nầy, gồm cả Vạn Quốc các Dân Tộc Âu Châu trong khuôn khổ đạo đức của Ngài nếu không có 40 ngày Ngài đã ra đồng sa mạc thiền định, Đức Chí Tôn không đến cùng Ngài và không bị quỉ cám dỗ thì Bí Pháp của Ngài không hiện tượng ra được.
Bây giờ đến Khổng Phu Tử, nếu Ngài không có khổ về Nhơn đạo của Ngài và xã hội của Ngài giặc giả can qua, bởi Ngài sanh ra gặp buổi loạn ly đời Đông Châu Liệt Quốc, nếu Ngài không có khổ về công danh của Ngài cho đến đổi và nếu Ngài không khổ về tinh thần của Ngài vì hiếu, thì chắc tinh thần của Ngài chưa ngó toàn thể các sắc dân, tức nhiên đồng chủng đồng bào của Ngài, thì tôi tưởng Đạo Nho của Ngài chưa xuất hiện.
Nếu Đức Chí Tôn không để Thánh Thể của Ngài xuống 60 năm trước ngày mở Đạo, không phải ngày nay Ngài không sai các chơn linh xuống thế, không tạo hình ảnh Cửu Thiên Khai Hóa, Ngài không mở rộng cửa Bạch Ngọc Kinh tại thế gian này thì dám chắc nền chơn giáo của Ngài chưa hiện tượng. Huyền diệu thay nền chơn giáo của Ngài! Lấy cả quyền năng vô biên Ngài làm Thể Pháp, Bí Pháp của Ngài, Ngài lấy căn bản Vạn linh, Ngài tạo nên đặng phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật trên mặt thế gian này.
Ấy vậy Bần Đạo nói: Nơi cửa Tịnh Thất chúng ta có thể nói rằng: Nơi chúng ta đưa bạn chúng ta đi cũng là cửa rước bạn chúng ta đến. Bí pháp ấy càng ngày con cái Đức Chí Tôn càng ngó thấy, vì mới mở nên hình trạng chưa có rõ, chớ hoàn thành rồi con cái Đức Chí Tôn sẽ ngó thấy đối tượng Thiêng Liêng của nó thế nào, phải để đức tin vững vàng nơi Thánh Thể Đức Chí Tôn cho cường liệt, cường liệt Đức Chí Tôn mới xoay chuyển xã hội nhơn quần và tạo hạnh phúc cho xã hội nhơn quần được.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 15-05-Tân Mão nhằm ngày (dl. 19-06-1951).
(*1) Nơi đọan thứ 3: Tiên Nho chúng ta có trạng tả một điều vô hình,... ... .... Tiên Nho gọi chúng ta là khách trần, gọi mặt thế gian, tức là mặt địa cầu 68 nay là "Quán tục" ta là khách,...
Chúng tôi xin đề nghị cho rõ nghĩa hơn: Tiên Nho chúng ta có trạng tả một điều vô hình,... ... .... Tiên Nho gọi chúng ta là khách trần, gọi mặt thế gian, tức là mặt địa cầu 68 nầy là "Quán tục" ta là khách,...
Q.4/12: VỀ BÍ PHÁP.
Đền Thánh đêm 01-6 năm Tân Mão (1951)
Bần Đạo hứa mỗi kỳ Đàn thuyết về Bí Pháp. Tại sao Bần Đạo phải thuyết minh về Bí Pháp? Đáng lẽ theo cổ truyền Bí Pháp là huyền bí không thể gì truyền một cách rõ ràng được. Nhưng đối với Đạo Cao Đài tức nhiên đối với nền Chơn giáo của Đức Chí Tôn nó không phải như trước, Đức Chí Tôn đã nói rõ ràng rằng: Ngài đến cốt yếu để diệt trừ mê tín mà hại thay từ trước đến giờ các Đạo giáo nếu quả nhiên có mê tín là do Bí Pháp hơn hết.
Thể Pháp của Đạo Cao Đài là một trường công quả của chúng ta, trường công quả ấy để cho chúng ta lập đức, lập công và lập ngôn. Còn Bí Pháp Chơn truyền Đức Chí Tôn tức nhiên cơ quan huyền bí để cho con cái của Ngài siêu thoát. Nói về Thể Pháp chúng ta hân hạnh làm sao, muốn cho chúng ta lập đức, chính mình Đức Chí Tôn đã cho chúng ta mượn danh thể của Ngài, chúng ta đã làm Thánh Thể của Ngài nơi mặt thế này. Ôi! Quyền lực về phương pháp lập đức đối lại với cảnh Thiêng Liêng là mua ngôi vị của chúng ta đó vậy. Lập công là Ngài đã tạo hình thể của Ngài tức nhiên Đền Thánh đó là Đền thờ hữu hình của Ngài để tại mặt thế này, chúng ta phải lập công với sanh chúng tức nhiên lập công cùng con cái của Ngài. Ngài để cho chúng ta lập công chớ không phải làm nô lệ cho ai tất cả. Chúng ta thấy Ngài phụng sự cho con cái của Ngài, chúng ta lập công là tạo danh thể của Ngài, do lập công mà ra. Bây giờ lập ngôn, chính mình Ngài, Ngài phải làm, cầm cây Cơ bút viết dạy chúng ta từ lời nói việc làm, từ tánh đức, từ đạo lý. Còn ngôn, có ngôn gì hơn Ngài nữa để cả thảy các thể pháp đặng chúng ta định vị chúng ta, chính tay Ngài cho chúng ta mượn cả thảy.
Bí Pháp là điều trọng yếu hơn hết, nếu không phải chúng ta cầu nơi quyền năng vô biên của Ngài đặng đoạt cơ siêu thoát thì dám chắc rằng: Dầu Thánh Thể của Ngài hay con cái yêu dấu của Ngài nam nữ cũng vậy, thì giờ phút này không có ai ngồi đây, trong cửa Đạo Cao Đài này, chúng ta vì một kiếp sanh thọ khổ Tứ Diệu Đề chúng ta chỉ mơ ước một điều là đạt đặng huyền linh Bí Pháp, trước khi thực hiện đặng Bí Pháp, chúng ta phải có một đức tin mạnh mẽ, đức tin ấy phải đủ năng lực trong tinh thần của Hội Thánh.
Muốn có đức tin vững chắc thì chúng ta phải có đức tự tín, có tự tín mới đạt đặng Thiên tín, tức nhiên đạt đặng Đạo tín của chúng ta. Muốn thấu đáo và muốn đạt cho đặng tự tín chúng ta phải tự biết chúng ta, rồi ta mới biết địa vị đứng trong hoàn vũ này đương đầu với Vạn Linh, ngôi vị ở trong hàng phẩm nào, chúng ta phải biết ta ở đâu mà đến, chúng ta mới hiểu con đường chúng ta sẽ về, Bí Pháp sẽ dìu dẫn chúng ta đi trên con đường ấy. Cả tinh thần nhơn loại hoang mang giờ phút nay họ chưa hiểu họ là gì? Bần Đạo chỉ cười có một điều là trí thức tinh thần con người đã đến địa vị cao trọng, cái hay biết của họ giờ phút này Bần Đạo quả quyết rằng, họ đã tạo nhiều rồi, bằng cớ là ở Thư Viện tại New York (Nữu ước) chứa 2 triệu 2 trăm ngàn quyển sách, chúng ta thử nghĩ kiếp sống của chúng ta có ba vạn sáu ngàn ngày, chúng ta muốn đọc cho hết sách ấy ít nữa bảy trăm năm, mỗi ngày chúng ta giỏi đọc một quyển.
Ôi! cho cái hay biết của con người còn gì luận nữa, biết thật, giỏi thật, nhưng có một điều là họ chưa biết họ, con người chưa biết con người do đâu mà có. Giờ phút này dầu văn minh cực điểm, trí thức quá cao trọng mà họ chưa biết họ là gì hết. Sự thật vậy, bởi họ không biết họ cho nên sản xuất ra thuyết duy vật và duy tâm đang hy vọng lấy vật lý học họ tìm con người, nhứt hơn hết là họ tìm căn nguyên con người, họ lấy theo vật lý học họ nói con người là con vật, họ nói con vật này nó cũng đồng sống như vạn vật kia, họ tiềm tàng vật lý học họ nói bổn căn con người do hai tinh trùng của nam nữ, là nam tinh trùng và nữ tinh trùng, hai con tinh trùng ấy khi nam nữ giao cấu với nhau hai con tinh trùng hiệp với nhau sanh ra con người, nó là con sâu, nguyên nhân nó là con tinh trùng, hai con ấy hợp lại với nhau, tinh trùng nam là cốt, tinh trùng nữ là nhục, hai con đó hiệp lại với nhau thành cục huyết đỏ lòm rồi lần lần mọc đầu, mọc tay biến ra thành nhơn hình. Con thú gì trước kia cũng bởi do hai con tinh trùng ấy nó hợp với nhau rồi biến ra hình tượng của nó vậy. Bây giờ đạo cũng nhìn con người là con vật, nhưng lúc nó biến ra nhơn hình, quyền năng nào biểu nó biến, do quyền năng nào cho phép nó biến, họ lấy vật lý học nói tầm xàm, kẻ muốn tìm sự thật đem chơn lý đánh đổ tinh thần mà chơn lý của họ là chơn lý mộng ảo.
Chính Bần Đạo cũng nhìn sự thật chúng ta là con vật, Bần Đạo biết rằng nơi mặt địa cầu này trước kia tượng hình ra nó là cây, điều động có rễ, có máu, bắt đầu lần lần mọc lên cái đầu, hai cái tay, hai cái chân biến hình ra con dã nhơn, lần lần biết đi như như con khỉ vậy. Mà lạ chướng hơn hết lúc biến thân ra nó, cái linh cái sống của nó thế nào chúng ta không biết, hồi thời buổi nó tượng nhơn hình của nó rồi, hỏi vậy cái sống của nó ở đâu? Ai cho mà có: Và cái linh ở đâu mà có? Đạo giáo chúng ta có chối rằng thi hài chúng ta không phải là con vật đâu. Chính Đạo giáo nhà Phật có nói con người chúng ta là con kỵ vật để cho Vạn linh cỡi nó đi đường từ mặt địa cầu nầy qua mặt địa cầu khác, mà con thú ấy là người của ta, mà người cỡi thú ấy là Phật, tức nhiên là cái linh của chúng ta đó vậy. Bây giờ không phải thi hài nầy siêu thoát được, thú là thú, sanh ra tại Thổ huờn tại thổ, còn người cỡi nó là Phật cho nên không có quyền năng nào giam hãm hay trói lại được, Phật ấy mới thật là con cái của Đức Chí Tôn, chính mình con thú vật lý học đã nói, con thú có người cỡi, mà người cỡi ấy là Phật là con đẻ của Đức Chí Tôn. Ấy vậy cơ quan siêu thoát là Phật siêu thoát chớ không phải con thú nầy siêu thoát được.
Kỳ tới Bần Đạo sẽ thuyết cái sống của con người đối với Vạn linh nơi mặt địa cầu nầy.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 01-06-Tân Mão nhằm ngày (dl. 04-07-1951).
Q.4/13: BAN PHÉP LÀNH VÀ TRẤN THẦN CHỢ LONG HOA.
Long Hoa Thị, ngày 5 tháng 6 năm Tân Mão (1951)
Cái cơ chuyển thế đã đến ngày lập hiệp nhứt Đạo Giáo, khiến toàn thể con cái Đức Chí Tôn lo quay về một mối sống dưới lá cờ Nhân nghĩa của Đạo Cao Đài. Ngoài thì được sự bảo vệ của Quân Đội, trong thì được sự dìu dắt của Hội Thánh, càng ngày nhơn sanh qui tụ càng đông, vì thế nguồn sanh sống càng bị bóp nghẹt, nên Bần Đạo cho lập gấp cái chợ nầy để tạo lại một nguồn sanh sống dễ dàng cho nhơn sanh.
Ngày giờ nầy, tuy là nhìn thấy cái chợ thô sơ, nhưng rồi đây nó sẽ bành trướng rộng rãi hơn, long trọng hơn mà chắc chắn con cái Đức Chí Tôn không bao giờ ngờ như thế, nhưng Bần Đạo dám quả quyết nó phải có và nhứt định có, vì cái chợ chuyển thế và huyền diệu Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn đã định vậy.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 05-06-Tân Mão nhằm ngày (dl. 08-07-1951).
Q.4/14: KHUÔN LUẬT NÀO CHÚNG TA ĐÃ SỐNG.
Đền Thánh đêm 30-06 Tân Mão (dl. 02-08-1951)
Kỳ đàn trước Bần Đạo đã giảng và đã hứa kỳ đàn nầy Bần Đạo giảng tiếp khuôn luật nào chúng ta đã sống nơi cõi thế gian nầy, kỳ trước Bần Đạo giảng vấn đề cái sống của chúng ta nơi mặt địa cầu nầy và cái sống của ta nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, kiếp sống ấy là kiếp chết của người đời họ thường gọi.
Bần Đạo nhớ lại khi học Đạo cùng các Đấng Thiêng Liêng, chúng ta đã có luận hai chữ sống, chết. Các Đấng Thiêng Liêng cho rằng: Dùng hai tiếng ấy không có chơn thực và không chơn lý, cái hữu ngã tướng của chúng ta, tức nhiên chúng ta hữu ngã như bàn tay vậy, không lẽ bàn tay này lật ngửa là sống, bàn tay này lật úp là chết bất quá xây qua xây lại gọi là xoay chuyển mà thôi chớ có chết sống đâu. Sống chết không có nghĩa lý gì. Sống nơi mặt thế gian nầy và sống nơi cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống cũng gọi là cái sống mà thôi. Ấy vậy sống chết là chuyển luân.
Hôm nay Bần Đạo giảng khuôn luật nào chúng ta sanh ra nơi mặt thế nầy, hay chúng ta sống nơi cửa Thiêng Liêng Hằng Sống. Đại Từ Phụ ta, cũng có tánh chất như ta vậy thôi. Chúng ta nên lấy tỉ thí người Cha của chúng ta nơi mặt thế gian nầy, chúng ta tìm biết thử coi Ông muốn cho chúng ta làm gì, hay là Ông định cho ta làm gì, mà ta định làm theo ý thích của Ông, hay nói rõ cả toàn thể các Ông cha đã muốn cho con cái làm gì, tức nhiên toàn thể nhơn loại muốn cho ta làm gì, ấy là định luật đó vậy.
Đức Chí Tôn là Đấng tự hữu hằng hữu quyền năng vô tận vô biên, vì cớ nào Ngài dựng vạn vật và vạn linh trong khuôn luật nào? Đấng toàn năng toàn tri ấy muốn gì không đặng mà tạo dựng ra vạn vật hữu hình nầy, do khuôn luật nào, do khuôn luật nào chúng ta đã ngó thấy đã tìm khuôn luật nhỏ ấy rồi. Chúng ta có thể đoán được khuôn luật của Ngài, chúng ta mới biết, chúng ta có hai cái sống.
Sở năng chúng ta khi thức chúng ta đã muốn làm gì, khi chúng ta ngủ hành tàng chúng ta đã làm gì? Định luật chúng ta đã làm gì, buổi chết chúng ta đã làm gì? Hai khuôn luật ấy định chung nhau, Đức Chí Tôn có hai phần năng lực như ta đương nhiên bây giờ, phần vô đối, vô cực, vô thượng của Ngài là phần "Dương năng" "huyền vi phạm quảng đại" của Ngài vô cùng vô tận, nơi đó tạo Càn Khôn Vũ Trụ, bát phẩm chơn hồn định số của Vạn linh. Còn về phần "Âm năng" của Ngài, tức nhiên Ngài cũng có như ta một luật "thất tình lục dục" rồi Ngài phân tánh ấy ra. Ngài chuyển Âm năng ra Phật Mẫu, chúng ta đang thờ buổi nầy.
Cái Dương năng của Ngài và Âm năng của Phật Mẫu, chính mình Phật Mẫu Ngài biến thân ra cái Âm năng của Ngài chúng ta nói rằng: Phật Mẫu với Đức Chí Tôn, Đức Chí Tôn với Phật Mẫu là hai quyền năng tạo dựng Càn Khôn Vũ Trụ Ngài cầm quyền tinh thần, Đức Phật Mẫu cầm quyền hình thể.
Khi Kim Bàn sản xuất, bát phẩm chơn hồn đi ra chính mình Đức Phật Mẫu tạo dựng hình ảnh vạn linh, vì cớ cho nên Đức Chí Tôn quyền năng vô đối, Ngài muốn thế nào cho toàn thể bát phẩm chơn hồn tức nhiên toàn thể vạn linh được hưởng một gia tài dành để là: Toàn thiện toàn năng toàn tri của Ngài về tinh thần, về hình thể, Ngài muốn quyền năng con cái của Ngài, tức nhiên vạn linh có đủ quyền năng vô cực vô thượng của Ngài, đặng điều đình Tam thập lục thiên, Tam thiên thế giái, và Tứ đại bộ châu. Ấy là Ngài dành cho con cái của Ngài, muốn cho đặng toàn năng toàn tri vô cực, vô thượng như Ngài, Ngài phải cho sản xuất, hồi sản xuất nơi Kim Bàn ra đơn sơ lắm, không đủ quyền năng điều khiển Càn Khôn Vũ Trụ như Ngài, Ngài muốn cho chúng ta tạo dựng sự nghiệp, muốn cho chúng ta có đủ trí thức tinh thần điều đình đại nghiệp ấy.
Q.4/15: ĐỊNH PHẬN CỦA CON NGƯỜI.
Đền Thánh đêm 14-07 năm Tân Mão (1951)
Kỳ đàn trước Bần Đạo có hứa kỳ này giảng về định phận của con người, tức nhiên định phận của chúng ta. Dầu cá nhân, dầu xã hội nhơn quần hay là toàn thể nhơn loại cũng vậy, chúng ta đã ngó thấy trước mắt một tấn tuồng đau khổ mà Đức Phật Tổ đã tìm thấy chơn lý ấy là Tứ Diệu Đề. Chúng ta tự nhiên nhận biết rằng, sống của ta ở nơi cõi thế này không phải sống đặng hưởng hạnh phúc, trái ngược lại chúng ta đã sống nơi một cảnh khổ, Tứ Diệu Đề tức nhiên tứ khổ đó vậy.
Chúng ta lại để mắt xem thấy cơ đời đã để trước mắt chúng ta nhiều lẽ bất công, chúng ta đã ngó thấy một tấn tuồng, khôn hiếp ngu, mạnh hiếp yếu, sang hiếp hèn, hung dữ hiếp hiền từ, tàn bạo hiếp đạo đức, lẽ bất công ấy dẫn loài người từ thử đến giờ đi tới chỗ biết nguyên nhân của nó.
Chúng ta đã thấy Đạo Pháp định chơn lý của kiếp sanh mình. Vậy chúng ta đến tại đời này, hoặc đến đặng trả quả, hay đến đặng chia đau sớt thảm cùng bạn đồng khổ của chúng ta nơi cảnh thế gian này, hai lẽ ấy chúng ta nên tìm hiểu chơn lý của nó đặng định phận cho chúng ta.
Đáng tiếc hơn hết những người không biết chơn lý Tứ Diệu Đề, phần nhiều họ không biết tại sao họ đau khổ, vì thế nên họ đau khổ chừng nào, thì họ oán hận kiếp sanh chừng nấy, bởi kiếp sanh họ khổ nhiều hơn hạnh phúc, họ giận mọi lẽ bất công của xã hội. Họ hỏi: Người tại sao sanh ra nằm trên đống vàng, giàu có sang trọng, thong dong, còn người đẻ ra trong cảnh hàn vi cơm không đủ bữa, còn người đẻ ra ngồi trên ngai vàng bệ ngọc, người lại đẻ ra nơi xó bếp chuồng gà.
Sống trong cảnh bất đồng biểu sao họ không phẩn uất, không thù hận kiếp sanh, trong kiếp sanh ấy họ thù hận mà không biết ai đặng trả cái thù hận ấy, thành thử họ oán hận toàn thể bạn đồng sanh của họ, tức nhiên toàn thể nhơn loại.
Chúng ta đã ngó thấy tấn tuồng họ đi tìm hạnh phúc, nhơn loại giờ phút này đương tìm hạnh phúc. Ôi! Bần Đạo thấy họ muốn kết bạn với cả thiên hạ, kết bạn đặng họ nhơn danh toàn thể thiên hạ, mà đánh đổ lẽ bất công ấy cho tới ngày giờ nào nhơn loại nơi mặt địa cầu này hưởng đặng đồng đều của phú hữu, của trái địa cầu này, và giờ phút nào cả giai cấp trong thiên hạ không còn nữa, đặng đồng đều với nhau, ngày ấy họ tạo hạnh phúc cho nhơn loại đặng.
Họ lầm, vì chúng ta không thể gì đem kẻ ngu mà sánh với người trí, đem trẻ mới sanh sánh với ông già, dầu cho muốn đem lại nét công bình, kẻ trí phải dạy bảo người ngu, ông già đủ lịch lãm thế tình dạy lẫn người trẻ, dạy đó bất quá là một phương pháp giải kết mà thôi, chớ không đủ một vấn đề định vận mạng của họ được, chúng ta ngó thấy từ buổi sanh ra và trong trường hợp cùng đồng thể với nhau mà tại sao kẻ quan người dân.
Chúng ta ngó thấy đặng người trí họ thông minh sáng suốt họ định phận lấy họ, họ định đặng lấy mình, thì mình tự chủ được mình, còn có kẻ chỉ nương nơi người mà sống, vì thế cho nên tinh thần ấy, đầu óc ấy là có giai cấp đặc biệt, chúng ta không thế gì làm cho cả toàn thiên hạ đặng đồng tánh với nhau mà không đều với nhau, thì quyết định tạo hạnh phúc cho nhơn loại của họ; điều ấy mơ mộng không hề khi nào thiệt hiện ra đặng. Thưa Chư Chức Sắc Thiên Phong Hội Thánh nam nữ, những Đạo Giáo đã sản xuất nơi mặt địa cầu có một đặc phận cũng như ta, mỗi cá nhân đều có một đặc phận, là đem cân công bình Thiêng liêng kia cân cái tình ái của chúng ta cho bằng cái sống, chúng ta biết rằng: Bạn đồng sanh của ta tức nhiên toàn thể nhơn loại đang khao khát hạnh phúc, chúng ta vẫn biết hạnh phúc không bao giờ thiệt hiện đặng, chúng ta chỉ tìm phương pháp đặng an ủi tinh thần họ, nếu chúng ta có phương pháp ấy thì mới sống gần Thánh Thể Đức Chí Tôn. Giờ phút nào chúng ta ngó thấy trước mắt chúng ta một người bạn thiệt thòi ngu dốt, ít oi bị một người khôn hơn, mạnh mẽ hơn hiếp đáp, lại có một người đứng gần bên kẻ ấy mà nói với người kia rằng: Em tôi khờ khạo dốt nát, ông thì thông minh sáng suốt không nên hiếp nó chi, ông cứ ăn hiếp tôi đây, tôi có thể đối thủ lại với ông.
Hoặc có một người bạn thiệt thà yếu đuối bị một kẻ mạnh mẽ oai quyền hiếp đáp thì lại có một người đứng gần bên kẻ ấy nói: Em tôi yếu ớt bạc nhược không thể gì đương đầu với người, nếu người muốn ra mặt anh hùng với người này, thì đương đầu với tôi, tôi có đủ sức đương đầu với người, đem cân công lý chỉnh đốn sự bất công của đời mà ai làm đặng, tức là làm trọn phận sự đối với đời đó vậy.
Các nền Tôn Giáo kia dành cầm cân phân phát lẽ công bình ấy, chúng ta thấy Tôn Giáo nào mới sản xuất, họ có định phận của họ rõ rệt, họ là bạn với những người khó, an ủi những người khổ não, có nhiều khi chia từ miếng ăn, phát từ mảnh áo, tới chừng đặng quyền trong tay rồi chính họ là người cầm cân công bình ấy không giữ địa vị, kẻ cầm cân trở lại làm chúa cả thiên hạ, vì thế nên các nền Tôn Giáo ấy ngày nay mất quyền.
Đạo Cao Đài sản xuất đem công bình Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn để tại mặt thế gian này, Bần Đạo ước ao rằng: Cân công bình ấy sẽ còn tồn tại mãi mãi để chúng ta định phận chúng ta, còn về quyền xoay chuyển do Đức Chí Tôn quyết đoán.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 14-07-Tân Mão nhằm ngày (dl. 16-08-1951).
Q.4/16: CÁI LẼ SỐNG CỦA CHÚNG TA NƠI CÕI TRẦN NÀY.
Đền Thánh đêm 29-07 năm Tân Mão (1951)
Đêm nay Bần Đạo thuyết cái lẽ sống của chúng ta nơi cõi trần này, mỗi người của chúng ta có một cái thắc mắc, từ thử đến giờ con người bao giờ cũng tìm hiểu. Chúng ta thấy ta có nơi cõi trần này không phải chúng ta muốn, có nhiều lý do làm cho chúng ta phải tìm hiểu là cái định mệnh của chúng ta, chúng ta không có làm chủ, dầu cho bực trí thức cao siêu thế nào chưa chắc mình làm chủ định mệnh của mình đặng. Ôi! Cái thắc mắc của đường đời, kiếp sống của chúng ta, chúng ta đã thấy nhiều lý lẽ làm cho chúng ta phải uất hận, nhưng không biết nguyên do thể nào loài người phải thọ lãnh, có nhiều kẻ uất hận ấy không có phương thế giải quyết đặng, đến đổi xô đẩy họ đến một phương pháp chót của họ, là họ tự sát lấy họ mà thôi. Định mạng của chúng ta, chúng ta tự hỏi tại sao chúng ta phải sống? Sống nơi cõi trần để làm gì? Khi biết được lý lẽ ấy chúng ta có phương thế an ủi được mà nếu chúng ta không biết lý do ấy, chúng ta không biết mạng sanh của chúng ta, hay là con người của chúng ta, giá trị sống của nó do nơi đâu, thì không có phương thế nào an ủi được.
Có hai lẽ sống, hoặc ta đến cõi thế gian này để trả nợ sống, bởi chúng ta trả nợ sống ấy mà chúng ta mất hạnh phúc hưởng an nhàn cực lạc nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống ta đến đây trả nợ sống đặng đạt hạnh phúc nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, cái lý do đầu tiên hết. Hễ chiếu theo lý do ấy, chúng ta ở trong thế gian này do tại quả kiếp. Lý do thứ nhì nữa là chúng ta đến đây đặng chia khổ cùng các bạn chúng ta đã chịu khổ nơi cõi thế gian này, chúng ta đến đặng tìm bạn. Đức Chí Tôn đã nói: Biết đâu trong cánh hoa kia không phải là một vật mà là một chơn linh giáng kiếp, biết đâu trong vạn linh, trong vật loại mà trong ấy lại không có người bạn yêu ái của ta vô cùng vô tận nơi đó, bởi lẽ ta thiếu nợ sống chúng ta phải trả. Ấy vậy chúng ta phải trả, đến đặng trả tức nhiên ta đến đặng phụng sự cho vạn linh. Còn lý lẽ sau nữa. Nếu chúng ta đến tìm bạn, thì phải xót thương họ nhưng không biết bạn ta là ai? Tới trong sự mơ hồ nên chúng ta không biết bạn chúng ta đã đến nơi nào? Ở nơi thân một đứa bé, ở nơi thân của người tôi đòi tàn tật, ở nơi người phụ nữ, ở nơi thân của người nam kia mà đã bần hàn đói khó, hay là sống trong sang trọng vinh hiển chúng ta không biết. Vì lẽ không biết ấy mà định lẽ sống của chúng ta sống đặng phụng sự vạn linh. Văn minh Âu châu người ta đã nói : "Chacun pour soi" tức nhiên mỗi người mình lo cho mình duy có Trời lo cho cả thảy thiên hạ.
Mấy bạn đứng trong hàng Thánh Thể Đức Chí Tôn chúng ta mấy em nam nữ, mấy đứa thư sinh nam nữ các em đã đặng hạnh phúc ngồi trong lòng yêu ái vô tận vô biên của Đức Chí Tôn, cả thảy mấy em cùng nói: Tôi đến nơi lòng Ổng đặng tôi mong mỏi làm thế nào đặng đứng địa vị phần tử Thánh Thể của Ổng, mà giá trị phần tử Thánh Thể của Ổng, tức nhiên làm Trời tại thế gian này thay thế cho Ổng làm mà làm Trời, chúng ta thấy "thùy từ mẫn khổ" của Ổng vô tận vô biên, từ thử đến giờ, thùy từ mẫn khổ nó buộc ta rằng: Cái lẽ sống của ta không phải sống trong hạnh phúc của ta, mà ta sống trong hạnh phúc của toàn thể con cái của Ngài.
Nếu các bạn thấy mình đặng mạnh mẽ hơn người em người bạn của mình, tức nhiên Đức Chí Tôn định cho cái mạnh của ta, để đặng gánh vác sự nặng nề cho em cho bạn. Nếu chúng ta thấy trong đầu óc của chúng ta có khôn hơn em ta, cái khôn của chúng ta ấy là Đức Chí Tôn ban cho để bênh vực sự dại dột của nó, nếu chúng ta thấy chúng ta sống trong vinh hiển, thì chúng ta nói rằng Đức Chí Tôn ban cho sự vinh hiển không phải để dành riêng cho ta hưởng, mà ta có phận sự đem cái cái sang trọng vinh hiển ấy chia cho cả toàn thể em, bạn của ta; lẽ sống của chúng ta là lẽ sống của toàn thể, lẽ sống của chúng ta là để lau giọt nước mắt của kẻ khổ não, lẽ sống của chúng ta là nắm cho chắc Bình Cam Lồ Thủy của Ngài chan rưới cho đồng đều đặng hưởng. Ngày giờ nào trong phần tử Thánh Thể của Ngài làm như thế ấy, thì tới ngày về nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, tôi dám bảo kiết rằng: Cả thảy gặp được mặt Đức Chí Tôn là ngày vui hứng của mình, gặp được Ngài và cả thảy Thần, Thánh, Tiên, Phật đều mừng mà thấy rằng Đức Chí Tôn có phúc hạnh được bầy con chí hiếu của Ngài thay thế Ngài tại mặt thế gian này xứng đáng phận của Ngài đã định, ấy là lẽ sống của chúng ta đó vậy.
Toàn thể con cái của Ngài xin mỗi ngày, mỗi giờ mỗi phút đều để tâm thực hiện cho được. "Thùy từ mẫn khổ" là điều mong mỏi của Ông cha vô hình chúng ta đem tất cả sự yêu ái vô tận vô biên và đại tạo đại từ bi của Ngài mà rưới chan nơi thế gian này. Giờ phút nào trong tay của chúng ta phân phát cho đồng đều đó là lẽ sống của chúng ta hoàn toàn đó vậy. Nếu chúng ta không biết phân phát để hao hớt đi thì cũng uổng một kiếp sanh vô lối.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 29-07-Tân Mão nhằm ngày (dl. 31-08-1951).
Q.4/17: LẼ SỐNG CỦA CHÚNG TA NƠI CÕI TRẦN NÀY. (tiếp theo)
Đền Thánh đêm 15-08 năm Tân Mão (1951)
Đêm nay Bần Đạo giảng tiếp lẽ sống của chúng ta nơi cõi trần này Bần Đạo thuyết minh rằng: Chúng ta có sanh tại thế, nguyên do tại sao và ta đương sống đây cả cái sống chung cùng cái sống của vạn linh đặng làm gì? Bần Đạo đã thuyết về phương pháp Bần Đạo đã chỉ rõ rằng: Cái thi hài của chúng ta đồng sanh với vạn vật là con kỵ vật của chúng ta đến cõi trần này đặng tìm bạn hay trả quả kiếp của chúng ta, Bần Đạo đã thuyết minh hai lần. Hôm nay thuyết 2 cái lẽ sống, vả chăng, chúng ta đã đồng sanh cùng vạn vật tức nhiên chúng ta cũng có đủ năng lực, đủ trí thức khôn ngoan để định phận bảo vệ sanh mạng của chúng ta, và ta phải nhìn rằng: Cái sống của chúng ta không khác cái sống của bạn đồng sanh với chúng ta. Bần Đạo nói, bạn đồng sanh của chúng ta không phải là nhơn loại mà thôi, mà cả vạn vật hết, bởi chúng ta thấy hiển nhiên trước mắt nơi cõi trần này, chúng ta đã sống chung cùng họ và họ đã giúp cho chúng ta sống, chúng ta đã ngó thấy trong khuôn khổ cái sống của đời tạo ra hai lẽ; từ thượng cổ đến giờ, Bần Đạo tưởng có loài người tới giờ họ đã định tìm hai lẽ sống ấy, đặng họ quyết định họ sống với thái bình hay sống với loạn lạc, hai lẽ sống ấy nơi mặt địa cầu này nhường sống thì thái bình, tranh sống tức nhiên loạn lạc. Nhường sống là gì? Chúng ta đã hiểu rằng: Chúng ta đã chịu cùng một định luật chung sống với vạn vật, chính mình ta phải tôn sùng kính trọng cái sống ấy, chúng ta phải liệu phương nào định cái sống của chúng ta trong mực thước không phạm đến cái sống của Vạn linh, tức nhiên không phạm đến cái sống của kẻ khác, mà nói họ có phương pháp nhường sống cho nhau, từ thử đến giờ, các nhà triết học các Đạo Giáo, tìm lý thuyết đạo đức tinh thần dầu cho Nho, Thích, Đạo hay là các Tôn Giáo khác chỉ có tìm mực thước bày ra phương pháp để tạo cho nhơn loại biết kính trọng cái sống cho nhau tại mặt địa cầu này, làm một cái định luật đặng họ biết cung kính biết nhịn nhường, tức nhiên có hòa bình an tịnh, được an ủi, được thỏa mãn, được hạnh phúc. Còn trái lại nếu như cái sống của chúng ta đã khó khăn bởi chúng ta sống trong thuyết Tứ Diệu Đề của nhà Phật là sanh, lão, bịnh, tử, chúng ta đã ngó thấy trường đời chẳng buổi nào tìm đặng chơn hạnh phúc, cái sống ấy bảo tồn khó khăn lắm, nếu không có đạo đức làm phương thuần tâm đặng định chí hướng của mình thì khó sống, tức nhiên cái khó ấy giục cho người ta tranh sống, tấn tuồng đời chúng ta đã ngó thấy, dầu cho cá nhân, dầu cho xã hội, dầu cho toàn thể nhơn quần, họ chỉ vì cái tranh sống mà tiêu diệt lẫn nhau, nếu chúng ta nói người biết nhường sống của người trong cái khó khăn, mình phải có một tâm hồn cao thượng ái tuất thương sanh, mới có phương thế chúng ta chịu khổ có tâm đức nhượng sống cho kẻ khác. Muốn cho đặng có tâm đức ấy ít ra phải có đạo đức và lấy tinh thần làm căn bản, nếu bỏ tinh thần làm căn bản là xu hướng về duy vật, chỉ chạy theo thuyết tranh sống với nhau mà thôi, tranh sống thì cơ tận diệt lẫn nhau vẫn tiếp tục mãi mãi, chẳng hề buổi nào nhơn loại trên địa cầu này trọng hưởng hạnh phúc hòa bình đặng.
Ấy vậy nhượng sống cho nhau thì tồn tại, mà tranh sống với nhau là tự diệt đó vậy.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 15-08-Tân Mão nhằm ngày (dl. 15-09-1951).
Q.4/18: LỄ TRUNG THU NGÀY CHÚNG TA ĐẶNG HỘI HIỆP TRONG ĐẠI GIA ĐÌNH THIÊNG LIÊNG CỦA ĐẠO.
Đền Thánh, tại Bao Lơn H.T.Đ. ngày 15-08 năm Tân Mão (1951)
Trước khi Bần Đạo để lời, Bần Đạo cúi đầu chào mừng toàn thể con cái Đức Chí Tôn nam nữ. Mỗi một năm chúng ta đặng hân hạnh tụ hội lại với nhau tỏ lòng luyến ái vô tận của Đức Mẹ, ngày rằm tháng tám, tức nhiên ngày Trung Thu của chúng ta. Buổi lễ hôm nay nếu chúng ta lấy về ý nghĩa trong cửa Đạo tức là ngày chúng ta đặng hân hạnh hội hiệp cùng nhau trong đại gia đình thiêng liêng của Đạo. Mỗi một năm Bần Đạo xin thú thật rằng Bần Đạo được hưởng một cái vui hứng và hạnh phúc là ngày hôm nay, ngày Bần Đạo còn đây đặng cả con cái của Đức Chí Tôn chung hiệp lại với nhau trong cửa Thiêng liêng Hằng Sống tức nhiên trong lòng yêu ái vô tận của Đức Chí Tôn và Phật Mẫu, Bần Đạo xin mừng, để lời mừng toàn thể con cái của Ngài đó vậy.
Tiếp theo đây Bần Đạo để lời căn dặn chiến sĩ Cao Đài tức nhiên chiến sĩ của Đạo, cái định phận của nước nhà, của nòi giống Việt Nam sẽ kết liễu và đương kết liễu một cách mỹ mãn, đặng thiệt hiện nền độc lập và thống nhứt của nước Việt Nam theo chiều hướng sở vọng của toàn thể dân tộc Việt Nam đã mong mõi, trước lời tục của Việt Nam ta đã nói: Hễ có gánh phải có vác. Quân đội Cao Đài đã đảm nhiệm từ thử đến giờ cái giải pháp Quốc Gia đặng giải quyết tình luyến ái của Pháp Việt tương thân, đặng định vận mạng Quốc Gia Việt Nam trong tương lai của nó, đã làm đặng trước tức nhiên phải làm đặng sau. Vận mạng ấy được kết liễu mà nó mong mỏi có một điều là toàn thể dân tộc Việt Nam phải cố gắng, rồi thiên hạ mới giúp mình nên đặng. Chúng ta chán biết rằng do nơi luật định của chúng ta, chúng ta không ỷ lại nơi ai hết. Lời tuyên ngôn của Pháp thường hay nói "Aide toi, le ciel t'aidera" mình phải cố gắng trước rồi Đức Chí Tôn sẽ giúp mình.
Nòi giống Việt Nam thời giờ định vận mạng, định tương lai của họ đã đến một chiều hướng kiến thiết thì Quân Đội Cao Đài phải làm gương, phải hy sinh hơn nữa, phải làm kiểu mẫu đem cái lòng ái quốc nồng nàn trước kia thế nào thì giờ phút nầy cũng thế ấy, phải hy sinh xương máu cho toàn thể quốc dân Việt Nam đặng định vận mạng của mình, ấy là về Quân Đội, còn về thiếu nhi và học sinh nam, nữ, nhờ sức đảm đương giáo hóa khó nhọc, nguy hiểm, ngặt nghèo của Hội Thánh từ trước tới giờ đã nuôi các con, đã giáo hóa các con chỉ mong mõi một điều các con nên phận. Hôm nay ngày lễ của các con, các con coi đàn anh của các con trước đã làm gì? Đã nên gì? Các con coi theo đó mà học đòi bắt chước theo và cả toàn thể trong Đạo chính mình Bần Đạo dám nói rằng ngoài Đời hằng mong mõi cho các con nên, đặng đem cái tình thương và định vận mạng tương lai cho Tổ Quốc.
Các con! Nòi giống các con cả thảy để tâm nhìn nơi các con và Bần Đạo ẵm cả thảy trong lòng của Bần Đạo hun hít các con một cách yêu mến vô hạn, không thể bằng lời nói đặng. Bần Đạo xin để lời chào cả toàn thể.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 15-08-Tân Mão nhằm ngày (dl. 15-09-1951).
Q.4/19: LỄ KHÁNH THÀNH NỮ ĐẦU SƯ ĐƯỜNG VÀ RƯỚC LINH VỊ CỦA BÀ NỮ ĐẦU SƯ LÂM HƯƠNG THANH ĐỂ THỜ NƠI NỮ ĐẦU SƯ ĐƯỜNG.
Ngày 15-08 năm Tân Mão (1951)
Mấy em, Qua đã có nói cả công nghiệp của mấy em cả sự khó nhọc của mấy em đều đổ trút lên lưng Qua hết. Đó là cao thượng của mấy em hơn hết.
Thưa cùng Hội Thánh nam, nữ các cơ quan, hồi tưởng lại hai mươi mấy năm trước khi Đức Chí Tôn đến cùng chúng ta, cầm cây linh bút của Ngài tạo nền Chơn giáo. Ông đến với một thân già nghèo của Ông, chính mình Ông khai rằng: Ông là một Ông già nghèo Ổng nói: "Tròi trọi mình không mới thiệt bần". Ông đến cho ta một danh thể là lập Hội Thánh cho con cái của Ông, nhưng Ông còn cỡi được con Bạch hạc ở trên mây trắng, còn Thánh Thể của Ông ở ngoài mưa nắng cũng không được nữa, nó khó lắm đó vậy, tình trạng rất khó khăn, Ông đến với một thân nghèo để tạo dựng Thánh Thể cho con cái Ông. Mà ôi thôi! Dám Thánh Thể của Ông nó cũng nghèo nữa, nhưng mà cái nghèo đó chúng ta có một năng lực cao thượng vô giá không thể tưởng tượng được. Có lẽ cả thảy đều ngó thấy buổi phôi thai, là khi Đền Thánh mới tạo, con cái của Ngài phải chịu biết bao nhiêu khổ hạnh, ăn thì bữa đói bữa no đặng tạo dựng Đền Thánh, đến bây giờ thành tướng làm cho vạn quốc ngó thấy trông vào đều khen ngợi, đó là khối muối của sắp nhỏ trở nên hình đó, do sự nhẫn nại nhọc nhằn của sắp nhỏ mà nên đại nghiệp ngày nay đó vậy.
May thay, đám con chí hiếu của Ngài trước sao sau vậy, liều mảnh thân phàm nầy làm con tế vật cho Đạo.
Cả thảy Hội Thánh tưởng lại coi tạo dựng một dinh thự Nữ Đầu Sư Đường như vậy chỉ có 250.000$ (hai trăm năm chục ngàn đồng bạc chẵn) có tay thợ nào dám làm không? Tôi dám chắc không dám, bởi vì giọt mồ hôi nước mắt của sắp nhỏ nó đổ vô trong này bằng ba lần như vậy, đó chỉ có nhờ thiên hạ cho mớ vật liệu hòa với giọt mồ hôi đám sắp nhỏ mà nên hình tượng đó vậy. Các con, các em để ý coi Ông già đó, Ổng không chịu thiếu nợ ai hết, công nghiệp của mấy em, Ông trả nơi thế nầy không đặng thì về cửa Thiêng Liêng Hằng Sống Ổng cũng trả cho được Ổng mới nghe. Các con đã ngó thấy, những đứa con hiếu hạnh của Ông giờ phút nầy có biết định phận của nó thế nào đối với Thánh Thể. Mấy đứa trong Quân Đội bây giờ là ai? Là đám công thợ buổi trước tạo dựng nghiệp Đạo rồi nó còn hy sinh xương máu bảo vệ đại nghiệp cho con cái của Ngài nữa, đương đầu với những trở lực oai quyền hiện giờ nó nuôi lại em nó chia từ miếng cơm manh áo cho mặc.
Cả đại nghiệp nầy là nhờ đám con chí hiếu của Ngài tạo dựng nên, chớ tôi không làm gì được hết, chỉ có là đốc thúc vô cho chúng nó làm chớ thân nầy ôm viên gạch cũng không nổi. Bần Đạo chỉ mong có một điều là toàn thể con cái của Ngài nam, nữ mỗi ngày đều tưởng tượng đến công khó nhọc anh em nó, khó nhọc của đồng bào toàn thể nước nhà nòi giống đã tạo dựng nên nghiệp ấy, lấy cả sự nghiệp nầy làm môi giới, giữ đạo đức làm bùa hằng tâm, thương yêu với nhau giữ nghĩa với nhau cho đến bảy trăm ngàn năm (Thất ức niên) theo lời của Đức Chí Tôn đã định, dầu Bần Đạo còn ở đây hay về cõi Hư Linh Cung ấy an lạc đi nữa, cũng nhớ đến đại nghiệp con cái của Ngài và Bần Đạo dám đại ngôn với Ngài rằng: Con cái của Ngài giữ tâm chí hiếu với Ngài và đối với Phật Mẫu cũng vậy.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 15-08-Tân Mão nhằm ngày (dl. 15-09-1951).
Q.4/20: LỄ HỘI YẾN DIÊU TRÌ LÀ GÌ?
Đài Cửu Long buổi chiều ngày 15-08 năm Tân Mão (1951)
Hôm nay là ngày chúng ta, toàn thể con cái của Đức Chí Tôn nam, nữ hội hiệp trong đại gia đình Thiêng Liêng của Chí Tôn đã đào tạo cho ta, Bần Đạo nhơn dịp này giải nghĩa rõ rệt cái lễ Hội Yến Diêu Trì là gì? Cả thảy con cái Đức Chí Tôn đều biết, chúng ta tu, cốt yếu mong mõi một điều trọng yếu hơn hết là đạt cho đặng cơ giải thoát hay là có phương thế trở lại cựu vị Thiêng Liêng của chúng ta, các phẩm chơn hồn trong Càn Khôn Vũ Trụ của Đức Chí Tôn đã lấy quyền cho Phật Mẫu đào tạo tám phẩm chơn hồn, tức là chơn hồn vật chất, thảo mộc, thú cầm, nhơn loại, Thần, Thánh, Tiên, Phật. Trong tám phẩm chơn hồn ấy xuất hiện nơi Kim Bàn do theo luật Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn đã định, thì họ phải từ từ tăng tiến mãi, cái luật tăng tiến ấy nó buộc ta mỗi kiếp sanh đều kiếm phương tu, đặng chi? Đặng tạo Thiêng Liêng Vị cho chúng ta, các đẳng chơn hồn ấy khi đã đến nhơn phẩm rồi chia ra hai phẩm hồn đặc biệt, ở trong vật loại tăng tiến lên đạt nhơn phẩm của mình gọi là hóa nhân, các chơn hồn ở trong Kim Bàn đã xuất hiện với địa vị nhơn phẩm của mình là nguyên nhân. Hai phẩm hồn ấy nếu không noi theo đạo đức đặng từ từ bước lên con đường Thánh Đức của mình, đặng đạt cho tới địa vị cuối cùng là Phật Vị, lại làm tội lỗi thì phải sa vào Quỉ Vị.
Ấy vậy phần người có nguyên nhân, hóa nhân, quỉ nhân. Hại thay 100 ức nguyên nhân do Đức Chí Tôn đã để lại mặt thế này, đặng làm bạn với các đẳng chơn hồn trong Vạn Linh sanh chúng của Ngài đã đào tạo thì Phật vị có sáu ức, Tiên Vị có hai ức, còn chín mươi hai ức nguyên nhân bị đọa trần. Từ ngày Đạo bị bế họ có lắm công tu mà thành thì không thành. Tội nghiệp thay, vì 92 ức nguyên nhân ấy mà chính mình Đức Chí Tôn phải giáng trần mà lập nền chơn giáo của Ngài, chúng ta đã ngó thấy cái thánh ân, đặc biệt hơn hết là Đức Chí Tôn đã thấy rõ rằng: Các nguyên nhân ấy không phương gì tự giải thoát đặng vì quá tội tình, quá mê luyến hồng trần hoặc đào tạo quả kiếp nặng nề quá đổi, vì cớ cho nên tu thì có tu mà thành thì không có thành, tức nhiên từ ngày Đạo bế thì cơ siêu thoát đã mất tại mặt thế này, chính mình Đức Chí Tôn biết rằng không thế gì các nguyên nhân tự mình đạt cơ giải thoát đặng.
Hôm nay, Ngài đến lập nền chơn giáo của Ngài chúng ta đã ngó thấy lòng yêu ái vô tận của Ngài là thế nào? Chúng ta thử suy đoán không ai nói cho mình nghe hơn Mẹ của mình, không ai dạy dỗ mình có oai quyền hơn Mẹ của mình, cái tình trạng ấy đối với mặt thế chúng ta thế nào thì quyền năng nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống như in không có mảy may chi khác. Ngài lập giáo rồi còn một nỗi là kêu nó không đến. Ngài dạy mà không biết chi, chính mình Ngài đã nhiều lần hạ trần lập Đạo mà 92 ức nguyên nhân vẫn đui và điếc mà thôi, không biết để chun vào lòng yêu ái vô tận của Ngài, đặng hưởng cái hạnh phúc vô biên của Ngài đã đào tạo. Vì cớ cho nên Đức Chí Tôn giao cho Đức Phật Mẫu và Bần Đạo đã thuyết minh là nắm quyền tạo hóa của Càn Khôn Vũ Trụ hữu hình trong tay Đức Phật Mẫu. Có thể nói vào xác thịt chúng ta, để cho chúng ta nghe lời nói tinh thần thiêng liêng của Đức Chí Tôn, lời nói mà từ trước đến giờ chúng ta không thế gì nghe được, nhưng Đức Chí Tôn giao cho Đức Phật Mẫu cơ quan siêu thoát ấy, phải làm thế nào đặng tận độ 92 ức nguyên nhân trở về cựu vị. Muốn cho đạt đặng bí pháp siêu thoát ấy, chúng ta ngó thấy Đức Phật Mẫu đã làm gì? Đức Chí Tôn giao cho Đức Phật Mẫu nắm quyền hành để rước hết những cái chơn hồn khi đã đạt pháp tức nhiên đạt cơ siêu thoát, lập vị mình đặng vào cái địa vị Thiêng Liêng, đạt đặng thì phải về Hội Yến cùng Đức Phật Mẫu, lễ Diêu Trì Cung Hội Yến mà người ta gọi là hội, nhưng thật ra chúng ta về hội hiệp vui cùng Mẹ sanh của chúng ta đó vậy.
Đạo Pháp gọi là "Hội Yến Diêu Trì" tức nhiên chúng ta đã đạt đặng cơ siêu thoát nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống kia, chưa biết nếu chúng ta không tu thì con đường ấy là gì mà chớ. Chính mình Đức Chí Tôn biểu Đức Phật Mẫu tức nhiên Mẹ sanh của chúng ta cầm cả quyền năng giải thoát trong tay đến lập Hội Yến Diêu Trì tại mặt thế này và cả con cái của Ngài, nhứt là 92 ức nguyên nhân ấy, nếu nhập vào cửa Đạo tùng theo chơn pháp thì đặng hồng ân của Đức Chí Tôn cho hưởng cái Bí Pháp Hội Yến Diêu Trì tại thế này, cái cơ siêu thoát thiên hạ đã đạt trong tay họ sẵn, tức nhiên giờ phút cuối cùng này là giờ phút hứng thú, giờ phút chết của họ, thì họ đạt vị một cách dễ dàng, ngôi vị nào cơ quan siêu thoát Đức Chí Tôn đã cho không họ đó vậy. Nhờ đó mà cơ quan tận độ Vạn Linh của Đức Chí Tôn đã lập lại tại thế này, từ đây sẽ mở rộng cửa Thiêng Liêng Hằng Sống đặng đến gom góp cả con cái của Ngài, trở về hiệp một cùng Ngài, bí pháp Hội Yến Diêu Trì là vậy đó.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 15-08-Tân Mão nhằm ngày (dl. 15-09-1951).
Q.4/21: NGÀY LỄ ĐỨC MẸ "ĐỨC DIÊU TRÌ" CẦU NGUYỆN CHO NHỮNG GIA ĐÌNH ĐÔNG CON.
Đền Thánh, ngày 16-8 năm Tân Mão (1951)
Mấy em, vợ chồng mấy em nhơn ngày lễ Đức Mẹ, Qua làm lễ đặc biệt đặng cầu nguyện cho gia đình mấy em, Đức Chí Tôn đã giao phó cho mấy em nắm cơ nhơn luân trong tay, đào tạo nhơn loại tại mặt thế này, mấy em không có chồng vợ chắc nhơn loại không có tại thế này. Đức Chí Tôn giao phó trách nhậm trọng yếu cho mấy em thay Ngài đặng tạo Đời, trong kinh luật, Đức Chí Tôn đã giải rõ, Qua nói ít mấy em hiểu nhiều. Mấy em trước kia chỉ nghe Nho Tông phú thác cho mấy em một phận sự tối yếu, tối trọng, biểu mấy em gìn giữ tông đường nặng ... ... ...(*1) nợ máu thịt của mấy em đối với Đấng đã sanh thành mấy em, nếu mấy em không có con cái để kế nghiệp hương quả cho tông đường, thì con người của mấy em bị bất hiếu, "Bất hiếu hữu tam vô hậu kế đại" luật thiên nhiên đã định vậy, vì lo nhơn luân tối trọng là thế nào, Qua nói cho mấy em thấu đáo. Hôm nay Đức Chí Tôn đã đến giao cho mấy em một phận sự tối yếu, tối trọng hơn nữa, giao trong khí huyết của mấy em, Ngài gởi gấm Thánh Thể của Ngài cho mấy em. Con của mấy em nó không phải là của mấy em mà chính là của Ngài đã cho mấy em đó vậy. Mấy em tự nghĩ đại nghiệp của Đạo tức nhiên gia tài của gia đình nhơn luân của mấy em đây. Thoảng như mấy em không có con cái đặng mà nối cơ nghiệp của Đức Chí Tôn, công nghiệp mà chúng ta từ giọt nước mắt, từ giọt mồ hôi đào tạo cho chúng nó đây làm chủ, rồi Thánh Thể của Đức Chí Tôn ai kế truyền? Ấy vậy, Qua nói con cái của mấy em sanh ra là khách của Đức Chí Tôn đã giao, đã gởi gấm, mấy em đạo đức đầy đủ, mấy em xứng đáng làm cha làm mẹ nó, nếu mấy em thiếu đạo đức Qua e cho mấy em không tròn phận, thì có thể nào mấy em định nghiệp kia cho đặng? Qua nói thật, cả của cải đào tạo cho Đạo đây đặc biệt của mấy em, ấy là của mấy em đó.
Mỗi năm, kỳ trước Bần Đạo đã nói, chỉ trừ hai nơi Bần Đạo không dám xâm phạm tới :
1. Là Đền Thờ của Đức Chí Tôn,
2. Là Đền Thờ của Đức Mẹ để tượng trưng hình ảnh vô tận vô biên của hai Đấng ấy, Qua không dám đá động tới. Nếu ngày nào con cái của mấy em nghèo đói khổ não quá, Qua dám lấy từ miếng gạch, miếng gói của Đạo đem bán đặng nuôi con cái của mấy em.
Ấy vậy, Qua nhơn danh Hội Thánh của Đạo và nhơn danh Đức Chí Tôn, Qua để lời với mấy em rằng: Của cải vô tận của Đức Chí Tôn và toàn thể Hội Thánh cũng nhờ nơi tay của mấy em. Qua cúi đầu trước cái khổ não nhân nghĩa của mấy em vì gia đình thế nào, Qua chỉ biết cúi đầu gởi gấm cho mấy em, sự nên hư của Đạo trong tay của mấy em, mấy em phải sống cho đáng giá. Thánh Thể của Đức Chí Tôn do nơi mấy em mà thôi.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 16-08-Tân Mão nhằm ngày (dl. 16-09-1951).
(*1) Nơi đoạn thứ 1: Bản photocopy không rõ. Đồng đạo nào có được nguyên bản in rõ ràng xin đóng góp. Đa tạ.
Q.4/22: TÌM COI CÁI LẼ CHƠN GIẢ CỦA CÁC ĐẠO GIÁO TỪ THỬ.
Đền Thánh ngày 30-08 năm Tân Mão (1951)
Đêm nay Bần Đạo mời cả Thánh Thể của Đức Chí Tôn và con cái của Ngài nam, nữ hiệp trí lại đặng tìm coi cái lẽ chơn giả của các Đạo giáo từ thử đến giờ, cả trí não con người đã tầm Đạo phân vân bất nhứt.
Bao giờ cũng vậy, từ thượng cổ đến giờ, những tinh thần mộ Đạo, lẽ thường người ta nói tầm chơn, cái chơn ở đâu? mà giã thế nào? Họ lấy phương tiện nào phân biệt được cái chơn mà họ tầm chơn.
Vả chăng luật tương đối của vạn vật hữu hình nó khó phân biệt lẽ tương đối của nó. Thảng như chúng ta không ngó thấy cái chơn, thì chúng ta không thể gì nói đến cái giả. Chúng ta không ngó thấy cái chơn, thì chúng ta không thể gì nói đến cái thiệt. Luật tương đối ấy vẫn một mà thôi.
Chúng ta thử đoán xét từ cái thử coi, tỷ như Nho Giáo của Đức Khổng Thánh tạo thành, mà người ta còn trích điểm cái chơn, cái giả, miệng lưỡi và đầu óc của nhơn sanh bao giờ cũng thế. Luận người ta có thể nói Ngài sanh ra trong nước Lỗ, Ngài là một Giáo Chủ của Nho Tông, tức nhiên Giáo Chủ của nhơn luân chi Đạo, mà tại sao Đạo của Ngài không thể gì cứu nước Lỗ cho còn tồn tại đến ngày nay? Ấy vậy Đạo của Ngài bất lực.
Đạo của Ngài sản xuất ra hồi buổi Đông Châu Liệt Quốc thiên hạ thống khổ đảo huyền, nếu nói rằng: Nhơn luân chi Đạo của Ngài đủ năng lực có thể đem hòa bình cho thiên hạ buổi đó, trái lại Đông Châu Liệt Quốc đã loạn, và vì loạn ấy mới sản xuất nhơn luân chi Đạo của Ngài, trong tam cang ngũ thường của Ngài bị Đạo chích công kích triệt để. Thử nắm quyền hành của Ngài và kiếm lý luận điều đó, trích điểm điều đó, chúng ta khó định được cái phải cái quấy chỗ ấy.
Đức Khương Tử Nha khi Ông lãnh lịnh lập bảng Phong Thần, đi giữa đường còn bị Thân Công Báo trích điểm, chính người sau lên án Đức Khương Tử Nha phản Trụ đầu Châu, so sánh Đức Khương Tử Nha với Bà Di Thúc Tề, người ta trích điểm một cách kịch liệt, người ta cho Ngài đã thất nhơn luân chi Đạo của Ngài, như thế thì đầu óc trí não của chúng ta khó suy nghĩ lắm.
Nếu đến Jésus Christ giờ phút này Do Thái vẫn chờ Chúa Cứu Thế. Họ không nhìn nhận Đức Jésus Christ là Chúa Cứu Thế, vì lý do gì? Vì lý do không theo đúng trong tiên tri đã định. Dân Do Thái vẫn chờ Chúa Cứu Thế mà thôi.
Đức Phật Thích Ca khi lên núi, bốn người môn đệ của Ngài ngồi dưới chân núi mà đợi Ngài, Ngài hành Đạo sáu năm trường ép xác mãi mà không đạt pháp gì hết, Ngài xuống núi bốn môn đệ của Ngài bỏ Ngài, cho Ngài là giả không có chơn.
Còn nữa, còn Đạo Brahma, tức là Đạo Bà La Môn cho rằng, thuyết giải thoát của Ngài là thuyết do nhiên chứ không có gì hết, sau chính mình Ngài tạo phẩm vị đi từ nhơn vị, Tiên vị, lên đến Phật vị, ai cũng có thể đi đến được hết. Luật giải thoát của Ngài do nhiên chứ không có chi lạ.
Những lý lẽ ấy làm cho đầu óc con người tầm chơn càng suy nghĩ càng khó quyết định được. Ta tự hỏi, thế nào gọi là chơn? Thế nào gọi là giả? Theo lý trí của con người có lẽ này "Tầm chơn là đúng sự thật hơn hết". Vả thân tôi đang sống về phần hồn, nhưng phần hồn đã đau khổ, nếu làm thế nào cho tâm hồn an ủi được, tầm chơn hạnh phúc được, có thể nương nơi nào mà tôi gởi tâm hồn tôi được an ủi, chỗ đó là chơn.
Bần Đạo có luận với mấy người bạn bên Hiệp Thiên Đài không thế gì luận cái chơn cái giả được.
Buổi Trương Vĩnh Ký còn sinh tiền, ông học tiếng Chàm, người đó các thứ tiếng đều học đủ hết, người đời đã cho ông là vị Trạng cũng không quá đáng. Khi Ngài học tiếng Chàm, theo Ngài học thì phải cần chuyện vãn với người Chàm, đặng đạt cho được cái giọng nói của họ mới đúng, khi đi có ba người một ông Cha, và người Vú đỡ của Bần Đạo cùng có theo năm người nữa, dắt nhau vô xóm Chàm, đặng thí nghiệm sự học hỏi của Ông, khi vô Ông hỏi trong xóm Chàm ở đây người Chàm có đạo đức chi chăng? Cách thờ phượng thế nào? Người ta trả lời ở đây không có thờ phượng chi hết, Ông trọng yếu là tìm Đạo đặng biết cái sự thờ phượng của người Chàm mà định sự tiến bộ về tinh thần của họ. Ông hỏi nữa, chí quyết tìm xóm này coi anh em nào biết về đạo đức dân Chàm hay không? Có thờ phượng chi chăng, thì có người nói: Ở đây không có ai đạo đức và cũng không thờ phượng gì hết. Người đó chỉ ở trên kia có Bà già đó, Bả đạo đức hiền lương lắm, Bả ở góa từ hồi nào tới giờ, ở vậy mà thôi. Bả thờ phượng hình cốt.
Ông Trương Vĩnh Ký cùng năm người nữa dẫn nhau lại chỗ Bà già Chàm, đến nơi thì thấy Bà đang quì lạy, xoay lưng ra ngoài cửa, ở mé trong có một cái tượng cốt một Ông Chàm mà chỉ có cái đầu không mà thôi. Còn chân tay mình đều không có, chỉ một khúc cây còn vỏ mà thôi.
Năm người tới đứng đàng sau lưng Bả, ngó thấy Bà già Bả thờ cúng một cách đạo đức, tưởng ra không có Đạo nào được cung kính như thế, năm người đợi Bả làm lễ xong vừa xoay mình ra đến cung kính hỏi chuyện Bả.
- Bả ở đây với ai ? Tới chừng đó Bả mới nói:
- Tôi có hai đứa con, đã nên gia thất hết rồi, chỉ ở một mình tôi mà thôi.
Ông Trương Vĩnh Ký tọc mạch hỏi nữa:
- Hình Ông gì mà Bà thờ đó?
- Hình đó hình chồng tôi.
- Tại sao có cái đầu không, còn cái mình ở dưới còn cây nguyên vậy ?
- Cái cây này là cây của ông chồng tôi lúc trước ổng trồng mà vì ổng cưng nó lắm, cho nên tới chừng ổng khoảng tôi mướn thợ chạm cái hình Ổng đặng tôi thờ. Nhưng thợ làm được cái đầu, còn mình mẫy và chân tay thì làm không được, nên tôi để vậy tôi thờ mà thôi.
- Vậy Bà không có thờ ai nữa sao ?
- Tôi chỉ biết thờ chồng tôi, chứ không biết thờ ai hết. Từ thử đến giờ tôi thương có một mình Ổng, tôi biết có một mình ổng mà thôi.
Ông Trương Vĩnh Ký day lại nói: Tôi đố với ba Cha, ba Cha làm thế nào độ được người này theo Thiên Chúa Giáo. Nếu ai đem hình nào khác hơn ông chồng của Bà thì Bà không biết, Bả chỉ biết Ông chồng của Bả là Ông Trời của Bả. Nếu ai đem hình nào khác hơn Ông chồng của Bả, thì Bả không chịu đâu, không Đạo chi hơn là Đạo thờ chồng của Bà. Hỏi vậy có ai chối cái chơn của Bả không? Cái chơn của Bả là Bả chỉ biết một ông chồng của Bả và chỉ biết thờ ông chồng của Bả như một ông Thần sống, như một ông Trời tại thế này mà thôi. Trong thế gian này, không ai chơn, không ai giả, và cũng không phân biệt thế nào là chơn với giả được chỉ có trí óc của mình nhận biết được, suy đoán được, chớ chẳng hề khi nào ngôn ngữ nói ra được.
Ấy vậy từ thử đến giờ có người tầm chơn mà không biết đặng chơn ở đâu. Đạo Cao Đài mà chúng ta đã theo, chúng ta đã gởi tâm hồn xác thịt cho Đấng Tạo Đoan rồi có ai kiêu ngạo là giả, chúng ta cứ tưởng chơn mà thôi. Ngoài Đấng Tạo Đoan ra, không ai sanh mình ra được, mình cứ tưởng Ông đó là chơn, ngoài ra ai nói cái gì cũng thấy kệ.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 30-08-Tân Mão nhằm ngày (dl. 30-09-1951).
Q.4/23: KHAI MẠC HỘI NHƠN SANH CỦA QUYỀN VẠN LINH.
Nữ Đầu Sư Đường ngày 30-08 năm Tân Mão (1951)
Bần Đạo xin toàn cả nam, nữ tịnh tâm để nghe lời thuyết minh khai mạc hội nhơn sanh của Quyền Vạn Linh.
1. Từ kỳ hội trước, là kỳ hội năm Binh Tuất, khi Bần Đạo mới về, sau năm năm vắng mặt, Bần Đạo liền trả quyền Vạn Linh lại cho con cái của Đức Chí Tôn, bởi cớ cho nên Bần Đạo liền ra lịnh phục hồi quyền Vạn Linh.
Trót năm năm qua, sự tiến triển của nền Đạo như thế nào trước mắt toàn cả con cái Chí Tôn đều nghe thấy, Bần Đạo chẳng cần lên tiếng tuyên truyền khoe khoang chi nữa, đây trước mắt toàn thể con cái Đức Chí Tôn đều được thấy sự cố gắng của Hội Thánh và sự vẻ vang của con đường Chánh trị Đạo.
Bây giờ Bần Đạo xin để lời luận về chính trị đạo tổng quát của Đạo hiện thời và trong thời gian năm năm đã qua. Cả thảy đều biết rằng trong thời loạn ly này, nước Việt Nam ta đương vươn mình đứng đây để xung đột cùng Vạn Quốc. Bần Đạo nói đó là do sở định của Đức Chí Tôn mới kết liễu như thế đó.
Trong nước đang đảo lộn loạn ly đau khổ, thì cũng giống như người đàn bà kia lúc sanh đẻ cũng phải chịu đau đớn khi sanh một đứa con. Tình thế nước Việt Nam phải chịu ở trong một khuôn luật ấy, đặng định vận mạng tương lai của nó.
Trong đời loạn ly, số phận của Đạo phải chịu nhiều gay trở khó khăn hơn trước. Bần Đạo tưởng nên so sánh với buổi nọ dưới quyền chuyên chế mà Đạo lại được nhiều sự dễ dãi hơn bây giờ. Trong buổi nước nhà đang trở mình biến chuyển đi đến độc lập, thật ra Đạo Cao Đài đang gánh một trách vụ nặng nề không ai tưởng trong lúc cơ đời đảo ngược, Quốc thể chênh nghiêng dân tâm bất nhứt.
Ban sơ, sau buổi đồ lưu Bần Đạo trở về cố quốc, thấy tình hình của nước nhà đang ở trong một tấn tuồng không thể tưởng tượng được, chủ quyền của nước thì không có, giặc giã chiến tranh tàn phá, lúc đó nước ta ở trong tình trạng chánh thể quốc gia tiêu hủy, hai dân tộc Pháp Việt đang gây hấn chiến tranh, nhân dân thống khổ trong vòng binh cách, hai lý tưởng chia rẽ thiên hạ là đôi đường chiến đấu đang giành giựt chủ quyền nước nhà vô chủ để mặt cho ai đồ vương tranh bá.
Bần Đạo nhận thấy muốn giải quyết tình thế thì phải dùng tâm Đạo và tinh thần cương quyết mới mong định vận mạng cho nước nhà. Huống chi Đạo Cao Đài là bình Tịnh Thủy giục tắt hết lòng phàm, xa vòng danh lợi quyền thế, tránh những điều ham chuộng thường tình. Bần Đạo nói thật, Bần Đạo rất gớm ghê điều ấy, mà cả con cái Đức Chí Tôn cũng thế .
Muốn giải quyết cho được dung hòa tất cả thì không phải một cá nhân đối với một cá nhân, mà lại cả một Quốc Dân nầy đối với một Quốc Dân nọ, muốn hòa giải một chủng tộc với chủng tộc là việc chẳng phải dễ, hai nước Pháp-Việt phải dung hòa để chung sống trong hạnh phúc, Bần Đạo nhận thấy cái năng lực ấy nếu không có bàn tay Thiêng Liêng giúp sức không một ai làm được.
Bần Đạo nói cho đúng thì chỉ có Đạo mới làm đặng và đã thực hiện đường lối ấy mà thôi. Có đủ bằng cớ hiển nhiên, chúng ta có thể hãnh diện ở buổi tương lai tốt đẹp và một ngày kia để lại được một trang lịch sử vẻ vang không thẹn với các Tôn Giáo khác đương quyền giáo Đạo.
Nhưng lạ gì cái tuồng đời, duy có những kẻ không làm nên gì hết thì không ai trích điểm, vì có làm gì đâu mà có nên, có hư, trắng trợn như vậy thôi thì có gì mà trích điểm, chúng ta có làm gì thì lẽ cố nhiên chúng ta phải gặp việc nên hư, phải quấy, ấy là lẽ thường chúng ta có làm, nên chúng ta bị trích điểm và ta biết cầu cho thiên hạ trích điểm.
Giờ phút nầy Bần Đạo nói về Đạo Cao Đài đối với tương lai vận mạng của nước Việt Nam chúng ta. Đạo Cao Đài đã tròn phận sự của nó là đeo đuổi theo cái nguồn gốc tinh thần đạo đức. Bần Đạo nói: "Nó là Quốc hồn nước Việt Nam vì nước Việt Nam vi chủ nó không được, lại là tinh thần và tín ngưỡng của toàn nhơn loại tức là nó phải chịu dưới chủ quyền Quốc tế".
Ấy vậy Thánh Thể của Đức CHÍ TÔN, hay nói là Hội Thánh thay thế hình ảnh của Ngài, tỷ như đứng về mặt khách quan khi thấy điều bất chánh bất bình của nhơn quần xã hội, nên phải đảm đương đem chơn lý và công bình nêu trên mặt thế mà thôi. Đạo làm dùm phận sự tạo thế cho Đời. Mà sự làm ấy rất nên đắc lực hay là nói rõ Đạo đảm nhiệm phận sự của mình với cử chỉ vô thân vô vị.
Đó là nói về chính trị tổng quát của Đạo.
2. Còn luận về việc đối nội của Đạo.
Hơn năm năm qua, trải nhiều nỗi khó khăn nghèo khổ, toàn thể con cái Đức Chí Tôn phải đảm đương gánh vác nặng nề để tạo nghiệp mà Đức Chí Tôn ban chung cho toàn con cái của Ngài.
Xem qua các cơ quan ba vị Thái Thượng Ngọc Chánh Phối Sư nắm chủ quyền giữ vững nền Chánh Trị Đạo với 9 viện. Trong thời buổi khó khăn loạn lạc, Đạo muốn thực hiện Bảo Sanh Nhơn Nghĩa Đại Đồng nên mới xuất hiện ra Quân đội. Cái thêm ấy, chúng ta cho vinh diệu chớ không phải là cái nhục, thảng có kẻ nghi kỵ trích điểm hoặc giả một ngày kia thiên hạ nói: Đạo thì không thể có Quân đội, hay là họ đem ra tố cáo chúng ta giữa Liên Hiệp Quốc đi nữa, thì chúng ta xin trả lời rằng: chúng ta hy sinh tánh mạng để bảo vệ và dìu dắt nhơn sanh tiến đến con đường Đại đồng thế giới và tinh thần Đạo Đức nhơn nghĩa. Cái phận sự tối trọng ấy chẳng phải dễ làm chúng ta dám cố gắng hy sinh cho thiên hạ, thì thiên hạ không ai làm đặng vì không có cơ quan nào đứng ra đương đầu để đảm đương một lời hy sinh dường đó. Thật Bần Đạo chưa hân hạnh ngó thấy vậy. Ngoài ra họ có thể mượn quyền lực để lập danh phận quyền lợi cho họ mà thôi, chớ chưa hề dám hy sinh đảm nhiệm một trách vụ Thiêng Liêng như Quân Đội Cao Đài đã khấn hứa.
Hiện nay Bần Đạo phân đoán chí lý nội tình của Đạo nhận thấy một bên là Hội Thánh thì mấy ông già nua, còn một bên Quân đội là trai trẻ có tinh thần giục tấn.
Một bên là hình ảnh Thánh Thể Đức Chí Tôn đi trên đường mực thước từ từ nhi tiến, còn một đàn thì chạy theo cho kịp trào lưu biến chuyển, nên chí quyết tiến cho hơn, một đàn thì mỗi khi đi để chơn đi thì sợ đạp nhầm đến con kiến. Còn một đàn thì nếu thân mình không nhanh chóng lẹ làng thì một mũi đạn đủ đưa họ làm người thiên cổ.
Hai đàn bất đồng với nhau làm cho Bần Đạo ngồi giữa bực mình làm sao đâu!
Hạng thanh niên thì xô đẩy quyết đi cho mau nên cho hạng già nua đi như rùa bò quá chậm. Thật Bần Đạo kiếm phương thế dung hòa đôi đàng vừa quá mệt.
Bần Đạo thú thật rằng: nhờ lý do đó mà Đạo Cao Đài tiển triển đến đường nầy cũng đã mau chóng và tốt đẹp lắm rồi.
Một đàng muốn tiến mạnh dầu có níu cũng không chuyển.
Một đàng nếu không ngó đến thì ngồi bí xị đó không đi.
Hai đàng cặp kè với nhau mà đi dầu chậm cũng phải đi từ từ nhi tiến. Nhờ hai lý thuyết dung hòa nhau nên giờ này Đạo mới có hình ảnh và phương diện này.
3. Về việc đối ngoại từ ngày lập Quân Đội đến nay, các cơ quan Chánh Trị Đạo đối với cơ thể của Đời hổn tạp dường như lãnh đạm, vì cơ Đời còn ở trong tình trạng biến hình, Bần Đạo nghĩ đưa người ra đảm nhiệm cũng vô ích. Chúng ta chờ để coi nó tượng hình ra sao cho biết, huống chi làm Đạo là cốt yếu dung hòa tâm lý cần gì phải tìm chánh sách để xen vào sửa cải chủ quyền của người cho mích bụng.
Bần Đạo nói thật giờ này dầu sửa cải cũng vô ích. Trong buổi day trở biến hình của nó thì phải để cho nó nên người, miễn là chúng ta để nó tự do biến tướng mà không ra khỏi cái khuôn khổ của nó mà thôi. Chúng ta giữ sao đừng cho nó ra khỏi cái văn hiến bốn ngàn năm tối cổ của nó. Cần gì phải can thiệp vào đó mà làm chi?
Bây giờ Bần Đạo thuyết về tài chánh của Đạo đương buổi loạn ly này.
Trong buổi thống khổ nghèo nàn, tài nguyên của con cái Đức Chí Tôn gởi về để tạo dựng cái nhà hương quả chung của họ. Thoạt nghĩ chúng ta gầy dựng được đây là vì giỏi tiện tặng lắm mới còn, bằng không nuôi ăn cũng chưa đủ; còn về Quân đội thì chúng ta đi làm mướn hy sinh tiện tặng sớt bớt ra để nuôi nấng mấy đứa con côi cút góa bụa, gánh vác học đường đào tạo đám thơ sinh, phải chịu ăn không no, mặc không lành mọi bề thiếu thốn.
Nếu để cho Hội Thánh gánh vác thì tài sản của Hội Thánh không còn tồn tại như bây giờ, tiêu hết mà chớ! Điều ấy quyền Vạn Linh trọn quyền quan sát kiểm điểm tận tường thì rõ.
Toàn cả con cái Đức Chí Tôn về Tòa Thánh hiển nhiên đều thấy hết, hỏi sao không thay đổi được, vì nhận thấy cả thảy đều hy sinh, đều cố gắng nên bây giờ mới nên hình, nên tướng, sự nghiệp vĩ đại Thiêng Liêng này do biết bao mồ hôi nước mắt.
Không phải là buổi giàu có mà đem về đây rồi lãng phí bỏ rơi bỏ rớt, Hội Thánh tìm kiếm từ đồng làm nên cho Đạo. Bần Đạo không khoe khoang, hiện nay Châu Thành Thánh Địa đã được mở rộng, con cái Đức Chí Tôn về có đất để dựng nghiệp nhà có phương thế để nuôi vợ con no đủ.
Bây giờ luận về việc tạo dựng cơ quan xã hội giúp tay cho Chánh Phủ.
Trong thời buổi loạn ly nầy, toàn xứ Việt Nam đều sống trong vòng thống khổ, con cái Đức Chí Tôn có về đây mới nhận thấy không có chỗ nào hạnh phúc hơn là Tòa Thánh. Nếu Bần Đạo nói không đúng thì xin trích điểm lại. Nói thật ra, đây chỗ nuôi sống thiên hạ và là chỗ nuôi dưỡng của kẻ thống khổ nghèo nàn.
Chúng ta thấy một gia đình kéo cả bè về Tòa Thánh là sống được. Ấy là nhờ sự chăm nom nuôi dưỡng của Hội Thánh vì khi mới về Tòa Thánh có người không có một cái chén ăn cơm, làm lụng ít lâu rồi cũng sống được.
Hỏi vậy các cơ quan của Chánh Phủ có tạo nghiệp cho họ được vậy chăng Chánh Phủ bị lo lắng điều gay trở khó khăn nên chỉ bố thí một số tiền vậy thôi, chớ nào có thì giờ rảnh đặng để tâm lo lắng đến sự sống cho thiên hạ.
Về cái thắng lợi của Đạo chỉ có mặt tinh thần hơn cả.
Bần Đạo luận về sự truyền bá chơn lý Đạo:
a. Cả con cái Đức Chí Tôn nên hiểu rằng: triết lý cao thượng của Đạo Cao Đài lấy tính chất nó ở buổi sơ khởi khai thiên lập địa của Đức Chí Tôn sanh hóa vạn loại nơi mặt địa cầu nầy. Trong tạo đoan Đạo Cao Đài chỉ thờ kỉnh có hai quan niệm mà thôi. Trên là thờ Thiên Thượng là Đức Chí Tôn, dưới là thờ Vạn vật, mà tối linh của Vạn vật là nhơn loại ấy là thờ thiên hạ.
Nó không biết trích điểm ai, dầu các Tôn Giáo trích điểm hay đàm thuyết thế nào cũng mặc. Đạo Cao Đài chỉ biết nắm lấy cái căn bản cái nguyên lý của nó mà thôi.
Trong Nho Giáo có nói: "Thiên ngôn vạn ngữ bất quá hồ thiệt", thì chúng ta chỉ thấy chơn lý chỉ có một, không phải ngôn ngữ diệt tiêu chơn lý đặng.
Đạo Cao Đài nắm chặt cái căn bản của nó, nên không trích điểm ai từ từ nó đi theo con đường chơn chánh của nó. Đạo Cao Đài để cho hàng trí thức họ tìm hiểu mà đến, chớ không dụ dỗ hay là cám dỗ cho người biết nó. Để hết trí não tìm hiểu, con người nhận thấy trí thức cao siêu và nhận định chơn lý của nó. Tiếng Pháp nói đức tin là sự nhận thức chơn lý (Foi raison née) do nơi đức tin ấy mà định quyết cái tinh thần đạo đức của mình, chớ không phải do nơi sự cám dỗ nhồi sọ, tạo thành mê tín.
Đạo Cao Đài truyền bá là do ngôn ngữ chỉ hơn, chỉ thiệt, vì cớ nên đối với các Tôn Giáo, Đạo Cao Đài thường bị trích điểm là vậy. Cái đức tin của Đạo Cao Đài không cần cầu chứng nơi ai, nó chỉ cầu chứng với trí thức tinh thần của nó, về việc truyền giáo Đạo Cao Đài đi từ từ bước một, Chức Sắc trong hàng Thánh Thể Đức Chí Tôn cầm quyền mối Đạo là phát ngôn viên của Đức Chí Tôn từ từ tiến bước chớ không cần chi phải giục tấn.
b. Về việc truyền bá ở Ngoại Quốc, Phối Sư Thượng Vinh Thanh đã mở ở Pháp nhiều cơ quan, do theo thời thế đoán ra, thấy được đắc lực tiến triển mãi mãi.
Trong kỳ Hội nầy có đem ra hai người Pháp để cầu quyền Vạn Linh ân tứ, nhờ Hội Nhơn Sanh định vị.
Đến đây Bần Đạo nói đến việc chỉnh đốn nội dung nền Chánh Trị Đạo trong buổi hỗn tạp này, ta sẽ phân tách ra Đạo và Thế phân biệt, không thể để Thế và Đạo lẫn lộn nhau được, cũng như quyền năng Chí Tôn phân ra tả hữu vậy. Tả là Đời, hữu là Đạo, giữa là Pháp, Đời là Đời, Đạo là Đạo đôi ngã phân minh.
Từ đây toàn thể con cái Đức Chí Tôn sẽ chỉnh đốn lại hai đường ấy, dầu hiện nay còn hỗn tạp cũng không hại gì.
Bây giờ nói về vấn đề đào tạo Thiên Phong Chức Sắc. Việc nầy không phải quyền của Hội Thánh mà không phải quyền của Chí Tôn, quyền Chí Tôn chỉ giao phó phận sự cho toàn con cái của Ngài.
Chí Tôn đến lập Đạo, Ngài để quyền Vạn Linh là quyền con cái của Ngài mạnh hơn quyền Ngài.
Quyền Chí Tôn là quyền một Ông Cha chỉ để dung hòa các con cái của Ngài chớ không phải để trị. Có trị chăng là quyền Vạn Linh đó vậy.
Việc đào tạo Chức Sắc là quyền sở hữu của Vạn Linh, nếu Chức Sắc trong Thánh Thể Đức Chí Tôn thiếu thì Bần Đạo có thể đỗ cho quyền Vạn Linh bất lực.
Bần Đạo đã nói do quyền Vạn Linh thì việc đào tạo Chức Sắc do quyền Vạn Linh định quyết, chớ Học Đường. Hạnh Đường lập ra trọng yếu là để tạo nhơn tài mà thôi, chỉ có con đường chơn lý của Đạo mới đào tạo tánh đức cho họ. Ngài muốn lập thân danh phải lập Đức, lập Công, lập Ngôn.
- Lập Đức thì phải nhớ Đạo lý.
- Lập Công thì phụng sự Nhơn sanh.
- Lập Ngôn thì phải để hết trí óc tìm hiểu về triết học tinh thần, tìm tòi mọi lẽ cao sâu để thuyết minh chánh giáo.
Học đường là nơi con người học hỏi để lập Ngôn.
Lập Đức là do đường Đạo lý.
Lập Công là do quyền Vạn Linh định đoạt.
Người biết dùng ba điều trên thì nên, còn không thì phải chịu mai một và do quyền Vạn Linh biết dùng họ thì họ mới lập công với Đạo được.
Gần đây Bần Đạo sẽ định phương châm truyền giáo Ngoại Quốc, Bần Đạo sẽ mạo hiểm, cưỡng bách tuyển chọn Chức Sắc xuất đương giáo Đạo.
Bần Đạo cho biết trước trong kỳ xin ân phong này, có người được tuyển chọn xuất dương mà Giáo Đạo. Ấy đừng nói đó là việc tình cờ.
Tiếp đây Bần Đạo nói về việc đối với các Tôn Giáo hiện hữu.
Đối với các Tôn giáo Bần Đạo đã nói cho nghe rồi.
Toàn thể con cái Chí Tôn đều được nghe, Bần Đạo đã bao phen len lỏi cầu thân với họ, thế nên bên Quân đội để lời trách cứ Bần Đạo sao lại hạ mình quá lẽ, len lỏi theo họ mà làm gì.
Biết đâu sự hạ mình của Bần Đạo sẽ là một dấu hỏi để trong lịch sử sau này. Tại sao Bần Đạo phải chìu lụy các Tôn Giáo, thiên hạ sẽ tìm hiểu. Bần Đạo thiết nghĩ càng hạ mình chừng nào thì Đạo Cao Đài càng cao thượng chừng ấy, chớ đừng tưởng là nhục, trái lại cái kết quả tốt đẹp ngày kia toàn thể con cái Chí Tôn sẽ được ngó thấy.
Còn nói với các đảng phái Bần Đạo thấy, nay họ lập nơi này, mai họ lập nơi khác, bao nhiêu đảng phái đều lập tư riêng để làm chi không biết, trước mắt cái đại nghiệp Đức Chí Tôn ban cho đây rất cao trọng sang cả vô đối mà không kẻ tô điểm.
Thật không hiểu họ lập ra những cái chòi mòng để làm gì vô ích quá.
Cái phương hướng tương lai của Đạo, trọng, khinh, nên, hư, vinh, nhục, Bần Đạo gởi trọn trong tinh thần đạo đức rồi lại giao cho quyền Vạn Linh sử dụng.
Vậy Bần Đạo xin nhường quyền chủ tọa cho quyền Thượng Chánh Phối Sư, Bần Đạo xin kiếu từ.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 30-08-Tân Mão nhằm ngày (dl. 30-09-1951).
Q.4/24: KHAI MẠC HỘI NHƠN SANH PHƯỚC THIỆN.
Cửu Viện Phước Thiện ngày 30-08 năm Tân Mão (1951)
Bần Đạo xin khai mạc của Hội Thánh Phước Thiện.
Trước khi mở hội, Bần Đạo lược giải cái chánh tâm của Đạo đã từ 5 năm nay, tức là kể từ Hội Nhơn sanh kỳ trước, mơ vọng của toàn thể Thánh Thể Đức Chí Tôn, dầu cho Hành Chánh hay Phước Thiện cũng thế, chúng ta trông mong gì hơn hết? Đương nhiên thiên hạ đương sống khó khăn trong thời buổi loạn ly. Bần Đạo tưởng cả toàn con cái Đức Chí Tôn đều có hai sở vọng, sở vọng đầu tiên hơn hết là làm sao bảo vệ sanh mạng và tài sản thiên hạ cho khỏi bị tiêu diệt, sở vọng thứ hai nữa là tìm phương nào làm cho thiên hạ bớt khổ. Hai cơ quan ấy chúng ta sẵn có trong cửa Đạo. Hành Chánh thì giữ mực thước cho nền chơn giáo của Đức Chí Tôn. Bần Đạo cho toàn thể con cái của Đức Chí Tôn nam, nữ đều biết rằng: Đạo phải giữ nền văn hiến của nòi giống chúng ta bốn ngàn năm sẵn có từ thử đến giờ ở trong khuôn khổ đạo đức tinh thần của Tổ Phụ chủng tộc nước nhà cho còn tồn tại. Ấy là phận sự của Hành Chánh. Còn muốn bảo sanh là quân đội đã thiệt hiện nhơn nghĩa để dìu dẫn thiên hạ đi đến cảnh Đại đồng.
Bây giờ cơ quan cứu khổ, dầu không nói mấy người cũng đã biết, ấy là trách vụ của người Phước Thiện đó vậy.
Đức Chí Tôn đến, có điều thiết yếu hơn hết, Ngài đến là vì con cái của Ngài quá khổ, Ngài đến với cái sở định của Ngài, là đến cứu khổ cho toàn thể con cái của Ngài. Cơ cứu khổ ấy trong lúc ban sơ, Đức Chí Tôn đã đưa trong tay Hiệp Thiên Đài. Bần Đạo không biết làm sao thiệt hành ra được. Hồi đó Hội Thánh Phước Thiện chưa thành lập, giao cơ cứu khổ, Bần Đạo không biết phải làm thế nào, nhưng chẳng bao lâu Ngài lập thành Hội Thánh Phước Thiện, chừng đó Bần Đạo mới biết cơ cứu khổ là đây.
Ấy vậy, Hội Thánh Cửu Trùng Đài là Hội Thánh của Giáo Tông, còn Hội Thánh Phước Thiện là của Hộ Pháp. Hội Thánh bên kia bảo vệ văn hiến Tôn Giáo. Hội Thánh bên này cứu khổ, còn có chỗ nào hay ho hơn nữa. Nay thêm một cơ quan nữa do cơ đời ly loạn nên mới xuất hiện ra Quân đội đặng bảo sanh nhơn nghĩa đặng đến cảnh đại đồng, còn có nơi nào hay ho hơn trong cửa Đạo chăng? Điều ấy chưa Tôn Giáo nào có, Bần Đạo quả quyết vậy.
Ấy vậy, phận sự Hội Thánh Phước Thiện là phận sự tượng trưng hình ảnh Đức Chí Tôn đặng cứu khổ cho con cái của Ngài, xin nhớ. Thử nghĩ coi trách vụ đơn sơ mà nặng nề làm sao. Hiểu nghĩa lý sâu xa của nó, chúng ta sợ không bao giờ thực hiện trách vụ nặng nề đó được. Bao giờ cũng vậy, nền Tôn Giáo từ hai ngàn năm nay là nền Thiên Chúa Giáo hay là Đạo Gia Tô mà về Phước Thiện họ còn sơ sót chưa mỹ mãn, huống chi mình, Bần Đạo không trách nhưng chỉ có một điều là trong Thánh Thể Đức Chí Tôn gánh vác cái khổ cho con cái của Ngài rất nên yếu ớt. Không đủ tâm lực, không đủ phương chước. Chỉ ước mong Đức Chí Tôn ban ân riêng đặc biệt vì trách vụ nặng nề ấy, đặng cầm cơ cứu khổ của Đức Chí Tôn mạnh mẽ và cương quyết, nhưng ta cũng nên biết thêm rằng: An ủi cho được một người thống khổ không phải dễ, đem cơ cứu khổ ấy thiệt hiện ra đặng cho cả thiên hạ được hưởng hồng ân của Đức Chí Tôn, chúng ta thấy lại càng thêm khó. Phải cố gắng đã đành, xong nên chăng là do quyền năng Thiêng Liêng giúp sức.
Những yếu nhân đương quyền về Phước Thiện, Bần Đạo thấy giờ phút nầy tin là mấy em Kỳ Lão Phạm Môn, nhưng họ lại có đặc quyền khác, họ còn ở Phước Thiện là bởi Phước Thiện thiếu người cầm quyền chấp chánh, nên Bần Đạo để họ qua cầm quyền, không phải là đặt phận sự của họ. Đức Chí Tôn định mở Phạm Môn là mở cửa tu chơn, thi hành Bí Pháp chớ không phải Thể Pháp. Phước Thiện không phải (*1) là phận sự của họ. Giờ phút này những phần tử Phạm Môn còn cầm quyền Phước Thiện, do Hội Thánh Phước Thiện còn thiếu người. Chủ quyền của họ là ở các nơi tịnh thất trong cửa tu chơn, là đặc điểm của họ. Đã hai mươi sáu năm họ chịu khổ nhọc đã nhiều. Hy sinh từ tóc xanh đến bạc đầu, lao tâm lao lực. Bần Đạo tưởng đến càng làm thêm ra nữa là càng thêm khổ cho họ. Hai mươi mấy năm lập Phước Thiện đoàn tiền bối qui liễu lần hồi, chỉ đám thanh niên lúc nọ còn lại năm bảy người, họ cũng đã da mồi tóc bạc.
Mấy người đã biết sở yếu của mình là thiếu Chức Sắc Thiên Phong thì do nơi mấy người định vị cho họ, xúm đưa họ lên cầu nguyện cùng Đức Chí Tôn, cho có các chơn linh hiếu hạnh của Ngài cùng Phật Mẫu, đem vô làm Thánh Thể của Ngài cho cường liệt mạnh mẽ. Bần Đạo nói gánh khổ của đời nặng nề lắm, đã nghe nói nặng nề lắm thì không tâm lực, không đủ quyền hành gánh gồng chi nỗi. Đặc phận ấy muốn làm cho trọn vẹn phải cố gắng cho lắm làm mới được, xem đàn anh họ đã hy sinh thế nào rồi, đàn em bắt chước theo. Họ dám hy sinh cả sanh mạng tài sản, cả kiếp sanh của họ, không biết gì là gia đình, không biết gì là danh vọng, không biết gì tới thân hình. Có nhiều người phải lao lực mà chết biết bao nhiêu kể, mấy em hiển nhiên ngó thấy.
Về phương pháp hành thiện Bần Đạo nói: Chơn Pháp bên Phước Thiện có điều này trọng yếu hơn hết, từ bực Hành Thiện muốn lên Giáo Thiện phải tạo nghiệp cho đủ 12 gia đình theo chơn pháp.
Giáo Nhi từ trước cho lên Giáo Thiện là thể theo lòng từ bi bác ái của Đức Chí Tôn mà ân tứ, nhưng Giáo Nhi có thể lên Lễ sanh chớ không được lên Giáo Thiện, vì thiếu luật tạo nghiệp cho 12 gia đình. Nếu thiếu một người trong số 12 người ấy, thì phải dừng lại bực Hành Thiện mà thôi, chớ không thăng lên Giáo Thiện. Tạo nghiệp cho 12 gia đình không phải đem bà con vào đó mà được, tạo nghiệp cho mỗi gia đình phải có bằng chứng là ngoại nhân chớ không phải đem bà con cật ruột thì truất bỏ chẳng kể công nghe vậy chưa? Bởi vì bậc Hành Thiện phải làm thiện, nhưng nếu làm cho thân bằng mình, anh em của mình, làm cho gia đình mình thì không phải kể cho là hành thiện.
Ấy vậy cơ quan cứu khổ Hội Thánh phải chọn người tâm đức biết hy sinh mình đặng thực hiện cơ quan cứu khổ ấy. Phải tuyển chọn người tâm đức hiền lương từ bi bác ái vị tha vô vị kỷ mới đáng giá phẩm vị mình.
Nên nhớ, Hội Thánh Phước Thiện không có hàm chức như Hành Chánh, phải đi theo lên cho tới tột phẩm Phật Tử. Những Chức Sắc hàm chức ngày nay Bần Đạo sẽ kiếm thế đưa qua Ban Kỳ Lão hết.
Tiếp tục đây rồi, Bần Đạo sẽ rút cả mấy vị Chức Sắc Thiên Phong ở Phạm Môn đặng mở con đường tu chơn, nam cũng vậy, nữ cũng vậy.
Trí Huệ Cung bên Phạm Môn tạo tác đây là nhà tu của nữ phái, giờ phút này Bần Đạo mới nói thiệt tại sao làm nhà tu cho Phái Nữ trước. Đáng lẽ Bần Đạo phải làm cho Phái Nam trước trên Sơn Đình mới phải chớ. Nhưng, nếu Bần Đạo làm cho Phái Nam trước rồi họ sẽ bỏ Phái Nữ không làm. Bần Đạo làm cho Phái Nữ trước đặng họ phân bì, dầu Bần Đạo có qui thì họ cũng cố tâm làm cho nên việc.
Phải cố gắng, Hội Thánh Phước Thiện phải cố gắng, mấy vị Giáo Thiện, mấy bạn Kỳ Lão. Bần Đạo cho hay trước cả Chức Sắc bên Phạm Môn Bần Đạo sẽ rút hết và sẽ giao quyền Phước Thiện cho mấy vị Tân phong điều khiển.
Bây giờ Bần Đạo xin giao quyền lại cho Đạo Nhơn Cương và hai vị Chí Thiện trọn quyền chủ hội nam, còn Phái nữ thì bà Phối Sư Hương Nhiều làm chủ hội.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 30-08-Tân Mão nhằm ngày (dl. 30-09-1951).
(*1) Nơi đoạn thứ 7: Những yếu nhân đương quyền về Phước Thiện, Bần Đạo thấy giờ phút nầy tin là mấy em Kỳ Lão Phạm Môn, ... ... .... Đức Chí Tôn định mở Phạm Môn là mở cửa tu chơn, thi hành Bí Pháp chớ không phải Thể Pháp. Phước Thiện không phải là phận sự của họ....
Nguyên bản chánh in là: Những yếu nhân đương quyền về Phước Thiện, Bần Đạo thấy giờ phút nầy tin là mấy em Kỳ Lão Phạm Môn, ... ... .... Đức Chí Tôn định mở Phạm Môn là mở cửa tu chơn, thi hành Bí Pháp chớ không phải Thể Pháp. Phước Thiện là phận sự của họ....
Q.4/25: CÁI CHƠN HẠNH PHÚC CỦA KIẾP SANH CHÚNG TA THẾ NÀO?
Đền Thánh ngày 14 tháng 9 năm Tân Mão (dl. 14-10-1951)
Đêm nay Bần Đạo giảng cái chơn hạnh phúc của kiếp sanh chúng ta thế nào? Và chúng ta sẽ gặp nó tại nơi đâu?
Chúng ta đã chán biết rằng: Ta sống nơi thế này chẳng hề buổi nào gặp được chơn hạnh phúc, vì nếu chúng ta gặp nó một cách dễ dàng, thì dám chắc thuyết Tứ Diệu Đề của Đức Phật Thích Ca không có giá trị chi hết.
Sống nơi cảnh khổ mà tìm hạnh phúc khó lắm, hạnh phúc ấy có hay chăng. Bần Đạo để dấu hỏi? Có chớ, thật ra nếu chúng ta biết tìm nó cũng có thể được.
Chúng ta thấy trước mắt dầu cho toàn thể nhơn loại nơi mặt địa cầu này họ đã khác tánh đức, tinh thần, tâm lý với nhau, cái gì cũng khác hết, chỉ có cái cười và cái khóc là giống nhau mà thôi. Tai sao cái cười và cái khóc của con người lại giống nhau? Cười ấy phải chăng là tượng trưng cho hạnh phúc. Khóc phải chăng là tượng trưng đau khổ của loài người.
Bần Đạo nói đây chỉ có cái cười giả dối là cười thì cay đắng như ớt, gừng, cũng có cái khóc giả dối là khóc cũng có nước mắt, nhưng cái khóc của họ là khóc giả dối mà thôi. Bần Đạo nói cười thế nào mới tượng trưng hạnh phúc, dầu hạnh phúc đó như ngọn gió thoảng qua, như giọt sương đầu cỏ, còn khóc thế nào mới đau đớn và quả quyết thống khổ? Chúng ta đã ngó thấy kiếp sống của chúng ta khóc nhiều mà cười ít. Thử hỏi một kiếp sống của chúng ta có thú vị hay chăng? Xin trả lời: Từ lọt lòng mẹ dĩ chí ngày chung qui chúng ta chỉ hưởng được hạnh phúc bóng dáng mà thôi, chớ chẳng hề khi nào chúng ta hưởng được chơn hạnh phúc.
Ấy vậy, chơn hạnh phúc của ta, ta có thể tìm nó được, tìm nó ở trong cái cười hạnh phúc của các bạn đồng sanh với ta nhưng họ ở trong cảnh khổ thì làm sao họ có cái cười hạnh phúc được? Chúng ta phải làm thế nào, cho họ hưởng được hạnh phúc, mặc dầu hạnh phúc ấy mảy mún, chúng ta phải làm thế nào cho họ có cái cười hạnh phúc ấy, chúng ta lúc nào cũng muốn cho họ hưởng được mãi mãi hạnh phúc, tuy hạnh phúc ấy chỉ thoảng qua như gió thổi hay một đám sương sa, mà có hưởng, còn hơn không có chi hết.
Khi chúng ta ngó thấy người bạn đồng khổ của chúng ta hưởng được điều chi của ta đã làm cho được hạnh phúc vui vẻ, cái đó phải chăng là cái hạnh phúc của ta đây.
Hại thay! Đâu có người nào có cái tâm yêu ái vô tận vô biên hy sinh mình đặng tạo hạnh phúc cho kẻ khác, họ chỉ ngó thấy cái khổ của họ và họ chỉ tìm cách đạt cái hạnh phúc giả dối của họ mà thôi, họ dám lấy cái khổ trọn kiếp sanh mua trận cười giả dối, họ chưa biết lấy khổ nhọc của đời thiệt hiện một trận cười hạnh phúc cho bạn đồng sanh của họ thảng như chúng ta thấu đáo được triết lý ấy chúng ta nên để cái trí não tinh thần, chúng ta hy sinh tạo hạnh phúc cho con cái Đức Chí Tôn, tức nhiên tạo hạnh phúc cho toàn thể nhơn loại, thì cái hạnh phúc mà họ hưởng mỗi người đó, có thể tổng số lại làm cái hạnh phúc lớn cho ta chớ có mất đâu.
Hại thay! Nhơn loại chỉ vì tranh sống, thay vì họ gieo rắc rối trong tâm hồn bạn đồng sanh của họ, cái cười hạnh phúc ấy, trái lại họ chỉ làm cho đổ lụy mà thôi, cái suối cửu tuyền kia, nếu chúng ta ngó thấy được cái suối cửu tuyền là nước mắt của nhơn sanh đã thống khổ, thì dám chắc rằng kiếp sanh của chúng ta không có hạnh phúc gì hết. Chỉ giành cái sống mà tạo khổ cho nhau, chớ chưa hề biết hy sinh mình đem cả tâm hồn bác ái từ bi vô tận vô biên đặng tạo hạnh phúc cho người, làm nên cho người, họ chỉ giành hạnh phúc ấy mà hưởng được hay không, không biết, cứ giành để mà hưởng cái hạnh phúc giả dối mà thôi. Nếu thế họ chẳng hề buổi nào hưởng được chơn hạnh phúc.
Bần Đạo đã nói hôm nay con cái của Đức Chí Tôn Nam, Nữ cũng vậy, sẽ có hạnh phúc. Bần Đạo nói quả quyết điều ấy, Bần Đạo để lời hỏi, tỉ như ngày giờ nào con cái Đức Chí Tôn hoàn toàn thay thế hình ảnh cho Ngài, dám hy sinh mình đem lòng thương yêu vô tận vô biên, tạo hạnh phúc cho nhơn loại, Để dấu hỏi? cả thảy con cái Đức Chí Tôn suy gẫm. Bần Đạo thú thật những người tạo hạnh phúc cho gia đình, gầy con cháu tông đường sum hiệp lại với nhau gọi là hạnh phúc. Hạnh phúc ấy bền vững hay chăng? Không bền vững được, chỉ như ngon gió thoảng qua mà thôi. Biết bao nhiêu gia đình ở mặt thế gian này sang cả, mà họ hưởng được cái thiệt hạnh phúc hay chưa? Bần Đạo nói: họ hưởng đặng tạm thời trong giây phút mà thôi.
Bây giờ kiếm nó nơi đâu mà có? Chúng ta chỉ hưởng được là giờ chót, giờ hấp hối của chúng ta đó thôi. Nếu chúng ta còn trí lự, còn sống sót trong 5 phút thấy cả cái sống của kẻ đồng loại không còn đau khổ, thì cái chết của ta mới thiệt là hạnh phúc. Bởi chúng ta có thể đến trước mặt Đức Chí Tôn mà nói rằng: Thưa Thầy, con đã làm tròn bổn phận của con đối với Thầy, Thầy muốn con thay thế hình ảnh cho Thầy đặng tạo hạnh phúc cho con cái của Thầy, con đã làm đặng. Rồi day lại nói với các bạn đồng sanh của chúng ta rằng: Nầy các bạn, tôi xin kiếu từ các bạn và trông đợi các bạn. Lúc nào tâm hồn cũng rung chuyển cho mấy người. Giờ phút này tôi còn trông mong nơi cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống kia, là nơi chúng ta hưởng được hạnh phúc thiệt thọ với nhau, tôi mong các bạn đến đó đặng tạo dựng một hạnh phúc lâu dài. Tôi xin đợi mấy người tại chỗ đó.
Q.4/26: LỄ HIỆP CHÚNG QUỐC - TỔ CHỨC QUỐC TẾ ĐỂ BẢO THỦ HÒA BÌNH THẾ GIỚI.
Đền Thánh, đêm 24-09 năm Tân Mão (1951)
Ngày hôm nay là lễ Hiệp Chúng Quốc, Bần Đạo cũng nên thuyết minh cái lễ này là cái lễ gì? Và nó ra sao? Bần Đạo nói: Nó đối với nền Đạo của Đức Chí Tôn tức nhiên Đạo Cao Đài cũng trọng hệ lắm vậy.
Hiệp Chúng Quốc là một tổ chức Quốc Tế để bảo thủ hòa bình tự do hạnh phúc cho nhơn loại. Tổ chức ấy nó đương tiếp tục với Liên Hiệp Quốc buổi nọ. Do sao Liên Hiệp Quốc đề xướng ra? Ban sơ chỉ có Ngũ Cường là Pháp, Trung Hoa, Anh, Mỹ và Nga, mà ngày nay đã có trên 50 nước hội viên và nước Việt Nam ta cũng có thể nương vào hội ấy đặng bảo thủ nhơn quyền.
Cái vinh diệu của nước Pháp hơn hết, là hội nhơn quyền buổi nọ để bảo thủ tự do nhơn loại của Pháp đề xướng, ngày hôm nay Hiệp Chúng Quốc đã công nhận và truyền bá cho cả toàn cầu thi hành thiệt hiện ra cũng như nước Pháp đã thi hành từ thử.
Ấy vậy, chúng ta đã biết rõ rằng: Hiệp Chúng Quốc cốt yếu bảo thủ hòa bình và tự do cho nhơn loại, tức là muốn đem cả toàn cầu làm một, làm một cái đại gia đình Quốc Tế, tức nhiên là đại gia đình của nhơn loại đó vậy. Thật ra chúng ta ngó thấy cái tổ chức ấy đang gặp nhiều nỗi khó khăn gay trở, nhưng Bần Đạo quả quyết rằng: Ấy là một cơ thể do nơi Thiên thơ đã tiền định. Chính Đức Chí Tôn buổi nọ (năm 1925) giáng dạy. Ngài nói rằng: Nhơn loại sẽ cộng hiệp với nhau mà thôi, một về xã hội, một về chủng tộc, một về tín ngưỡng. Ấy vậy, cái chơn pháp của Đức Chí Tôn Thiên cơ đã muốn cho toàn thể nhơn loại hiệp nhứt cùng nhau trong đại gia đình Quốc Tế, vì cớ cho nên khiến ra các Liệt Cường trên mặt địa cầu, giờ phút này chỉ chủ hướng theo một mục đích là làm thế nào cho cả toàn cầu chung hiệp với nhau trong đại gia đình của nhơn loại. Bần Đạo có thể mơ mộng một ngày kia, một ngày gần đây các chủng tộc trên toàn cầu này sẽ duy nhứt một Chánh Phủ mà thôi. Chỉ có một phương ấy thiên hạ mới hòa bình và toàn cả nhơn loại mới mơ ước hưởng được tự do hạnh phúc.
Cái chánh nghĩa của Hiệp Chúng Quốc ngày nay thiên hạ đều ngó thấy trên con đường duy nhứt phải đi, và con đường ấy có thể tạo hạnh phúc cho nhơn loại, phải có sự hiệp một cùng nhau không còn tranh quyền lợi giai cấp, họ sẽ đi đến một cảnh hòa bình trong bác ái, trong công chánh, cũng như Đạo Cao Đài đã theo dõi từ ban sơ đến giờ. Biết đâu cái cơ quan Hiệp Chúng Quốc là một tổ chức Quốc Tế, để giúp cho chơn pháp của Đạo Cao Đài được thực hiện, tức nhiên để giúp Đạo Cao Đài làm tròn phận sự, hiệp nhứt con cái Đức Chí Tôn vào lòng yêu ái vô tận vô biên của Ngài.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 24-09-Tân Mão nhằm ngày (dl. 24-10-1951).
Q.4/27: KIẾP DUYÊN KIẾP QUẢ CỦA CHÚNG TA.
Đền Thánh đêm 30-09 năm Tân Mão (1951) (*1)
Đêm nay Bần Đạo giảng kiếp duyên, kiếp quả của chúng ta, chúng ta phải hiểu nghĩa kiếp duyên là gì? và kiếp quả là gì? Chúng ta biết đương nhiên kiếp sanh của chúng ta bây giờ đây ở trong cái tình trạng nào?
Kiếp quả theo chơn lý của Phật đã nói rõ rằng: Cái nhơn quả của ta nó làm cho chúng ta sanh nơi cõi trần này. Chúng ta có xác thịt thi hài làm người nơi mặt địa cầu này do nơi nhơn quả của chúng ta mà ra, đã mang căn kiếp số đương nhiên của chúng ta, do nơi nhơn quả của tiền kiếp, tức nhiên kiếp trước, rồi cái kiếp tương lai, cái kiếp sắp tới của chúng ta do nơi nhơn quả của kiếp bây giờ, chúng ta đã đào tạo ra nhân, bởi chúng ta đã đào tạo ra nhân, mới sanh ra quả, mà có quả tức nhiên chúng ta phải tái kiếp đặng đền cái quả ấy. Gọi là kiếp quả.
Bây giờ kiếp duyên là chúng ta có đủ làm phận sự trong kiếp sanh trước của chúng ta trọn vẹn nhơn đạo, trọn vẹn cái đạo làm người của chúng ta và đã gieo cái tình ái vô biên trong tâm thần của bạn đồng sanh của chúng ta, ta đã thi ân cho họ, ngày giờ này ta đến cho có mặt đặng cho họ trả cái quả kiếp của họ. Gọi là kiếp duyên hay là cái căn tu của chúng ta đã đạt đến một địa vị Thiêng Liêng của chúng ta gọi là siêu thoát, thì ta tái kiếp đặng mà đạt cái phẩm vị ấy nơi cõi này, tại mặt địa cầu này. Đó là chúng ta đã đào tạo cái nhơn duyên của chúng ta vậy.
Trong cái kiếp duyên của chúng ta có cái kiếp ngộ đạo là hạnh phúc hơn hết, và trọng hệ hơn hết, mà chính cái ngộ Đạo ấy, chúng ta có thể may duyên đến hội hiệp cùng Đại Từ Phụ, tức nhiên vào ngồi trong lòng của Đức Chí Tôn vậy. Cái kiếp duyên cao trọng hơn hết là đấy. Bần Đạo nói rõ. Mấy bạn yêu ái của chúng ta đương ở trong lòng thương yêu vô tận của Đức Chí Tôn nhập trong cái đại gia đình Thiêng Liêng của Ngài. Ngài đến nơi mặt địa cầu này là để cái dấu chơn của Ngài trên cái Cao Đài này, đặng Ngài làm cái dấu hiệu cho toàn thể con cái của Ngài đã hữu duyên gặp đặng Ngài, nó là nơi hội hiệp của nó, nghĩa là chúng ta ngày hôm nay ngồi trong cái Đền Thánh này, tức nhiên trong một cái cơ thể tượng trưng lòng yêu ái vô tận của Đức Chí Tôn, nó không phải tình cờ mà được vậy, chúng ta chung hiệp với nhau ngày hôm nay trong lòng yêu ái của Ngài nơi Đền Thánh này không phải do nơi cái may mà ra, chúng ta đã đạt đặng một kiếp duyên của chúng ta, hội hiệp cùng nhau chung cả hạnh phúc của chúng ta làm một khối Thiêng Liêng vô đối trong lòng yêu ái vô tận vô biên của Đức Chí Tôn, đặng cầm cái quyền năng yêu ái ấy rải khắp cho toàn thiên hạ được hưởng, có nghĩa là chúng ta có cái duyên phận đến đặng thọ mạng lịnh của Đức Chí Tôn phụng sự con cái của Ngài, cái phụng sự ấy là để tạo kiếp duyên cho họ, cũng như ta đã được may phước ngộ Đạo gặp Ngài nơi thế này.
Vị Thanh Tâm Tài Nữ trước kia vì tình mà chết, nên phải đầu kiếp, trước khi người đến tại nước Anh, người có đến đặng từ biệt chúng tôi, buổi ấy chúng tôi hỏi: Sao lại đến nước Anh, chớ không đến nước khác? Thanh Tâm Tài Nữ nói: Nhơn duyên của em nơi đó. Em cốt yếu đến nước Anh đặng đón đường Đức Chí Tôn đi ngang qua đấy. Thanh Tâm Tài Nữ làm như vậy là:
"Phải đủ căn sanh mới thấy Trời,
Ai ơi đừng tưởng dễ như chơi.
Nghe danh tuy chất chồng bên gối,
Cổ Phật không duyên khó gặp người".
Bần Đạo nói thật: Mấy bạn nam cũng thế, nữ cũng thế, đương chung hiệp cùng nhau nơi đây, cái buổi hạnh phúc của chúng ta là buổi nầy "Bá Thiên vạn kiếp nan tạo ngộ" không phải dễ mà gặp. Ta đã gặp đặng tưởng chắc nếu chúng ta hiểu rõ giá trị của nó, thì cái kiếp duyên của chúng ta đây dầu có của phú hữu tại mặt địa cầu này, cái danh giá cao trọng như thế mấy, cái hạnh phúc giá trị sang trọng thế mấy cũng xa cái giá trị của kiếp duyên như Trời với vực.
Phụ ghi:
(*1) Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Tháng 9 âm lịch năm Tân Mão (tháng thiếu) không có ngày 30. Ngày âl. 29-09-Tân Mão nhằm ngày (dl. 29-10-1951).
Q.4/28: KỂ ĐẠI CÔNG NGHIỆP CỦA ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG.
Đền Thánh đêm 12-10 năm Tân Mão (1951)
Ngày mai này là ngày Vía Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt, Bần Đạo xin để lời yêu cầu cả toàn thể con cái Đức Chí Tôn phải có mặt đông đủ đặng tỏ cái nghĩa của chúng ta đối với Người, một vị Đại Tiên đã giáng phàm, phận sự yếu trọng là đến đặng lập nền chơn giáo nơi thế gian này. Cái tiểu sử của Ngài, ngày mai này Bần Đạo sẽ minh tả. Chúng ta chỉ tìm hiểu thử coi cái hành tàng trong kiếp sống của Ngài để lại cho chúng ta một cái gương quí báu, Bần Đạo muốn nói ra đây đặng toàn thể con cái Đức Chí Tôn đối với Đạo hiểu cái phận của mình đặng định phận Đạo của chúng ta, đối lại với Đức Chí Tôn và đàn anh của chúng ta thế nào, cái kiếp sanh của chúng ta nơi thế gian này có hai sự nghiệp, sự nghiệp về linh hồn của chúng ta, nói rõ ra là cái sự nghiệp do nơi năng lực của tâm hồn ta gây tạo và cái sự nghiệp phần đời của chúng ta, nẽo đời nơi cõi thế này duy có mấy điều trọng yếu: Công danh, quyền lợi. Chúng ta nên xét đoán tìm thử coi công danh thể nào bền vững chắc chắn, công danh thể nào là tiêu hủy, mơ hồ bóng dáng.
Đức Quyền Giáo Tông buổi nọ lúc sanh tiền của Ngài, nếu nói rằng có một người Việt Nam đã được phẩm vị cao trọng, có thể phẩm vị ấy tạo công danh phú quí của Ngài toàn mãn đặng. Bần Đạo vốn là bạn thiết của Ngài nên biết rằng: Dầu cho cả chủng tộc buổi nọ, một vị Thượng Nghị Viên sang giàu mà Bần Đạo nói rằng chẳng hề buổi nào hưởng đặng cái hạnh phúc. Chính Ngài đã tỏ với Bần Đạo cái tình chí thiết nói rằng: Có nhiều chỗ của Ngài không muốn sống, Ngài muốn tự diệt Ngài đi mà chớ. Vì lẽ bất công, bất công cả thảy trong xã hội, nhứt là xã hội đồng bào của Ngài. Ngài bỏ cái công danh phú quí ấy, buổi nọ ai cũng chê Ngài khờ khạo, dại dột, Ngài đã bỏ, ta thử nghĩ Ngài bỏ đặng chi? Ngài bỏ cái công danh phú quí bóng dáng đó đặng Ngài tìm cái gì mà chớ? Có phải chăng Ngài đem công danh phú quí đổi lại một công danh phú quí trường tồn hay chăng?
Hôm nay chúng ta đến đây ai cũng có một cái tình cảm xúc, tại sao? Tại vì anh cả của chúng ta đã chịu khổ hạnh bảo tồn nền chơn giáo, ai cũng ngậm ngùi tình luyến ái.
Chúng ta xét cổ kim, chúng ta đã ngó thấy thiên hạ sống trong vinh hiển đã nhiều, đời sang giàu ai cho bằng Thạnh Sùng, Vương Khải, ai mà giàu sang quyền thế đạt một ngôi vị Đế Vương, giàu có bốn biển, thống nhứt cả nước Trung Hoa buổi nọ, Kiệt, Trụ, Sở Bá Vương, Tần, mà chúng ta thử xem lại coi cái công danh phú quí sang trọng ấy giờ phút này còn tồn tại chi chăng? Có tồn tại một món là Tần Thủy Hoàng tạo đặng Vạn Lý Trường Thành, thiên hạ nhìn nhận một vật phi thường số 8 mà giờ phút này chúng ta ngó thấy thiên hạ sửa soạn đập phá nó, để lấy cái nguyên liệu ấy đặng xây dựng đền đài, tiêu hủy tên tuổi Tần Thủy Hoàng để lại. Cái sống trong vinh hiển của đời này nó phải tùng theo khuôn luật, hình chất của con người còn công danh phú quí ấy vẫn còn, mà mất thì công danh phú quí ấy vẫn mất.
Hại thay! Còn mất ấy nó ở trong đời tạm con người một trăm năm là quá cao rồi. Chúng ta đã ngó thấy một người ăn mày với một bình bát đi xin đặng độ nhựt, đặng sống vì Đạo, cái bình bát ấy nó đựng cả Càn Khôn Vũ Trụ, cái bình bát ấy nó "đựng" cả tinh thần tâm hồn toàn thể nhơn loại là Đức Phật Thích Ca.
Một kẻ bị xử án, tội nhơn chết trên cây Thánh Giá không có một manh áo, chỉ trơ mình tấm thân trần (lỗ), kẻ ấy hôm nay làm Chúa của toàn thiên hạ trên thế gian này. Hai công danh tôi tưởng không cần gì để lên mặt cân mà lường, cả toàn thể con cái Đức Chí Tôn đã ngó thấy Quyền Giáo Tông của chúng ta biết lựa con đường ấy biết cái trọng, cái khinh, Ngài khôn ngoan hơn hết, bỏ cái khinh giữ cái trọng.
Chúng ta thử nghĩ, chúng ta vì gia đình là cho Tông đường ta và ông cha ta, tưởng ra nó còn lại với một cái tình yêu ái của toàn thể thiên hạ, cái nào hơn, cái nào thua, cái nào trọng, cái nào khinh, chúng ta không nói cũng có thể hiểu được.
Ước mong đoàn em của Ngài biết cái lập trường quí báu của mình đứng trong lập trường ấy thế nào đặng vững tinh thần, giữ danh thể, giữ cái oai võ của mình cho toàn vẹn giá trị mình.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 12-10-Tân Mão nhằm ngày (dl. 10-11-1951).
Q.4/29: LỄ KỶ NIỆM NGÀY QUI TIÊN CỦA ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG.
Tại Tháp Đức Quyền GIÁO TÔNG ngày 13-10 năm Tân Mão (1951)
Thưa Chư Chức Sắc Thiên Phong lưỡng phái, Quân đội cùng các anh em nam nữ, con yêu dấu của Đức Chí Tôn.
Ngày hôm nay là ngày vía của Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt, một ngày kỷ niệm nồng nàn. Khi Qua bước lên giảng đài này thì dường như Qua sống lại hai mươi mấy năm về trước, cái thời gian hai mươi mấy năm ấy, giờ phút này Qua tưởng tượng như giấc ngủ, giấc chiêm bao, chẳng có chi để lại cho ta hơn là một cái tình cảm nồng nàn.
Đức Quyền Giáo Tông đã vâng mạng lịnh và đã lãnh một trách nhiệm Thiêng Liêng đến tạo nền chơn giáo nơi đất Việt Nam nhỏ bé, bạc nhược, nếu Qua không nói là hèn hạ buổi nọ. Lãnh một cái sứ mạng ấy là cái sứ mạng đem cả công lý cả yêu ái đặng để nơi mặt thế gian này. Thật ra nhơn loại không buổi nào đặng hạnh phúc vì cái tình ái tuất thương sanh Đức Chí Tôn đã đem để vào tâm não của mỗi đứa, đã tiêu hủy.
Thật ra hồi ban sơ chỉ có ba người, Bần Đạo nói không có gì, Đức Chí Tôn đã đến một cách tình cờ, một cách không ai tưởng tượng được, khi Ngài đến thì chỉ có Đức Cao Thượng Phẩm và Bần Đạo mà thôi, về sau Bần Đạo và Đức Cao Thượng Phẩm mới đến nhà Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt đặng Chí Tôn chuyện vãn cùng người. Bần Đạo nói thật, Bần Đạo lấy làm ngạc nhiên một người đã đứng đầu trong một trường chánh trị đã chịu một ảnh hưởng của tình thế trích điểm cũng có, tôn sùng cũng có, khen cũng có, chê cũng có, buổi ấy bị họ ghen ghét nên chê nhiều hơn khen, chính mình Bần Đạo lấy làm lạ tại sao Đức Chí Tôn biểu Thượng Phẩm và Bần Đạo đến nơi đó? Để cái dấu hỏi mơ hồ, chẳng dè một người đó lại phi thường, giờ phút này Bần Đạo nói đến lấy làm lạ, một là từ thử đến giờ Bần Đạo chưa ngó thấy. Đến chuyện vãn cùng Ngài, Đức Chí Tôn nói cái chi, chỉ có hai người biết với nhau mà thôi, Bần Đạo và Thượng Phẩm chỉ là hai người dự thính không biết gì hết mà chỉ nói với nhau rồi họ hiểu với nhau mà thôi. Trong 24 giờ một người đã là Thượng Nghị Viên, một cái gia nghiệp đủ vinh hiển đủ cao trọng đủ đương đầu với thiên hạ. Trong 24 giờ bỏ hết, liệng hết mà thôi. Một cái là hơn hết là đương hút á phiện, người phong lưu như ai kia vậy, bỏ một cái một, rồi trường trai đó vậy. Một người của Bần Đạo ban sơ thấy Thượng Phẩm là có một, rồi sau lại có người này nữa. Ngồi nghĩ thầm cái đức tin gì mà lạ lùng như thế? Giờ phút này Bần Đạo mới hiểu hai vị Đại Tiên ấy, nếu không như thế ấy thì chưa hề Đức Chí Tôn đã giao phó một sứ mạng nặng nề khó khăn, để đảm nhiệm trách vụ tạo dựng gánh vác nền chơn giáo của Ngài nơi mặt thế này. Nói thật ra, thưa cùng Chức Sắc Thiên Phong Cửu Trùng Đài nam nữ cái ngôi của Ngài đã tạo dựng, cái ngôi Giáo Tông Đường của Ngài đã ngồi trên ấy, đầu tiên hết cái ngôi ấy nó sẽ để nơi đất Việt Nam này một cái báu vật quí giá vô cùng từ thử đến giờ chưa hề có.
Bần Đạo ngó qua bên Vatican, cái ngai của Đức Giáo Hoàng Saint Pièrre thế nào thì Bần Đạo có lẽ nói và có thể mơ ước rằng: Cái ngôi của Thượng Trung Nhựt lưu lại nơi thế này nó sẽ trở nên thế ấy. Anh em nam nữ lưỡng phái, giờ phút Thiêng Liêng này Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt ngự nơi đây để cho Bần Đạo nói với Ngài một đôi lời.
Anh Thượng Trung Nhựt, cái khổ nhục của anh, cái nghèo khổ của anh, ngày hôm nay nó đã được tượng hình, tượng hình vĩnh viễn nầy. Cái khổ nhục của anh đó, các em đã dùng nó đặng tạo nghiệp Thiêng liêng cho thế gian này, cái khổ nhục của anh nó làm ngọn huệ kiếm đặng bảo trợ đoàn em của anh, đem cái công lý, cái bác ái làm chúa của mặt địa cầu đặng chuyển lại cơ tận diệt trở nên một cái cơ tận độ. Anh ngó lại cái tương lai của Việt Nam và cái tương lai của Đạo. Em có một lời yếu thiết là đoàn môn đệ, đoàn con Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn đã phú thác cho những tay cầm vận mạng tương lai của Đạo. Anh đã chán biết mỗi một sanh mạng của nó trong quân sĩ, nó phải cỗi áo cà sa mặc chiến bào đặng chuyển thế, gieo bảo sanh nhơn nghĩa đại đồng cho toàn nhơn loại, mà anh đã biết cái tương lai của Đạo, em đã để nơi chúng nó một tình thương nồng nàn. Mỗi một sanh mạng của nó là một giọt huyết lệ của em. Em giao cái vận mạng của nó trong tay anh, anh đã có làm anh, có thể bảo thủ nên hư thời vận tương lai sẽ tới, em để trọn vẹn và em đã phú thác trọn trong tay của anh đó vậy.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 13-10-Tân Mão nhằm ngày (dl. 11-11-1951).
Q.4/30: LỄ KỶ NIỆM DI LIÊN ĐÀI CỦA NGÀI QUA THÁP MỚI.
Tại Tháp Đức Quyền Giáo Tông ngày 13 tháng 10 năm Tân Mão (1951)
Hôm nay là ngày kỷ niệm qui tiên của Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt, Bần Đạo chỉ cần nhắc tiểu sử của Ngài, bởi vì toàn thể con cái của Đức Chí Tôn nam, nữ, đều biết rõ kiếp sanh của người anh cả chúng ta thể nào rồi, Bần Đạo có thuyết ra đi nữa cũng thừa. Có một điều về tâm lý cao thượng của tinh thần, Bần Đạo trạng tả ra đây là khi Bần Đạo đặng hạnh phúc làm tròn cái phận làm em.
Anh cả chúng ta thiên hạ tưởng là chết, nhưng vẫn sống... Chết gì còn nói được, chết gì mà để khối tinh thần trong đầu óc anh em còn hiện diện tại đây?
Chúng ta đương hành lễ, anh cả của chúng ta về để lời cám ơn, trong lời cám ơn ấy có điều yếu trọng hơn hết, Bần Đạo giải nghĩa điều yếu trọng ra đây cho toàn con cái Đức Chí Tôn đều biết, tưởng nếu lời trọng yếu ấy mà anh cả của chúng ta không có nói thì chưa ai tưởng tượng lời cảm ơn ấy được. Tuy vẫn biết xác thịt người là xác chết, xác phàm này là con vật không có gì hết, mà mấy em nam nữ tôn sùng quí trọng, là cốt mấy em sùng bái Thánh Thể Đức Chí Tôn mà thôi, nói nội bấy nhiêu đó cũng đủ làm bài học quí báu cho toàn thể Chức Sắc nam nữ. Hội Thánh là thánh thể Đức Chí Tôn vậy.
Xác chết đã hết giá trị rồi, mà chúng ta còn muốn tôn sùng cái giá trị ấy cao thượng hơn, giờ phút này lời anh cả chúng ta đã nói, so sánh lại xác chết của anh cả chúng ta và cái kiếp của Thánh Thể Đức Chí Tôn, hai cái địa vị như thế nào, chúng ta đã có can đảm tôn sùng xác chết của Đức Quyền Giáo Tông như thế này, thì đối với giá trị tôn sùng xác sống của Đức Chí Tôn, tức nhiên là Hội Thánh, thì nó còn giá trị quí báu hơn nữa chớ! Sự thật nó vẫn vậy, chúng ta tự hỏi: Nếu chúng ta muốn đạt cho đặng cái giá trị cao thượng ấy, chúng ta phải làm thế nào? Và làm thể nào cho đáng giá? Ấy là câu hỏi nên để mãi trong đầu óc hay hơn lời của Đức Chí Tôn để trong lòng chúng ta nữa. Những lời hay của anh cả chúng ta, một người vì đức tin nơi Đức Chí Tôn, dám hy sinh cùng Ngài, làm cho chúng ta phải học.
Thảng như chúng ta suy gẫm đến điều này thì thấy trước kia anh cả chúng ta sống trong trường quan lại, là một vị Thượng Nghị Viên tức nhiên là một tước phẩm tối cao của xã hội Việt Nam buổi nọ, Ngài đã biết cái giá trị thọ lãnh nơi Đức Chí Tôn và cái giá trị thọ lãnh cùng đời và có can đảm quyết đoán cái khinh, cái trọng, mới có can đảm bỏ cái hình đương thời có giá trị hiển nhiên, mà lấy cái bóng không có giá trị gì hết, buổi nọ họ mạt sát khi rẻ, mà Ngài có can đảm hay chăng chúng ta đã ngó thấy, người cầm con cờ nơi tay và chỉ có nước ăn, nước thua, mà Ngài biết cầm con cờ đi nước thắng. Ngài dám gởi tâm hồn hình thể của Ngài nơi tay của Đức Chí Tôn giá trị buổi nọ coi rẻ thế nào? Mà ngày giờ này, cái giá trị ấy nó có uy quyền thế nào, Bần Đạo để cho toàn thể con cái Đức Chí Tôn ngó thấy.
Nơi mặt địa cầu này, dầu cho giá trị nào, hay hàng phẩm nào, dầu cho bực vương đế đi nữa, mà không có tinh thần của Đức Chí Tôn để trong đó là đồ bỏ không có giá trị gì hết, mà cũng không khi nào vĩnh cửu, trường tồn được. Chúng ta đã ngó thấy đài Tần, đỉnh Hớn kia như thế nào mà dám chắc tương lai của nó không bằng cái tháp này. Cái tháp này sẽ trường cửu, đài Tần, đỉnh Hớn kia sẽ bị tiêu tan.
Bần Đạo nói ra đây cho toàn thể con cái của Đức Chí Tôn hiểu biết cái sứ mạng tối yếu, tối trọng của chúng ta là thể nào đó vậy.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 13-10-Tân Mão nhằm ngày (dl. 11-11-1951).
Q.4/31: NGÀY LỄ CỦA HỘI QUỐC LIÊN NHƠN QUYỀN.
Đền Thánh đêm 11 tháng 11 năm Tân Mão (1951)
Hôm nay là ngày Hội Quốc Liên, là ngày kỷ niệm tuyên dương của Hội Nhơn quyền. Nhơn Quyền của Hội Quốc Liên hôm nay do căn bản của Hội Nhơn Quyền do Pháp đào tạo và là cái danh dự cao trọng của Pháp hơn hết. Y như lời Bần Đạo đã thuyết minh ngày lễ của Hội Quốc Liên về cái danh dự tạo Hội Nhơn Quyền cho nhơn loại, cái danh dự nước Pháp đã đạt đặng và đã đem lại cái danh thể cho nước Pháp thêm lớn lao với toàn cả thiên hạ, là chính nước Pháp đã đề xướng Nhơn quyền. Phàm mỗi việc nó khởi đương ra vẫn nhỏ rồi mới biến sanh ra lớn, mỗi sự chi ở thế gian này, vận mạng con người vẫn do theo cái luật tiến triển của tinh thần của hình thể, của năng lực cả toàn nhơn loại trên mặt địa cầu này. Ban sơ tại sao và do nơi cớ gì đã xuất hiện Hội Nhơn Quyền của nước Pháp buổi nọ? Có một vị sĩ quan kia tên Dreyfus bị cường bức phải mất chức và bị lao tù, nhưng cái lẽ bất công ấy một người không thể chi minh oan đặng. Các bạn đồng kiếm phương giải cứu. Một khối người họ nghĩ cũng chưa đủ, thế nên họ phải đề xướng lên làm thế nào cho toàn cả quốc dân nước Pháp phải chung hiệp với họ, đặng đem nhơn đạo lại cho kẻ hàm oan nhờ và tranh đấu đặng quyết định thâu hoạch nhơn quyền, các Hội viên của Hội Nhơn Quyền gọi danh là Dreyfusards, thành thử buổi nọ có nhiều trường hợp chiến đấu kịch liệt, một bên nhà cầm quyền, một bên nhứt định phản kháng cái bất công của chánh phủ làm phương nào cứu đặng Dreyfus ra.
Họ chiến đấu một cách khó khăn nhưng mà họ đã đắc thắng. Ngày hôm nay cả toàn thể thiên hạ tức nhiên các liệt cường điều nhìn nhận rằng: Tổ chức ấy rất trọng yếu, chánh đáng cho toàn thể nhơn loại được hưởng vậy, vì cớ cho nên Hội Quốc Liên mới tuyên dương ra các nước dân chủ trên mặt địa cầu này, cả thảy điều tùng theo cái tổ chức ấy và thiệt hiện cho toàn thể quốc dân hưởng quyền sở hữu làm người của họ. Cái sở năng của họ muốn cho nhơn quyền đạt đặng làm thế nào cho cả toàn thể dầu cho cá nhân, dầu cho xã hội nhơn quần điều đặng tự do, tự do tín ngưỡng, tự do tư tưởng, tự do sinh sống, tự do định phận của mình đối với mọi người bất cứ xã hội nào, cần yếu là trong tự do ấy họ có cái đặc phận đối với xã hội của họ mà thôi.
Ấy vậy, hôm nay tại sao chúng ta là Đạo Cao Đài mà làm lễ long trọng dâng sớ cho Đức Chí Tôn, cầu nguyện Thiêng Liêng bảo hộ, binh vực cái tổ chức ấy được thiệt hiện nơi mặt địa cầu này. Bởi chúng nó là khuôn khổ cho nhơn đạo, nó phải có để giúp Đạo Cao Đài dìu dắt nhơn loại đi đến đại đồng thiên hạ trong bác ái công bình.
Bao giờ cái phản động lực của mình cũng do nơi quyền năng vô đối của năng lực nhơn quyền Thiêng Liêng kia đã đem đến, hễ có dữ, có hiền, vì có bất công, vì có đau khổ, của những kẻ cô thế bị cường quyền áp bức, họ không biết nương tựa nơi đâu đặng họ tự vệ lấy họ, tự bảo lấy họ, cái bất công ấy dẫy đầy nơi mặt thế gian này. Vì cớ mới sản xuất phản động chủ nghĩa, phải có một phương pháp chi bảo vệ nhơn quyền của họ, bằng chẳng vậy cái lẽ bất công trên mặt địa cầu này, chúng ta đã đoán xét thấy một tấn tuồng trước mắt làm cho thiên hạ đau khổ không thể gì giúp đặng, nên mới sản xuất ra phản động lực mạnh mẽ bảo vệ Hội Nhơn Quyền. Phải có một năng lực bảo vệ đặng đối thủ với lẽ bất công xã hội ấy đã làm cho thiên hạ phải thống khổ, làm cho thiên hạ phải ly loạn, phải tương tàn tương sát với nhau, sanh ra một cơ tận diệt.
Muốn đem lại hạnh phúc hòa bình, hòa bình thiệt hiện được, phải bảo vệ quyền hành cho cá nhân, cho xã hội và cho toàn thể nhơn loại, tất phải đem lại công chánh bác ái để nơi mặt thế gian này mới đặng. Vì cớ cho nên Đức Chí Tôn khiến Hội Quốc Liên dung nạp cái tổ chức Hội Nhơn Quyền của Pháp đặng tuyên dương cùng toàn mặt địa cầu đặng thiệt hiện đại đồng thiên hạ đó vậy.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 11-11-Tân Mão nhằm ngày (dl. 09-12-1951).
Q.4/32: QUYỀN LỰC ĐẠO ĐỨC NHƠN NGHĨA.
Đền Thánh đêm 14 tháng 11 năm Tân Mão (1951)
Đêm nay Bần Đạo giảng về cái quyền lực đạo đức nhơn nghĩa. Chúng ta đã hạnh phúc nhờ Đấng Đại Từ Phụ đã đến chung hiệp cùng chúng ta và giao phó cho chúng ta một cái sứ mạng Thiêng Liêng, là làm thế nào cho cả toàn thể con cái của Ngài, tức nhiên là Vạn Linh hiệp đồng làm một cùng nhau. Vì cớ cho nên Ngài đã dạy cho ta hiểu rõ cả cái thể Tạo đoan cái quyền lực thiên nhiên Đại Từ Phụ đã vạch rõ cho chúng ta thấu hiểu, thấu đáo đặng huyền vi mầu nhiệm ấy, sao là sanh, sao là tử, sao là còn, sao là mất? Chúng ta đã hiểu rõ rằng: Cuộc thế này nó ở trong khuôn luật tiến triển buộc vạn vật và các đẳng linh hồn phải tiến triển mãi thôi, cơ thể tiến triển của nó muôn hình ngàn tướng đạo pháp vô biên, chúng ta chẳng vì lẽ ấy, vì lẽ cơ thể tiến triển của nhơn loại hay là các xã hội nơi mặt địa cầu này mà tủi phận. Chúng ta lấy làm hãnh diện rằng: Đối với Đạo Cao Đài cả cơ thể của Đạo không có chi là lạ, không có làm cho họ ngạc nhiên chút nào hết. Bởi họ hiểu thấu huyền vi mầu nhiệm sống chết còn mất của họ, nếu lấy đạo đức làm căn bản bảo sanh cho họ, thì chúng ta bất quá giống như kẻ bàng quang kia vì thấy một nhơn vật họ không biết cái sống của họ, họ chưa định giá trị kiếp sống của họ hay là phương sống của họ. Chúng ta để lòng khuyên nhủ dìu dẫn vậy thôi, còn nên đặng hay hư của họ vốn là chuyện chúng ta không có thể gọi rằng trọng hệ cho lắm, đạo đức nhơn nghĩa giá trị thế nào mà thiên hạ lại không ngó thấy rõ, hiểu cho thấu đáo, biết tận tường giá trị của nó thế nào đặng lợi dụng lấy nó làm cái phương sống của mình. Trên xã hội nhơn quần nơi mặt địa cầu này, xét ra thì họ bỏ cái quí, mà họ ham cái khinh, họ biết rằng: Trong kiếp sống của họ muốn bảo tồn cho đặng không thế gì họ xa đặng đạo đức nhơn nghĩa. Từ thượng cổ đến giờ, dầu cho cá nhân, dầu cho xã hội, dầu cho toàn thể nhơn quần, hỏi nếu họ muốn sống cho yên, cái sống của họ đặng hạnh phúc, cái sống của họ bền bỉ ta thử để dấu hỏi: Họ có xa được đạo đức nhơn nghĩa hay chăng?
Nói vậy cá nhơn chẳng cần gì luận tinh thần, hành vi quân tử, trượng phu, ta tỷ lại một kẻ tiểu nhơn, kẻ tiểu nhơn hèn tiện kia, hỏi muốn bảo vệ cái sống của nó, nó có buộc mình phải giữ đạo đức nhơn nghĩa hay không chớ? Dầu cho nó thiệt hay giả, đạo đức nhơn nghĩa thiệt hay giả, nó cũng phải nương đạo đức nhơn nghĩa mà sống. Tỷ xưa, lấy cái tỷ xưa kia so sánh, Bần Đạo nói cái năng lực của Đức Khổng Phu Tử, Ngài có một người học trò là Nguyên Hiến, Nguyên Hiến là một người thế nào, mà lại có một người em tàn bạo hung ác là Đạo Chích, Thầy Nguyên Hiến khẩn cầu Đức Khổng Phu Tử giáo đạo giùm em. Đức Khổng Phu Tử gặp Đạo Chích, Ngài luận Tam Cang Ngũ thường. Ngài nói nếu con người đã sanh ra dưới thế này mà thiếu Tam cang Ngũ thường không đáng làm người. Đạo Chích trợn mắt hỏi: Sao Ngài biết rằng tôi không có Tam Cang Ngũ thường? Tôi có đủ chớ, tôi gom cả toàn thể lâu la lại, làm chủ trại của nó, làm Sơn Vương của nó không phải có Quân hay sao? Chúng nó phụng sự tôi, hễ lớn thì đồ vương định bá, còn nhỏ thì làm tướng cướp, nó phụng sự tôi là vị Thần, như vậy mà không có Quân, Thần sao? Đứa nào nội bọn cướp đây lại không có đủ con vợ tức nhiên thê nhi của nó.
Luận đến Nhơn, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, lấy của kẻ giàu đặng nuôi nấng kẻ nghèo không phải nhơn sao? Nghĩa biết đồng sanh đồng tử với nhau mới hiệp quần cùng nhau lập đảng cướp của người không nghĩa sao? Trí, biết của người ta để nơi nào mà lấy không phải là trí sao? Tín, ăn đều chia đủ, mỗi lần giựt của rồi ăn chia đều đủ không phải giữ tín với nhau hay sao? Nếu chúng tôi không có giữ trọn vẹn với nhau như thế đó, không thể giữ đảng cướp của chúng tôi còn tồn tại. Kẻ cướp của thế gian này là Ngài chớ: Ngài lấy ba tấc lưỡi của Ngài, không cày có ăn, không dệt có mặc, kẻ cướp là Ngài chớ phải tôi đâu (nó có thể lấy nhơn nghĩa của nó tạo nghiệp được).
Luận xa hơn nữa, thiên hạ tưởng cái võ lực của họ là hơn hết, nếu võ lực quả nhiên bảo thủ cái sống của họ còn tồn tại, thì Sở Bá Vương kia, nào bạo Tần nọ, hỏi cái nghiệp của họ còn bền bỉ hay chăng, nếu không có thượng cờ nhơn nghĩa thì cái nghiệp Hớn không còn tồn tại tới 800 năm, không có thượng cờ nhân nghĩa thì nhà Châu chưa hề cướp đặng cái Đế vị của nhà Trụ. Lấy nhơn nghĩa mà luận thế gian này, giờ phút này, dầu cho liệt cường nào họ cũng phải dùng màu nhơn nghĩa đứng trước thiên hạ đặng làm bá chủ thiên hạ, họ cũng phải mượn màu nhơn nghĩa, chúng ta đã ngó thấy hiện tượng.
Ấy vậy, đạo đức nhơn nghĩa là cái huờn thuốc sống của kiếp sanh nhơn loại, dầu cho cá nhân, dầu cho xã hội, dầu cho toàn thể nhơn quần cũng vậy, nếu họ bỏ đạo đức nhơn nghĩa tức nhiên họ tự diệt lấy họ, họ tự kêu án tử hình lấy họ. Chúng ta thử để mắt coi cái con đường của nhơn loại họ tàn ác khởi dậy quá lẽ tưởng tượng, hung bạo ấy nó sẽ đi đến mức nào cho biết! Nếu có còn đi tới nữa sẽ tự diệt, nhơn loại sẽ bị tự diệt, mà nếu muốn sống còn của nó, Bần Đạo nói quả quyết rằng: Nó phải trở lại, sống trở lại với lẽ đạo đức nhơn nghĩa mới bảo tồn sanh mạng đặng.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 14-11-Tân Mão nhằm ngày (dl. 12-12-1951).
Q.4/33: LỄ KỶ NIỆM ĐỨC CHÚA JÉSUS CHRIST.
Đền Thánh đêm 26 tháng 11 năm Tân Mão (dl. 24-12-1951)
Đêm nay là ngày kỷ niệm của Đức Chúa Jésus Christ tức nhiên Chúa Cứu Thế Giáng Sinh.
Từ khi mở Đạo đến giờ cả Thánh Thể Đức Chí Tôn và Bần Đạo đã thuyết minh một cái đời hy sinh đạo đức của Ngài, cả thảy đều biết, không cần thuyết lại nữa, lập đi lập lại cũng không bổ ích vào đâu cho lắm. Chúng ta thử tìm trong các Thánh ngữ của Ngài để lại. Hiểu thấu cái huyền vi bí ẩn đạo giáo của Ngài thế nào, cái ấy có lẽ hữu ích hơn, nên Bần Đạo lấy lời triết lý của Ngài đã nói lưu trong Thánh ngữ của Ngài để lại cho các Thánh Tông Đồ có câu nói cao sâu bí ẩn mà thiết thật làm sao, hay làm sao. Ngài nói rằng: Biết hy sinh cái chết đặng đạt cho đặng cái sống. Vì lời Thánh giáo ấy mà những kẻ tìm Đạo thường hay bàn luận tìm cái nghĩa lý của nó, Đức Chúa Jésus Christ đã sanh ra thì bị cường bức Đạo của Ngài truyền giáo thiên hạ không hiểu thấu và người ta đã bắt bớ, người ta đã đè nén, người ta đã âm mưu hại Ngài, cho nên lời nói ấy cốt yếu giục các môn đệ của Ngài quyết chiến đấu và quyết thắng, điều ấy chưa phải lẽ.
Bần Đạo đã thuyết minh tới đây, kẻ thì nói đến Ngài lập nền Thánh Giáo của Ngài, Ngài lập cái đền thờ thiêng liêng Đạo Giáo của Ngài tại thế gian này, Ngài xưng mình là con chiên hy sinh đặng làm con tế vật của Đức Chúa Trời, để cứu rỗi tội tình thiên hạ, tức nhiên con chiên chí thánh, tánh mạng của Ngài, thi hài của Ngài chịu chết trên cây Thập Tự Giá, cốt yếu làm con tế vật ấy để dâng cho Đức Chí Tôn đó vậy. Sự hy sinh của Ngài làm con tế vật ấy là Thánh Thể, tức nhiên của toàn cả tín đồ tin tưởng nơi Ngài, đã thọ phép chơn giáo của Ngài coi như Đấng chí thánh. Vì lẽ ấy cho nên Ngài thuyết câu đó, cốt yếu Ngài dám hy sinh tử đạo đặng bảo thủ chơn truyền của Ngài, cũng có lý nhưng chưa phải lẽ, cái bí mật trong lời nói ấy là vầy: Phải biết làm sao cái chết thật, mà phải biết làm sao cái sống là thật. Cái sống và cái chết, ta cũng nên tìm hiểu điều ấy. Vả chăng chúng ta sanh ra có hai cái sống và có hai cái chết. Chúng ta ngó thấy xác thịt của chúng ta không phải là cái sống, bởi vật thể nó phải chịu tiêu hủy tức nhiên nó phải chết mà thiệt cái chết của nó, chẳng phải chết gì cái xác thịt mà thôi, mà chết vì danh giá, kiếp sống của mình, cái lời nói là chết. Còn bây giờ cái sống không phải cái xác thịt chúng ta đã ngó thấy trước mắt, bất quá con người sanh ra một trăm năm là nhiều rồi chết trước mắt. Ấy vậy cái sống thật chỗ nào? Cái sống thật của chúng ta là cái sống về tinh thần hiện tại của chúng ta cho trường tồn, tức nhiên nó về linh hồn chúng ta vậy. Cái đó mới thiệt sống, cái sống với linh hồn là cái sống thật, sống với xác thịt tức nhiên sống giả. Bây giờ còn cái sống nữa, sống thế nào đồng sống cả vạn loại, cả cái sống đại đồng sống trong cái sống ấy mà muốn đồng sống, chúng ta phải hiệp làm một cùng vạn loại, biết nó là cái sống của mình, biết mình là cái sống của nó. Cái sống ấy là cái sống của Đức Chí Tôn nắm trong tay của Ngài đó vậy. Cái sống trên cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống của Ngài đã tạo dựng cho nó, trước khi ta đến đầu kiếp làm con người ở mặt thế gian này, cái sống ấy phải sống.
Bây giờ luận theo Đức Chúa Jésus Christ, phải biết hy sinh cái chết, mới tìm cái sống. Đạo giáo nào kiếm mắc mỏ khó khăn, chớ Đạo giáo Cao Đài Đức Chí Tôn để bí pháp ấy trong Thánh Thể của Ngài. Ngài nói những kẻ nào dám chết về đời, sống vì Đạo, những kẻ ấy mới đáng làm Thánh Thể của ta nơi mặt thế gian này. Cả toàn Thánh Thể đã hiểu lắm, tới phẩm Giáo Hữu phải chết, chết vì đời rồi sống lại, sống vì Đạo. Tức nhiên Đức Chúa Jésus Christ nói cao sâu rằng: Nếu ai đã biết ai, đã biết cái sống của chúng ta đã ban cho mà dám hy sinh cái kiếp chết của họ, là cái xác thịt này thì mới đạt đặng cái sống trường tồn vĩnh cửu, tức nhiên Thiêng Liêng Hằng Sống của Cha ta đã dành để.(*1)
Bần Đạo thuyết điều ấy cốt yếu nói cả toàn thể con cái của Đức Chí Tôn, dầu cho hàng tín đồ nam nữ dĩ chí Đại Thiên Phong cũng vậy, mỗi phần tử Thánh Thể của Ngài phải biết cái mạnh của mình là cái sống thật, cái yếu của mình là cái sống giả, phải có can đảm hy sinh cái chết, cái thi hài thúi tha của ta đây đặng mà đạt cho đặng cái danh hằng sống và chúng ta đặng ngôi vị Thiêng Liêng Hằng Sống nơi cửa Thiêng Liêng kia của Ngài đã dành để, tức nhiên là đại nghiệp của Ngài đã chia chung cho mỗi đứa con. Đức Chí Tôn nói rằng: Thầy đành để đại nghiệp cho các con, Thầy không có quyền đem cho kẻ khác duy có kẻ nào từ bỏ, thì Thầy mới có quyền đem cho kẻ khác mà thôi. Cái sống đó mới sống thật, sống trường tồn sống vĩnh cửu. Sống Thiêng Liêng Hằng Sống của Đức Chí Tôn mới thật sống đó.
Phụ ghi:
(*1) Nơi đoạn thứ 5: Bây giờ luận theo Đức Chúa Jésus Christ, phải biết hy sinh cái chết, mới tìm cái sống... ... ... Tức nhiên Đức Chúa Jésus Christ nói cao sâu rằng: Nếu ai đã biết ai, đã biết cái sống của chúng ta đã ban cho mà dám hy sinh cái kiếp chết của họ, là cái xác thịt này thì mới đạt đặng cái sống trường tồn vĩnh cửu, tức nhiên Thiêng Liêng Hằng Sống của Cha ta đã dành để.
• Chúng tôi nghĩ câu trên có thể là:
Bây giờ luận theo Đức Chúa Jésus Christ, phải biết hy sinh cái chết, mới tìm cái sống... ... ... Tức nhiên Đức Chúa Jésus Christ nói cao sâu rằng: Nếu ai đã biết, đã biết cái sống của chúng ta ai đã ban cho mà dám hy sinh cái kiếp chết của họ, là cái xác thịt này thì mới đạt đặng cái sống trường tồn vĩnh cửu, tức nhiên Thiêng Liêng Hằng Sống của Cha ta đã dành để.
• Hay có thể là:
Bây giờ luận theo Đức Chúa Jésus Christ, phải biết hy sinh cái chết, mới tìm cái sống... ... ... Tức nhiên Đức Chúa Jésus Christ nói cao sâu rằng: Nếu ai đã biết, ai đã biết cái sống của chúng ta ai đã ban cho mà dám hy sinh cái kiếp chết của họ, là cái xác thịt này thì mới đạt đặng cái sống trường tồn vĩnh cửu, tức nhiên Thiêng Liêng Hằng Sống của Cha ta đã dành để.
• Hay có thể là:
Bây giờ luận theo Đức Chúa Jésus Christ, phải biết hy sinh cái chết, mới tìm cái sống... ... ... Tức nhiên Đức Chúa Jésus Christ nói cao sâu rằng: Nếu ai đã biết cái sống của ta đã ban cho mà dám hy sinh cái kiếp chết của họ, là cái xác thịt này thì mới đạt đặng cái sống trường tồn vĩnh cửu, tức nhiên Thiêng Liêng Hằng Sống của Cha ta đã dành để.
Q.4/34: THUYẾT MINH CHỮ ĐẠO.
Đêm 14 tháng 12 năm Tân Mão (1951)
Đêm nay Bần Đạo giảng một cái đề cũ mèm mà toàn thể đều nghe, là buổi giảng về chữ Đạo.
Chúng ta đã ngó thấy các nền Tôn Giáo xưng mình là Đạo, chúng ta thấy họ lạm dụng Đạo quá lẽ, nhưng chúng ta không thể gì cải chối được tại lý do nào?
Bần Đạo thuyết minh chữ Đạo, từ khi tạo thiên lập địa có loài người đến giờ, thì vì trí khôn ngoan linh hoạt của chúng ta thấy trạng thái của Càn Khôn Vũ Trụ vô biên vô tận, vô đoán và thấy cái bí ẩn huyền linh đang điều động cả cơ thể tạo đoan mà chẳng có một ngôn ngữ miệng lưỡi nào đặt ra tên cái huyền linh ấy đặng, nên để chữ Đạo, tức nhiên chúng ta đã giải rõ là cương danh viết Đạo (Không biết đặt tên gì nên để chữ Đạo) trong cái trạng thái ấy, chúng ta ngó thấy nó có động, có tịnh, động tức nhiên "Dương quyền" Dương quyền biến sanh Càn Khôn Vũ Trụ, trong sanh hoạt của nó, chúng ta ngó thấy có khi nó ổn định đặng nó đào luyện cái thể chất của nó tức là "Âm Quyền" đó vậy.
Bần Đạo lấy tỷ thí con vật chúng ta dễ hiểu hơn hết là con tằm, khi nó còn là con sâu tức nhiên Dương, nó vận động đặng sống, nó ăn, nó lớn rồi chín, nó kéo tơ làm ổ, bây giờ tới Âm, tức nhiên đặng biến ra nhộng bất động, đặng nó định cái thể của nó.
Trong vạn vật ở mặt địa cầu này có hai trạng thái luôn luôn, cái sanh của nó, phải tùng theo khuôn luật tạo đoan, nó phải phù hạp lại với hình thể, tức nhiên cái sống phải phù hạp với cái chết đặng biến hình, cũng như con nhộng bất động, nếu đem tay nắm lấy nó thì nó chết. Vì như vậy là trái với khuôn luật tạo đoan, tức nhiên nghịch lại Đạo.
Linh hoạt vô biên vô tận, là không gian thời gian biến chuyển không ngừng, Đạo để pháp luân thường chuyển, nó do nơi không gian, thời gian biến ra hình trạng chớ không khi nào trong thời gian ấy dìu dẫn cho nó biến chuyển. Vì cớ cho nên trong kinh Phật Mẫu để "Thập thiên can bao hàm vạn tượng, tùng địa chi hóa trưởng Càn Khôn" tùng Vũ Trụ là do nơi đại thể của nó trong vạn vật, cái đại thể của nó thế nào, là cái tiểu thể cũng vậy, một khuôn luật ấy mà thôi, nó phải tùng theo khuôn luật đã định, tức nhiên pháp luân ấy người xưa không biết hình trạng, không hiểu quyền năng thế nào nên để chữ Đạo.
Ấy vậy, Đạo vì tinh thần, vì thể chất của vạn vật hữu hình mặt thế gian này đặng nó sống, biết định cái chết, định cái sống, hay biết định cái thể của nó, cái thể định vận mạng, cái thể định tính, hai cái đó tương hiệp với nhau, phù hạp với nhau một khuôn luật là Đạo, bằng trái lại là nghịch Đạo, mà hễ nó thuận thì nó còn, nó nghịch nó phải tiêu diệt.
Bây giờ luận các Tôn giáo, họ lấy một triết lý của cơ thể tạo đoan trong pháp luân thường chuyển mà định giáo lý của họ, nhưng có một điều trọng yếu hơn hết là toàn cả cơ thể tạo đoan tức nhiên Đạo, mà mỗi một điều chi cũng đều để Đạo, chữ Đạo họ không biết, chúng ta không thể cải chối, trong hình thể đó họ lợi dụng, nhưng sự thật Đạo của họ chỉ có một phần ngàn trong chữ Đạo mà thôi, chớ không phải thật Đạo.
Bây giờ Đức Chí Tôn để trong nền Tôn giáo của Ngài hai chữ Đại Đạo, đó là Ngài để hình tượng bao trùm toàn thể vô biên đó là Đại Đạo, nếu Ngài không nói thì chúng ta không làm sao biết được, suy đoán đươc. Ngài luận chữ Đạo thì nó bao trùm hết, vì cớ cho nên có cơ quan sanh hóa, Đức Chí Tôn đã tạo Càn Khôn Vũ Trụ trong quyền năng ấy. Chúng ta nhìn biết có một chủ quyền đặng định khuôn luật của nó, nếu không có chủ quyền duy nhứt thì cả vạn vật trên Càn Khôn Vũ Trụ không thể gì còn.
Trong cái hình thể tối thiểu của nó, từ tiểu nguyên tử và đến các tinh đẩu trong thế giới nó vẫn định ở trong đại thể của nó, chúng ta không thể gì suy đoán, nếu không có huyền linh vô đối của Đấng đã cầm quyền tạo đoan thì không có ai làm chủ nó được, vì cớ cho nên chúng ta đã ngó thấy quyền năng ấy định quyền người chủ của nó, ta mới định quyền người chủ.
Từ trước đến giờ, nhứt là trong nền văn minh Á Châu chúng ta đã ngó thấy, không có tên chúng ta không dám để tên, duy để nhứt đại, nghĩa là một lớn mà thôi, do nơi nhứt đại ấy mà Đức Chí Tôn tạo nền chơn giáo của Ngài để là Đại Đạo.
Ấy vậy, Bần Đạo nói, Giáo lý của mỗi nền Tôn giáo đều khác nhau, nhưng nó có hình ảnh của một nền Tôn giáo, cho nên họ xưng mình là Đạo, chúng ta không thể cải chối, duy chúng ta nên biết rằng pháp luân đạo pháp vô biên kia, hình ảnh kia, vô biên vô tận, thì chúng ta chỉ nhìn rằng: Một Tôn giáo nào đã tùng theo khuôn luật tạo đoan đúng mực thước về danh lý của nó, biến tướng của nó theo một khuôn luật tối thiểu, thì chúng ta nhìn. Còn ngoài ra, trái lại chữ Đạo, chúng ta có quyền giục họ tiến hay không để họ tiến vậy thôi. Chúng ta không thể gì cải chối được, chúng ta không có quyền công kích hay sửa cải được.
Bần Đạo nói trong vạn vật từ thảo mộc đến thú cầm vật chất, thảo mộc đến thú cầm không có được hai cái mầu nhiệm là "Định thể" của nó và huyền linh của nó. Gồm hai món đó ở trong sống chết của nó. Ta biết Đạo, ta hiểu rõ mối Đạo là ta sống, nếu chúng ta trái Đạo ấy thì chúng ta dầu có sống tự do đi nữa, thì cũng như chúng ta đã lên án lấy cái chết của ta, tức nhiên chính mình chúng ta đã lên án lấy mình.
Nếu nói kẻ kia vô Đạo, người nọ thất Đạo hay là họ chối Đạo. Họ làm sao chối cái sống của họ được? Chúng ta chối được hay chăng là chối cái hình ảnh của họ và cái thể xác của họ mà thôi.
Trong vạn vật có quyền cải chối cái sống của họ chăng? Mà gọi họ chối Đạo? Có người không biết chữ Đạo là gì xưng rằng nghịch Đạo, cải Đạo là mâu thuẩn, là dốt nát, chính mình họ không biết họ, thì luận với ai chớ.
Trong thể pháp tinh thần của chúng ta, chúng ta sống trong hai cái đó, sống với hình thể, sống với tinh thần, là ta đã đặng một đặc ân của Đức Chí Tôn ban cho. Hại thay trong cái đặc ân ấy, Đức Chí Tôn cốt yếu để cho chúng ta đau khổ, sống trong cảnh đau khổ đặng biến hình, biến thể, mà biến sanh hoặc chúng ta thấy kiếp sống mà đi tới, đi từ con đường phàm dĩ chí Phật vị, là ngôi vị của Đức Chí Tôn dành để cho mỗi đứa con. Chúng ta có thể đi tới phẩm vị Trời nữa mà chớ.
Hễ luận theo cái khuôn luật tạo đoan ấy, đặng định tiến triển của ta, thì ta thuận Đạo, đạt Đạo, còn trái lại là theo con đường vật loại, là Đời, tinh thần mà ta bỏ, tức nhiên chính mình chúng ta từ chối địa vị thiêng liêng ta có, hay là chúng ta tự lên án cho chúng ta ai đã chối Đạo theo thường tình gọi là bỏ Đạo, là người đó họ chối cái phận sự làm người, tức nhiên từ chối phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật, điều đó không có phi lý. Chúng ta đặng hạnh phúc, Đấng cầm quyền tạo đoan hôm nay đến chung sống cùng ta. Cái hạnh phúc của ta còn gì hơn nữa. Trong cái sống cũng thế, chết cũng thế, sống dầu cho khỗ não bao nhiêu chết mất đi nữa, chúng ta cũng an vui với bạn đồng sanh của chúng ta nơi mặt thế gian này. Có một điều đau thảm hơn hết, thay vì ngó thấy cái khổ của nhau họ lại phụ rãy nhau, tận diệt nhau, họ không biết tôn trọng mạng sống của bạn đồng sanh đặng định phận của mình, kẻ đã đoạt đặng cái "Tứ" của Trời đất, hiểu thấu đáo huyền vi của Đạo, dòm thấy bạn đồng sanh, con mắt họ không buổi nào ngớt giọt nước mắt.
Mỗi ngày Bần Đạo đang sống, có nhiều khi ngồi trên lầu Trí Huệ Cung dòm xuống thấy em út lận đận mỗi ngày tìm sống, kiếm sống, thì Bần Đạo lấy làm thương xót vô cùng nhưng luật Thiêng liêng để nó kiếm sống mà vui sống với đau khổ của nó, nếu không vui sống nó sẽ chết, phải để cho nó vui sống, nó sống trong đau khổ nó vẫn vui sống. Có nhiều khi thấy em khổ não nhứt là mấy đứa bên Quân đội, trong con đường chết sống của nó không có định ngày giờ, không có thời gian, làm giọt lệ của Bần Đạo phải đổ, mà chỉ có những người như Bần Đạo đổ lệ ấy mà thôi. Nhưng quyền Thiêng Liêng kia để cho nó vui sống, nó ham sống ấy đặng nó tìm sống, nếu nó biết được một cái sống khổ thì nó không còn sống nữa, thay vì chúng ta nên gượng gạo vui sống với chúng nó, để theo cái sống ấy đừng để cho có trường đau khổ cho chúng nó. Cả Thánh Thể Đức Chí Tôn cốt yếu để an ủi nâng đỡ tinh thần đàn em, cả Chức Sắc Thiên Phong thay thế hình ảnh cho Ngài để nâng đỡ cái sống của chúng nó. Bần Đạo nói thật, chúng ta không có quyền làm cho đau khổ kiếp sống của chúng nó, bởi nó đã sống đau khổ nhiều rồi.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 14-12-Tân Mão nhằm ngày (dl. 10-01-1952).
Q.4/35: LỄ GIAO THỪA CUỐI NĂM TÂN MÃO, ĐẦU NĂM NHÂM THÌN.
Đền Thánh đêm 30-12 năm Tân Mão (1952)
Đêm nay là đêm giao thừa, cuối năm Tân Mão bước qua đầu năm Nhâm Thìn, Bần Đạo nhớ lại năm Bính Dần, Đức Chí Tôn đến mở Đạo, làm lễ khai Đạo nhằm ngày 15 tháng 10 năm Bính Dần tới năm Đinh Mão, tức nhiên cũng giờ giao thừa này, Đức Cao Thượng Phẩm và Bần Đạo phò loan, Đức Chí Tôn đến kêu toàn thể con cái của Ngài nam nữ, lớn nhỏ, dặn rằng: Hễ Thầy đưa cái cơ lên, các con chun ngang qua đặng Thầy ban ơn cho nghé! Rồi Ngài xách Bần Đạo và Cao Thượng Phẩm đứng dậy ra giữa Thiên Bàn đưa cơ lên, cả con cái của Ngài đều chun ngang qua, Ngài đã làm một tấn tuồng cảm mến mà chỉ có cây cơ không mà thôi, tấn tuồng ấy làm Bần Đạo cảm xúc quá lẽ. Hễ mỗi người chun ngang qua cái cơ làm như thế vuốt ve mươn trớn vậy. Hạnh phúc thay! cho những người ngộ đạo đã được ân đặc biệt ấy. Tiếc thay lúc đó con cái của Ngài không đông nhiều như bây giờ. Bần Đạo tiếc chớ phải chi cả thảy toàn thể con cái của Ngài hôm nay được Ngài ban ơn như thế ấy, chỉ nghĩa với một phương pháp cụ thể hữu hình của Ngài, tỏ cái tình thương yêu vô tận.
Tuy vẫn biết và Bần Đạo dám quả quyết rằng: Giờ phút này Đại Từ Phụ đã chung ở với chúng ta. Ấy vậy toàn thể con cái của Ngài định tâm cầu nguyện đặng cho Ngài ban ơn (Toàn thể đều thành tâm cầu nguyện).
Một ông cha thương yêu vô tận hạnh phúc cho chúng ta đã sanh ra lại ngộ đạo. Đấng đã cầm quyền cả Càn Khôn Vũ Trụ nơi tay, làm Chúa cả cái sống cái chết của Càn Khôn Vũ Trụ đến chung ở chúng ta, cái hạnh phúc ấy, cái vinh diệu ấy còn chi hơn nữa. Bởi thế cho nên khi Ngài đến cầm cây linh bút đặng mở chơn truyền của Ngài, những kẻ phàm tâm kia lấy làm lạ lùng và không có thể tưởng tượng đặng, và không có thể tin đặng. Ôi! Một trường ngôn luận buổi nọ biết bao nhiêu kẻ chê bai, khinh rẽ là thế nào. Trong một bài thơ Ngài than như vầy:
"Cười khan mà khóc bởi thương bây,
Chẳng mất một con nghiệt cả bầy.
Biết phận già không chờ chống gậy.
Nương theo con dại mới ra vầy."
Thật vậy, Ngài quá thương con cái mới ra nông nỗi đó, tưởng lòng thương yêu vô tận ấy không thể gì ta tưởng tượng đặng, không thể gì chúng ta biết đặng cái giá trị nồng nàn yêu ái vô biên vô tận ấy, chỉ "vì thương con dại mới ra vầy" câu ấy nồng nàn thấm thúy đau đớn làm sao, câu nói đó là vì thương con dại của Ngài, mà toàn thể anh em chúng ta có hiểu cái tiếng dại ấy là thế nào không?
Bần Đạo xin nhắc lại lời nói của Đức Chúa Jésus Christ đã nói hạnh phúc thay cho những kẻ khờ khạo, vì nó được quyền năng của ông Cha của Thiêng Liêng kia binh vực nó, hồi nó sống đây nó dại khờ, nhưng không phải cái dại ấy mà nó cô độc, bởi vì nó còn ông Cha oai quyền vô tận vô biên, Ổng thay thế cái khôn cho nó. Hạnh phúc thay cho những kẻ yếu hèn, những kẻ yếu hèn với những người sang cả, khi trở về cùng Cha của họ nơi nước Hằng Sống của Đức Chí Tôn đã dành để cho con cái đau khổ của Ngài, cái giá trị vẫn khác. Khốn khổ thay những kẻ miệt sát kẻ yếu hèn, khốn khổ thay cho những kẻ áp bức, hiếp đáp những người cô thế, trẻ con, góa bụa, tật nguyền, bởi vì nó miệt sát nhục mạ con cái của Ngài tức là nhục mạ Đấng Tạo đoan, như vậy là còn tội tình nào lớn hơn điều ấy. Nếu quả nhiên sắp con của Ngài phải chịu hèn hạ khổ não, ngu khờ là tại Ngài muốn vậy, Ngài muốn dành để cái oai quyền binh vực của Ngài cho chúng nó.
Ấy vậy muốn tránh khỏi chỉ có một điều thôi, phải thương yêu con cái của Ngài được như Ngài vậy, nếu được cái tình thương yêu vô tận tại thế này, được cái tình thâm yêu ái vô biên ấy là một kiếp sanh hạnh phúc của chúng ta hơn hết. Cả thảy đều tịnh tâm cầu nguyện cho Bần Đạo ban phước lành (Đức Hộ Pháp ban phước lành).
Sang cả nơi mặt thế gian này, Bần Đạo nói ngày chúng ta qui rồi với một cái hòm, với một khoảnh đất, với một cái lổ mà thôi. Sang trọng vinh hiển mà làm gì? giàu có mà làm gì? Phải kiếm món quí báu hơn nữa là kiếm cái quyền Thiêng Liêng Hằng Sống của mình đấy.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 30-12-Tân Mão nhằm ngày (dl. 26-01-1952).
CHUNGLỜI THUYẾT ÐẠO CỦA ÐỨC HỘ PHÁP |
Chúng tôi trình bày quyển Lời Thuyết Ðạo của Ðức HỘ PHÁP Năm Tân Mão (1951) do Ban Ðạo Sử ấn hành lần thứ nhứt năm Ất Mão (1975) có những phần khác biệt sau đây so với bản chánh về mặt hình thức (nội dung vẫn y nguyên):
1./ Sửa một số lỗi chánh tả thông thường (khi gặp phải) căn cứ vào quyển Việt Nam Tân Tự Ðiển của Thanh Nghị do nhà sách Khai Trí xuất bản tháng 12 năm 1967 & Việt Nam Tự Ðiển của Lê Văn Ðức, Lê Ngọc Trụ do nhà sách Khai Trí xuất bản tháng 4 năm 1970.
2./ Phụ ghi vào cuối một số bài khi gặp một vài nghi vấn (có thể) được Ban Ðạo Sử duyệt xét lại sau nầy.
3./ Phụ ghi vào ngày và tháng dương lịch (cho những bài không ghi rõ ngày & tháng) căn cứ theo Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996.
Kính cáo,
Tháng 01 năm 2004 (Tháng giêng năm Giáp Thân)
Thánh Thất NSW - Australia
) )( __)_(__ __(_____)__ (((_________))) ) ׀ ( |
|
ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
LỜI THUYẾT ÐẠO
|
Hội Thánh Giữ Bản Quyền |
Tài Liệu Do Ban Tốc Ký Tòa Thánh Tây Ninh Sưu Khảo.
|
Mỗi lần ly loạn là mỗi lần thư tịch bị làm mồi cho binh lửa.
Nhìn vào lịch sử, những vụ "Phần Thư", những vụ chiếm đoạt thư tịch đã xảy ra như một hệ luận trước những biến cố. Tình trạng nầy đã kéo dài qua các thời đại ấy là biện pháp của những kẻ mạnh nhắm vào mục đích thực hiện chính sách ngu dân và đồng hóa triệt để.
Những kinh nghiệm đau thương ấy là nguyên nhân thúc đẩy chúng tôi cố gắng thực hiện công việc sưu tập những tài liệu nầy.
Chúng tôi nghĩ: Nếu tài liệu kinh sách chỉ được tập trung tàng trữ vào một chỗ tránh sao cho khỏi bị hủy diệt khi kẻ cường quyền cướp đến phá. Do đó chúng tôi quyết định quây ra làm nhiều bản để gởi đến và ký thác vào những tâm hồn trung kiên với Ðạo, những người dám chết để bảo tồn những tiếng nói của Ðấng thay Trời dạy Ðạo.
Nếu một mai thời cuộc lại biến thiên, có thể các cuộc "Phần Thư" lại diễn thì thiết tưởng trong số tài liệu nầy vẫn còn có nhiều người nhiệt tâm gìn giữ được vẹn toàn.
Ðây không phải là việc làm của cá nhân hay một đoàn thể nhưng là một sự đóng góp chung của những người vô danh, nguyện đem hết năng lực của mình để phụng sự cho lý tưởng bảo tồn truyền thống giáo lý của Ðạo. Trong khi quyển tài liệu nầy đến tay quí vị thì cũng đã có người vì quá hăng say trong công việc thực hiện lý tưởng mà phải lao tâm kiệt sức hóa ra người thiên cổ.
Việc làm của chúng tôi không phải là một ý nghĩ nông nỗi của một sớm một chiều, nhưng là một hoài bảo trong suốt thời gian ly loạn. Chúng tôi hằng cầu nguyện Ðức Chí Tôn và Phật Mẫu ban bố phước lành sớm gặp dịp may để thực hiện hoài bảo ấy.
Ngày nay chân trời đã rạng tỏ, ý nguyện đã đắc thành.
Chúng tôi xin hiến dâng trọn vẹn cho Hội Thánh tất cả những tài liệu mà chúng tôi đã ghi chép, góp nhặt sau bao nhiêu năm theo đuổi mục đích bảo tồn những lời vàng tiếng ngọc của Ðức Hộ Pháp.
Từ đây bản quyền nầy sẽ tùy thuộc hoàn toàn của Hội Thánh. Kính xin Hội Thánh kiểm duyệt và ấn hành, để cho mọi người đều được nghe lời dạy dỗ đầy yêu ái của Ðức Hộ Pháp, đã dành cho chúng ta trong thời gian Ðức Ngài còn tại thế.
Tòa Thánh, ngày rằm tháng 6 năm Bính Ngọ (1966)
Ban Tốc Ký
Q.5/01: LỄ VÍA ĐỨC CHÍ TÔN - ĐỨC CHÍ TÔN LÀ AI?
Đền Thánh đêm 08/01 Nhâm Thìn (1952)
Đêm nay là đêm lễ vía Đức Chí Tôn. Đức Chí Tôn là ai? ... ...? Bần Đạo sẽ nói, nhưng Bần Đạo cốt yếu nhắc lại đây là nhắc cho con cái của Ngài để đức tin nơi Ngài đặng siêu rỗi.
Đức Chí Tôn chúng ta đã gọi là Ngọc Hoàng Thượng Đế; Đấng Thượng Đế dầu cho các nước, các sắc dân tộc trên mặt địa cầu này có đặt tên của Ngài khác nhau, nhưng Đấng làm chủ quyền tạo đoan Càn Khôn Vũ Trụ, tạo đoan thi hài và hồn phách của ta, Đấng ấy là Đấng vô đối mà con người bao giờ cũng gởi tâm hồn nơi Ngài. Thừa dịp ấy Bần Đạo thuyết vì cớ nào con người vẫn từ tạo thiên lập địa đến giờ cố tâm tầm Đạo, tiếng tầm Đạo là tầm cái gì chớ? Họ có biết chữ Đạo ấy, họ đặt tên là gì chăng? Thật sự ra họ tầm ngươn lý đã sản xuất ra họ, hay là cái năng lực chủ quyền đã tạo dựng nên hình hài và tâm hồn của họ. Bần Đạo đã thuyết chữ Đạo là thế nào cả thảy đều nghe và hiểu không cần lập lại.
Thật sự ra, con người cố tâm tầm Đạo ấy mà chi Bần Đạo xin giải rõ: Vả chăng chúng ta đã sanh ra cõi thế gian này, chúng ta tự biết rằng: Nếu chủ quyền nơi ta buộc ta phải sống đặng nuôi cái hình hài xác thịt này, sống nơi cõi này chịu đau đớn khổ não mọi đường thì chúng ta chẳng hề khi nào khứng chịu mà chớ!! Vì cớ cho nên chúng ta đặng, ruổi sanh, chúng ta đã biết có chủ quyền, có đủ năng lực cầm linh hồn chúng ta đã có nơi mặt thế gian này, nhưng lại chịu đau khổ ấy, chúng ta muốn hiểu giá trị ấy đối với Đạo vì cớ gì . . .? Tìm hiểu giá trị ấy đặng chi? Đặng an ủi tâm hồn của ta đồng sanh chịu trong "Tứ Diệu Đề" Chơn Lý của nhà Phật đã để và chúng ta đã nhìn, chúng ta không chối cải. Chúng ta đau khổ, chúng ta không biết gởi nơi ai, bạn đồng sanh của ta thay vì biết cái khổ ấy mà tội nghiệp cho ta, yêu ái ta tầm phương an ủi ta. Trái ngược lại, trong cảnh khổ ấy, bạn đồng khổ của ta không biết thương ta, ta nên tìm phương an ủi.
Bây giờ chúng ta kiếm ai? Đặng gởi cái đau khổ ấy, kiếm ai có năng lực đặng an ủi ta. Để dấu hỏi tức nhiên phải trả lời: Đấng đã tạo sanh ra ta, ta không biết mà ta đã hiểu rằng Đấng Tối Linh cầm quyền cả càn khôn vũ trụ. Chúng ta quả quyết rằng Đấng ấy đã sanh ra ta và đã tạo đoan cả hình hài và linh hồn của chúng ta đó vậy. Chúng ta đã biết chúng ta có một phương thế mà thôi, chúng ta không hiểu nguyên do thế nào chúng ta đã sanh ra đây, chúng ta vẫn khổ, chúng ta tìm người sanh ta đặng gởi tâm hồn ta và nếu quả nhiên Đấng ấy đã có hiển nhiên như tâm linh của ta đã định, Đấng ấy sẽ có phận sự an ủi ta, bởi Đấng ấy đã sanh ta làm chủ ta; làm chúa ta, làm chúa chẳng phải làm chúa xác thịt mà thôi, có quyền năng kềm thúc ta trừng phạt ta, có quyền diệt thi hài này dìm linh hồn ta xuống địa ngục. Đấng ấy quyền năng như thế, chúng ta còn tuyển chọn nơi ai khác hơn Ngài đặng ta gởi tâm hồn ta chăng?
Ấy vậy, nếu Đấng ấy theo cái tâm phàm của đời đã biếm nhẽ, đã chối cãi, nếu quả nhiên Đấng ấy có hay là không có, mà ta gởi cho Đấng Tạo Đoan cái linh tâm của ta chịu khổ não nơi trần này đau đớn quá đổi, không ai binh vực, không ai an ủi, ta cứ gởi lúng cho Đấng đó mà ta quả quyết rằng: Người đó làm chủ ta, ta gởi cho Người đó, có thể đem chủ quyền của mình có năng lực, có quyền hành định phương pháp an ủi tâm hồn ta đặng.
Ấy vậy ta gởi tâm hồn ta cho Đấng đó tức nhiên ta tầm Đạo đó vậy.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 08-01-Nhâm Thìn nhằm ngày (dl. 03-02-1952).
Q.5/02: TRONG DỊP LỄ XUẤT QUÂN Q.Đ.C.Đ. NGỎ LỜI CÙNG CÁC CHIẾN SỸ CAO ĐÀI.
Đại Đồng Xã ngày 08/01 Nhâm Thìn (1952)
Bần Đạo xin để lời chào cả các Quan Khách đã đến dự cái lễ này làm cho nó càng thêm long trọng. Bần Đạo xin kiếu lỗi cùng các Ngài giờ phút này, Bần Đạo có nhiều điều cần yếu để tỏ cùng các Chiến Sỹ Cao Đài, tức nhiên các phần tử thanh niên của Đạo. Bần Đạo xin để lời kiếu lỗi, và cho phép Bần Đạo nói chuyện cùng các con cái của Bần Đạo tức nhiên cùng các chiến sỹ trong giờ phút nghiêm trọng này.
Các con, Thầy đã thường nói với các con rằng: Không có một hạnh phúc của một ông Cha hay một ông Thầy nào hơn là ngó thấy trước mắt cái nên của các con, các trò, cái sợ nên ấy Bần Đạo đã vinh hiển và Bần Đạo để lời cám ơn toàn thể các con đó vậy. Các con cũng đã biết đạo đức nó không thuộc về một cái gia nghiệp, một cái xã hội nào, dân tộc nào, mà nó là của cải chung của toàn thể nhơn loại. Đạo Cao Đài của các con nó cũng thế, nó đã lấy cả tính thần đạo đức từ ngày có nhơn loại đến giờ, đặng nó làm thành một cái tinh túy, cốt yếu để dung hòa tâm lý của nhơn loại.
Tại sao có cái chung họp đương nhiên bây giờ? Các con cũng đã ngó thấy, vì một điều không có đồng chánh kiến mà nhơn loại đã phân rẽ nhau, thù nghịch lẫn nhau.
Hỏi giờ phút này thiên hạ đã tìm gì? Kiếm gì? Có một mục đích cao thượng là họ đã thấy rằng: Đại gia đình nhơn loại duy có một và cần yếu là phải làm thế nào cho nhơn loại hiệp lại làm một gia đình, tức nhiên là sự đeo đuổi của toàn thể xã hội nhơn quần giờ phút này, nhứt là của Liên Hiệp Quốc, đại gia đình thế giới họ cố làm một điều này là họ làm cho nhơn loại trên mặt địa cầu, các chủng tộc không phân biệt màu da sắc tóc, không phân biệt gì tư tưởng đạo giáo hiệp lại làm một cùng nhau đặng thành một khối đại gia đình nhơn loại mà thôi, vì cớ cho nên chúng ta đã ngó thấy, họ đã dong ruổi đến một nẽo chánh đáng là vạn quốc hiệp đồng mới có lập ra Hội Quốc Liên đó vậy.
Xã hội của các con là một xã hội của bá tánh của quốc gia. Lời Đức Hoàng Đế Bảo Đại đã nói: Ngài cố đem cái văn minh tối cổ của Tổ Phụ các con làm căn bản đặng có phương thế hiệp các con lại làm đại gia đình của Tổ Quốc các con ở trong nòi giống Việt Nam, tức nhiên ở trong bá tánh ấy; các con là anh em cốt nhục chung của Ngài đề xướng danh nghĩa ấy, đặng từ từ làm cho nòi giống Việt Nam sẽ là một phần tử của Đạo, đem nhơn loại đến cái cảnh cốt nhục cùng nhau và làm cho toàn thể nhơn loại đi đến đại đồng thế giới. Duy có phương pháp ấy mới mong cho nhơn loại đặng hưởng hoà bình.
Tinh thần không có thống nhứt lại với nhau, không đồng tâm, đồng chí với nhau, không có đồng quyền, đồng bậc với nhau, nên buộc họ tương tranh. Cái cuộc chiến đấu nó đã gieo rắc cho nhơn loại chịu thống khổ thì mỗi các con cũng đã ngó thấy Thầy vì chủ hướng của Đức Quốc Trưởng Bảo Đại, Thầy cũng mong các con có thể lấy nó làm môi giới cho toàn thể nòi giống của các con hiểu biết rằng cái đại gia đình của quốc gia, các con có thể một ngày kia sẽ hiệp với đại gia đình nhơn loại, đặng dìu dẫn họ đến cảnh đại đồng hòa bình thế giới.
Bần Đạo ngó thấy cái sở năng của các con, Bần Đạo đã vinh hiển hạnh phúc thay, cái tình tứ của các con đã đối lại cùng đồng bào của các con thì có thể Bần Đạo nói rằng: Bần Đạo không thất vọng vì tương lai phận sự cốt yếu nhứt, Bần Đạo hứa hẹn và mong ước để nơi các con thật hiện cho toàn thể nhơn loại đặng hòa bình đó vậy.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 08-01-Nhâm Thìn nhằm ngày (dl. 03-02-1952).
Q.5/03: LỄ THƯỢNG NGƯƠN: ĐỀ THIỆT PHẬN CỦA CHÚNG TA ĐỐI VỚI ĐẠO NGHĨA.
Đền Thánh đêm 14/01 năm Nhâm Thìn (1952)
Hôm nay là ngày Rằm Thượng Nguơn, thừa dịp Nguơn trọng hệ đối với các Đẳng linh hồn tiền vãng, hậu vãng, nên Bần Đạo giảng cái đề thiệt phận của chúng ta đối với đạo nghĩa, là đối với toàn thể nhơn loại nơi mặt địa cầu này.
Vả chăng chúng ta, mỗi cá nhân đều đặng một quyền vinh diệu tức nhiên là cái quyền làm phần tử của nhơn loại. Ta là một phần tử, nói rõ ra tức nhiên ta là một phần trong hai ngàn năm trăm triệu con người ở mặt địa cầu này. Muốn biết cái thiệt phận của chúng ta đối với hai ngàn năm trăm triệu con người ở mặt địa cầu này mà chúng ta gọi là Đời ấy, chúng ta ít nữa cũng phải biết Đời là gì? Rồi mới định phận của mình đối với họ trong mực thước chuẩn thằng, đặc phận của mình, nếu mình không biết giá trị của toàn thể nhơn loại, e cho chính mình không biết cái giá trị của mình nữa mà chớ.
Đức Chí Tôn đã để trong lòng dạ của Ngài, nên Ngài đem Thánh Giáo đến lập chơn truyền của Ngài, cốt yếu Ngài đến đặng lập thiệt vị cho con cái của Ngài. Cái thiệt vị con cái của Ngài từ Thượng cổ đến giờ, nhơn loại đã hiểu mảy may chút ít. Nhứt là văn minh Á Đông của chúng ta đã để một tiếng rất nên hữu duyên và hữu vị, đã nói toàn thể nhơn loại trên mặt địa cầu này gọi là Thiên hạ, nói rõ ra cái tên ấy là Ông Trời dưới, Thiên là Trời, Hạ là dưới, Ông Trời dưới nghĩa là kế Ông Trời trên, Thiên hạ ấy nó đã tỏ ra cho thấy cái đặc phận của loài người trên mặt địa cầu này.
Đức Chí Tôn muốn dành để cho họ phẩm vị gì? Và phận sự của họ phải làm gì? Từ tạo Thiên lập Địa đến giờ chúng ta đã rõ được nguồn sử của nhơn loại tiềm tàng khảo cứu, chúng ta đã ngó thấy tinh thần của con người, dầu ai có muốn chối cãi tinh thần ấy chủ quyền của cái sống họ cũng không được. Tại sao? Tại họ đã thọ lãnh cái điểm linh về tinh thần của họ nơi Đấng Tối Linh kia, Đấng Tối Linh ấy ban cho họ muốn cho nhơn loại từ từ đi từ phẩm vị con người đạt cho đến quyền năng, đạt cho tới cái địa vị làm Trời hữu hình tại thế này đó vậy.
Chúng ta đã gọi Đức Chí Tôn dành để phận sự họ làm Trời hữu hình tại thế này, cái phận sự ấy thế nào Bần Đạo không cần minh tả cả thảy con cái của Ngài tầm hiểu, mình đã gọi Đấng tạo Thiên lập Địa làm Chúa cả Càn Khôn Vũ Trụ là chủ, là Trời, là Chúa Tể của Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật vinh vang cao trọng quyền năng vô đối ấy, nó ra thế nào thì Bần Đạo nói quả quyết rằng Ông Trời con tức nhiên Ông Trời dưới cũng quyền năng như thế ấy. Bởi vì Đức Chí Tôn tức nhiên Đấng Tạo Hoá Càn Khôn Vũ Trụ muốn cho họ thế ấy, và ban quyền cho họ đoạt đặng địa vị thế ấy, nói rõ ra cái giá trị của toàn thể nhơn loại là Ông Trời hữu hình tại thế này đó vậy. Khi chúng ta đã nhìn quyền của họ, nhìn tước của họ, chúng ta tự biết phận của chúng ta, chúng ta chỉ biết làm tôi, chỉ biết phụng sự cho Đấng ấy mà thôi, chớ không mong mỏi gì làm chúa của họ đặng, biết bao nhiêu kẻ mon men muốn làm chúa toàn thể nhơn loại trên mặt địa cầu này với võ khí, với phương pháp hung bạo tàn ác, chiếm thâu những kẻ yếu hèn bạc nhược để họ sai làm tôi mọi cho họ bất quá là một phần thiểu số kia mà thôi, nếu toàn thể nhơn loại mà họ muốn làm chúa thế ấy, thì người Chúa của họ có thể định sống chết của họ mà chớ.
Chúng ta đã ngó thấy ở nơi mặt địa cầu này không màu da nước tóc nào khác nhau, trong hàng phẩm nhơn loại kia là anh em đồng sinh của ta, cả thảy nhơn loại trên mặt địa cầu này là đại gia đình, là anh em cốt nhục của ta, chúng ta không có quyền làm chúa, chỉ biết làm tôi làm tớ họ theo Thánh ý của Đức Chí Tôn muốn mà thôi, ngày giờ nào không lấy Luật Thương Yêu, thiên nhiên của Đức Chí Tôn để trong tâm não của họ, thì họ chưa hề có can cảm làm phận sự tôi tớ của họ mà phụng sự nhơn loại một cách đắc lực, một cách vui vẻ, một cách hữu hạnh, hữu phước, một cách làm cho mình có thể chung lại với nhau đặng hưởng hòa bình yêu ái của toàn nhơn loại nơi mặt địa cầu này. Muốn làm Chúa thời phải thiệt hiện hòa bình tâm lý trước đã và hòa bình hình chất sau. Nhưng chỉ có Đức Thương Yêu của Đức Chí Tôn để nơi tâm khảm của chúng ta làm khí cụ, làm môi giới dìu dắt và nâng đỡ họ, thì họ mới có thể hưởng cái hạnh phúc ấy mà thôi.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 14-01-Nhâm Thìn nhằm ngày (dl. 09-02-1952).
Q.5/04: LỄ VÍA ĐỨC THÁI THƯỢNG - KỶ NIỆM CỦA ĐẠO GIÁO - CHỮ TU.
Đền Thánh đêm 14 /02 năm Nhâm Thìn (1952)
Hôm nay là ngày lễ của Đức Thái Thượng, tức là ngày kỷ niệm của Đạo Giáo. Bần Đạo nhơn dịp ngày Vía của Ngài, Bần Đạo tiếp giảng chữ Tu mà ông Truyền Trạng Trấn đã giảng bữa hôm trước. Đề mục còn sơ sót song đến cái đích đề mục ấy nói lại trúng, khi nói kết luận ông đã nói rằng: Duy có Tu mới có thể dìu dắt nhơn loại đi đến mục đích đại đồng thế giới, đem hòa bình toàn thiên hạ, đây là trúng. Nói về chữ Tu thuyết nó vẫn còn sơ sót rất nhiều.
Chữ Tu chúng ta đã ngó thấy thiên hạ phân ra hai chủ hướng về siêu hình, chủ hướng về siêu vật, tức nhiên cái thuyết Duy Vật và Duy Tâm nó thường phản kháng cùng nhau, buổi này do nơi đâu mà sản xuất cái thuyết Cộng Sản và sản xuất cái thuyết Xã Hội của toàn thể nhơn loại nơi mặt địa cầu này.
Ấy vậy, Bần Đạo thừa dịp ấy giải rõ chữ Tu và tầm chủ hướng của nhơn loại, phải để trong mục đích nào, ấy là một cái đề chúng ta có thể nói từ Thượng Cổ đến giờ, tiền nhân, Chư Hiền, Chư Thánh, Chư Tiên, Chư Phật đã lập giáo và đã viết ra không biết bao nhiêu điển luật kinh sách, mà nói không hết, giải không cùng, huống chi đứng trên giảng đài này, lấy đề mục ấy mà nói không bao giờ đủ đặng.
Bần Đạo xin lấy cái tinh túy của nó giải rõ ra mà thôi. Duy Tâm thế nào, Duy Vật thế nào? Tầm nguyên lý coi nó do ở đâu xuất hiện, hai lý thuyết ấy. Theo Kinh nhà Phật ta đã nghe rõ rằng loài người có nơi mặt địa cầu này một trăm tám mươi ba triệu năm. Duy luận định nguyên lý của nó, có trong năm chục triệu năm mà thôi, bổn căn của loài người nó có tánh vật của nó sanh trong vạn vật, cũng như con vật kia vậy, duy trong tánh vật của nó, có Đức Chí Tôn đến định Thiên mạng của nó, nó có hai phần, hai đặc tánh. Tánh thú và tánh Trời.
Bây giờ luận về tánh thú của nó thì nó cũng như con thú kia vậy. Tánh của nó buộc nó đói phải cần kiếm ăn, lạnh rách phải kiếm mặc, nó khổ nó phải kiếm phương làm cho nó hạnh phúc, nó khó khăn, nó phải làm cho nó sung sướng cái phàm nghiệp của nó, thích cái gì phải kiếm phương thế nào làm cho nó thỏa thích, thỏa thích ấy là cái tánh thú dục nó vậy.
Huống chi nó sanh nơi thế gian này chịu trong luật định của nó là tứ khổ, thì bây giờ nó phải tìm phương kiếm thế thoát khổ cho đặng; thoát khổ và tìm hạnh phúc với hình thể thì chẳng hề buổi nào tìm đặng, chẳng khi nào thấy hưởng được hạnh phúc do nơi hình thể mà nó chịu khổ, tức nhiên tánh thú của nó cốt yếu đến đặng chịu khổ, mà nó muốn thoát khổ, ấy là nó nghịch lại tánh đức luật định thiêng liêng của nó.
Ấy vậy, khi nó còn tánh thú, nó muốn làm sao thỏa mãn, hể thỏa mãn thú tánh của nó, thì nhân cách của nó bị hủy diệt, nhân cách không thể bảo thủ được cho lâu, thiên mạng nó không có phương bảo thủ, tâm linh của nó không có phương làm chủ nó đặng, thì nó phải trở nên con vật mà thôi. Vì cớ cho nên các Đạo Giáo, các triết lý cốt yếu tìm phương nào dung hòa tánh thú của nó, cho phù hạp với chơn mạng của nó, tức nhiên làm phương nào bảo trọng sống thú của nó, phù hạp với nhân cách đó vậy. Muốn cho đặng thế ấy, phải giải quyết cái khổ của nó, nó muốn thoát khổ có một đường tồn tâm mà thôi, tồn tâm tức nhiên một thiện pháp giữ Thiên mạng đó vậy.
Ấy vậy làm chủ cái tánh thú đặng bảo trọng Thiên mạng, tức nhiên phải dồi mài sửa đổi luyện cả tinh thần và hình chất của mình thoát khỏi tánh thú, đặng bảo tồn nhân cách, tức nhiên bảo tồn Thiên mạng của mình gọi là Tu. Chữ Tu cốt yếu là để trau dồi cho đặng thoát cái tánh thú, bảo vệ nhân cách của mình đó vậy.
Theo cách vật trí tri, bây giờ luận về siêu hình thì chúng ta đã ngó thấy, hễ khi nó thức, con vật nầy khi nó thức, nó tìm sống trong vạn vật, nó cùng lẽ sống trong vạn vật. Luật của vạn vật buộc nó phải đi kiếm ăn, kiếm sống đặng bảo trọng sanh mạng của nó, theo trong thể pháp về cái thú tánh của nó, muốn thoát được tánh thú ấy, bởi vì nó hung hăng bạo ngược, mạnh mẽ, cừ khôi phản trắc vô cùng vô lối, có nhiều khi thiên tánh, tức nhiên thiên mạng không thế gì điều khiển nó được, người ta thấy có nhiều khi không thế gì người ta thắng nổi thú tánh của nó, nên tìm con đường siêu hình, nó thức thì nó rất hăm hở dữ tợn hung hăng đủ thứ hết thảy đặng bảo vệ sanh mạng. Khi nó ngủ, tức nhiên khi nó nằm ra bình tỉnh hết dữ, nó bình định được cả tánh chất nó bớt dữ, tức nhiên cũng như chúng ta khi còn thức, lo tìm muôn phương ngàn kế đặng bảo thủ sanh mạng của chúng ta, bảo thủ hạnh phúc của chúng ta nơi thế gian này, mà thật ra kiếm hạnh phúc ấy trong giấc chiêm bao của chúng ta mà thôi. Khi chúng ta ngủ mới được an ủi, ta thức bao giờ tinh thần cũng khổ não, vì thức ấy trong thuyết siêu hình mới xuất hiện ra hai lý thuyết tương đương ấy. Từ Thượng Cổ đến giờ có thuyết nào giải rõ nó chưa. Chúng ta đã ngó thấy rất ít, chúng ta định trước, chúng ta đã thấy cái thuyết "Tánh mạng song tu" rõ rệt, ta có thể nói hai cái thuyết ấy như lý thuyết Pythagore và Đức Chí Tôn, Pythagore lấy cách vật trí tri làm căn bản đặng đi đến siêu hình, văn từ cách vật trí tri đến siêu hình, còn Đức Phật Thích Ca lấy siêu hình làm căn bản dìu dắt cách vật. Hai lý thuyết ấy đương đầu với nhau, mà đã thấy thật sự thì Pythagore không khi nào cầm lấy nó, nó không có vật, nó không có hình, nó cho rằng cái sống của vạn vật nơi mặt thế gian này do nơi vô hình xuất hiện, tức nhiên siêu hình kia làm căn bản của cách vật trí tri, mà nếu không có cách vật trí tri đứng chung đó, chẳng hề khi nào chúng ta thấy hai bên tương hội cùng nhau, vì vậy Ngài để chữ Dyade, hồi trưa Bần Đạo đã triết lý hai chữ ấy mà hầu hết người Việt Nam dịch chưa rõ. Bần Đạo nghe chữ Dyade tưởng rằng chúng ta có dịp đem cái siêu hình tả ra, tức nhiên đem chữ Dyade đến cùng Ngài, chữ đó giải không ra.
Ấy vậy, cái lời của Chí Tôn để trên mặt thế gian này có hai phương pháp, siêu hình cũng trong đây, mà siêu vật cũng trong cửa Đạo này. Tại sao? Tại vì có một Đạo Giáo Ngài đến một thân Ngài mà thôi. Cả con cái của Ngài đã cho đầu kiếp dưới thế gian này trước, rồi Ngài mới đến sau, Ngài chung hiệp lại làm Thánh Thể của Ngài, Ngài biểu nó dâng Tam Bửu là dâng xác thịt, trí não, dâng cả tâm hồn tức nhiên dâng cả sanh mạng của nó cho Ngài để làm chữ Khí, rồi Ngài trả chữ Khí của Càn Khôn Vũ Trụ, tức nhiên cái sống của nhơn loại đi đến mục đích chữ Tu, Ngài biểu cả toàn thể dâng xác thịt cho Ngài, Ngài trả lộn lại cái sống của Càn Khôn Vũ Trụ, trong mình nó sống dậy mà làm Thánh Thể của Ngài. Chúng ta tưởng tượng một ngày kia, toàn cả nhơn sanh đứng làm phần tử Thánh Thể của Ngài phụng sự cho Vạn Linh, tức nhiên phụng sự cho nhơn loại, hiệp trí não tâm hồn dâng cho Ngài hết, còn trở lực nào ngăn cản nữa, nhơn loại sẽ đến một cái tối trọng và thiên hạ nhứt gia như Đức Chí Tôn đã muốn.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 14-02-Nhâm Thìn nhằm ngày (dl. 09-03-1952).
Q.5/05: VÍA ĐỨC PHẬT QUAN ÂM, ĐỨC HỘ PHÁP HÀNH PHÁP TRONG THỜI CÚNG ĐÀN.
Đền Thánh đêm 18 /02 năm Nhâm Thìn (1952)
Mỗi kỳ Đại Đàn kể từ 12 giờ cho đến 2 giờ, trong 2 giờ đồng hồ nếu mấy người mặc một bộ đồ võ phục như vầy, có buộc dây như tôi, chịu thử như tôi coi ra sao mấy người biết. Từ lúc mới vô dĩ chí cho tới mãn lễ, không có lúc nào ở không, luôn luôn hành pháp không nghỉ, tới xong lễ lại lên giảng đài giáo Đạo cho con cái Đức Chí Tôn, nếu ngày kia có tuổi thêm chút nữa, chắc làm không nỗi, không thể đứng nỗi, chịu không nỗi nữa.
Hạng nhứt dòm trở lại thấy họ làm biếng đi cúng, thấy nó não nề làm sao! Thối chí làm sao! Bần Đạo cho hay lần này là lần chót, ngày giờ nào có Đại lễ như vầy, Bần Đạo ngó thấy trước mắt nếu còn sự biếng nhác của con cái Đức Chí Tôn, Bần Đạo không thuyết Đạo nữa, lần này là lần chót!
Đêm nay Bần Đạo thuyết cái đề rất trọng yếu là: Con người đi tìm Đạo, hay Đạo đi tìm người? Từ Thượng Cổ đến giờ đã lắm người tự nhiên biết rằng: Cả cái khuôn luật thiên nhiên của tạo đoan thế nào là Thánh ý của Đức Đại Từ Phụ cũng đã định vậy. Luật thiên nhiên của tạo đoan buộc chúng ta phải nhìn nhận cái khuôn luật tối yếu, tối trọng của Ngài. Trong vạn vật hữu sinh chúng ta thấy chúng ta đứng đầu hơn hết, vì chúng ta linh hơn vạn vật. Vì cớ cho nên khi chúng ta còn thiếu niên chúng ta chưa đủ trí thức, chúng ta vẫn thường theo một khuôn luật là tìm sống thôi. Bởi phương bảo vệ cái sống của mình là khuôn luật thiên nhiên đã định vậy, hễ khi nào chúng ta tìm sống tức nhiên chúng ta làm thế nào cho chúng ta sống được. Tức nhiên chúng ta không chịu nhịn sống cho ai hết, nói rõ ra cái tấn tuồng tranh sống mà Bần Đạo đã thuyết cái yếu lý của toàn thể nhơn loại trên mặt địa cầu này, để định vận mạng tương lai của họ, cái yếu lý ấy hệ trọng hơn hết. Hễ nhượng sống thì còn tồn tại với nhau, mà tranh sống thì tức nhiên tự diệt với nhau vậy.
Ấy vậy, chúng ta tìm Đạo là gì? Là chúng ta thoát ly cho đặng cái thú tánh, để bảo tồn cái thiên mạng của mình. Dầu cá nhân của chúng ta, dầu toàn thể nhơn loại cũng vậy, duy chịu có khuôn luật ấy mà thôi.
Kỳ trước Bần Đạo đã thuyết hai cái cơ thể: Nhục thể và Linh hồn của chúng ta tức nhiên là cái nguơn linh của chúng ta vậy. Nó phải tương liên mật thiết với nhau, đặng nó điều độ dìu dẫn trên con đường Tu, tức nhiên trong con đường Đạo của chúng ta là tánh và mạng phải song tu, ta phải biết cái tánh của ta vẫn còn cái thú tánh của nó, trong xác thịt thú này, ta tìm phương nào cho thoát ly nó, đừng chịu quyền năng của nó ràng buộc, ta phải đạt cho được cái tinh thần thiêng liêng vô đối đó. Chúng ta đồng thể cùng Đấng Chí Linh tức nhiên đồng thể cùng Đạo. Đạo là cơ quan mà toàn thể nhơn loại từ Thượng Cổ đến giờ, tìm kiếm đó vậy. Họ tìm Đạo là tìm gì? Họ tìm Đạo đặng đạt được chơn pháp giải thoát kiếp sinh của họ. Nhà Phật tìm phương chước đặng diệt quả kiếp của mình,đặng đạt cơ siêu thoát. Đạt cơ siêu thoát đặng làm gì? Đặng lập vị Thần, Thánh, Tiên, Phật và có phương thế đồng thể cùng Đức Chí Tôn đặng cầm quyền tạo đoan của Càn Khôn Vũ Trụ, ấy là mơ vọng của toàn thể nhơn loại từ xưa đến nay đi tìm Đạo là vậy đấy.
Hỏi từ trước đến giờ họ đã tìm đặng hay chăng? Ta để dấu hỏi mơ hồ. Những Đấng đã đạt Đạo, chúng ta chắc hay không, duy mấy vị Giáo Chủ mà thôi. Còn các môn đệ của các Ngài, sau khi các Ngài đã qui liễu; chúng ta để dấu hỏi họ đã đạt vị được như vậy hay chăng? Chắc cả thảy đều để dấu hỏi mơ hồ hết. Giờ phút nầy chính mình Bần Đạo đứng tại giảng đài này, là người để đức tin vững chắc hơn toàn thể nhơn loại. Mà chính mình Bần Đạo phải để dấu hỏi mơ hồ này, thì tưởng chưa có ai đạt cơ siêu thoát đặng.
Ấy vậy, đạt siêu cơ thoát đặng chi? Đặng đạt phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật và cả phẩm vị Trời nữa, có phải như vậy chăng? Hết thảy đều nhìn nhận là phải vậy. Mà giờ phút này Đấng cầm quyền cả Càn Khôn Vũ Trụ, làm Chúa cả Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, Ngài đến cùng ta đem cái địa vị của Ngài để trong mình của mỗi đứa, tức là Ngôi Chí Thánh của Ngài. Ngài đến lấy cả hình xác của chúng ta đặng làm phần tử Thánh Thể của Ngài. Phải chăng nếu chúng ta lấy cái triết lý chơn lý ấy tìm tòi, chúng ta thấy rằng: Ông Trời đến ở cùng ta, ta là ông Trời tại thế này, cửu phẩm Thần Tiên ở trong Thánh Thể của Ngài; Thần, Thánh, Tiên, Phật Ngài đem để trong tay của chúng ta cả thảy. Lý do là Đạo đến tìm ta, chớ ta không có tìm Đạo. Thượng Cổ không biết chừng nhiều Đấng đã muốn trông thấy như ta đã trông thấy, và họ muốn đặng như ta đã đặng hôm nay, nhưng họ chưa đặng mà chúng ta đã đặng.
Ấy vậy Bần Đạo quả quyết rằng, xưa kia thiên hạ tìm Đạo một cách khó khăn mà giờ phút nầy ta lại thấy Đạo đến tìm ta.
Hồi chiều mấy anh em chúng tôi có ngồi luận Đạo với nhau, đang nhắc Ngài. Đức Chí Tôn mới đến Ngài có than rằng:
"Cười khan mà khóc bởi thương bây,
Chẳng mất một con nghiệt cả bầy;
Biết phận già không chờ chống gậy,
Nương theo con dại mới ra vầy".
Ông thấy mình tội tình quá lẽ, nhơn loại con cái của Ông đã sa ngã, đã tội chướng quá nhiều, chính mình Ông cầm gậy đến ở cùng con cái của Ông . Một là tìm phương giải tội cho nó. Hai là tìm phương đem quyền pháp cơ quan siêu thoát đến trong tay nó. Nếu toàn thể con cái từ Tín Đồ dĩ chí Thiên Phong Chức Sắc không có đạt vị đặng, dám chắc khi trở về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống cái hổ nhục chẳng thế gì chúng ta thấy đặng các bạn của chúng ta đang tiếp chúng ta nơi cửa Hư Linh đó vậy, và lẽ sao đạt không đặng không có gì tệ mạt hơn.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 18-02-Nhâm Thìn nhằm ngày (dl. 13-03-1952).
Q.5/06: HỘI VỀ VẤN ĐỀ PHẠM PHỦ TỪ.
Trí giác Cung ngày 25 /02 năm NhâmThìn (1952)
Ngày hôm nay Bần Đạo vào hội đây chẳng phải lấy danh thể Hộ Pháp, chỉ lấy danh thể Phạm Công Tắc mà thôi. Bần Đạo đến giữa Tông Đường của Bần Đạo, lấy một tình anh em cốt nhục mà thôi.
Chỉ định về Đạo, Phạm Thủ Từ cốt yếu là do ông anh thứ bảy của Bần Đạo và chị thứ sáu của Bần Đạo đề xướng, Bần Đạo để trọn quyền cho hai người ấy, chúng ta có thể gọi là đàn anh chị, phần niên kỷ, phần tâm đức đối lại Tông Đường ta thế nào, Bần Đạo giải quyết để trọn tín nhiệm trong hai người ấy, thiệt hiện cho được một Đạo Nhơn Luân của chúng ta. Chữ hiếu là đứng đầu hết không trọn hiếu không thể gì làm mọi điều khác được, chúng ta muốn có một nghiệp Đạo của mình cho đặng tận thiện tận mỹ vĩ đại, có thể nói rằng ta muốn cho danh thể tồn tại nơi mặt thế này bền bĩ lâu dài; đại nghiệp thiệt của chúng ta là đấy. Về nghiệp đạo đức tinh thần các bậc tiền bối của ta có nói rằng: "Lập thân hành đạo dương danh ư hậu thế", ta có thể làm Đạo lập thân danh ta được mà phải có hiếu trước đã, do trọn hiếu mới làm được vậy. Hiếu là căn bản đầu tiên hơn hết. Phạm Thủ Từ chúng ta mà tạo dựng được có nhiều điều ích lợi một trong Tông Phạm ta còn ở rãi rác khắp nơi; cả thảy đều biết rằng dòng Phạm Vi, dòng Phạm Đăng, tưởng không ai còn lạ gì. Dòng họ Phạm ấy đã có phủ thờ tại kinh đô Triều Nam ta bây giờ, thì trong kiến Phạm của chúng ta từ Nam chí Bắc rải rác rất nhiều. Chúng ta không kể Tông Đường chúng ta do nơi Bắc Việt, tức nhiên do nơi bên Tàu sản xuất ra. Tông Đường của chúng ta còn nơi Bắc Tam Tỉnh tức nhiên nước Tàu máu mủ của chúng ta còn trong đấy.
Tạo Phạm Phủ Từ chẳng phải riêng trong cửa Đạo hay nội trong nước Việt Nam mà thôi. Chúng ta có thể ngó tới Bắc Việt, ngó tới Trung Hoa, Tông Đường của ta ở mé biển nữa thành thử một cơ quan vĩ đại. Miếng gạch đầu tiên chúng ta để đây chẳng qua một cục gạch đầu tiên mà thôi, Bần Đạo dám chắc tương lai phủ thờ, giờ phút nầy nếu như quả chúng ta tin rằng đặc ân Đức Chí Tôn ban thưởng, trong Tông Chi máu mủ của chúng ta lại xuất hiện ra một người cầm giềng mối Đạo, một người có thể nắm trọn cả cửa Đạo là một nền Đạo Tổ Tiên nước Việt Nam để lại, tối cổ, con người đủ biết đặc ân cao trọng quý hóa chẳng cần khoe khoang.
Tông Đường họ Phạm không thiệt hiện ra được thống nhứt cả Tông Đường lại, đem chữ hiếu đặng nêu lên cho cả thảy bá tộc kia coi gương làm theo. Bần Đạo dám chắc một điều chúng ta dở quá, chúng ta thất phận đối với Thế Đạo chúng ta mà chớ, có sang cả, vinh hiển, cao trọng một mớ anh em, còn phần nhiều nghèo hèn, khó khăn khổ não, chúng ta không thể chối được. Nếu chúng ta tạo Phạm Phủ Từ là nhà chung của họ trong thời kỳ này, đặng sau con cháu của dòng họ chúng ta nó đã có một đại nghiệp đặng làm trụ cốt cho nó. Nó thấy Tông Đường của nó không hèn hạ, nó tự an ủi tự nắm phần sống một cách chơn chánh quí hóa không đến nỗi sa đọa thấp hèn. Cả Tông Đường chúng ta khỏi khổ nhục trông thấy nó vô nhân nghĩa. Được đại nghiệp này dễ gì nó bỏ Đạo, dám chắc không khi nào miếng gạch đầu tiên này thất bại bao giờ, tôi dám chắc như thế và toàn cả Tông Đường ta trông mong lẽ đó lắm. Biết Đạo, chúng ta làm đây vì hiếu mà làm và thật hành đại nghĩa đối với cốt nhục Tông Đường chúng ta.
Ấy vậy giờ phút này chúng ta vì hiếu nghĩa mà làm. Hiếu nghĩa là đầu hết của các mối Đạo đó, hiếu nghĩa mà thiệt hiện không đặng, đứng trong cửa Đạo cũng như hình gỗ, dám chắc không bao giờ hữu dụng được. Đứng trong cửa Đạo bền vững hay chăng là do trường học trong Phủ Thờ này. Trường học đầu tiên vô trường học Đạo lập thân danh để lại hậu thế, dìu dẫn Tông Đường vinh quang vô tận, Đức Chí Tôn đã có ban rồi. Chúng ta có thể đối với nhau cho bền vững, nắm cả ân điển Thiêng liêng đặc biệt của Ngài ban cho trong cửa họ Phạm, nắm vững chắc hạnh phúc đời đời, được hạnh phúc biết bao nhiêu mà nói. Hạnh phúc Tông Đường biết bao nhiêu to lắm, làm cho cả thảy đều thấy, trong bá tộc kia làm theo, hay, hay là dở, mấy em vẽ nét mực đầu tiên đi.
Ấy vậy, giờ phút này mấy em Tông Đường của bá Tộc làm dở cả, cả thảy đều dở, chẳng có Phủ Thờ, thờ Tông Tổ của mình mãi mãi không cùng. Cho tới giờ phút này mấy em coi thiên hạ đảo ngược, nhưng cả cái khuôn khổ Tông Đường bên Tàu vẫn giữ nguyên vẹn một cách vững bền không lay động gì hết, thấy có Đạo, thấy Đạo một cách đạo tâm. Kiến họ Phạm đã vững chắc vì thấy kỹ trong khuôn khổ Tông Đường trọn nghĩa bền vững không xao xuyến, thì không lực lượng gì hủy diệt dòng họ này được.
Từ trước đến giờ Đạo Cao Đài lấy Tông Đường làm nền móng cho Đạo Cao Đài, từ đây sẽ càng mạnh mẽ hơn nữa, sẽ càng cao trọng hơn nữa. Không vì Đạo mà vì Tông Đường ta tạo dựng rồi bá Tộc kia cũng làm, ngày kia ai không Đạo họ cũng về Tộc họ. Luôn dịp mấy em tạo Phủ Thờ này công nghiệp mấy em đối với Đạo Cao Đài một cách gián tiếp đó vậy, mấy em không thất Đạo, một gương vĩ đại đối với Đạo mà chớ.
Một điều cốt yếu hết thảy để trọn quyền cho mấy em bàn tính công cử với nhau, kể từ hôm nay chúng ta hội với nhau trong gia đình này, gia phổ của mình khai nạp, mỗi người đến nạp gia phổ đem vào cuốn Livrét chung.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 25-02-Nhâm Thìn nhằm ngày (dl. 20-03-1952).
Q.5/07: VÍA ĐỨC CAO THƯỢNG PHẨM - GIÁ TRỊ TAM BỬU LÀ GÌ ?
Đền Thánh đêm 30/02 năm Nhâm Thìn (25/3/1952)
Đêm nay nhân dịp vía của Đức Cao Thượng Phẩm, Bần Đạo giảng nghĩa lý cái giá trị Tam Bửu là gì? Sẽ chỉ rõ Hội Thánh đối với Đức Chí Tôn là gì?
Vả chăng từ Thượng Cổ tới giờ, loài người bao giờ cũng thờ Đấng Tạo Hoá ra Càn Khôn Vũ Trụ. Tuy lúc Thượng Cổ tâm đức của loài người vẫn đơn sơ, họ chỉ tưởng niệm một điều là họ biết thờ cái Đấng đã tạo đoan ra Càn Khôn Vũ Trụ. Họ đồng sống trong ấy, họ chỉ nhìn nhận cái quyền lực ấy mà thôi. Khi ấy họ không biết người của Đức Chí Tôn là gì? Mãi tới sau mới có Đấng đã nói rõ, chỉ hình rõ rệt Đại Từ Phụ của Vạn Linh là Đức Chí Tôn, Đấng đã vạch rõ ra đã thiệt hình ảnh của Ngài là Đức Chúa Jésus Christ. Trong tam bửu nó hình trạng những vật quí hoá của loài người đã hiến dâng cho Đức Chí Tôn đó vậy.
Trước kia, hồi buổi ban sơ thì con người chỉ dùng các lễ vật mà họ gọi là quí trọng hơn hết dâng cho Đấng ấy, mà lễ dâng của họ không có xa hơn nghĩa lý tam bửu, Bần Đạo sẽ giảng rõ tỷ như: Lúc Thượng Cổ người ta đã dâng cho Đức Chí Tôn đã có những gì? Cái vật dâng cho Đức Chí Tôn buổi Thượng Cổ họ dâng sanh mạng con người cho Đấng ấy. Khi nhơn loại bị khốn khổ, bị tai nạn bất cứ trong quốc gia nào họ dùng cho đến sanh mạng, tức dùng con người làm tế vật dâng hiến cho Đức Chí Tôn. Tới chút nữa, nghĩa là tinh thần loài người tiến triển đến một mức nữa, họ dùng cái cái vật lựa chọn quí hoá, đồng thể với sanh mạng của con người đặng dâng cho Đức Chí Tôn, tức nhiên họ dâng Tam sinh. Khi ta đã xem tế Nam Giao, từ Thượng Cổ nhà Vua dâng cho Đức Chí Tôn ba cái vật là: Trâu, heo, và dê gọi là Tam sinh. Ngày hôm nay sau Đức Chí Tôn đối lại với Đạo Thiên Chúa, không dâng Tam sinh là sanh mạng của con vật nữa, mà chính mình Đức Chúa Jésus Christ dâng cái xác thịt của Ngài làm con tế vật cho Đức Chí Tôn, tức nhiên Ngài nói rằng Ngài chịu khổ hình là chết trên cây Thánh Giá cốt yếu làm con tế vật đặng dâng cho Đức Chí Tôn để cứu rỗi tội tình nhơn loại. Chúng ta đã ngó thấy từ thử tinh thần của loài người tiến triển tới mức văn minh của họ, thì cái vật phụng thờ, cung hiến dâng lễ vật cho Đức Chí Tôn vẫn khác. Ngày hôm nay Đức Chí Tôn đến, Ngài biểu chúng ta dâng cho Ngài ba món gọi là Tam Bửu là: Tinh, Khí, Thần.
Ngài thế nó là Bông, là Rượu, là Trà, Bần Đạo tưởng nếu lấy vật ấy mà tưởng tượng thì nó không nghĩa lý gì hết. Ôi! Biết bao nhiêu quí hoá, nếu cả thảy con cái của Ngài biết Đức Chí Tôn muốn dâng cho Ngài cái gì thì của dâng ấy quí hoá không thể nói. Tinh, là Ngài biểu dâng hình thể của ta tức nhiên dâng xác thịt ta nghĩa là dâng cái sống của ta nơi mặt thế gian này, đặng cho Ngài làm khí cụ, đặng Ngài phụng sự cho con cái của Ngài, nó thuộc về Tinh, tức nhiên Bông đó vậy, phải dâng cho Ngài cái hình xác chúng ta cho đẹp đẽ, cho trong sạch, cho thơm tho, cho quí hoá như Bông kia mới được. Tưởng tượng Ngài muốn cho chúng ta trong sạch như vậy là vì Ngài mong con cái của Ngài biết thương yêu lẫn nhau, rồi lại tự mình tu tâm dưỡng tánh thế nào cho đẹp đẽ mỹ miều, như Bông kia đặng xứng đáng làm Thánh Thể của Ngài đặng phụng sự cho con cái của Ngài.
Giờ nói về Rượu, Ngài thể cái chơn thần của ta tức nhiên thể cái trí thức cái khôn ngoan của ta về chơn thần, tượng ảnh trí thức khôn ngoan tức nhiên Ngài biểu cả trí não con cái của Ngài phải dâng trọn cho Ngài đặng làm khí cụ. Giờ phút nào toàn thể con cái của Ngài có trí óc khôn ngoan đặng phụng sự cho nhơn loại thay thế cho Đại Từ Phụ mà nói rằng: Chúng tôi không biết làm gì ngoài phận sự thiêng liêng của Đức Chí Tôn giao phó. Ngày giờ nào toàn thể con cái của Ngài biết nói như thế đó, thì ôi! Hiến cho Đức Chí Tôn một vật quí hoá không thể nói gì được.
Nói về Trà, Ngài thể Trà là tâm hồn tức nhiên Ngài biểu cả tâm hồn của ta hiệp lại làm một khối với nhau. Giờ phút nào toàn thể con cái của Ngài hiệp cả tâm hồn làm một, cái tâm hồn này sẽ làm tâm hồn của mặt địa cầu này, cho trái đất này, nó sẽ làm tâm hồn của toàn thể nhơn loại. Ngày giờ nào cả toàn thể con cái của Ngài tượng ảnh tâm hồn cho toàn thể nhơn loại được, thì ngày giờ ấy có thể Thánh Thể của Ngài mới phụng sự cho Vạn Linh tức nhiên con cái của Ngài hạnh phúc được. Chỉ ngày ấy mới có thể nói rằng: Nhơn loại hưởng được hồng ân đặc biệt của Ngài, mà hưởng được hồng ân đặc biệt của Ngài thì ngày ấy mới mong hưởng được hòa bình và đại đồng thế giới. Bây giờ Tam bửu ở trong Hội Thánh, cả toàn thể anh em, chị em chúng ta đây là Tinh là Hình Thể của Ngài tại thế này. Hình thể của Đức Chí Tôn là trong ta đây hết. Ngày giờ khối trí thức của toàn thể nhơn loại tượng hình ra mà nói biết rằng Đạo duy nhứt là Đạo Trời với Đạo Người hiệp làm một. Giờ phút nào cả toàn thể nhơn loại biết mình đến đây có phận sự để tô điểm kiếp sống của nhơn loại cho đặng hạnh phúc, đặng bảo trọng sanh mạng của toàn thể vạn linh cho đặng hạnh phúc. Giờ phút nào có cái đấy thì mới tượng ảnh ra Khí của mặt địa cầu này.
Nói đến tinh thần Bát Quái Đài nghĩa là cái Hồn, tức nhiên hồn chúng ta đã ngó thấy rằng con người sinh nở nơi thế gian này nếu ba món báu ấy mà không có thì xác thịt nhơn loại cũng thế, vật chất cũng thế, toàn thể nhơn loại cũng thế, nếu nói rằng có xác thịt không có hồn, hay có hồn không có trí thức bảo vệ sống còn của mình thì chúng ta đã ngó thấy tận tường đó rồi, người không hồn ngơ ngơ ngáo ngáo, người có hồn không có trí thức chẳng hề khi nào định mạng được. Ông Pythagore nói Dyade là phải điều hòa nhau, ta tu cốt yếu làm cho ba món ấy điều hòa. Giờ phút này chúng ta hãy tưởng tượng rằng trước khi muốn điều hòa, cả Hội Thánh dâng cho Đức Chí Tôn, cả toàn thể con cái của Ngài dâng cho Ngài một chí hướng, một hy sinh mà thôi. Toàn thể con cái của Ngài hy sinh phụng sự Vạn Linh, tức nhiên phụng sự cho toàn thể nhơn loại. Biết đặng, hiểu đặng hạnh phúc mình do nơi sống chung cùng nhau, nhượng sống cho nhau, tạo hạnh phúc cho nhau. Giờ phút nào thiên hạ khôn ngoan định vận mạng cho mình như Đức Chí Tôn đã định cho ta phù hạp với chữ Khí, tức nhiên chữ Khí là báu vật chúng ta dâng cho Đức Chí Tôn mới thành tựu. Ngày giờ nào thành tựu nơi Bát Quái Đài, quyền năng thiêng liêng kia mới đủ năng lực day trở thiên thơ tạo hạnh phúc cho toàn nhơn loại trên mặt địa cầu này. Duy có giờ phút ấy, nhơn loại sẽ hưởng đặng hòa bình và đại đồng thiên hạ mà thôi.
Q.5/08: VÍA ĐỨC CAO THƯỢNG PHẨM - KHỔ NHỌC VÀ CÔNG LAO VĨ ĐẠI CỦA NGÀI CAO THƯỢNG PHẨM ĐỂ LẠI.
Tại Tháp Đức Cao Thượng Phẩm, ngày 01/03 năm Nhâm Thìn (1952)
Mỗi năm đến ngày kỷ niệm của Đức Cao Thượng Phẩm, chắc cả thảy những em út, anh chị người nào cũng đã biết Ngài, tưởng cũng có một cái tình cảm nồng nàn, nhứt là Bần Đạo là bạn đồng khổ của Ngài, bạn thiếu niên, bạn đường đời, bạn cửa Đạo, một kiếp người đối với kiếp sống của Bần Đạo có tình cảm mật thiết không thể tả được, đứng trước bàn vong linh của Ngài, dám chắc cả thảy mấy em đều khác, còn Bần Đạo vẫn khác. Ôi! Biết bao nhiêu những di tích của Ngài để lụng lại tràn trề không thể tả cho hết, cái tình tri âm, tri kỷ với nhau trọn một đời biết tâm đức, biết tình cảm, biết tài năng với nhau trọn một kiếp, nếu có người bạn nào mà Ngài đã gọi cái tâm tình trọn vẹn hết, Bần Đạo tưởng có lẽ Bần Đạo là một người trong đấy.
Một người tài tử, cái lần yêu nước vô cùng của Ngài thì đã chán biết, bởi cái tình cảm như thế, cái tâm ái quốc phải là hơn ai mới được, cái đặc sắc hơn hết là Ngài có tình cảm đối với nước nhà, đối nòi giống của Ngài, cũng như Bần Đạo biết một đặc tính với một tinh thần của một người tài tử.
Một người yêu nước là riêng, về con người của Ngài, có cái cảm kích đối với nòi giống Việt Nam là một việc khác, chẳng khác nào như ta đã ngó thấy, một kẻ tài nhân kia nhất thời mà mình yêu ái kính phục, chẳng khác nào như ta đã ngó thấy trước mắt những người đạt đặng hạnh phúc danh vị bị suy sụp, chúng ta thương vì tội nghiệp cái tình cảm của Ngài đối lụng lại với quốc dân Việt Nam, đối lại với nước nhà của Ngài buổi nọ vậy.
Ôi! Biết bao nhiêu trong thời buổi lệ thuộc, Ngài ngó trước mắt Ngài, đồng bào của Ngài, nước nhà của Ngài dám chắc rằng riêng biệt ra, đừng ai ngó thấy trong cảnh tối tăm, tịch mịch, thì bao nhiêu giọt lệ của Ngài đã đổ.
Vì cớ cho nên buổi khai Đạo rồi Đấng quyền năng tối linh ấy đã đến, Ngài đem cả tâm tình ấy, Ngài gởi cho Đấng đó, cũng như Bần Đạo đã gởi chỉ cầu nguyện một điều là xin quyền năng vô đối ấy, đem cái cân công bình thiêng liêng để nơi mặt thế, cho có mực thước một chút, nhứt là ái tuất đến những kẻ khổ não về tinh thần, kẻ chịu được là vô luận, những người chịu không nỗi xin có một thế là an ủi.
Nếu toàn thể quốc dân Việt Nam biết rằng, tinh thần chịu lệ thuộc không nỗi, chỉ cầu nguyện một điều là một phương an ủi của Đấng ấy.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 01-03-Nhâm Thìn nhằm ngày (dl. 26-03-1952).
Q.5/09: VẬN MẠNG CỦA NHÂN LOẠI QUỐC TẾ
Đền Thánh đêm 04/3 năm Nhâm Thìn (9/4/1952) (*)
Đêm nay Bần Đạo giảng về cái vận mạng của nhân loại quốc tế, tiếc rằng mỗi khi lên giảng đài, không có đủ ngày giờ để giảng, bất kỳ cái đề nào cũng phải thúc nhặt lại, lấy cái tinh túy của nó mà thôi, thành thử các đề đã giảng từ thử đến giờ, chưa có một cái đề nào để thuyết cho nó cùng lý. Đêm nay, giảng có hơi nhiều một chút, nghe có mệt Bần Đạo xin kiếu lỗi, Bần Đạo giảng về cái khủng bách tinh thần của nhơn loại đương giờ buổi nay, sẽ đưa thiên hạ đến đâu? Bần Đạo mới đọc trong nhựt trình, thấy có một hội nghị của Bác Sĩ Quốc Tế, nhứt là các vị lo đặc điểm về tinh thần của con người thì hội hiệp với nhau, rồi họ đề nghị các vị Quốc Trưởng của các xã hội, nhứt là của các liệt cường, phải giải phẩu để coi họ là người bình tĩnh hay là người điên cuồng, điều ấy Bần Đạo nghĩ lại rất nên sâu sắc, nghĩa là chúng ta thử nghĩ những bậc tài nhân theo lời của các Bác Sĩ đã nói, cái trí não của kẻ nào cao kỳ bao nhiêu, tài năng bao nhiêu, họ lại gần cái cảnh điên của họ chừng nấy, nói rõ kẻ càng khôn chừng nào, lại gần đến cảnh điên của họ chừng nấy, nói rõ kẻ càng khôn chừng nào, lại gần đến cảnh điên của họ chừng nấy, chúng ta thử xét giá trị một vị Quốc Trưởng, một liệt cường trong các liệt cường kia, tình trạng đương ở trong một địa vị, một lập trường khắt khe, sự khắc khe ấy là thế này, nếu chúng ta không đủ phương thế không đủ tài năng bảo vệ độc lập cho nòi giống. Chúng khỏi bị lệ thuộc tôi đòi chinh phục thì chúng ta phải có một võ lực cho cường liệt, nghĩa là phải tạo ra một binh lực thiệt liệt cường mạnh mẽ, chúng ta phải có đủ phương pháp, có đủ võ khí tối tân đặng bảo thủ cái độc lập ấy mới được, mà hại thay hễ yếu thế lại chịu nạn thiên hạ chinh phục, còn tạo ra một lực lượng liệt cường đương đầu với thiên hạ, tức nhiên mình khêu khích, hễ khêu khích thì có kẻ thù hận mình, oán ghét mình, như vậy thì tự chính mình đang gây hấn, mà hễ gây hấn tức nhiên phải có giặc giã chiến tranh tàn sát với nhau, tình trạng ấy họ kiếm con đường Trung Dung Đạo của họ đặng họ đi đến mức hòa bình, nhưng họ kiếm mãi mà không được, vì lập trường của họ bây giờ thì ai cũng nói, tôi phải trụ các võ lực của tôi lại để có đủ năng lực bảo vệ độc lập nước nhà, đàng kia cũng nói như thế, các liệt cường nào cũng nói như thế, mà hại thay, hễ càng tạo cái võ khí ấy nhiều chừng nào, thì sự tự sát thiên hạ lại nhiều chừng nấy, biểu sao các vị Bác Sĩ về siêu hình học, tức nhiên tinh thần học của họ không để vấn đề ấy là trọng hệ.
Bây giờ Bần Đạo thuyết đến đây, con cái của Đức Chí Tôn sẽ ngó thấy, nhơn loại giờ phút này sẽ đi về đâu? Lấy theo khoa học mà nói, thì tại nơi não óc của ta nó có cái đường gần gọi (nerf de l' intelligence), thuyết ấy khoa học đã tầm đặng, Bần Đạo thuyết rằng khoa học ngày hôm nay tầm một điều, mà Đạo Pháp đã tầm và có sẵn rồi.
Cái ấy định mạng sanh của con người nó là trung tâm điểm của cả cơ thể, khôn ngoan hiển hách của kiếp sống con người, mà là nó ở ngay Nê hoàn cung, tức nhiên nó ở ngay mỏ ác đứa con nít, cho nên con nít đầu nó mới sơ sanh đã mềm, lớn lên mới cứng. Tại sao mềm? Tại ở trong khiếu ấy có ba hột tối thiểu nó tế nhuyển đến nỗi con mắt chúng không thấy được, nhưng dùng kiến hiển vi mới trông thấy nó rõ ràng được, ba hột ấy nó không phải là vật chất, mà cũng không phải là khí chất, ba hột tế nhuyển như thể hột mè nhỏ vậy thôi, xoay chuyển bên mặt qua trái, một hột dương hai hột âm, nó xoay chuyển cả với nhau mới sanh ra điển lực, mà điển lực ấy ngay chỗ đấy, là cái linh hồn của chúng ta tương liên với chơn thần, nó tương liên với xác thịt ta, nó là cái khiếu khôn ngoan của con người, do tại chỗ khiếu ấy, chơn linh của chúng ta điều khiển cả hình xác,(1*) trí khôn ngoan ấy nó phải đi một chiều và nó đi có mực thước có độ lượng, hễ nó ngừng lại thì cái trí phải mờ ám (đương chạy vụt ngừng kẻ đó cái trí não mờ ám không sáng suốt không thông minh) mà nó vận hành nhiều chừng nào cái trí hoạt bát của con người nhiều chừng nấy, mà hễ nó đi quá độ lực thì con người trở lại điên khùng ngây dại.
Ấy vậy cái kẻ tài nhân khôn ngoan đáo để đó nó gần cái mức khùng điên dại, đi quá độ lượng tức nhiên nó phải điên phải ngây, chúng ta ngó thấy cái tình trạng các bực học nhiều, chúng ta nghe trước ông cha của chúng ta thường nói, các nhà đa văn quảng kiến hay khùng (xưa kêu là điên chữ) tình trạng nó như vậy.
Kẻ tài nhân đáo để trên mặt thế này đến gần mức điên của nó, cái chỗ tài nhân của họ bước qua mức điên dễ dàng, tới chút xíu nữa thì điên ngay, chỗ mà khoa học đã nói bây giờ, Đạo giáo chúng ta gọi là Huệ khiếu, ấy là cái khiếu mà trước kia không thể tả (có?), chính khoa học đã tầm chỗ đó là địa điểm trọng yếu của Linh hồn con người;(1*) bên Thiền môn, tức nhiên bên Đạo Phật phải đốt nó gọi là Tam muội hỏa đặng cho nó ngừng bớt lại, đừng chạy quá mức của nó, mà chạy có mực thước.
Đức Chí Tôn mở khiếu cho chúng ta, mở khiếu đặng định chuẩn thằng đừng quá sức vận hành của nó. Đạo pháp có Đức Lão Tử biểu chúng ta phải tịnh đặng nhập vào cái cảnh bất nhập, tức nhiên là hư vô, cốt yếu cho ba hột ấy chạy vào cho có mực thước, nó chạy dịu dàng đừng cho loạn, đừng cho quá sức của nó, loạn tức nhiên điên, như cái máy thâu thanh nếu chúng ta mở quá sức của nó thì nó hư, phải để cho hột đó chạy vừa chừng, đặng cho cái chơn linh của chúng ta có phương thế điều khiển cả hình xác chúng ta trong mực thước khuôn khổ luật định của nó không quá mức, chúng ta dư biết rằng xác thịt chúng ta sống do nơi trái tim, chơn thần chúng ta sống do nơi Huệ quang khiếu, chơn linh chúng ta sống do nơi Càn Khôn Vũ Trụ, vì cớ cho nên linh hồn chúng ta tương liên mãi mãi với Càn Khôn Vũ Trụ mà thôi, không thể thúc phược ở mãi trong xác thịt nó ở ngoài thể nó tương liên cả Càn Khôn Vũ Trụ điều khiển cả cái sống của ta, ấy vậy, giờ phút này thiên hạ đã đợi mong cả toàn thể nhơn loại đương khủng bách tinh thần, họ đợi mong một Đấng Chơn Linh cao trọng hơn đặng điều khiển cả tâm hồn nhơn loại, mà Đấng ấy không dùng theo phương pháp Đạo giáo, mà định chuẩn thằng cho chơn linh đủ phương thế điều khiển cả vận hành cái sống hiện tại của nhơn loại trên mặt địa cầu này, sống về hình thể, tuy phải kiếm sống, sống như con vật thì họ chỉ biết ăn mà sống, mặc mà lành, hai cái đó sẽ xô đuổi họ đi đến một trường hợp tranh sống với nhau, đặng tự diệt với nhau.
Nếu giờ phút này thiên hạ đừng cho ta dị đoan, chúng ta có thể nói Đức Chí Tôn biết tình trạng nhơn loại đã tạo đến mức tự diệt nhau, nên Ngài đến tạo nền Chơn giáo của Ngài, tức nhiên Đạo Cao Đài cho nhơn loại gìn giữ phần hồn đặng định chuẩn thằng cái sống của họ đừng cho nó đến cái cảnh điên của nó, mà họ đến cảnh điên tức nhiên đến cảnh tự diệt.
Đức Chí Tôn đến đặng cho huờn thuốc phục sinh đặng cho nhơn loại sống lại là đạo đức tinh thần của Đức Chí Tôn tạo cho họ, Đao Cao Đài chính là cái sống linh hồn nhơn loại, bảo vệ tánh mạng tức nhiên chơn thần của họ, đặng họ tránh cái nạn tiêu diệt.
Phụ ghi:
(*) Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996:
• Ngày âl. 04-03-Nhâm Thìn nhằm ngày (dl. 29-03-1952).
• Ngày dl. 09-04-1952 nhằm ngày (âl. 15-03-Nhâm Thìn).
(1*) Trong bản chánh không có dấu phẩy ( , ) hay chấm phẩy ( ; ) phân đoạn câu văn, nên khi đọc nguyên câu rất là khó hiểu. Các dấu trên chúng tôi nghĩ là có thể có, nên mạo muội góp ý thêm vào. Thành thật kính cáo.
Q.5/10: KHAI NGUƠN VÀ CHUYỂN THẾ.
Đền Thánh đêm 29/3 năm Nhâm Thìn (23/4 /1952)
Đêm nay Bần Đạo giảng về khai nguơn và chuyển thế. Từ khi Đức Chí Tôn đến, Ngài dùng hai tiếng ấy, Ngài nói với cả con cái của Ngài, mà sự thật ra ngày giờ Ngài đến, nghĩa lý trọng yếu hơn hết cũng chỉ là Khai Nguơn và Chuyển Thế.
Bần Đạo đã giảng rằng: Thời kỳ tam chuyển Hạ nguơn đã mãn, khởi đầu tứ chuyển Thượng nguơn. Bần Đạo lại có đoán rằng: Mỗi một chuyển là 61 triệu năm, nếu trong 61 triệu năm chia làm ba, thì mỗi nguơn niên nó phải hai triệu ba trăm ba mươi ba ngàn, ba trăm ba mươi ba năm (20.333.333 năm). Tại sao Ngài đến? Tưởng nếu không phải Đức Chí Tôn đến lập Giáo thì cái quyền năng chuyển thế với khai nguơn ấy chưa có một Vị Phật nào đủ quyền làm được. Trọng yếu hơn hết hễ khai nguơn chuyển thế tức nhiên phải có tạo Tân Dân, hết thảy đều nghe ở trong Đại Học nói hai tiếng Tân Dân ấy, tưởng đâu dễ dàng lắm, mà nó là một điều mắc mỏ hơn hết. Nếu chúng ta mở Đạo Sử ra mà xem, trong các nền Tôn Giáo đã lưu lại, về bên nhà Phật của chúng ta, thì ta ngó thấy từ tạo Thiên lập Địa dĩ chí tới ngày có loài người chia ra không biết mấy lần Tân Dân.
Tưởng khi hồi lúc ban sơ ấy Đức Chí Tôn đến đặng tạo nhơn hình của chúng ta, hồi buổi đó thì phàm xác tục của ta vẫn đơn sơ, nó là con vật, nên hồi Tân Dân buổi đó là một hạng đã nhơn, hạng đã nhơn mà ta đã ngó thấy, giờ phút này chúng ta ngó thấy nòi giống đó còn tồn tại là bọn người Mường Mán, Mọi ở trên núi đó, chúng ta ngó thấy họ còn lạc hậu giống như dã nhơn nhưng rồi họ còn tiến triển lên nữa, giờ phút này họ tiến triển lên đã khá lắm rồi, không còn dã man như buổi ban sơ kia vậy.
Kế tiếp hạng dã nhơn người Pháp dịch là L'emuriens (Hắc Chủng) tức là nước Ấn Độ bây giờ, chúng ta đã ngó thấy nó có điều hay ho hơn hết là vị Manou. Hắc chủng ban sơ đến tạo dựng sắc dân ấy là Đức Brahma, Ngài chẳng phải đến đặng tạo dựng Hắc chủng mà thôi, mà chính mình Ngài đến, Đức Chí Tôn đã tái kiếp làm Brahma đặng giáo Đạo cho loài người. Từ buổi ấy các sắc dân Hắc chủng tiến triển lên nữa, chúng ta thấy có giống dân màu da xám xám cũng như thứ dân Cachemire đó vậy (Ấn Độ) sắc dân đó da của họ có hơi trắng trắng rồi đấy, tiến triển lên nữa. Lần này thì Đức Civa đến càng ngày họ càng tiến triển lần lên, họ làm như giống dân gọi là Thanh nhơn đó, nước da của họ xanh, hễ nước da xanh đến thì Đức Kristna Vishnou đến. Chúng ta ngó thấy sắc dân ấy, họ hạnh phúc biết bao, bởi chính nhờ cái tiến triển của họ ba bực, thì Đức Chí Tôn đến với ba danh hiệu khác nhau, vì thế giờ phút này chúng ta ngó thấy sắc dân Ấn Độ vẫn còn giữ đạo đức về Phật giáo của họ một cách bền vững chắc chắn và Bần Đạo đứng tại Toà giảng này mà nói rằng: Nếu có sắc dân nào có phương pháp bảo thủ loài người thật vững chắc, Bần Đạo dám quả quyết rằng: Duy chỉ có dân Ấn Độ mà thôi.
Kế tiếp nữa, kế dân Thanh nhơn ấy thì ta lại thấy Tân Dân Xích nhân, tức nhiên sắc dân Atlantéen, cái sắc dân Xích nhân ấy, chúng ta còn thấy lưu tích lại là nước Egypte và tất cả các sắc dân ở bên thế giới mới cả toàn cầu kêu họ là Peau Rouge, sắc dân da đỏ, người ta lầm tưởng rằng dân đó giống như dân Ấn Độ. Dân Xích Chủng vì nước da họ đỏ tương tợ như người Ấn nên họ kêu là Indien. Sắc dân Xích Chủng là sắc dân Atlantéen họ làm chúa nhơn loại một thời. Bần Đạo nói rằng họ đã thâu hoạch được một nền văn minh quá cao siêu quá huyền bí, nhưng lại có một điều họ đã lãnh sứ mạng nơi Đức Chí Tôn làm đàng anh dìu dắt các chủng tộc lạc hậu, hay là tạo dựng hạnh phúc cho các sắc dân lạc hậu, họ không làm. Trái ngược lại họ dùng cái cường lực, dùng văn minh cao trọng của họ đó, họ lệ thuộc các sắc dân lạc hậu, họ buộc các sắc dân lạc hậu ấy làm nô lệ cho họ. Vì cớ cho nên họ đã bị biếm đã chẳng phải bị biếm mà thôi, mà còn bị Thiên Điều tiêu diệt cả quốc thể của họ, tức nhiên toàn thể sắc dân Atlantéen đã bị Hồng thủy trận kêu là "Le Déluge" tiêu diệt cả địa giới của họ, hoàng triều của họ thành ra cái biển Đại Tây Dương kêu là Océan Atlantique bây giờ.
Qua sắc dân Xích Chủng ấy, tới sắc dân Huỳnh Chủng là sắc dân chúng ta đang ở trong nòi giống ấy, trong Đạo Sử gọi là "Touranien" Huỳnh Chủng cũng vậy, cũng lãnh sứ mạng dìu dắt các sắc dân lạc hậu nên họ mới khôn ngoan, bởi chính mình họ là sắc dân đến bảo tồn trí thức tinh thần nhơn loại, làm anh dìu dắt đàn em, tức nhiên làm môi giới đặng giáo hóa nhơn loại họ không làm. Cũng tấn tuồng cũ đấy, cũng như dân Xích Chủng kia vậy, cũng lệ thuộc cũng lệ thuộc các sắc dân lạc hậu, cũng giết chóc, cũng dùng cường lực đặng tiêu diệt các sắc dân lạc hậu, làm chúa hay làm bá chủ của nhơn loại. Vì cớ cho nên họ đã bị Thiên Điều. Hại thay buổi ấy cái văn minh đã đạt đến một mức cao trọng, trận giặc cuối cùng làm cho họ tiêu diệt là Phong Thần Bảng, đạt đến mức văn minh tối yếu, tối trọng đến Phong Thần Bảng là cùng. Rồi do nơi họ, do nòi Huỳnh Chủng mới sản xuất ra Bạch Chủng gọi là Aryens. Bạch Chủng giờ phút này, đương làm chúa thiên hạ vì văn minh của họ đến mức cao thượng, cũng như các chủng tộc kia vậy, đã đạt đến một nền văn minh khoa học tối yếu, tối trọng, huyền vi vô biên. Chúng ta dở lịch sử ra xem nhận thấy nhơn loại đã tạo từ trước, họ đã đạt đặng giống tương trợ nhau không xa không gần, bất quá đổi thay chút đỉnh, nhưng mà cũng trong một khuôn khổ mà thôi. Hại thay cũng vậy nữa, cũng ỷ tài lực mạnh mẽ nương nơi cái quyền lực khoa học ấy, mà lệ thuộc nhơn loại trên mặt địa cầu này. Họ cũng bị Thiên Điều và đương bị Thiêu Điều đấy, mà hễ sắc dân ấy tiêu diệt phải có sắc dân mới, tức nhiên sắc dân Thần Thông Nhơn, sắc dân mà Đức Chí Tôn nói rằng:
Chừng nào Đất dậy Trời thay xác,
Chư Phật, Thánh, Tiên xuống ở trần.
Lẫn lộn mình với hình thể của các Đấng kia Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đến thế này. Vậy Đức Chí Tôn đến thế này. Vậy Đức Chí Tôn đến tạo Tân Dân kỳ này, cốt yếu tạo hình thể cho các sắc dân mới. Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đến cùng ta, đến đặng tạo dựng nơi mặt địa cầu này, đến đặng tạo dựng tinh thần và hình thể nhơn loại trở lại như Thánh ý của Đức Chí Tôn đã định.
Vì cớ cho nên chính mình Ngài đến đặng khai nguơn và chính mình Ngài đến đặng tạo Tân Dân ấy, không phải quyền năng của Ngài thì không có vị Phật nào làm đặng. Vì cớ cho nên Đức Chí Tôn đến cùng ta là lẽ ấy.
Q.5/11: NGÀY VÍA ĐỨC PHẬT THÍCH CA và BÀ NỮ ĐẦU SƯ LÂM HƯƠNG THANH.
Đền Thánh đêm 07/4 năm Nhâm Thìn (1952)
Đêm nay là đêm cầu nguyện về ngày vía của Đức Phật Thích Ca và Bà Nữ Đầu Sư, vía Bà Nữ Đầu Sư trùng với Đức Phật Thích Ca.
Nếu như chúng ta tin về đạo đức, chúng ta nói rằng có thể tin về mê tín, thì Bần Đạo nói rằng: Không có ai thương yêu Đức Phật Thích Ca trong kiếp sống của mình hơn là Bà Nữ Đầu Sư, trong một đời của Bà, Bần Đạo tưởng thiệt là một người giữ Đạo, Bà chỉ giữ Đạo của Đức Phật Thích Ca mà thôi. Khi Đức Chí Tôn đến mở Đạo, Bà theo chân của Đức Chí Tôn đã đành, không ai dại khờ gì khi người đã có tâm Đạo mà còn mơ hồ e lệ sự chọn lựa của mình, nhưng Đức Chí Tôn là khác, mà kính trọng thờ phượng Đức Thích Ca đối với Bà Nữ Đầu Sư là khác, huống chi trọn cái gia đình từ mẹ dĩ chí Bà đều thờ phượng một cách rất tôn nghiêm, dám chắc phần nhiều không có ai thờ phượng được như cả gia tộc của Bà đã thờ phượng Đức Thích Ca.
Luận tới đây tôi nghĩ ngày này đáng lẽ nếu nói rằng nước Việt Nam chủng tộc ta có thể thờ Đức Phật Thích Ca nhiều hơn hết, nhưng đến Đại Lễ này nếu không tưởng niệm đến Đức Thích Ca đi nữa là cũng còn đoái đến tình của Bà Nữ Đầu Sư mà dòm lại Phái Nữ trong Đại Lễ thấy lơ thơ, có phải vô tình chăng? Hay là Đạo của Phật Thích Ca và công nghiệp của Bà Nữ Đầu Sư bị có cơn mưa rồi lạnh ngắt, đã lạnh trước rồi bị trận mưa nữa nó lạnh luôn.
Bần Đạo xin nói thật, Đức Phật Thích Ca, dầu sự trị thế của Ngài đã hết, chúng ta chỉ nói là hết thôi. Hai ngàn năm trăm năm (2.500) lập Đạo trên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống kia, Môn đệ của Ngài nhiều lắm, các người đừng tưởng Ông già ăn mày ấy không đủ quyền năng, mà các người khi dễ. Nội cái Bình Bát Vu của Ông đựng cả chơn hồn trong Càn Khôn Vũ Trụ, Ông ăn mày tại thế này vậy mà ngôi vị Cực Lạc Thế Giới của Ông các người xin một phẩm Liên Hoa, Ông có thể cho, là một người không nên khi dễ, không nên nguội lạnh với người đó, bởi vì Môn đệ của Ngài trên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống nhiều lắm.
Bà Nữ Đầu Sư hồi còn tại thế này cũng vậy, hay về cõi Thiêng Liêng cũng vậy thương em lắm, thương phái nữ lắm, Bà binh vực bảo trọng từ khi mới mở Đạo, biết bao phen Đức Lý Giáo Tông đã phẫn nộ, chính mình Bần Đạo cũng không thế binh vực được mà còn có thể ghét nữa mà chớ. Duy có một mình chị binh vực bảo trọng phái nữ còn tồn tại đến ngày nay, bằng không thì bị phế rồi, bị Đức Lý phế rồi đó.
Bần Đạo nói thật mấy chị, Ôi! Không phải kiếp sanh dễ gì ngộ Đạo, Bần Đạo đã chán biết khó khăn kiếp sống của mình tại thế bao giờ cũng vậy, nó làm cho mình nặng nề khổ não về tinh thần, nhưng chúng ta đem lên mặt cân thiêng liêng, chúng ta lấy trí khôn ngoan để suy đoán cho cùng, chúng ta phải lấy trí khôn ngoan công chánh mà phán đoán, phần nào xác là xác, phần nào hồn là hồn, cái xác thịt nó không phải ở đây cho đến lúc tận thế đa nghe. Kiếp sống tại thế gian này của mấy người không mấy lát, cao trọng cần yếu hay chăng là phần hồn, đừng sa xuống Địa Ngục đừng xuống đó là hơn hết. Xuống cửa đó rồi khó giải thoát lắm, khó giải thoát lắm đa nghe. Còn phần xác thì xác, hồn là hồn, mình lấy cái trí não của mình, lấy cái trung dung của mình làm sao cho Đạo có công chánh, hòa bình, xác cũng vậy, hồn cũng vậy. Chỉnh cầm cân giữ mực thước làm sao cho xác thế nào, thì phần hồn kia cũng vậy, đừng trọng bên này, phụ bên kia, là khôn ngoan hơn hết.
Còn một cái trọng yếu hơn nữa là phải nhớ luôn luôn phụng sự Đức Chí Tôn, công nghiệp ấy không bao giờ mất, bởi Ông già đó chẵng chịu thiếu nợ ai hết, trái lại nếu chúng ta có phương thế lập vị chúng ta rồi mà chúng ta còn dư thừa công nghiệp đối với Ngài. Nhớ lại trong Cửu Huyền Thất Tổ của ta chưa chắc họ đều siêu thoát đặng, để chút của cải ấy đặng độ họ, tội nghiệp biết đâu trong Cửu Huyền Thất Tổ của mỗi đứa ta lại không có người ở dưới Phong Đô, rán tiện tặng chút đỉnh cho có của cải Thiêng Liêng cho họ hưởng mới khỏi uổng kiếp sanh của mình. Đức Chí Tôn có nói:
"Đài Vân Quan Võ để Phong Thần,
Còn của Thầy đây để nhắc cân,
Muôn đức ngàn lành không sót một,
Bao nhiêu công quả bấy nhiêu phần".
Đấng đó không biết thiếu nợ ai hết và đã nói chẳng hề khi nào sai lời. Đã ngộ Đạo, đã biết Đạo, đã theo chân Đức Chí Tôn mà không biết tự mình tìm phương giải thoát, dầu chúng ta không mong mỏi cứu độ Cửu Huyền Thất Tổ đi nữa, cũng mong mỏi tự giải thoát cho mình là trọng yếu hơn hết, biết Đạo mà nguội lạnh tốt hơn hết đừng có ở trong cửa Đạo, tốt hơn đừng ngồi trong cửa Đạo, ngồi nữa thêm tội không ích gì. Thử chúng ta để dấu hỏi chúng ta tu đây trông mong cái gì? Đừng như kẻ mờ hồ kia mà Đức Chí Tôn đã để :
"Ngồi lì mà đợi Lý Ngưng Vương,
Biểu xuống thuyền Tiên nói chẹt lườn.
Co cẳng muốn vào rồi lại thụt,
Biểu thương sao đặng buộc người thương?"
Thử xét lộn lại một ngày kia, mấy người về cõi Thiêng Liêng mà ngó thấy tôi đứng giữa không trung đó, mấy người kêu tôi biểu Ông cứu độ tôi, vì hồi đó tôi có gặp Ông tại thế, thì bây giờ Ông cứu độ tôi với - tình trạng đó tôi biết trả lời với mấy người làm sao chớ? Có thể một ngày kia tôi sẽ dâng sớ cho Đức Lý lập một hình phạt, hình phạt của tôi ngộ nghỉnh lắm: Không cho phái nữ đi vô Đền Thánh một thời gian, hành lễ ngoài sân một thời gian, bằng xin không được nữa, thì không khi nào lên Chức Sắc Thiên Phong được với tôi mà chớ.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 07-04-Nhâm Thìn nhằm ngày (dl. 30-04-1952).
Q.5/12: KỶ NIỆM NGÀY QUI LIỄU CỦA BÀ NỮ ĐẦU SƯ LÂM HƯƠNG THANH - NHẮC LẠI CÔNG LAO VÀ TÀI SẢN CỦA BÀ.
Tại Tháp Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh ngày 08 /4 năm Nhâm Thìn (1952)
Hôm nay toàn thể mấy em Nam, Nữ đến kỷ niệm ngày qui liễu của Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh.
Nhắc lại hai mươi mấy năm trước, hai mươi sáu năm chúng ta hội hiệp với nhau thế nào, ngày hôm nay kẻ còn người mất, dầu ai có gan sắt đá cũng phải não nề. Luật thiên nhiên định vậy, duy có một điều hạnh phúc cho kiếp sống của chúng ta chỉ về thiêng liêng thấy cả toàn thể em út đã nối chí đặng giữ nghiệp Đạo, nếu có hưởng đặng mảy may hạnh phúc chăng chỉ có bao nhiêu đấy mà thôi. Ôi! Biết bao nhiêu khổ não, truân chuyên thương em, mà điều chẵng qua liễu Đạo của chị cái chết của chị trong đầu óc em biết sao mà nói, tưởng tượng quả quyết rằng vì chị bị cường quyền khảo quá thế, một người đa tình đa cảm như chị chúng đã khảo dượt với một phương pháp ấy không thế nào sống đặng. Đương khi bịnh chúng dắt đi hầu Tòa, dẫn ra dẫn vô đến nỗi khi trong Tòa ra rồi chị nói rằng: Không có chết giấc tại đó mà thôi, về tới nhà bịnh làm cho tới chết, mà chết phải chăng cái việc nghi ngờ của em không phải là mờ hồ, thì em dám lộng ngôn nói rằng chị đã tử vì Đạo là không quá lời. Em đã làm Hộ Pháp chỉ ân hận một điều: Chị giàu sang tưởng nơi mặt thế này, người nào có thể nói với thiên hạ rằng: Trong kiếp sanh tôi giàu sang, nào ruộng đất, lầu đài ngọc ngà châu báu, không có món gì mà chị không có, chỉ tiếc một điều là của cải ấy không để nơi nào nó phải để. Nếu giờ phút này Bần Đạo nói: Người chị của ta có ân hận chăng là chỉ có bao nhiêu đó mà thôi.
Bần Đạo nhớ lại khi khởi cất Đền Thánh thì đã ba phen thâu của tín đồ thâu của nhơn sanh, đặng cất Tòa Thánh cất không nỗi. Tới ngày khởi cất, ngày Bần Đạo nhất định cất, có 13 ngàn đồng buổi đó không phải dễ, mở trong tủ ra chỉ còn: 1$46. Cất Toà Thánh trong lúc thời thế nguy ngập, người ta bất tín nhiệm chạy tiền không ra, không biết làm thế nào khởi đương ra cho mạnh mẽ đặng thâu tín nhiệm thiên hạ lại. Túng tiền, Bần Đạo phải đến tại Vũng Liêm, tưởng đâu chị có dư giả mới đến, con người như thế này không đến nước túng thiếu quá lẽ. Xuống tới dưới, tới chừng khi hỏi chị đặng mượn số tiền về khởi công cất Tòa Thánh, chị dắt đi xuống chỉ mấy kho lúa đầy nhóc hết, mà lúa 0$20 một giạ, hồi đời đương khuẩn bách từ Á tới Âu. No thì no triệu, bán lúa nếu có thể với giá bây giờ dầu 10 triệu trả cũng được. Một giạ có 0$20 tiền chị đó em. Ôi! Lúa có 0$20 có chết được không, Qua nói thiệt với em trong mình Qua không còn gì hết. Ngồi suy nghĩ một hồi, vô mở tủ sắt lấy ra một hòm sắt lớn đầy vàng hết, từ Bà Cụ dĩ chí gia đình đều để đồ kỷ niệm trong ấy, hột xoàn nhiều hơn hết, đem hòm ấy đưa cho em đi cầm, thời buổi khuẩn bách này ngoài 90 ngàn tới 100 ngàn đặng khởi công cất Tòa Thánh thì được rồi, nhưng một ngày kia tới chừng trả rồi mới làm sao; lấy cầm thì được tới chừng chuộc thì tiền đâu, biết chuộc đặng hay không? Nói như vậy rồi cười với nhau mà thôi. Chị nói trên có huyền linh của Đức Chí Tôn dưới có cả đức tin con cái của Ngài, Nam cũng thế, Nữ cũng thế, đâu em về cất bướng coi, không cần lấy đồ này, cứ tin Đức Chí Tôn, em làm lúng cái coi được hay không. Bần Đạo về với hai bàn tay trắng làm đến thành.
Cái đức tin mạnh mẽ như thế đó, nếu giờ phút này chị còn, chị ngó thấy thời cuộc này, không thế gì chị tưởng tượng có cái cảnh này được.
Bên Phái Nữ hạng nhứt mấy người còn sống tại thế, mấy người còn sống thấy cái đại nghiệp Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn đã tạo cho mấy người, mấy người đã được hưởng, hễ khi trong tâm của mình không đủ đức tin, tin nơi mình định vận mạng mình, cho Đạo, cho nòi giống, nếu nói là tôi vô phước không thế gì vô phước hơn người đó, bởi gì người đó không thấy được như tôi, dầu chị giờ phút này ôm Bình Bát Vu đi xin như Đức Thích Ca độ Đời, dám chắc chị không từ cầm Bình Bát Vu hành khất đặng hành Đạo như Đức Phật Tổ, không khi nào chối từ và lấy làm hạnh phúc đặng làm điều ấy.
Thử nghĩ như thế đó, cả toàn thể phái nữ, mấy chị phái nữ, mấy chị lớn kia: Kẻ qua đời, người già yếu, nối chí đặng hay chăng là đàn em. Bao giờ họ thấy Thiêng Liêng Vị họ cũng làm, làm mà dòm lộn lại coi đàn em nó có kế chí mình hay không? Nối chí đặng gìn giữ đại nghiệp Thiêng Liêng này hay chăng? Mặc dầu có mất chút ít mà có kế nghiệp đặng khỏi tuyệt tự, thì Bần Đạo dám chắc họ không hưởng được hạnh phúc nào bằng.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 08-04-Nhâm Thìn nhằm ngày (dl. 01-05-1952).
Q.5/13: CÁI THIỆT PHẬN CỦA CHÚNG TA ĐỐI VỚI VẠN LINH.
Đền Thánh đêm 14/4 năm Nhâm Thìn (07/5/1952)
Đêm nay Bần Đạo xin giảng cái thiệt phận của chúng ta đối với Vạn Linh, tức nhiên cái thiệt phận của chúng ta đối với bạn đồng sinh của chúng ta. Phải chăng chúng ta khổ vì cái sống của chúng ta mỗi ngày, hễ còn ngày nào sống, chúng ta vẫn bị khuôn luật bảo vệ sống còn ấy, nó làm cho chúng ta phải phai lợt một tâm tình của chúng ta đối với bạn đồng sinh của chúng ta, nghĩa là vì chúng ta đã quá khổ, chúng ta đã vô tình với bạn chúng ta đó vậy.
Chúng ta thử để cái trí não bình tĩnh một lúc cũng như các thi gia, các văn sĩ kia để rảnh rang cái trí của mình giây phút dòm cả vạn vật đồng sinh với ta, rồi chúng ta tìm tòi hiểu cái khuôn Luật Thiên Nhiên kia đã định phận cho họ thế nào? Thì ta biết cái định phận của ta thế ấy. Vạn vật đồng sinh với ta tức nhiên bạn đồng sanh với ta trên mặt thế này, nó có cái khuôn luật hiệp quần. Hiệp quần cốt yếu để bảo thủ cái sanh mạng của mình với một năng lực đa số, tức nhiên cái năng lực mạnh mẽ hơn cái năng lực cá nhân mình, dầu cho ong kiến hay các thú vật, hiển nhiên trước mắt của chúng ta đã ngó thấy cái khuôn luật ấy nó buộc mình phải sống hiệp quần với nhau mà thôi. Thảng như có cái tình cảnh éo le mà họ phải lìa cái đoàn thể của họ, nó tỏ ra trước mắt ta ngó thấy cái tình trạng buồn thảm thê lương thế nào?
Các nhà thi gia khi cầm cây bút để tinh thần thi sĩ của mình dòm vạn vật ngó thấy cái cảnh tượng ấy, nó làm cho họ cảm kích thế nào. Chúng ta thử thấy một buổi chiều kia trời hầu khuất, vạn vật đìu hiu, giữa không trung một con nhạn lạc nào nó bay vơ vẩn một mình, đời nó chích đôi lìa bạn không có đoàn thể gì cái tâm hồn của ta nó cảm khích thế nào? Đau đớn cho tình trạng con vật đó biết bao nhiêu mà nói. Trước mắt chúng ta đã ngó thấy con kiến, thử thấy một con kiến đã chết, đàn kiến cốt yếu cả ngày lo ăn, duy có kiếm sống kiếm ăn mà thôi, có một con kiến chết giữa đường, nó liền bỏ phận kiếm ăn ấy, phận sự vĩ đại trọng hệ vác con kiến ấy về ổ.
Chúng ta muốn thí nghiệm, bắt một con ong trong một ổ ong liệng vô trong cái mành mành của con nhện cho dính, thì thấy một bầy kia nhẩy vô dính cả bầy cả lũ, cốt yếu đến giải vây cho bạn, đến nước nhào vô không còn năng lực nào cản nỗi, đã quá đông thì sẽ tiêu dứt mãnh nhện ấy, đặng cứu bạn.
Con chim ở trên Trời, loài người đã khôn ngoan bắt một con bạn của nó cột cẳng hay xỏ mũi cho dính trong bẩy đặng gài, nó nhảy nha nhảy nhót, những con kia thấy cảnh thương tâm, nó xuống chịu khổ với bạn, nên mới bị bắt.
Chúng ta ngó thấy vạn vật vậy, hỏi vạn vật đã đối với nhau dường ấy, thiên luật định vạn vật đối với nhau như thế. Còn ta đây. Hỏi ta đối với bạn đồng sinh của ta thế nào? Đối với vạn vật chúng ta có biết đau đớn khổ não của họ chăng? Đối với bạn đồng sinh của chúng ta, bạn loài người của chúng ta, ta biết có đau thảm, có sầu tủi khổ não của họ chăng, biết tình trạng của họ sống thế nào? Bạn khổ ta biết được định được cả cái khối đau đớn trong thân thể của họ, trong tâm hồn của ho; đối với vạn vật ta thấy cảnh thê lương như thế. Còn trong Đạo đối với bạn đồng sinh, bạn người của ta đây một kiếp sống trọn vẹn chung cùng với họ, chia đau sớt thảm, tình trạng họ như ta, hễ họ khổ thế nào ta khổ thế đó. Rồi thử chúng ta làm bộ để dấu hỏi thiệt phận của chúng ta đối với họ thế nào?
Hại thay! Trong vạn vật dầu cho thú cầm côn trùng đi nữa cũng như quả kiếp con người. Nó có nguyên vật, hóa vật, quỉ vật như người vậy. Nó cũng bị quả kiếp vậy. Trong khi quả kiếp ấy, khuôn luật quả kiếp ấy, nó có thể để chúng ta biết rằng: Con người của ta duy có tu, chơn tu của mình có thể đầu kiếp lên trong cảnh hiền lành chất phác, còn những kẻ không tu thì hung hăng bạo ngược. Con vật kia cũng thế, hễ nó có thiện căn của nó, nó hiền lương, kêu là lương vật. Bởi như thế có quả kiếp thì nó phải vay trả với nhau thành ra ác vật, chẳng phải vì ác vật ấy mà ta bỏ qua lãnh đạm với bạn đồng sinh của ta, chúng sẽ để câu hỏi: Ngài thật hiền lương a! Ngài thương vạn vật, như con cọp, như beo, thú kia, Ngài định phận nó như thế nào? Bần Đạo nói nó đã bị quả kiếp, một ác kiếp của nó, nó đối với con vật ác nghiệt lắm, nó đối với con vật thế nào thây kệ nó, ta duy có biết thương quả kiếp yêu nghiệt của nó, đau đớn cho nó. Chúng ta không thể cừu hận oán ghét tàn sát nó. Cũng như loài người, còn người kia sẽ hỏi Ngài, có tình cảm đối với tất cả kẻ hiền lương nhơn đức, kẻ hung bạo tàn ác kia đã giết người cướp của, tàn sát thiên hạ kia có tình cảm với họ, đồng với tình cảm kẻ thiện lương kia chăng? Chắc Bần Đạo cũng trả lời như thế ấy. Vì quả kiếp nó tàn ác: Con đường đi lên nó không đi, nó đi xuống mang thú hình, thì ta thây kệ nó. Ta chỉ biết đau đớn tủi hổ dùm cho nó vậy thôi, ta chỉ biết khóc với giọt huyết lệ của ta với nó mà thôi, chớ chúng ta không có quyền oán ghét nó, bởi kiếp sống nó đau khổ như kiếp sống của ta. Lời tục ta có nói:
Đồng bịnh tương thân.
Đồng khí tương cầu.
Của nó thế nào ta thế ấy, đau khổ nó thế nào ta thế ấy, không quyền ghét bỏ tàn sát nó. Đó là thiệt phận của ta đó vậy.
Q.5/14: QUÂN ĐỘI CAO ĐÀI THIẾT TIỆC MỪNG NGÀY SINH NHỰT ĐỨC HỘ PHÁP - BÀI ĐÁP TỪ CỦA ĐỨC NGÀI.
Trí Huệ Cung, ngày 05/6 năm Nhâm Thìn (1952)
Hôm nay Quân Đội thiết tiệc mừng Bần Đạo thêm một tuổi thọ nữa, hỏi trong một kiếp sanh của Bần Đạo đã hưởng đặc ân của Đạo, Chí Tôn ban cho là dưới mắt thấy hạnh phúc của toàn thể con cái của Ngài thật hiện vậy.
Bây giờ chính mình Bần Đạo ở đây đã hưởng được cái vui nhứt hơn hết là cái đại nghĩa của Bần Đạo đã để trong trí não của toàn thể Môn đệ, nhứt là các chiến binh, cái sống của Bần Đạo duy có mục đích làm sứ mạng thế nào gầy tình Nhân ái cho toàn thể nhơn loại, đặng đem họ đi một nơi hạnh phút tối yếu, tối trọng, là đại đồng thiên hạ đó vậy. Cái sứ mạng Thiêng Liêng của Bần Đạo có bao nhiêu đấy mà thôi, vì cớ cho nên cả sự hy sinh của các chiến binh Cao Đài, tức nhiên của toàn thể con cái của Đạo, Bần Đạo thú thật mỗi một giọt máu, một nắm xương con cái của Đạo hy sinh cho đại nghĩa, là một giọt huyết lệ của Bần Đạo, cái hy sinh ấy là giá trị danh thể của Đạo.
Chủng tộc của chúng ta đã không hiểu nhân ái, thiếu nhơn nghĩa đạo đức, thiên hạ đã quên hẳn nhân đạo của mình mới có cảnh tượng ngày nay, nếu cả toàn thể thiên hạ mà đặng hòa bình hạnh phúc thì giọt máu của thanh niên Cao Đài khỏi phải đổ dưới bóng cờ Bảo Sanh Nhơn Nghĩa Đại Đồng, chiến binh Cao Đài làm cho đặng cả ba điều ấy, có thể mới là hy sinh.
Bần Đạo đã thường nói: Không có hy sinh nào cao thượng hơn là dám hy sinh tính mạng của mình cho kẻ khác, không có cái hy sinh cao thượng hơn là hy sinh mình đặng bảo thủ nhơn nghĩa, đặng làm cho tiêu diệt cả cường quyền hai cái hy sinh cao thượng ấy, nếu nói rằng: Quân đội Cao Đài đã thực hiện được, thì Bần Đạo cũng có thể nói rằng thật vậy.
Ấy vậy cái thực hiện đó đã làm nên danh thể cho Đạo đó, sự hy sinh của toàn thể chiến binh Cao Đài giờ phút này Bần Đạo để lời cảm ơn toàn thể con cái của Đạo đã hy sinh một cách sang trọng, một cách vô đối cho toàn thể chủng tộc Việt Nam, có lẽ sự hy sinh ấy, sẽ làm môi giới cho toàn thiên hạ, các sắc dân trên mặt địa cầu này đi đến cảnh hòa bình đại đồng thế giới.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 05-05-Nhâm Thìn nhằm ngày (dl. 28-05-1952).
Q.5/15: CHỮ TU.
Đền Thánh đêm 14/5 năm Nhâm Thìn (06/6/1952)
Đêm nay Bần Đạo xin bắt chước các bạn đã lên giảng đài từ thử đến giờ giảng chữ tu.
Chữ tu tiếng Phạn gọi là Dyana, người Miên tức nhiên người Tần Nhơn nói trại lại một chút Xaxona. Tiếng Pháp hay tiếng bên Âu Châu Se perfectioner nghĩa là Rendre parfait ou plus parfait có nghĩa là làm thế nào cho mình đặng tận thiện tận mỹ. Tiếng tu nó bao quát như thế, thiên kinh vạn điển tiếng của các Tôn Giáo đã để lại duy chỉ trong một chữ đấy mà thôi; thành thử chẳng phải đứng trên giảng đài mà giảng chữ tu ấy cho cùng lý được, nhứt là Bần Đạo có thể lấy cái tinh túy của nó để ra, dầu không trọn vẹn, nhưng cả thể toàn thể con cái của Đức Chí Tôn để ý, định trí cho lắm nghe và hiểu.
Vả chăng khuôn Luật Thiên Nhiên của Tạo Hóa nó buộc cho các Đẳng linh hồn dầu vật loại, phải trau mình thế nào đặng đoạt cho đến nhơn phẩm của mình, rồi khi đã đứng địa vị làm người, mình phải dồi mài, sửa cải thế nào đặng đi từ từ đặng đoạt đến Phật Vị.
Chúng ta sanh nơi đây rồi chết, rồi tái sanh lại đặng mỗi kiếp sanh của chúng ta tu, tu đặng từ từ bước lên Thiêng Liêng Vị của mình. Tu nhơn phẩm đoạt đến địa vị tối cao tối trọng là Phật Vị đó vậy.
Trong phương tu của chúng ta buổi nào cũng tu, vừa trong lòng mẹ ra khỏi thì đã tu rồi.
Tu là gì?
Đứa con nít nó không biết nói, không biết gì hết, không biết làm sao đặng mẹ nó cho bú, hễ nó khát sữa nó có phương pháp là nó khóc, nó tìm phương làm cho mẹ nó hiểu, tức nhiên nó tu đó. Rồi khi nó biết cha biết mẹ, biết thương cha mến mẹ, cái đó cũng cái tu của nó nữa. Khi nó có em biết thương em, cái tu nó đấy. Khi trí khôn ngoan hơn chút nó vô trường học, mỗi ngày học được mấy chữ, Thầy kể rằng học đặng thấu đạt được cái hay cái biết là tu đó; lớn hơn chút nữa có trí khôn ngoan, nó kiếm phương thế làm sao cho nó hay hơn bạn nó, ham làm giỏi hơn bạn, nó biết tranh đua tức nhiên nó tu đấy. Khi nó biết khôn ngoan rồi hiểu rằng tôi phải học cho hay hơn thiên hạ trong xã hội nhơn quần, nó kiếm thế nào học hiểu cho nhiều đương đầu, đặng sống cùng xã hội, tu đấy. Khi nó có tuổi, trong tuổi trứng nước đó đến tuổi khôn ngoan hơn nữa, nó biết lựa chọn một người bạn trăm năm là vợ của nó, ấy là nó tu đấy. Đối cùng xã hội nhơn quần nó kiếm phương pháp thế nào đứng trong xã hội cho có địa vị của nó, nó nong nả đừng cho nó quá hèn, mỗi ngày nó kiếm thế tiến triển hay ho thêm mãi, tu đó.
À, cái tu từ khi mới thơ sinh lọt lòng mẹ đặng làm người, nó tu về Nhơn Đạo, tức là tu thân. Cái tu thân gọi rằng tu thân là chi? Là nó phải biết cái tu thân ấy mới có phương thế lập công cùng xã hội nhơn quần. Nó lập công làm thế nào cho toàn cả nhơn loại trên mặt địa cầu này đặng hạnh phúc, nếu như nó có phương thế làm nên cái công nghiệp vĩ đại ấy là tu thân của nó đấy.
Bây giờ Bần Đạo mới thuyết cái phương tu trong chơn truyền của Đức Chí Tôn đã để nơi cửa Đạo nầy. Chúng ta dùng Tam Bửu mỗi ngày chúng ta cầu nguyện Đức Chí Tôn đặng dâng hiến ba của báu ấy. Bần Đạo thuyết tu về Tinh, tu về Thần, đặng lập công, tức nhiên mình thờ phượng cái Tinh của mình, báu đầu tiên của mình là thân thể mình. Bây giờ ta chỉ nói với một kẻ ngu muội hay là khùng kia cũng vậy, mà mình biết nó khùng mà nó cũng biết nó là khùng, nhưng ta điểm mặt nó nói, mày điên, mày khùng thì nó giận dữ ngay đa và tức mình lắm. Cái giận ấy là trong tinh thần của nó có khuôn luật thiên nhiên bảo nó phải tu, đừng để nó ngu, mà hễ ai nói nó ngu tức nhiên làm nó phạm luật thiên nhiên ấy, nên nó không chịu, nó tức giận lắm, dầu cho nó đã thiệt ngu.
Huống chi con người sanh ra nơi cõi nầy, Đức Chí Tôn đã ban cho một cái ân đặc biệt hễ khi nào trong lòng mẹ đã xuất hiện ra thì trong cái tinh thần thiên nhiên của ta nó đã có cái quyền năng đạt được cả cái hiểu biết của nhơn loại, dầu cho Thượng Cổ, Trung Cổ nó cũng tự nhiên am hiểu cho được mới thôi. Cả cái tinh thần của nó đấy có đủ quyền năng đạt đặng khối bao quát thiên nhiên về tinh thần trí não của loài người.
Từ khi loài người đã có nơi mặt thế nầy, đều muốn thoát ly cái thú tánh của họ. Hễ thoát ly đặng cái thú tánh ấy tức nhiên họ sẽ định tâm sáng suốt thành ra một vị Thánh tại thế gian này. Chúng ta đã ngó thấy biết bao vị Thánh sống xuất hiện trong loài người từ thử đến giờ, huyền bí vô biên của tạo đoan là do nơi đó.
Ấy vậy cái khuôn luật thiên nhiên kia bảo ta phải tu trí, nếu chúng ngu xuẩn, mê muội thì bao giờ cũng phải chịu làm tôi đòi nô lệ trong kiếp sống của ta, chúng ta vẫn ngó thấy một đứa con nít mà nó vẫn kiếm phương thế đặng hiểu mọi điều thiên hạ đã biết, nó không biết nó hỏi, vấn nạn cho biết, ấy cái khuôn luật thiên nhiên biểu nó tu trí. Tu trí đặng chi? Đặng đủ khôn ngoan, tu hạnh đức hay hạnh kiểm của mình, rồi mới tu ngôn ngữ của mình, tu trí đặng lập ngôn tại thế gian này, tức nhiên tu về khí đó vậy.
Bây giờ tới tu tâm, hễ khi nào chúng ta đầy đủ trí thức, tâm ta mới sáng suốt, khi tâm đã sáng suốt thì biết rằng: Cảnh tượng kiếp sống của chúng ta đây cả thảy đều là mộng ảo, dầu cho cái ý sống hay cái thân của ta đây cũng là mộng ảo, con vật thân thể đã thế nào, thì thân thể ta cũng thế ấy. Con vật chết như thế nào thì chúng ta cũng chết tương tợ như thế đó, không khác. Đã biết kiếp sống của chúng ta là mộng ảo thì chúng ta cần phải tìm gì mà chớ. Tìm cái chi cho bền vững chắc chắn hơn, tức nhiên cái thiên lương của chúng ta, là căn bản là linh hồn của chúng ta. Ta đã hiểu được cái chơn linh của chúng ta nó bất di bất dịch, nó tồn tại mãi mãi nơi cõi Hằng Sống, biết được cái sống ấy là hằng sống thì ta phải tô điểm nó, gìn giữ nó cho được trường tồn đẹp đẽ.
Trước các tôn giáo nhứt là nhà Phật, chưa có danh từ thiên lương là gì, và tiếng linh hồn mà thiên hạ đã để lấy chữ tâm mà tượng trưng ấy, thì nó vẫn là bóng dáng chớ không phải thiệt tướng. Lấy chữ tâm là bất quá nói cái trí của chúng ta do tinh thần căn bản, nên lấy chữ tâm thay thế cho tinh thần, chớ chưa phải thật tướng tinh thần.
Ấy vậy, khi chúng ta đã qua khỏi tu trí, mới tới giai đoạn tu tâm, thì tu tâm ấy nó buộc chúng ta phải xem xét quan sát cả hành tàng kiếp sống của các bậc Thánh Nhơn, Hiền Triết, lời nói và việc làm của các vị Phật hay các vị Tiên đã lưu lại tại thế này, chúng ta mới lấy nó làm căn bản, đặng kiếm một khuôn khổ, một phương pháp đặc biệt của mình để làm phương tu của mình.
Các bạn cả thảy đều biết sự tu tâm nó chẳng phải để một cái tình cảm đối với vạn vật hay nhơn loại nơi mặt địa cầu này, mà nó còn dắt ta đi, đi mãi con đường đi của nó vô biên vô tận, bởi nó lấy Càn Khôn Vũ Trụ làm phương tu của nó. Nó lấy Càn Khôn Vũ Trụ làm nhà, làm căn bản của nó; cho nên trí của ta đối lại tâm ta, nó lại không vừa, vì danh của tâm nó còn cao vọng hơn nữa, nó còn vô tận vô biên hơn nữa. Nơi cảnh vô hình thế nào thì chữ tâm cũng thế ấy, không ai biết rõ. Do chữ tâm mà Đức Chí Tôn để cái tình yêu ái, cái thương với cái công chánh, hai cái đó là hình trạng thay thay thế chữ Tâm mới thiệt tướng của nó mà thôi. Còn ngoài ra nữa nó liên hệ và liên quan với cả Phật tánh, Thiên tánh nữa kìa. Muốn đến con đường liên hệ với Thiên tánh, Phật tánh nó có một cái cửa là cửa tịch mịch, cái cửa ấy ở thế gian này thiên hạ muốn lắm, mà phần nhiều đi chưa tới, là cửa Hư Vô tịch diệt trong cảnh Thiêng Liêng kia đó vậy.
Đạo Cao Đài giờ phút nầy còn thiếu cái đó, tức là Đạo Cao Đài còn thiếu tu tâm vậy. Nếu tu tâm mà thật hiện đặng là "Ái tuất thương sanh", hành vi của Thánh Thể của Ngài phụng sự cho Vạn Linh là tu tâm đó.
Nhưng cái tâm mà diễn ra bao nhiêu đấy không phải đủ nó còn nữa còn vô ngần vô tận, cả kiếp sanh này chúng ta không có cái năng lực để tạo nó. Ta chỉ nhờ hồng phúc mới tạo nó đặng, nên ta cần nó lắm. Nếu chưa đặng chúng ta không thể nói rằng: Con đường của chúng ta thật hiện còn đi xa vời hơn nữa. Bởi vì phụng sự vạn linh Đức Chí Tôn đã để là cốt yếu. Ngài nói rằng: Nếu biết phụng sự Vạn Linh các con mới bước vô con đường tu tâm của các con, mà nói các con chưa tu tâm, bởi cả hình trạng vô biên các con chưa theo dõi, dầu cho các con đặng chữ Từ Bi, Bác Ái và Công Chánh thì cũng chưa đủ gì hết. Ấy, tu tâm ấy mới gọi là tu tâm. Hễ có tâm mới có phương thế lập Đức. Đức Chí Tôn dạy chúng ta phụng sự Vạn Linh cốt yếu biểu chúng ta rán tu tâm, tu tâm chúng ta mới đối lại cái quyền năng tinh thần của tâm lý, đặng lập Đức là Tam Lập đó vậy, vì nó liên hệ với nhau như thế đấy.
Cả những lời Bần Đạo, thuyết từ nảy giờ có thể viết ra một quyển sách mà nói lại có bao nhiêu, về rồi suy nghĩ kiếm hiểu ở trỏng tràn trề ý vị.
Q.5/16: HAI CHỮ "TÍN NGƯỠNG".
Đền Thánh đêm 14/5 năm Nhâm Thìn (1952)
Đêm nay Bần Đạo giảng hai chữ "Tín Ngưỡng".
Tín ngưỡng - Tiếng ngưỡng ấy Đức Đại Từ Phụ đã có nói Nguỡn, thiệt tiếng Việt Nam gọi là Nguỡn bị cấm tự nghĩa là tên một vị Đế Vương trào nào đó, rồi mình sửa cải đọc trại lại thành ra chữ Ngưỡng (Thói tục ấy của nhà Nam không chi là lạ).
Tín là tin, Ngưỡng là cậy, tín ngưỡng tức nhiên là tin cậy, tiếng Việt chúng ta đã nói từ xưa đến giờ. Ngày xưa thời phong kiến danh từ tín ngưỡng có nghĩa là: "Tin cậy với sự thành kính một Đế Vương hào kiệt nào?"
Chữ tin ấy trong Đạo Giáo đã tôn trọng coi nó là yếu trọng vô cùng nên để cho nó là một cái đức, gọi là đức tin. Cái đức tin Bần Đạo có dịp viết ra cho Chánh Phủ Pháp buổi nọ biết, sự tin của đức tin ấy. Bao giờ con người cũng phải có, nếu không có tức nhiên con người đó chẳng hề khi nào làm phận sự con người cho đúng đặng và cũng nói rằng không thế nào làm người nên đặng mà chớ.
Đức Tin chia ra hai giai đoạn, hai hình thức là: Tha tín và Tự tín. Tha tín là mình tin người, hay là, có những phương pháp nào tin người chủ định cho mình, buộc mình phải tin gọi là Tha tín. Còn Tự tín là ta biết lấy ta, ta hiểu sở năng của ta, ta tin lấy ta gọi là Tự tín. Con người bao giờ cũng đi trong hai giai đoạn ấy.
Khi thư sinh chúng ta phải học, học phải hỏi, hỏi phải tin, phải biết quan tiền dũ hậu, tiên học nhi hậu hành. Học cốt yếu để thâu đoạt cái Tha tín ấy, đặng giồi mài hay là tạo dựng cho mình cái Tự tín của ta. Từ cổ chí kim Tiên Nho của chúng ta đã có nói: Quan tiền dũ hậu, ấy là một phương pháp của mình tạo Tha tín của mình đó vậy. Dầu bực Thánh Nhơn, dầu bực Phật cũng không qua khỏi khuôn luật ấy. Bần Đạo đã chỉ rõ điều ấy.
Nếu Đức Phật Thích Ca không có cái Tha tín nơi các giáo lý trước là Ba La Môn Giáo tức là Brahmanisme hay là Civaisme hay là Đạo của Krishna Vishnou, thì Bần Đạo dám quả quyết rằng: Dầu Ngài có đạt đặng giáo lý của Ngài, thì Ngài cũng chưa có biết phương pháp truyền giáo ra thế nào, hay Ngài chưa định đi truyền giáo mà chớ. Bởi cái phương pháp truyền giáo trước kia cho Ngài một bài học, đặng Ngài truyền chơn lý của Ngài cho toàn nhơn loại đều hưởng đó vậy.
Đạo của Đức Lão Tử cũng thế. Tự tín là Ngài đạt được giáo lý của Ngài về căn nguyên, võ trụ mà sanh tồn, Ngài gọi tên là Đạo, còn do nơi Tha tín Ngài mới truyền giáo.
Đức Chúa Jésus Christ thâu đoạt cơ giải tội cho thiên hạ, Ngài có phương thế Ngài biết rằng: Ngài phải trả cái ơn cho Đức Chí Tôn, cái ơn sanh thành dưỡng dục của Ngài và toàn nhơn loại, Ngài làm con tế vật đặng cứu rỗi tội tình nghiệp chướng của chúng sanh tức nhiên là tội Tổ Tông ở bên Thánh Giáo đã nói; còn ta, ta lại hiểu rằng, Ngài cốt yếu giải nợ để cho tinh thần khỏi làm tôi mọi cho con thú, là thú chất vật hình của mình. Ngài làm con tế vật Ngài dâng cho Đức Chí Tôn, đặng Đức Chí Tôn nhìn nhơn loại là con cái của Ngài, chớ không nhìn nó là con thú nữa. Đạt Bí Pháp ấy do nơi Tự tín của Ngài, còn truyền giáo của Ngài, Ngài học của Moise và các tay Giáo Chủ trước Ngài, đã lập giáo. Cái truyền giáo của Đức Chúa Jésus Christ là do nơi Tha tín, còn cái chơn truyền Bí Pháp là do nơi Tự tín của Ngài. Dầu Tiên Giáo cũng vậy, nếu không có Đức Hồng Quân Giáo Chủ đã truyền giáo thì Đức Lão Tử cũng chưa biết phải truyền bá Tiên Giáo của Ngài cho nhơn loại là thế nào mà chớ.
Cả thảy bao giờ loài người ở nơi thế gian này cũng phải học, có học rồi mới hành. Tiên học nhi hậu hành. Không ai sanh ra dưới đất này là khi lọt lòng mẹ mà tự biết được. Đức Khổng Tử có nói: Bất học nhi tri, phi thánh nhi hà. Ngài chỉ biết nói rằng: "Dầu cho Thiên kinh vạn điển bất vị nhi giáo nhơn nhứt ngôn thi thiện" (1*) Dầu cho Thiên Kinh vạn điển không bằng dạy người một lời lành. Thiên hạ đã để nơi thế gian này hai ngàn triệu cuốn sách mà ở trong đó chỉ tổng số có một điều là: Kiếm phương pháp dạy người đặng lành; từ thử tới giờ khuôn luật ấy vẫn một mà thôi.
Hỏi, Đức Chí Tôn đã đến chung hiệp cùng ta đem nền chơn giáo của Ngài để trong Thánh Thể của Ngài, để trong cửa Thánh bây giờ đây, ta để dấu hỏi, Ngài muốn tìm gì? Thật sự Ngài tìm lành, Ngài muốn cho con cái của Ngài lành, sự hung bạo của thế gian đã quá lắm rồi. Ngài đến Ngài trồng giống lành, đặng làm hoàn thuốc cứu loài người, là hoàn thuốc cứu khổ. Bần Đạo nói: Ngày giờ nào cả con cái của Ngài biết Tha tín và Tự tín là lấy cả gương mẫu của tiền nhân chúng ta, bực hiền triết Thánh Nhơn, thâu đoạt cho đặng cả tinh thần, cả hành tàng của họ, đặng tạo dựng Tự tín của mình. Tha tín ấy cả đầu óc Nam cũng thế Nữ cũng thế, nhứt là Thánh Thể của Ngài chiếm đoạt cho đặng cái Bí Pháp ấy. Đức Chí Tôn muốn thế, tức là một phương pháp cậy người tạo dựng Thánh đức cho con cái của Ngài, hầu làm khí cụ nhiệm mầu độ rỗi Vạn Linh sanh chúng.
Bần Đạo giảng rằng: Nếu chơn giáo của Ngài là một khối lành vô đối của thế gian đương mơ vọng, đương khao khát đặng hưởng lấy nó. Hưởng cho đặng nó, đặng bảo vệ sanh mạng của mình. Nếu khối lành này, không hiện tượng được thì sự hung bạo của nhơn loại sẽ xô đẩy họ đi đến con đường tận diệt mà chớ.
Ấy vậy, trước khi muốn làm sứ mạng Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn đã giao phó cho ta, cái sứ mạng ấy trọng yếu thế nào Bần Đạo không cần phải nói, cả toàn thể con cái của Ngài trước qua sau đến, không biết chừng Thánh Thể của Ngài nó phải còn tồn tại mãi mãi, mới đặng chắc chắn vững bền khối lành của Ngài, ấy sẽ làm hoàn thuốc phục sanh cho thiên hạ. Muốn đặng thế ấy thì ít ra con cái của Ngài phải thâu đoạt cho được cái Tha tín của nhơn loại hay biết lành của họ, biết ác của họ, đặng tạo dựng tự tín của mình; tự tín đặng có thể tìm nên giải pháp đặng cứu vãn sanh mạng của họ, giờ phút nào hiện tượng được cái đức tin ấy, mà toàn thể Thánh Thể của Ngài phải đạt cho kỳ đặng mới có đủ năng lực cứu vãn toàn thể sanh mạng của nhơn loại, tức nhiên con cái của Đức Chí Tôn đó vậy.
Ngày giờ nào khối Tự tín trong cửa Đạo này chưa thành lập, thì nòi giống Việt Nam phải chịu tai nạn tương tàn trước nhứt hơn hết, trước các chủng tộc khác, chịu một thứ tại nạn khổ não, nếu không có phương pháp giải quyết được vì chính quốc dân Việt Nam đương làm cơ khí cho Đức Chí Tôn tạo dựng đức tin ấy. Ngày giờ này sẽ làm cho nòi giống Việt Nam tuyệt chủng trước, rồi thiên hạ sẽ tuyệt chủng sau, nếu cơ quan cứu khổ không thành, Đạo phải cố gắng mới đặng, Bần Đạo cho hay rằng: Thành tựu hay chăng là do nơi tâm hồn thiên lương của con cái Đức Chí Tôn đào tạo, tâm hồn Thánh của Ngài đã tạo dựng từ trước. Bần Đạo gởi gấm cả khối lành ấy trong tay toàn thể con cái của Ngài, cả Nam và Nữ làm phương châm giải khổ và gầy hạnh phúc cho toàn nhơn loại.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 14-05-Nhâm Thìn nhằm ngày (dl. 06-06-1952).
(1*) Bản quay Ronéo không rõ. Xin quý vị nào còn giữ bản gốc vui lòng đóng góp ý kiến, chúng tôi thành thật cám ơn.
Q.5/17: SỰ KHÓ KHĂN CỦA ĐẠO TÂM.
Đền Thánh đêm 29/5 năm Nhâm Thìn (21/6/1952)
Đêm nay Bần Đạo giảng về sự khó khăn của Đạo tâm, chúng ta phải đương đầu với Phàm tánh. Tiếng Đạo tâm Bần Đạo đã giải rõ, Tiên Nho chúng ta khi trước không có lấy tiếng chi mà tả được cái huyền bí Tạo Đoan nên đã dùng tiếng "Tâm" chỉ vật vô hình ấy gọi là: "Cường danh viết Đạo". Mượn danh ấy đặng chỉ vật vô hình mà thôi, thật sự Đức Chí Tôn đã đến giải rằng chữ "Tâm" thiên hạ đã dùng để chỉ cái Nguơn linh của chúng ta đó vậy. Cái Nguơn linh là Tâm thuộc về Đạo, là cả cơ quan tạo đoan của Càn Khôn Vũ Trụ, cái bí mật đã sanh sanh hóa hóa, vạn linh tức là nguyên linh của chúng ta, đời cũng huyền bí của Càn Khôn Vũ Trụ, hễ chúng ta đã nói rằng: Nguơn linh của chúng ta thì hai tiếng Nguơn linh ấy, chúng ta đã tầm hiểu do Đấng Chí Linh sản xuất, mà xuất nơi Đấng Chí Linh tức nhiên nó là một phần tử vạn linh và nó đã xuất hiện trong Chí Linh mà ra, tức nhiên cả cơ quan Tạo đoan của Càn Khôn Vũ Trụ nó đã có một phần tử nơi đấy, hễ chúng ta đã nói rằng nó có thể suy đoán cơ thể chủ quyền của Càn Khôn Vũ Trụ, thì chúng ta có thể nói rằng: Nó có thể làm chủ cả cơ thể tạo đoan nơi mặt địa cầu này. Càn Khôn Vũ Trụ vĩ đại thế nào thì cái nguyên linh của ta nó cũng phải đạt đặng nguơn linh nó mới chịu, vì cớ cho nên Bần Đạo đã thường nói cái tương lai của loài người họ sẽ đi đến mục đích làm chủ tạo đoan Càn Khôn Vũ Trụ nơi mặt thế hữu hình này, hay họ sẽ làm Ông Trời tại thế này đó vậy. Hễ nói rằng có tánh chất Càn Khôn Vũ Trụ thì phải quảng đại bao la, có thể tạo đoan vĩ đại thế nào thì nguơn linh của chúng ta phải vĩ đại như thế ấy, Càn Khôn Vũ Trụ huyền bí thế nào, cái nguơn linh của chúng ta phải nương theo huyền bí ấy thế đấy.
Bởi vậy cho nên, nó tự biết phạm vi nó là Trời, nó thấy cả sự đau khổ của nhơn loại đã chịu, nó đã biết cái đau khổ của nó, mà nó hoài bão cám cảnh yêu đương kính trọng cái khổ của thiên hạ, khổ của toàn thể nhơn loại, nó đã biết cái sống của nó rằng khổ, nó phải thương cái sống của thiên hạ, nó biết cái giả của nó khổ, nó phải thương cái giả của thiên hạ, nó biết bịnh của nó là khổ, nó phải thương cái bịnh của thiên hạ, nó biết cái chết của nó là khổ nó phải thương cái chết của thiên hạ.
Cái tánh chất Nguơn linh của chúng ta, tức nhiên Đạo Tâm của chúng ta đây vậy, nó phải quyền năng chủ định của nó, nó phải có quyền năng làm chúa cái sở năng của nó, nó có thể cải được cái quyền lực của quả kiếp Luân hồi, nó có thể sửa cải đặng đạt cơ giải thoát đặng định chủ lấy nó. Ấy vậy cái Đạo Tâm của ta là thế đấy.
Bao giờ phàm tánh là vật tánh vẫn hoài bão tánh chất thú của nó, mỗi sự chi làm cho nó phải ham muốn, vừa ý thích của nó theo cái năng lực của nó mạnh mẽ thể nào nó thấy được sắc đẹp nó ham, nó mê. Nó nghe được một tiếng thanh tao nó biết muốn nó biết mê mẫn, nó nghe được mùi vị thơm tho ngon ngọt nó biết ham ăn, ham ngửi, nó thấy một cái địa vị sang trọng, nó biết giục tâm chiếm đoạt cho đặng, rồi nó dùng đủ phương pháp đòi hỏi cả tinh thần nó đem ra thi thố mâu thuẩn đoạt được sở vọng nó, nó ham muốn phú quí, giàu sang trên mặt địa cầu này, cái vật hình dù đã làm cho nó kích thích, nó lấy cả tinh thần làm năng lực nó làm sao đạt đặng, có nhiều khi trước cảnh ngộ ấy, chúng ta ngó thấy đời đạo đang tương đối cùng nhau. Một bên Đạo tâm giải quyết thắng Phàm tánh, mà hại thay! Không thể dễ gì thắng.
Tiên Nho của chúng ta đã nói trước một đạo binh có thể thắng một trận giặc muôn binh kia, mà ta thắng với phàm tánh của ta rất khó, không thể đoán đặng. Nếu chúng ta thắng được phàm tánh chúng ta, cái Đạo tâm chúng ta đủ năng lực thắng đặng tức nhiên là cái cơ quan tự giác chúng ta đạt đặng.
Đạt được năng lực tự giác ta, ta mới có thể giác thiên hạ, tức nhiên thức tỉnh toàn thể thiên hạ tự giác, giác nhi giác tha là thế ấy. Phương pháp tự giác nhà Phật, Đức Chúa Jésus Christ hay các vì Giáo Chủ đã tìm cái bí quyết ấy chuyển cả các bí mật của các nền Tôn Giáo. Chữ tu ta để dấu hỏi, cái thực hành tiếng tu của thiên hạ đã tìm cái cơ quan tự giác ấy họ đã đặng chưa, cả thảy chúng ta đều để dấu hỏi mờ hồ, nếu toàn thể thiên hạ đạt đặng cơ quan bí pháp tự giác ấy, thì Bần Đạo dám chắc nơi thế gian này cả thảy thiên hạ là Thánh, mà giờ phút này họ Phàm, thì Bần Đạo nói có một phần thiểu số đạt đặng chớ không phải cả toàn thể thiên hạ đạt đặng.
Đức Chí Tôn đã đến, Ngài chỉ Bí Pháp có một điều là: Các con không cần tìm kiếm triết lý cao siêu hơn nữa, các con tìm kiếm cái sống của toàn thể bạn đồng sinh của các con, rồi kỉnh trọng phụng sự cái sống ấy. Hễ các con tận tâm phụng sự cái sống của Vạn Linh, thì cơ quan giải thoát của các con, Thầy đã để nơi tay của các con đó vậy.
Q.5/18: VỀ LUẬT NHƠN QUẢ.
Đền Thánh đêm 30/5 năm Nhâm Thìn (1952)(*)
Đêm nay Bần Đạo giảng về luật nhân quả.
Hai chữ nhân quả là danh từ mà Tiên Nho đã đề: Chữ nhân quả. Nhân theo nghĩa chánh của nó là chỉnh lại hay dò lại. Nối luôn theo chữ quả thì chữ nhân ấy đồng khuôn chữ đại. Quả là chắc chắn mạnh mẽ, chúng ta thường hay dùng tiếng quả quyết lắm, dùng chữ quả quyết hay là mạnh mẽ chẳng hạn.
Chữ nhân quả dịch ra nghĩa lý tiếng Phạn là tiếng Karma, thiệt tiếng Phạn có nghĩa là làm cái chi phải trả cái nấy, phải bồi thường, ta có thể hiểu nó là khuôn luật "vay trả" đó vậy.
Khuôn luật ấy huyền bí vô cùng, tại liên hệ với chữ Karma. Quyền Chí Tôn tiếng Phạn đề "Boudha, Shama, Saya". Tức nhiên câu niệm của chúng ta: Phật, Pháp, Tăng. Tiếng Karma liên hệ với Pháp như thế ấy, có định luật thiêng liêng của nó, vì không thể lấy trí khôn ngoan của chúng ta mà suy đoán luận biện cho đặng. Chúng ta thấy cũng như cả toàn thể từ xưa đến giờ dầu cho bực Thánh Nhân Hiền Triết ta để con mắt quan sát tiềm tàng thấy khuôn luật ấy nó vô hình mà nó quả quyết làm sao, chắc chắn làm sao. Người ta kiếm tìm khuôn luật ấy thì thấy rằng: Có một quyền năng vô đối là quyền năng của Đức Chí Tôn, tức nhiên Đấng tự hữu kia để trong tay Đấng đó mới có thể cầm quyền về khuôn luật đó mà thôi.
Bởi sự quan sát ta thấy luật nhơn quả ấy về cá nhân cũng thế, gia đình cũng thế, xã hội cũng thế, mà nói chung toàn thể nhân quần trên mặt địa cầu này cũng thế. Nhân quả ấy, người ta đã tìm hiểu thấu đáo, hễ càng tìm tòi càng thấy kinh khủng làm sao.
Tỉ như một gia đình, trong một cơ quan tạo dựng gia đình ấy, nó do nơi ác hành tạo dựng, thì gia đình ấy chẳng hề tồn tại. Một xã hội nào, một quốc dân nào do nơi ác mà hành mà tạo nghiệp, thì xã hội đó, quốc dân đó không bao giờ bền vững. Nếu chúng ta không nói quả quyết rằng nó sẽ bị tiêu diệt mà chớ. Nhơn quần và cả nhơn loại giờ phút này chúng ta thấy quả quyết làm sao không thể gì luận được.
Luận về nhơn quả cá nhân ta hay một đại nghiệp ta nói: Tỉ như Tần Thủy Hoàng, muốn đem văn hiến của Ấn thay thế văn hiến Nho dám dang tay khi Nho, đốt sách chôn học trò, tưởng thi hành thủ đoạn ấy tiêu diệt nhà Nho được, chúng ta thấy nhà Nho vẫn còn, còn cơ nghiệp của Tần đã tiêu diệt, Bần Đạo không nói cả cơ nghiệp của Tần mà thôi, mà cả cá nhân của Tần Thủy Hoàng cũng vậy. Ngài Sở Bá Vương vô lấy Ly Sơn rồi biết Tần Thủy Hoàng chôn nhiều vật báu, khi đào lên thì của báu ấy đã tiêu hủy. Chúng ta tưởng coi có một đại cơ nghiệp của nhà Hớn, Hớn Bái Công đã lấy tính đức lập nghiệp, lấy nhơn nghĩa làm căn bản tới 800 năm, khi đến nạn diệt tận rồi cũng còn Hớn Hiến Đế nối nghiệp, qua Hớn Chiêu Liệt tức nhiên Lưu Bị biết khí số nhà Hớn đã mãn, muốn kiếm phương kéo dài mảy mún, tức nhiên để lại cho Hậu Chúa một đôi giáp quý vô cùng, Ngài nó với Hậu Chúa tức nhiên Á Đẩu rằng :
Vật dĩ ác tiểu nhi vi chi,
Vật dĩ thiện tiêu nhi bất vi.
Nghĩa là đừng vì ác nhỏ mà làm và cũng đừng vì thiện nhỏ mà không làm. Về cá nhân hay xã hội đều đứng trong khuôn luật ấy cả.
Bây giờ nói về Tôn Giáo, thì Đức Phật Thích Ca cầm Bình Bát Vu đi xin ăn đặng nuôi kẻ nghèo nàn đói khó nói "Cấp cô độc viên" mà cái Đạo của Ngài tới 2.500 năm vẫn còn bền vững, nó vẫn giàu có cả văn minh Phật Giáo đã truyền bá toàn cõi Á Đông này, nếu chúng ta thấy của cải vô biên vô tận của nó, chúng ta không thể gì tính toán được (vô toán).
Thêm nữa Đấng chịu khổ nhục đi ăn xin từ bữa, chịu hèn hạ ấy lại còn bị chúng bắt đóng đinh trên cây Thập Tự Giá "Lên án là kẻ côn đồ" kẻ hung bạo, cướp bóc. Đấng ấy đã tạo Đạo của Ngài. Giờ phút này nếu cả toàn mặt địa cầu này cũng chưa có ai sang cả cho bằng.
Nhơn quả của một người tạo nghiệp hay nhơn quả của vị tạo Đạo; hai cái đó trọng yếu vô cùng không thể gì luận được.
Nãy giờ nói của người ta, bây giờ mình phải nói tới của mình. Đức Chí Tôn nói với môn đệ của Ngài, Ngài lấy kẻ nghèo khó, hạng nhứt là Ngài đến với một quốc dân hèn hạ, quốc dân còn bị lệ thuộc của người, làm tôi đòi thiên hạ, Ngài lấy phần tử ấy làm Thánh Thể của Ngài mà tạo nền Chơn Giáo, Ngài lấy quốc dân nô lệ trong giờ phút tạo nghiệp của Đạo.
Cả con cái của Ngài tạo dựng nên hình tướng của nó, không cướp bóc của ai không cầu lụy ai cho mình mà làm cái nhân ấy quý báu làm sao, lại nữa người tượng trưng lấy nó, cơ thể hữu hình là người chủ quyền lo tạo dựng nó, thân phải hèn hạ truân chuyên, bị thiên hạ áp bức đè nén hiếp đến nỗi thân của họ bị đồ lưu, tù tội, cái nhục nhã hèn hạ của họ, ngày nay đem vô luật nhân quả thế nào? Thì toàn thể con cái của Đức Chí Tôn luận lại thì hiểu.
Phụ ghi:
(*) Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996:
Năm Nhâm Thìn (1952) là năm nhuần có hai tháng năm; tháng năm là tháng thiếu chỉ có ngày 29, tháng năm nhuận tháng đủ có ngày 30: Ngày âl. 30-05nh-Nhâm Thìn nhằm ngày (dl. 21-07-1952).
Q.5/19: TAM DỤC: THỂ DỤC, TRÍ DỤC VÀ ĐỨC DỤC.
Đền Thánh đêm 14/6 năm Nhâm Thìn (1952)
Đêm nay Bần Đạo giảng về Tam dục, dục đây là lấy chữ dục tức nhiên là nuôi.
Vả chăng trong kiếp sống của chúng ta nơi thế gian này, chỉ chúng ta có ba món cần ích đặng định mạng của chúng ta, sống nơi mặt thế này ba món trọng yếu ấy nó phải nuôi dưỡng ta như : Đói khát chúng ta phải ăn, phải có nó mới sống. Ba món ấy là: Thể dục, Trí dục và Đức dục. Chúng ta nói chữ dục tức nhiên chúng ta có thể nói rằng dưỡng dục. Ba món ấy có ba chủ quyền của nó đặc biệt, thân thể chúng ta đã nên người đây, đương sống đây chúng ta thọ ân vô biên vô tận trong kiếp sinh của ta là cha là mẹ. Nếu hai Đấng ấy không có dưỡng dục ta, thì ta đã chết, đã tiêu xác hồi nào rồi. Điều ấy Bần Đạo không cần phải minh biện rõ rệt cho lắm, cả toàn thể con cái Đức Chí Tôn Nam cũng vậy, Nữ cũng vậy có con có hiểu điều ấy. Bởi thế Tiên Nho chúng ta đã có nói: "Dưỡng tử phương tri phụ mẫu ân". Chúng ta có nuôi con mới biết được ơn cha mẹ đã sanh thành dưỡng dục.
Ấy vậy quyền năng dưỡng dục về thể dục ta, đó thuộc chủ quyền cha và mẹ ta, nếu không có nhờ mớm cơm vú sữa thì thân ta ngày hôm nay không được làm người đấy, thử lãnh đạm đi, thi hài phàm tục đã bị tiêu hủy rồi, không tiêu hủy về phương diện này, cũng tiêu hủy về phương diện khác, đừng nói chi không có nuôi dưỡng chăm nom săn sóc thi phàm chúng ta, thử nghĩ coi chúng ta có thể sống được hay chăng. Điều ấy cả thảy đều ngó thấy dễ dàng không cần phải luận.
Trí dục, trí của chúng ta đã khôn ngoan tài tình, hễ có trí thì có tài mà ai cần dùng tài của chúng ta và ta lấy trí ấy nơi đâu mà đặng, tức nhiên ta phải nhớ đồng sống cùng xã hội nhơn quần, tức nhiên đồng sống cùng chủng tộc, ta mới có thể mở mang trí lực được. Có đồng sống với họ, họ mới mở quyển sách đời cho ta đủ khôn ngoan tài đức, ta mới đồng sống với họ đặng. Thảng như chúng ta thiếu, Bần Đạo nói thiếu, Bần Đạo quả quyết duyên cớ hiển nhiên rằng: Thử bỏ xã hội nhơn quần chúng ta lên non cao rừng rậm chúng ta ở từ thuở bé xuân, thì con người chúng ta sự khôn ngoan sẽ thiếu kém, trí thức chúng ta không thể mở mang đặng rộng rãi hoạt bát như chúng ta đã đồng sống trong xã hội nhơn quần. Mà xã hội nhơn quần cần yếu chúng ta có trí tài đặng chi? Đặng chúng ta mới có phương thế giúp ích cho họ, nếu không đủ trí tài thì chúng ta sẽ làm một con vật mà thôi, làm một vật ăn bám của xã hội nhơn quần không có hữu ích gì hết. Bần Đạo nói đây cả thảy con cái của Đức Chí Tôn ngó thấy một người ngơ ngơ không đủ trí, ngu xuẩn thì bao giờ họ cũng chỉ làm bậy làm quấy, không thể gì biểu họ làm điều phải với hay cho đặng. Hạng nhứt xã hội nhơn quần sợ cái đó hơn hết, nên cần nhứt họ phải giáo hóa mở mang trí lự toàn thể quốc dân của họ. Ấy vậy lập trường họ viết sách, họ luận biện họ thuyết cả lý do chia sống của chúng ta, họ đem cả phương pháp tạo cho đặng trí tài ấy hầu giúp ích cho sự sống cùng toàn thể chủng tộc của họ.
Ấy vậy về trí dục là về phần của xã hội nhơn quần, nói trắng ra thuộc về phận sự tối yếu tối trọng của quốc gia xã hội của nhà nước.
Bây giờ tới đức dục phải lập đức, họ có kiếm nơi nào không được hay chăng, không phải do quyền thiêng liêng mà có, chúng ta tự tạo lấy mà có, chớ không hề xin ai đặng, chưa xin ai mà đặng. Nơi mặt thế này thì bao giờ cũng tranh sống thì chẳng hề khi nào chúng ta định quyết họ đã lập đức, với sự tranh đấu kịch liệt của họ, mà họ đã lập đức đặng, chữ đức ấy thiên hạ đã nói khẩu thuyết rất nhiều, mà thiết tưởng của họ tưởng cả phần đông xã hội nhơn quần nơi mặt thế này, giờ phút này Bần Đạo đứng tại tòa giảng nói rằng: Chưa biết kiếm nơi nào cho đặng phương pháp lập đức ấy, chưa biết nơi đâu mà họ tìm.
Nếu xã hội nhơn quần mà có đức, cả toàn nhơn loại mà có đức, thì trường tương tàn tương sát kia đương náo nhiệt không thể có được, bị họ thiếu đức ấy, mà thiên hạ đã điên đảo, thiên hạ đã thống khổ tương tàn tương sát với nhau, không buổi nào trên mặt thế gian này đặng hòa bình, là thiên hạ do thiếu đức. Tiên Nho của chúng ta đã có giáo hóa dân mà thôi, nói một câu rất hay: "Tích kim dĩ di tử tôn, tử tôn vị tất năng thủ; tích thơ dĩ di tử tôn, tử tôn vị tất năng độc; bất như tích âm đức, ư minh minh chi trung dĩ di tử tôn trường cửu chi kế". Nghĩa là: Chúng ta để vàng cho con chưa biết con giữ gìn còn hay chăng, chúng ta để sách cho con cốt yếu mong cho nó làm quan, trên thiên hạ, khôn hơn thiên hạ, giỏi hơn thiên hạ, trí tài hơn thiên hạ, chưa biết nó đọc hay chăng, chẳng bằng chứa đức lại nó vẫn còn tồn tại mãi thôi.
Lập đức, bây giờ chúng ta để dấu hỏi đức ấy tìm đâu mà có? Bần Đạo lại giải nghĩa quả quyết rằng: Ngoài cửa tinh thần đạo đức ở đâu mà có được món ăn thiêng liêng ấy, duy có trong cửa Đạo Cao Đài này mà thôi. Bần Đạo lại còn nói quả quyết rằng: Bất kỳ Tôn Giáo nào giúp cho ta đạt đặng cái đức, nền chơn giáo ấy gọi là chơn. Nhưng bất kỳ Tôn Giáo nào dầu họ đem lý thuyết cao siêu bao nhiêu mà giục nhơn sanh tàn ác vô lương thất đức, thì nền tôn giáo ấy bất quá là giả Đạo. Chúng ta thử nghĩ lại coi cửa Đạo Cao Đài chúng ta, Đức Chí Tôn lấy triết lý nó là gì, thử coi chúng ta lập đức được hay không suy đoán coi? Ổng đến Ổng tuyển chọn lương sanh làm Thánh Thể của Ổng, mà phụng sự cho nhơn loại đương thống khổ, tưởng không nền chơn giáo nào tu tâm có năng lực hơn phương pháp ấy.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 14-06-Nhâm Thìn nhằm ngày (dl. 04-08-1952).
Q.5/20: NÊN LẬP GIÁ TRỊ CHO CHỨC SẮC HÀM PHONG.
Hội Thánh Phước Thiện ngày 17-6 Nhâm Thìn (1952)
Trước khi mở hội, Bần Đạo xin để đôi lời tâm huyết nói cùng Chư Chức Sắc Hàm Phong những điều làm cho Chí Tôn vui lòng hơn hết.
Từ thử đến giờ Hội Thánh vì công nghiệp nên cho những Chức Sắc niên kỷ quá lục tuần đặng vào hàng phẩm Hàm Phong hầu an dưỡng lúc tuổi già, gọi là hồi hưu dưỡng lão, một điều Hội Thánh thương tâm hơn hết, là thấy toàn Đạo xem Chức Sắc này dường như vô giá trị, còn kéo lẽ ngay nhẹ thể hơn Tín đồ, bởi cớ vì nét công bình của Chí Tôn, thấy con cái Thầy chịu khó nhọc trong buổi ban sơ, nên đến lập giá trị cho Chức Sắc Hàm Phong, cốt yếu là muốn cho Hội Thánh nhìn nhận các công nghiệp ấy đặng để cho đoàn hậu tấn noi gương, kẻo chúng nó quên mấy anh mấy chị thành ra thất lễ nghĩa, và Hội Thánh cũng vì công lý và quyền hành Chí Tôn ban cho mấy anh mấy chị tức là quyền sở hữu của mỗi người nên mới lập được trong Hội Thánh Hàm Phong, có Ban Ủy Viên để bảo hộ cho Chức Sắc Hàm Phong vậy. Vả chăng Chí Tôn đến lập Đạo Cao Đài, chẳng cần nhắc đi nhắc lại mấy Anh mấy Chị cũng hiểu nghĩa là Ngài đến lập Đền Thờ cao trọng của Ngài tại mặt thế này, mấy anh mấy chị đã thấy tấn tuồng bi kịch của Đời nó đã biến thiên đảo ngược, cái sống của toàn cầu là sống trong đường danh nẻo lợi, chẳng phải nhơn nghĩa là gì, chỉ có cái sống của con người, là cốt yếu nhứt mà thôi, nơi trường thảm khóc kia Chí Tôn đã thấy nhơn loại đương tranh ăn giành sống, sắp giết hại lẫn nhau, thời tưởng nếu mình ngồi một địa vị Ông Cha lành, ngồi thấy con tàn diệt như vậy, nghĩ có an lòng không? Lẽ tất nhiên Ngài phải tầm phương giải kiết, chúng sanh đã thất đạo nhơn nghĩa, nhơn luân, sự tranh sống trước mặt của nhơn loại đã hết tánh chất loài người, cái tham tâm dục lợi càng buông lung thêm mãi, nên nạn tự diệt hầu gần, cũng do tại đó; ấy vậy muốn có món thuốc giải kiết cứu sống nó lại, thời tức phải phục hưng cái đạo nhơn nghĩa, đã có từ mới tạo Thiên lập Địa, đặng qui tựu thiên lương, hễ ngày nào loài người biết lấy nhơn nghĩa làm trọng, thì chừng đó cơ quan sanh sống mới hết quyền năng tàn hại, vì vậy Chí Tôn mới kiếm món thuốc ấy đặng cứu loài người mà toàn cầu chỉ dùng viên thuốc của Chí Tôn đến đặng lựa chọn. May thay Tổ Phụ chúng ta đã bốn ngàn năm lập nghiệp chịu yếu ớt bạc nhược đè ép, khổ khắc nhưng vẫn ôm mãi mối đạo nhơn luân, không giản không xa nhờ cầm vững món thuốc ấy, nên Chí Tôn quyết chọn thuốc Nam, lấy Đạo Nhơn Luân lập nền Quốc Đạo cho chúng ta, thời tưởng ra đâu phải điều mới mẻ, chẳng qua là lấy cái báu nhà trau giồi cho sạch đem ra phô bày nơi mặt thế, chúng ta không cần học hỏi nơi ai, mà chính thật hành y theo đó. Chí Tôn lại chia phận sự, nhứt là phận sự lập vị Thiêng Liêng thời về phần Ngài làm chủ cả vạn vật, mà lập vị cho con cái của Ngài không đặng, hỏi còn ai nữa, hay là còn mê về Thánh Thể tại thế, chúng ta không cần thuyết hay cần suy nghiệm tức nhiên cũng hiểu rằng: Ngài giao Thánh Thể Ngài bảo tồn nhơn luân đạo, chẳng phải là Ngài biểu chúng ta làm cho cả loài người phải hiển Thánh hiển Thần, mà trái lại chỉ thay thế cho Ngài giáo hóa nhơn luân, chỉ đạo cho họ là đủ, rồi do cái công nghiệp ấy để tự Ngài định vị cho mình. Hiện thời những sự mê tín của đời, đã làm cho cả trí não đầu óc của người trở nên điên đảo rối loạn tinh thần. Hồn cũng vì đó mà tiêu hủy, nhưng chúng ta đã may duyên sẵn có nền Đạo chơn chánh trong tay, thời chúng ta chỉ dụng cái báu nhà mà thôi, không còn ai mong mỏi nhồi nắn chúng ta đặng. Ấy vậy, ngày nào quốc dân Nam tỉnh giấc, tùng y theo chơn pháp của Đạo Cao Đài, thời ngày ấy không còn ai đem mê tín dị đoan nhét vào cái óc ta đặng, không tiếc gì cái óc mê tín phần đông vẫn còn nên bị cám dỗ, phân chia Đảng phái, mà phá tan cả gia nghiệp Đạo của ta phải phản quốc mà thôi, lại còn bất hiếu với Tổ Phụ nữa mà chớ. Trót 13 năm trường Chí Tôn chọn mấy vị niên kỷ, hao biết bao giọt mồ hôi chan hoà giọt lụy khổ não với Đạo mà vào hàng phẩm Hàm Phong nói ngay ra nhiều chơn lý, thiệt tay tạo thành chơn tướng của Đạo, là do nơi công nghiệp của mấy anh, mấy chị chớ không phải đám thanh niên sau này, ngày nào mấy anh mấy chị dựng lại đặng cả hồn phách Quốc dân Nam, để đền đáp ân sâu của Tổ Phụ rồi mới thỏa nguyện, mấy anh mấy chị, có trăm tuổi rủi phần xuống tuyền đài nhìn mặt Tổ Phụ của chúng ta cũng không thẹn, vì đã trả xong mảnh hiếu tâm với Đạo, còn hiện giờ cái gia nghiệp của mấy anh mấy chị tạo thành đây, biết đâu đến phiên đoàn hậu tấn, thay vì chúng nó bảo trọng trở lại tàn diệt tiêu tan, thời lý nào mấy anh mấy chị lại làm ngơ, ngồi xem kẻ vô cổ sau này mặc tình phá hủy. Đến đổi Chí Tôn đến tạo Đạo, còn lo các Đấng Chơn Linh tối cổ để giao mối chơn truyền, chẳng khác chi một vị tân quan đến trấn nhậm xứ nào, cũng phải nhờ mấy ông kỳ lão, mới rõ thông xứ ấy đặng, thời có đâu Hội Thánh chẳng coi hạng kỳ lão là trọng. Mấy anh mấy chị nhớ ngó lại xem đoàn hậu tấn thời thấy trí não nó đã đảo điên hết rồi, hình xác An Nam mà đầu óc chẳng còn mảy mún chi An Nam nữa. Vậy Đạo mà nên hay chăng, thiệt tướng hay chăng, chẳng phải nhờ nơi đám tân thời, mà do nơi mấy anh mấy chị. Mấy anh mấy chị tưởng mình già rồi đã hết phận sự nên xin nghĩ về nhà an dưỡng, rồi thử hỏi gia nghiệp này hư hủy mấy anh mấy chị có bằng lòng không? Cái gia nghiệp vĩ đại này gẫm lại toàn nòi giống chúng ta hưởng tận thế cũng vẫn còn, thời lý đâu lại coi nó rẻ hơn cái gia đình cỏn con của mấy anh mấy chị. Bần Đạo thay thế cho Hội Thánh, xin gởi cái Đạo nhà chúng ta nơi tay mấy anh mấy chị vì là người lịch duyệt khôn ngoan đạo đức hơn, đặng nắm giềng mối Đạo, nếu để hư thời tội tình ấy mấy anh mấy chị phải gánh vác. Bây giờ Bần Đạo mới chỉ rõ chẳng phải nói ngồi nhà mà thành ra vô dụng, tỷ như trị thế không đặng chớ giáo hóa cũng không đặng nữa sao? Vậy nơi nào có Chức Sắc Hàm Phong ở đó, chẳng cần nói là một vị Tín Đồ dầu Hộ Pháp hay là Giáo Tông đi nữa mà thất Đạo, thời phần trách cứ ấy về phần mấy anh mấy chị phải chịu, nếu mình biết coi cái đại nghiệp nước nhà, mà người nào sẵn tay tàn phá làm rẻ rúng nó, thời có lý đâu mình điềm nhiên toạ thị. Từ đây dầu cho Hộ Pháp hay là Giáo Tông, chẳng lựa chi là Tín Đồ, mà thất Đạo nghịch chơn truyền, thời tội tình ấy mấy anh mấy chị lãnh phần gánh vác. Lâu lâu nữa tháng hoặc một tháng, hễ nghe đứa nào thất Đạo, thì mời nó đến để lấy lời giáo hoá, nếu nó không nghe, mấy anh mấy chị dầu có trầu rượu lạy nó, đặng đền cái hiếu cái nghĩa cho Tổ Phụ, chúng ta tưởng cũng không phải hổ mà, ngày nào dầu ngoài Đời hay là trong Đạo, thất Đạo nhơn luân mà Bần Đạo không thấy một mảnh thơ của mấy anh mấy chị thời Bần Đạo trở nên người thù nghịch của mấy anh mấy chị, nếu hiển nhiên trước mắt mình thấy một vị Chức Sắc dầu cơ quan nào làm điều chi sái, phi pháp hại danh thể Đạo thời mình không cần nói đến, chỉ lấy đủ bằng cớ cả hồ sơ gởi về cho Hội Thánh, hoặc là xin trục xuất cất chức ngưng quyền hay đuổi đi nơi khác, tùy theo tội nặng nhẹ, nhưng phải hứa với Hội Thánh rằng: Mình chấp giữ quyền hành ấy cho đến ngày nào có vị Chức Sắc khác thế. Nam cũng vậy, Nữ cũng vậy, kể từ nay Bần Đạo xin giao quyền kiểm soát cả nền Đạo nơi tay của Hội Thánh Hàm Phong, giao cả hành trình, giao cả tinh thần đạo đức đoàn em Quốc dân Nam này, cho mấy anh mấy chị giáo hoá chúng nó. Vậy nơi nào có vị Hàm Phong thì đặng quyền cử Ban Kiểm Viên Kỳ Lão, chọn một vị Chủ Trưởng, một vị Phó Chủ Trưởng, một vị Từ Hàng, một vị Phó Từ Hàng, từ vị Nghị Viên trở lên, 12 dĩ hạ, tùy số kỳ lão nhiều hay ít, để giáo hóa quan sát điều đình trong địa phận mình.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 17-06-Nhâm Thìn nhằm ngày (dl. 07-08-1952).
Q.5/21: VÍA QUAN THÁNH ĐẾ QUÂN - QUYỀN HÀNH TAM TRẤN OAI NGHIÊM.
Đền Thánh đêm 29/6 năm Nhâm Thìn (1952)
Hôm lễ vía Quan Thánh Đế Quân, Bần Đạo đã có nói đến quyền hành của Ngài về Tam Trấn Oai Nghiêm, có liên quan với cái lễ tối trọng tối yếu của chúng ta là phải dâng Tam Bửu cho Đức Chí Tôn. Bần Đạo đã có dịp giảng về Tam Bửu ấy. Tỷ như một người kia tìm Đạo, người ta thấy mình dâng ba món ấy mà mình gọi là ba báu, rồi người ta để mắt thấy Bông, Rượu, Trà người ta để dấu hỏi (?), ba món ấy báu lắm hay sao? Báu ấy là báu gì ? Bần Đạo đã giảng ba cái đó tượng trưng cho báu vật của ta là: Thứ nhứt thân phàm xác thịt của chúng ta đây, thuộc về Tinh, Bông tượng trưng xác thịt. Thứ nhì là trí não của ta, khôn ngoan hơn vạn vật gọi là Khí, Rượu tượng trưng cho trí não. Thứ ba Trà tượng trưng cho linh hồn của chúng ta là cái hằng sống thiêng liêng của chúng ta, nó mới gọi là ba cái báu. Thật ra chúng ta suy nghĩ coi không có gì quí hơn xác thịt ta, trí óc ta và linh hồn ta hơn hết.
Đức Chí Tôn đến biểu chúng ta dâng ba báu vật ấy cho Ngài, Ngài không đòi hỏi dâng cho Ngài cái gì khác. Giả tỷ như đời Thượng Cổ nhơn loại dâng cho Ngài tới sanh mạng con người, nên người ta phải giết người để làm tế vật. Sau đó thay thế mạng sống con người, nhơn loại lại dâng Tam sanh tức nhiên bò, trâu, heo và sau nữa bên Âu Châu theo Đạo Do Thái thì dâng cho Đức Chí Tôn một con chiên trắng, con chiên ấy phải trắng như tuyết mà thôi.
Giờ phút này Đức Chí Tôn đến biểu chúng ta dâng Tam Bửu : Bông, Rượu, Trà; tưởng đâu là gì, thiên hạ nói báu gì đâu ba món ấy gọi là báu. Ai ngờ ba món báu ta dâng cho Ngài là báu vật, bởi vì Ngài là Chúa của ta, Ngài tạo sinh ta, Ngài là Cha của ta về phần hồn và phần xác, Ngài đòi ba món quyền sở hữu của Ngài cho ta, lấy ba món báu của ta đó vậy.
Bây giờ nếu như người tầm Đạo kia nói: Tôi không biết Ông đòi ba món ấy để làm gì? Và tôi không biết Ông dùng ba món báu ấy là xác thịt, trí não và linh hồn của mình để Ông làm gì? Người ta để dấu hỏi, tức nhiên ta phải trả lời.
Chúng ta đã thấy hiện tượng Đức Chí Tôn đến qui Tam Giáo: Nho, Thích, Đạo, lấy cả tinh thần đạo đức của ba nền Tôn Giáo ấy đặng làm môi giới chuẩn thằng. Rồi lập thêm làm gì Tam Trấn Oai Nghiêm? Có phải chăng lập Tam Trấn Oai Nghiêm là để bảo vệ ta, và Tam Trấn Oai Nghiêm có bổn phận dâng lên cho Đức Chí Tôn, sự thật như vậy. Nếu không phải vậy Đức Chí Tôn chẳng hề khi nào sắm Tam Trấn Oai Nghiêm ra làm gì cho chúng ta thờ phượng, ấy vậy Tam Trấn Oai Nghiêm trượng trưng bao báu vật ấy.
Đức Quan Thánh tượng trưng Tinh, tức nhiên tượng trưng xác thịt của chúng ta, vì cái sống trong xã hội nhơn quần của chúng ngày nay không có cái giá trị nào bằng giá trị Tinh, Khí, Thần, quả vậy tôi tưởng chắc rằng: Nếu chúng ta có mảnh thân phàm này mà muốn cho nên, đứng cho vững vàng, đáng giá nơi thế này, kiếp sống ta không có một kiểu vở nào, không một nền Tôn Giáo nào có tôn chỉ đặc biệt về xã hội nhơn quần của chúng ta hơn là Nho Giáo.
Ấy vậy hôm kỳ vía của Ngài, Bần Đạo đã có nói Ngài tượng trưng Tinh, tức nhiên Ngài là đại diện của Nho Tông chuyển thế đó vậy. Bần Đạo đã có thuyết minh nếu trong cử chỉ hành tàng kiếp sống của chúng ta, chúng ta có thể học đòi theo cả hành tàng của Ngài, lấy Xuân Thu làm chuẩn thằng lập chí. Tưởng nếu cả toàn thiên hạ lập chí cho xã hội, phục vụ cho xã hội dường này, tôi tưởng nhơn loại không hạnh phúc nào cho bằng.
Bây giờ nói Đức Lý, tức nhiên anh cả Thiêng Liêng chúng ra giờ phút này, Đấng Thiêng Liêng đến cầm quyền Giáo Tông trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ mà cũng là Nhứt Trấn Oai Nghiêm nữa, Ngài đại diện cho Tiên Giáo đó, mà Tiên Giáo chúng ta đã thấy gì? Thấy kiểu vở Tiên Giáo trong tinh thần chữ Đạo. Phải chăng Đức Ngài chỉ cho chúng ta thấy chữ Đạo là gì? Đạo là cái sống. Cái sống mà thiên hạ đã biết, nhưng mà không hiểu hình trạng và tướng diện của nó, bí mật của nó thiên hạ nơi thế gian này chưa biết, Bần Đạo lấy một tỷ thí như nam nữ phối hiệp nhau, sao lại sanh ra đứa bé, cái bí mật đó là gì? Trứng gà, nếu có trống khi ấp lại nở ra con, cái sống đó là gì? Đức Lão Tử gọi đó là Đạo. Đạo ấy trong cái sống tối thiểu, có cái sống tối đại của nó. Cũng như cái sống bí mật của ta, đương giờ phút này, đương nhiên sống với bạn đồng sinh của ta đây. Ngoài ra cái sống nữa, cái sống bí ẩn, sống thiêng liêng mà Đức Chí Tôn gọi là sống, hằng sống của Ngài ban cho ta đó vậy, đấy là Đạo.
Ấy vậy, Đức Lão Tử đã dạy cho trí khôn ngoan, của loài người mở rộng cái sống bí ẩn sống với vạn linh, trong sự sống của Càn Khôn Vũ Trụ. Các người bảo trọng cái sống của các người, thì các người phải cung kỉnh thờ phụng cái sống của vạn linh. Ấy là Ngài dạy cho ta tôn sùng cái sống, tức nhiên trí não của mình mở mang, hiểu sống đã là Đạo mà người thay quyền cho Đạo Lão tức nhiên Đức Lão Tử đặng cầm giềng mối giữ gìn cái mực thước sống của chúng ta cho còn tồn tại đó vậy.
Ấy vậy Đức Lý tượng trưng cho cả trí não tinh thần chúng ta, bảo vệ Đạo tức nhiên bảo vệ sống còn của nhơn loại vạn linh. Thuộc về Khí.
Về phần Đức Quan Thế Âm Bồ Tát, Ngài tượng trưng cho linh hồn chúng ta, phải chăng chúng ta sanh ở thế gian này đương mang nặng thi hài xác thịt này, cả toàn nhơn loại trên mặt địa cầu có mặt nơi đây, phải chăng do quả kiếp của họ, Bần Đạo không nói trọn hết thảy bị quả kiếp, cũng có những Đấng lãnh sứ mạng của Đức Chí Tôn đến giáo Đạo dìu dắt Vạn linh. Hại thay! Chín mươi hai ức nguyên nhân cũng vì sức mạng tối yếu tối trọng ấy thay vì lãnh sứ mạng của mình trọn vẹn, lại quá ham sống, gây nên tội tình phải bị sa đoạ. Thành ra một ông Thầy đến giáo Đạo lại trở thành một học trò quá tệ hơn trò nữa.
Chín mươi hai ức nguyên nhân, giờ phút này có một điều thắc mắc hơn hết, chúng ta thấy trong Vạn linh, con người tối linh hơn vạn vật, mà ta ngó thấy có thứ người không phải người, họ đã mang xác thịt làm như người mình, họ tàn ác dối trá gian ngược, làm cho các Đấng Thiêng Liêng hay là người đạt Đạo ở thế gian này cũng vậy để dấu hỏi, đến phẩm người mà vậy, hỏi họ có đáng làm người không? Họ có đáng ngồi trong phẩm vị đại hội này, hay tiểu hội vật loại? Nếu chúng ta để nhóm người đó ở trong tiểu hội vật loại thì bất công, chính mình người ta đã đạt tới nhân phẩm, nếu để trong đại hội, trong nhân phẩm thì không đáng vị, bởi vì cớ cho nên Đạo giáo để phẩm Maya, tức nhiên quỉ vị, phẩm vị riêng biệt là "quỉ vị".
Ấy vậy Đức Quan Âm Bồ Tát là một Đấng Thường Du Nam Hải, các cửa Phong đô nơi Cửu tuyền đài kia, là con đường của Ngài đi lên đi xuống không biết mấy lần, không biết thế kỷ nào dứt, để tận độ cho thiên hạ, Ngài tượng trưng cho một cơ thể thiêng liêng giải cả oan nghiệt tội tình, giải cả Nhơn quả cho chúng sanh đạt vị, tức nhiên đạt cơ giải thoát. Hỏi có người nào tượng trưng cho Đấng đó hơn Quan Thế Âm Bồ tát không? Ba cái gương ba kiểu vở kia đặc biệt chúng ta không thể gì làm được.
Kỳ tới Bần Đạo sẽ giảng liên quan mật thiết Tôn chỉ về Tam Giáo Ngũ Chi.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 29-06-Nhâm Thìn nhằm ngày (dl. 19-08-1952).
Q.5/22: HÀNH PHÉP XÁC CHO ÔNG THỪA SỬ PHẠM NGỌC TRẤN.
Đền Thánh ngày 09/7 năm Nhâm thìn (1952)
Hôm nay là ngày qui liễu của vị Thừa Sử Phạm Ngọc Trấn, Bần Đạo để lời phân ưu cùng Hiệp Thiên Đài và Quân Đội, vì các người đã mất một người bạn đồng khổ.
Từ khi mở Đạo cái kiếp sanh của Thừa Sử Trấn không biết thú vị mùi Đời là gì, trọn hiến thân cho Đạo, hai mươi mấy năm gian lao khổ nhọc, không có một điều chi chúng ta đã chịu, mà Thừa Sử Trấn không chịu. Gánh nặng của Đạo cũng đã chia sớt, gánh nặng của Đời cũng dám hy sinh, vì nước, vì nhà, vì chủng tộc; hiến thân cho Đạo trọn đời đó vậy. Hỏi? Từ thử đến giờ Thừa Sử Trấn có đặng vui hưởng hay chăng? Bần Đạo nói không, không có gì hết.
Tuy vẫn biết con người có mặt tại thế gian này thì phải sống, hễ có sống tức nhiên có chết, bởi không ra ngoài tứ khổ, dù chết thế nào cũng chết; nhỏ cũng chết, lớn cũng chết, luật thiên nhiên ấy không từ bỏ ai. Đã mang mãnh thi hài này, dầu chết thế nào cũng là chết.
Duy có một điều may mắn cho Thừa Sử Trấn hơn hết là biết mình đã mang mãnh thi hài xác tục sống ở mặt thế gian này, mà không có vui sống; nếu có cái sứ mạng thiêng liêng hiệp công tạo Đạo, thì Thừa Sử Trấn là người đã chờ Đức Chí Tôn đến, hiệp cùng Đức Chí Tôn để tạo nền chơn giáo của Ngài.
Nay có kẻ đã giết Trấn, thảng như Trấn còn oan nghiệt quả căn tiền kiếp, thì kẻ đã giết Trấn tức nhiên kẻ đó sẽ giải nợ cho Trấn và chịu quả kiếp của Trấn, từ khi có linh hồn tới giờ, bởi nó đến nó trả mà kẻ ấy không cho nó trả, tức nhiên lãnh cho nó.
Tội nghiệp thay!... Đi năm non bảy biển, vào sanh ra tử mà không chết, về ở trong nhà máu thịt mà chết, thảm thiết có bao nhiêu đó mà thôi.
Dưới bóng cờ cứu khổ, dưới bóng cờ nhơn nghĩa, hai bóng ấy tưởng đâu gởi mảnh thân phàm, có thể bảo vệ được! Nhưng ngày nay đã ra nông nỗi, chúng ta buồn duy có bao nhiêu đó mà thôi.
Kẻ giết rồi tưởng đâu kiếp sống bền bỉ có hạnh phúc mà hưởng cho tới tận thế, hưởng cho đặng sống nơi mặt địa cầu này hoài, chớ không tưởng có cái chết, nhưng sự thật thì chết cũng chết. Thử hỏi trong lương tâm của họ vui hưởng được cái gì? Nếu kẻ thù địch giết Trấn thì không nói làm chi. Nếu trong cửa Đạo này, có kẻ phản Đạo, phản Thầy, phản bạn, đưa mũi súng bắn Trấn , họ không nghĩ rằng: "Họ bắn chết Đạo của họ" họ không nghĩ rằng họ đã bắn chết thân danh của họ, duy tiếc có bao nhiêu đó mà thôi. Còn ngoài ra thì con cái Đức Chí Tôn nên mừng giùm cho Trấn, ấy là lời của Bần Đạo nói quả quyết như thế.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 09-07-Nhâm Thìn nhằm ngày (dl. 28-08-1952).
Q.5/23: LỄ TRUNG NGUƠN LÀ NGÀY CẦU NGUYỆN CHO CÁC ĐẲNG LINH HỒN.
Đền Thánh đêm 14/7 năm Nhâm Thìn (1952)
Đêm nay, đêm Rằm Trung Nguơn, ấy là ngày kỷ niệm và cầu nguyện cho các đẳng linh hồn. Bần Đạo có dịp thuyết rằng, không có cô hồn, chỉ có các đẳng linh hồn mà thôi, chứ cô hồn không có nữa.
Bần Đạo đã thuyết minh Tam Nguơn, trái địa cầu này, Nguơn niên tức là Nguơn nửa năm, Nguơn kỷ là Nguơn vào 12 tuổi, Nguơn thế là Nguơn giữa trăm tuổi. Nếu nói ra thì phải 120 tuổi, Nguơn giáp là Nguơn chuyển cũng giải rồi, đêm nay Bần Đạo xin con cái của Đức Chí Tôn làm toán pháp với Bần Đạo.
Vả chăng Đức Chí Tôn đến trong thời buổi này là mở Thượng Nguơn tứ chuyển, ta chưa biết nó sẽ ăn sâu vào trong như thế nào, ta chỉ biết nó vừa qua khỏi Hạ Nguơn tam chuyển, ta lấy tam chuyển làm căn bản mà thôi, nếu ta tính 3 chuyển ấy, là 3 lần 61 triệu năm, tức nhiên 183 triệu năm, trái đất này phục sinh lại lần thứ nhì được 183 triệu năm.
Bây giờ ta nói luôn mặt địa cầu này, giờ phút này nhơn loại tức nhiên các đẳng linh hồn đã đến ở mặt thế gian này là 2.700 triệu, tức nhiên là 2.700 triệu chơn hồn đã có mặt tại thế gian này.
Bây giờ ta phỏng định trái đất này, có khi chứa nhiều nhơn loại, mà cũng có khi chứa ít, nhứt là buổi con số nhơn loại trên mặt địa cầu này không có tổng số, lẽ dĩ nhiên nhân loại tiến triển đến chừng nào, nhơn loại tiến triển đến mức nào thì trái địa cầu này con người vẫn còn tăng độ lên mãi, cái khuôn luật thiên nhiên kia muốn tăng độ nhơn loại lên đa số là cho trái đất này phải tới giờ tiêu diệt, nó có hạn định kiếp số của nó, mà muốn làm cho tiêu diệt, nó phải làm cho giảm sức sanh sức sống của nó, trái địa cầu này, nếu nói giờ phút này 2.700 triệu nhơn loại coi có muốn mệt mỏi rồi đa, nhơn loại sẽ ăn cả sự sống của nó, ăn mãi cho đến khi tới thời hạn kiếp số của nó, khuôn luật thiên nhiên vẫn vậy.
Bây giờ ta lấy tỷ số nửa trong 2.700 triệu ta chỉ lấy chiết bán thôi, không cần chiết bán lấy khi ít, khi nhiều, lấy số chỉ định, nó có 500 triệu số nhỏ hơn hết, bây giờ lấy số 500 triệu nhơn cho 183 triệu tức nhiên 91.500 triệu thế kỷ, thử hỏi số nhơn loại trên mặt địa cầu này từ 3 chuyển đến giờ là bao nhiêu họ lộn, họ đến, họ chết, họ sống, chúng ta thấy mặt địa cầu này, duy có 10 triệu thước vòng quanh mà nơi mặt đất này chứa đựng giỏi lắm, tôi tưởng đựng cho đều là 10 ngàn triệu là quá chừng, nhưng số đó hằng hà sa số triệu. Nơi khoảng đất chúng ta đứng đây một chút xíu đất là có một chơn hồn đứng đó, nhưng mắt của chúng ta không thể thấy đặng, chúng ta lấy một ngón tay chỉ xuống đất là đã có một chơn linh đứng đó rồi.
Bởi cớ cho nên Bần Đạo đã nói không một hành tàng chi chúng ta làm mà không có chứng cớ, những chứng cớ không di dịch gì hết, bởi họ có đó, có mãi đó thôi, thử chúng ta nghĩ một anh khách trần nào ham mê quan tước thì đến 100 kiếp, tôi không nói chúng ta phải ngàn ngàn, muôn muôn kiếp, từ vật chất đoạt đến nhơn loại, không luận điều ấy, chỉ luận các vị nguyên nhân đã đến tại thế gian này, bị giam hãm trăm kiếp, trăm kiếp ấy, chúng tạo biết bao nhiêu cốt nhục, biết bao nhiêu tình ái, biết bao nhiêu gia tộc, biết bao nhiêu thân bằng quyến thuộc, chúng ta giờ phút này, luận đấy trăm kiếp của những kẻ đã có hiện diện nhờ lòng yêu ái mà được an ủi, nhờ lòng đạo đức được yên vui trong phẩm nhơn hồn đã tái kiếp để lập vị của mình.
Có quyết đoán như vậy mới được, nhứt là thời buổi này Đức Chí Tôn đến ở cùng con cái của Ngài. Ôi! Biết bao nhiêu chơn linh tình nguyện, biết bao nhiêu chơn linh đương đón đường tìm Ổng, tội nghiệp thay cho Đấng chơn hồn từ trước muốn gặp như ta, gặp Đức Chí Tôn mà không thể gặp, họ còn ở nơi cõi vô hình kia, chúng ta thử nghĩ họ sẽ ham muốn số phận họ như ta biết bao nhiêu mà nói.
Luật thiên nhiên kia buộc mỗi cá nhân ta đã đến nơi mặt địa cầu này có định số không phải ai đến cũng đặng, quả căn kiếp số đời đời có mực thước, như chúng ta đã ngó thấy mặt địa cầu này quá nhiều nhơn số, quyền thiêng liêng kia định cho nó có mực thước có khuôn luật đặng định cho nó ở hay là đi, bởi vì thân phàm của chúng ta bị quả kiếp nơi trái địa cầu này, là trái địa cầu tồi tệ khổ não.
Thật ra chúng ta đã thí nghiệm trong một kiếp sanh trăm năm, chúng ta đặng 100 tuổi, thì khối thảm khổ đau đớn càng nhiều không có thời giờ thương yêu nhau, đâu có thì giờ thù hận.
Chúng ta đã ngó thấy xung quanh của chúng ta, cả toàn thể nhơn loại có tới 2.700 triệu, chúng ta liếc mắt ngó lại nhiều kẻ còn mang thân cô quạnh ngồi giữa chợ đau khổ không ai hay, không cơm ăn, tật nguyền không ai ngó đến, không ai giúp sức cho, hiu quạnh đường đời, nhiều quả mạng căn kiếp số của hạng chúng ta, chúng ta không vi chủ nó đặng.
Biết đâu những tinh thần tàn ác tội tình, rồi ngày kia phải mang nghiệp chướng, chúng ta sẽ chà xát họ như con vật, chừng đó mới biết ăn năn sám hối thì đã rồi.
Giờ phút này nếu không bảo vệ, binh vực cái sống của ta và bạn chúng ta thì tốt hơn đừng thèm sống.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 14-07-Nhâm Thìn nhằm ngày (dl. 02-09-1952).
Q.5/24: LỄ HỘI YẾN DIÊU TRÌ KIM MẪU TỨC LÀ ĐỨC ĐẠI TỪ MẪU.
Đền Thánh ngày 14-8 năm Nhâm Thìn (1952)
Thưa cùng Chư Chức Sắc Thiên Phong, Chư Đạo Hữu Nam, Nữ Lưỡng Phái.
Đêm mai đây là đêm thuyết Lễ Hội Yến Diêu Trì. Bần Đạo đã minh thuyết nghĩa lý cuộc lễ. Theo Cựu Luật hễ khi nào chơn thần của chúng ta, tức nhiên lời ngoài đời gọi là cái "Vía" của chúng ta đây, mà được trở về cùng Mẹ Sanh của chúng ta, tức nhiên Đức Diêu Trì Kim Mẫu, thì ta đã đạt Pháp và đã thoát kiếp nghĩa là ta đã đoạt Đạo.
Từ trước biết bao nhiêu Đấng đã tìm Đạo khó nhọc gay go không biết mấy trăm kiếp đã chịu khổ hạnh, nâu sòng đã đạt Pháp, tức nhiên đạt Đạo, thời buổi đó loài người đi tìm Đạo, ngộ nghỉnh thay thời buổi này Đức Chí Tôn lại đến mở Đạo, lại để cho Đạo đến tìm ta, khi Đức Chí Tôn đến mở Đạo rồi thì Ngài đã giao cả Thánh Thể của Ngài cho Đức Phật Mẫu, nghĩa là: Đại Từ Phụ khi đã đến nhìn con cái của Ngài rồi Ngài liền giao cả con cái của Ngài lại cho Đức Đại Từ Mẫu của chúng ta đó vậy.
Hạnh phúc thay cho nhơn sanh đã có toàn vẹn Cha Mẹ, nương dưới bóng từ bi của hai Đấng ấy. Hỏi thử chúng ta còn hạnh phúc chi hơn nữa hay chăng?
Ở dưới mặt thế gian này nếu chúng ta đạt được cái đặc ân thiêng liêng ấy, hưởng lòng yêu ái vô tận của thân sinh ta là cha và mẹ, thì thiên hạ gọi là đã quá hạnh phúc rồi.
Còn hôm nay phần hồn, phần Thiêng Liêng của chúng ta đã rủi sanh nơi cõi thảm khổ này mà đặng Cha Mẹ đến cùng ta, lại cùng chia sớt khổ não với ta, hỏi thử cái hạnh phúc ấy dường nào.
Thưa các bạn đồng sanh cùng Bần Đạo, nghĩa lý Đức Chí Tôn và Phật Mẫu đến, chắc cả thảy các bạn cũng đã hiểu rồi, nhưng đến đặng chi? Đến đặng nhắc ta, dầu cho cảnh khổ não các con đã mang thi hài xác tục này chịu Tứ Khổ, tức nhiên Tứ Diệu Đề các con nên nhớ rằng, các anh em đồng sanh cùng các con cũng chịu trong Tứ Khổ ấy. Nếu các con biết phận sự của mình, phận sự Thiêng Liêng yếu trọng là các con nhìn nhận cả toàn nhơn loại, tức nhiên cả chúng sanh là anh em đồng khổ của các con đó vậy. Ngày giờ nào các con biết Đạo nương dưới lẽ ấy, cái lẽ trọng yếu ấy, phận các con là đặc phận ấy làm mầm thương yêu vô hạn, hầu một ngày kia các con trở về ngôi vị không thẹn nhìn nhau trong một kiếp sanh dù có sống trăm tuổi chẳng qua là một giấc chiêm bao mà thôi. Một giấc huỳnh lương thảm khổ này không vui sướng gì, chúng ta biết cả thảy đồng khổ cả.
Nếu chúng ta biết chun xuống "cái mồ khổ não sâu sắc đau đớn" đặng lấy cái khối ngọc vô đối của Chí Tôn dành để cho chúng ta, là cái khối từ bi bác ái vô tận của Ngài đã để trong tâm hồn ta đồng sống với nhau trong một khối ấy, thì kiếp sống của chúng ta nó hạnh phúc là dường nào.
Nhưng trái ngược lại, quả kiếp của kiếp sanh của chúng ta hiện nay sẽ trở nên trường tranh đấu tàn sát lẫn nhau, nếu Bần Đạo nói quả quyết kiếp sanh vô vị ấy, nó có thể nào lôi cuốn chúng ta sẽ tới tận đồ chi khổ hay là xuống cửa địa ngục luân hồi đời đời kiếp kiếp. Thử so sánh hai lẽ ấy rồi ta lựa chọn lẽ nào? Lấy trí khôn ngoan mà suy đoán tưởng cả thảy con cái Đức Chí Tôn đã ngó thấy khổ não ấy, và đã suy đoán nhiều rồi. Bần Đạo chỉ mơ ước Đức Mẹ và Đại Từ Phụ ban hồng ân cho cả thảy con cái của Ngài khôn ngoan hơn nữa, đặng định phận đối với bạn đồng sanh của mình. Tạo lập hạnh phúc của mình đặng hay chăng, là hưởng được lòng yêu ái của hai Đấng ấy, rồi lấy lòng yêu ái ấy rải khắp cho toàn nhơn loại được hưởng. Ấy là bổn phận của chúng ta khi Chí Tôn đã nhọc nhằn đến giao phó cho chúng ta đó vậy.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 14-08-Nhâm Thìn nhằm ngày (dl. 02-10-1952).
Q.5/25: LỄ HỘI YẾN ĐỨC DIÊU TRÌ CUNG.
Đền Thánh ngày 15-8 năm Nhâm Thìn (1952)
Thưa cùng Chư Quan Viên Chức Sắc,
Chư Sứ Thần Đại Diện các nước bạn nơi đây.
Bần Đạo xin phép mấy Ngài cho Bần Đạo để đôi lời với vị Thủ Tướng của Chánh phủ Việt Nam, tức nhiên là vị Thủ Tướng của Bần Đạo đó vậy.
Thưa cùng Thủ Tướng,
Chúng ta đã chán hiểu, lập một chánh thể Quốc Gia cốt yếu do nơi căn bản bá tánh qui nhứt gia, tức nhiên trăm họ làm một nhà. Nếu từ thử từ ngày định quốc, chúng ta đã có chúa, có vua thì những Đấng ấy chẳng qua cũng một chủng tộc trong Đại gia đình Việt Nam của chúng ta đó vậy chẳng có chi khác.
Thưa Thủ Tướng,
Lấy cái nhỏ mà luận cái lớn, một gia đình nào cũng có vài phần tử của gia đình ấy, tâm chí, tinh thần không xứng đáng. Nếu rủi một gia đình nào đó đôi ba phần tử như thế thì tội nghiệp thay. Gia đình ấy chỉ có biết mình là vô phước, chịu thống khổ để tâm than thầm cho các con cái của mình mà thôi. Chúng ta chưa biết tâm não của cha hay mẹ của gia đình đó thế nào, hoặc đành phế bỏ cái lòng thương yêu vô tận của mình, đặng dùng quyền lực quá ư nghiêm khắc, hoặc là tàn sát các phần tử ấy. Hay chỉ biết rằng gia đình mình chịu một hoàn cảnh vô phước đấy mà thôi.
Lấy cái nhỏ định cái lớn, đương nhiên bây giờ cái xã hội của chúng ta, tội nghiệp thay một Quốc gia đã chịu một mầm chia rẽ. Quốc dân không có tưởng đến lòng ái quốc cổ truyền của chúng ta đã bị tiêu diệt, thì có lạ chi chúng ta ngó thấy một phần tử trong cái đại gia đình của chúng ta, họ quên hẳn đồng bào cốt nhục của họ, trở nên một kẻ thù địch, thù địch một cách rất lợi hại, thù địch có thể xô đẩy tương lai chủng tộc tổ quốc của chúng ta đến cảnh diệt vong mà chớ.
Thưa Thủ Tướng,
Ngài là vị Thủ Tướng của nước Việt Nam vâng mạng lịnh tối cao của Chúa chúng ta là Đức Quốc Trưởng Bảo Đại, thay thế vì Ngài là Cha Mẹ của dân. Tôi tưởng cái thắc mắc của Ngài đương buổi nầy, không ai biết gì hơn là người đã bảo trọng phong hóa cổ truyền của chúng ta. Tổ Phụ ta để lại từ ngàn xưa, cái thắc mắc ấy Ngài không nỡ đang tay tàn sát những kẻ bất hiếu vô nghĩa ấy mà thôi, không phải cái năng lực của chúng ta thiếu, không thể giải quyết được vận mạng tương lai của chúng ta. Nếu có thắc mắc chăng là cũng vì lòng từ ái ấy, nhưng Bần Đạo xin kiếu lỗi cùng Ngài, để một lời tâm huyết này một quốc dân thiểu số từ trước đã chịu cái nạn áp bức của một đại cường quốc, tức nhiên lệ thuộc dưới hoàn đồ của Trung Hoa mà đã bảo vệ được nền độc lập và bảo vệ được cả chủng tộc của mình còn tồn tại đến ngày hôm nay, tức nhiên sắc dân ấy có lẽ cũng đủ khôn ngoan, đủ quyết đoán định tương lai vận mạng của mình. Sự giải quyết đó là mong mỏi tinh thần ái quốc nồng nàn của họ.
Ngài mong mỏi nơi sự khôn ngoan từ ngàn xưa để lại, trong óc não của họ và họ cũng sẽ thấy đâu là Chánh, đâu là Tà, đâu là thiệt, đâu là hư, chừng đó họ sẽ ở sau lưng Ngài giờ phút đó Ngài sẽ làm đặng cái sứ mạng thiêng liêng của Ngài, đặng đoạt đến cái vận mạng tương lai của toàn thể đồng bào đó vậy.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 15-08-Nhâm Thìn nhằm ngày (dl. 03-10-1952).
Q.5/26: LỄ HỘI HIỆP CÙNG ĐỨC DIÊU TRÌ KIM MẪU.
Cửu Long Đài chiều ngày 15-8 năm Nhâm Thìn (1952)
Hôm nay là ngày chúng ta hội hiệp cùng Đức Diêu Trì Kim Mẫu, Bần Đạo nhớ lại lúc ban sơ Đức Chí Tôn mới đến mở Đạo, Ngài làm một Bí pháp từ thử đến giờ chưa ai tưởng đến. Ngài ra lịnh lập một cái tiệc rất trọng hậu, chay chớ không phải mặn như ngoài đời, lấy trong số13 người chúng ta kể Cửu Vị Nữ Phật và Đức Phật Mẫu, với 3 Người sống, tức nhiên 3 người hữu hình 10 người vô hình dự tiệc ấy. Ba người hữu hình là: Đức Cao Thượng Phẩm, Đức Thượng Sanh và Bần Đạo, tưởng không có cái ngộ nghĩnh nào hơn là ngồi ăn uống với những vị khuất mặt buổi nọ Bần Đạo chưa có Đức tin, thấy một cái đó cho là việc nghịch nhứt, nhưng mà khi vào ngồi tiệc rồi, không biết cái tinh thần nó thay đổi thế nào, chẳng khác gì như chúng ta dự một cái tiệc trọng hậu có mặt đủ các bạn ngồi chung quanh chúng ta đó vậy. Đức Chí Tôn thi hành Bí pháp ấy, buổi nọ chúng tôi không hiểu gì hết, tôi cũng tìm tòi kiếm nghĩa lý, có lẽ những người đoạt được cơ siêu thoát tức nhiên tầm được cái huyền bí giải thoát cho mình, thì có đặc ân thiêng liêng cho Bàn Đào Hội Yến, tức nhiên là Hội Yến Diêu Trì.
Cái nghĩa lý sâu xa ấy chúng ta thử để dấu hỏi tại sao Đức Chí Tôn đã đến bảo chúng ta Hội Yên Diêu Trì. Ngài muốn gì đó. Muốn cho toàn cả con cái của Ngài, chớ không phải với ba người đó mà thôi.
Đoạt cơ siêu thoát, tức nhiên ta nói thường ngữ của chúng ta là muốn cho toàn thể con cái của Ngài đoạt đặng cơ siêu thoát đó vậy. Vì cớ cho nên hôm rồi Bần Đạo có nói một câu rất chánh đáng: Xưa kia con người đi tìm Đạo, còn hôm nay trái lại Đạo đến tìm người. Ôi! Nếu ta tưởng tượng cái ân hậu vô biên của Đức Chí Tôn đã thi thố, thì chúng ta hạnh phúc không thể gì có ngôn ngữ nào mà tả cho đặng.
Thật ra hôm nay chúng ta hội hiệp cùng nhau đây, nó sẽ trở thành một tương lai, cũng như bên Thánh Giáo Gia Tô, tức nhiên là Công Giáo họ có phương thông công cùng Đức Chí Tôn đó vậy.
Hạnh phúc thay cho những người đặng Hội Yến Diêu Trì hôm nay tức nhiên đặng hồng phúc hội hiệp cùng Bà Mẹ Thiêng Liêng của chúng ta lẽ dĩ nhiên được mang sứ mạng thiêng liêng nơi mình, cả toàn con cái của Đức Chí Tôn Nam cũng thế, Nữ cũng thế, kẻ Đông người Tây, kẻ Nam người Bắc đem cả cơ bí mật thiêng liêng của Đức Chí Tôn là lòng yêu ái của Ngài, mà rải khắp cho toàn thể con cái của Ngài đều hưởng.
Mỗi một năm chúng ta được hưởng cái hạnh phúc hội hiệp cùng nhau, chính mình Bần Đạo mỗi khi Hội Yến Diêu Trì được sum hiệp cùng mấy em Nam, Nữ đông đảo chừng nào, thì Bần Đạo càng thêm vui mừng hân hạnh chừng ấy.
Bần Đạo có nhớ một tích xưa, có một bà mẹ đó nhiều con, rồi họ xúm lại với nhau thay phiên đặng nuôi mẹ. Hễ khi anh cả nuôi rồi thì cân được bao nhiêu, tới em thứ nuôi, rồi cân phải hơn ra hay như số đấy mới đặng. Nhưng trong đám con ấy rủi thay người nghèo mà là út, kẻ nghèo ấy lại được bà mẹ yêu ái bệnh vực hơn, phần nghèo khó có phương gì nuôi mẹ cho đầy đủ đặng, nên hễ khi trao đổi đến nơi tay cái người út ấy, thì bả ốm o gây mòn. Ăn không đủ thế nào cũng ốm, bây giờ đến phiên ngày cân, đây thì bà phải làm sao, bà lận lưng thêm chì cho nặng để cân, không thì tội nghiệp cho đứa nhỏ nghèo. Cho nên lời tục họ gọi là "Bà mẹ thương con phải bù chì" là lẽ ấy. Bà Mẹ Thiêng Liêng của chúng ta cũng vậy. Tôi tưởng nơi cõi Thiêng Liêng Hằng sống kia, không ai mà bảo vệ binh vực cả linh hồn của chúng ta hơn Bà Mẹ Thiêng Liêng ấy.
Mỗi phen chúng ta hội hiệp cùng Người mỗi năm một lần, thử khí nghiệm coi, cả con cái của Ngài khi về thì sẽ đặng an ủi và có cái vui hứng làm sao đâu, không biết mấy em Nam, Nữ có cái cảnh tượng đó hay chăng, chớ Bần Đạo mỗi phen được Hội Yến Diêu Trì, làm như Bần Đạo có uống một chén thuốc bổ. Tinh thần Bần Đạo nó vui hứng, mạnh mẽ tráng kiện làm sao đâu, có phải là cái huyền diệu ấy duy để cho cả con cái, Chức Sắc Thiên Phong, những người lãnh sứ mạng cao trọng trong Đạo hay cả toàn thể con cái của Đức Chí Tôn đều hưởng được. Bần Đạo dám quả quyết nơi Đền Thờ của Đại Từ Mẫu chúng ta, Bà không kể con cái sang trọng cao sang của con Bà đâu, trái ngược lại Bà lại thương yêu binh vực những đứa con nào nó thiệt thà hèn yếu hơn hết.
Ấy vậy Qua nói rằng: Trong cả mấy em đây, nếu có đứa em nào thiếu thốn cả tinh thần và vật chất, thiệt thòi nghèo khổ, tật nguyền, Qua dám chắc Bà Mẹ Thiêng Liêng của chúng ta sẽ vui ở với những kẻ ấy lắm vậy. Qua chẳng phải nói để an ủi mấy em, mà sự thật quả quyết vậy. Qua chỉ cho mấy em thấy một cái Bí Pháp, là khi nào mấy em quá thống khổ, quá đau đớn tâm hồn, mấy em đừng vội sầu thảm, các em quì xuống giữa không trung, các em nguyện với Bà Mẹ Thiêng Liêng ấy một lời cầu nguyện, Bần Đạo quả quyết rằng: Bà chẳng hề khi nào từ chối cùng mấy em. Qua đã thử nghiệm rồi, cả toàn con cái của Đức Phật Mẫu thí nghiệm như Qua thử coi.
Trong cảnh đồ lưu nơi hải ngoại cái chết đưa bên lưng, Qua thấy cả hiện tượng Bà ở bên ta đó vậy. Cái hiển hách anh linh của Bà, Qua đã quả quyết rằng: Từ thử đến giờ chưa có trong cửa Đạo nào hưởng được. Mấy em thí nghiệm coi rồi để tâm cả thảy, nếu muốn cho Bà thương yêu, mình có cái Bí pháp hay ho hơn hết, mấy em thương yêu những kẻ tật nguyền, đau khổ, ngu hèn, khốn mạt, mấy em thử nghiệm lấy cái huyền linh của Bà. Qua cầu chúc ân Thiêng liêng của Bà chan rưới bủa khắp toàn thể con cái của Đức Chí Tôn Nam cũng vậy, Nữ cũng vậy, nhứt là mấy đứa thơ sinh, mấy đứa trẻ nhỏ côi cút.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 15-08-Nhâm Thìn nhằm ngày (dl. 03-10-1952).
Q.5/27: VÍA ĐỨC LÝ GIÁO TÔNG LÀ ANH CẢ THIÊNG LIÊNG CỦA CHÚNG TA ĐÓ VẬY.
Đền Thánh đêm 17/8 năm Nhâm Thìn (1952)
Đêm nay là Vía Đức Lý Giáo Tông, tức là Anh Cả thiêng liêng của chúng ta đó vậy.
Đã hai (*) năm dài đăng đẳng, nhưng Bần Đạo ngó lại chẳng khác nào như giấc chiêm bao. Khi ban sơ mới khai Đạo, Đức Chí Tôn đến mở Đạo, đem lòng thương yêu vô tận của Ngài, Ngài đến chung sống cùng con cái của Ngài. Theo luân lý thường tình của ta, một ông Cha cực nhọc đi đến tìm con, bao giờ lòng thương yêu vô tận ấy cũng trên hết mọi tâm tình. Chính mình không có kể đứa con nào nên, đứa nào hư, đứa nào hèn, đứa nào sang, không kể gì cái đó hết thảy. Vì cớ cho nên Đức Chí Tôn mở Đạo, Ngài ôm cả con cái của Ngài vào lòng, theo thể Bần Đạo ngó thấy hiển nhiên rằng: Đức Chí Tôn không kể Nguyên Nhân, Hóa Nhân, Quỉ Nhân gì hết. Bằng cớ khi nọ có một người đàn bà, Bần Đạo không nên nói tên ra làm chi, đội sớ quì mãi đến bãi đàn, tôi không biết xin điều gì, quì đến bãi đàn, đội sớ quì như vậy từ đàn này đến đàn khác, theo đuổi giỏi giắn siêng năn lắm. Ngày nọ đến cái đàn chót Đức Chí Tôn kêu tên người đó, rồi hỏi muốn lung lắm sao con? Người kia thầm vái cái gì không biết, Đức Chí Tôn lại nói: Thôi phong con chức Giáo Hữu đó. Thành thử ta ngó thấy rằng: Giá trị của chức Giáo Hữu không có gì hết, bất kỳ ai cũng cầu được, đem vô cái thể của Ổng với những phần tử vô giá trị, làm cho Đức Lý buổi nọ cầm quyền Thiêng Liêng của Đạo, Ngài khổ não không biết sao luận được. Buổi nọ Bần Đạo không hiểu gì hết. Đức Chí Tôn đến ban sơ khi mở Đạo, Đại Từ Phụ đòi truyền Bí Pháp cho Bần Đạo đi thôi, còn về Thể Pháp thì Hội Thánh không biết gì hết. Nội Bí Pháp không, Đại Từ Phụ đã truyền giáo, Ngài mở Đạo tại Từ Lâm Tự, đến ngày khai đàn Bần Đạo cười chết, cười sống, cười lộn mật, cười quên đầu quên đuôi hết ráo. Bởi cớ cho nên quỉ lộng cho đến chừng bị rầy cam chịu, bơ bơ có biết gì đây, về Thể Pháp Bần Đạo bị chê, Đức Lý phiền biết bao nhiêu, Bần Đạo không dám mở miệng nói gì hết, lại một nỗi Phật Mẫu và Đại Từ Phụ đem quyền Chí Tôn, Bát Quái Đài duy có một Ông mà thôi, còn quyền Chí Tôn Thánh Thể của hữu hình, Ông hỏi lấy ai hiệp một mới đương đầu với Ổng, tức nhiên Hộ Pháp, Giáo Tông hiệp một cùng nhau, hai quyền ấy mới nắm quyền Chí Tôn của Ngài. Ngẩm ra buổi nọ Đức Lý nói với Bần Đạo, theo Ngài phải hay theo Đức Chí Tôn phải. Theo Đại Từ Phụ chắc hẳn, Bần Đạo nói thật chẳng hề Bần Đạo nghe theo Đức Lý được. Thánh Thể của Đức Chí Tôn hồi buổi đó không giá trị, không trật tự, họ chia phe phân phái, họ còn phe đảng dữ lắm, mạnh đặng yếu thua, thế lực dữ lắm không có cái gì thiếu, làm cho Thánh Thể Đức Chí Tôn buổi nọ dơ bẩn làm sao đâu, không thể tưởng tượng được.
Đức Giáo Lý Tông hội Chư Thánh, nhưng đương đầu với Đức Chí Tôn chẳng dám vì lẽ đó họ chia phe phân phái lập đảng. Ngài thấy tình cảnh như vậy Ngài mới biểu Bần Đạo xuống tại Thủ Đức, trong 7 tháng Bần Đạo chung sống cùng Ngài đặng cho Ngài truyền Thể Pháp. Giờ phút này Bần Đạo đứng tại Tòa giảng đây tưởng tượng nhớ đến tâm tình ấy thắm thiết biết bao nhiêu, nồng nàn mà nói, không có một điều gì sơ sót, chỉ đủ mọi hành tàng, rành rẽ chi tiết hết. Bần Đạo vừa biết rồi, Đức Lý liền từ chức không làm Giáo Tông của Đạo trọn 3 năm vậy.
Khi Bần Đạo ở Thủ Đức về, Đức Lý dắt một đàng Ngài biểu theo Ngài chỉnh đốn Hội Thánh lại, một đàng Đức Chí Tôn nói đừng nghe Lý Thái Bạch đa nghe Phạm Công Tắc! Một đàng kéo một đàng trì, làm cho Bần Đạo không biết đường đi chút nào, thất thơ thất thưởng, mất linh hồn, muốn nửa tỉnh nửa say, Ngài đến 11 giờ Ngài viết cho đến 4 giờ sáng, chỉ rành rẽ thế nào, nhứt là Ngài biểu Bần Đạo hiệp cùng Ngài cho có quyền Chí Tôn hữu hình tại thế này, Hiền Hữu muốn cho Đạo Cao Đài còn tồn tại, hay nghe lời Đức Chí Tôn để cho nền Đạo phải mất? Bần Đạo cứ nghĩ ngợi, đó rồi Đức Chí Tôn đến, thật sự Ông Già hơi buồn thật, Ngài nói Tắc, con sửa soạn đặng làm Lễ Đăng Điện cho Đức Lý Giáo Tông đa nghe. Rồi đó Ổng ở, Ổng nghe Đức Lý Giáo Tông cầm quyền.
Đức Lý Ngài biểu Thiên Phong Chức Sắc cả Cửu Trùng Đài, Hiệp Thiên Đài lập Cửu Trùng Thiên để Ngài đăng điện, khi Ngài đăng điện rồi, Ngài cầm cây viết Ngài viết Bài Diễn Văn đăng điện cho tới tận thế sẽ không có vị Giáo Tông nào làm một Bài Diễn Văn hay như vậy. Bài Diễn Văn của Ngài vạch rõ tinh thần, con đường hay ho làm sao, nhứt là trong Bài Diễn Văn đó cho cả Hội Thánh hay rằng: Kể từ khi Ngài cầm quyền Giáo Tông đây, các người ấy đừng ỷ công khi lịnh, Ngài chẳng hề tha thứ bao giờ, Ngài nói một đàng về hữu hình, chính mình Bần Đạo chưa thấy Ngài làm gì được về vô hình Ngài trừng thanh bí mật quyền linh không thể tưởng tượng.
Khéo là cái làm Ngài không lợi dụng, chính mình Ngài dùng quyền hành Thiêng Liêng trừng thanh độc lập mà thôi. Duy có Ngài làm, Bần Đạo không biết, chỉ có cười một điều cả con cái Đức Chí Tôn không biết lựa người đặng bợ đít, đêm nay đi cúng thưa thớt, nhè Đấng oai quyền sang cả kể từ mực thước nhỏ nhen nhứt. Trên đường lập thân hành Đạo, có Đấng bảo vệ mình mà không biết bợ đỡ rồi làm sao nên. Bần Đạo xin nhắn lại với họ điều ấy.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 17-08-Nhâm Thìn nhằm ngày (dl. 05-10-1952).
(*) Chúng tôi nghĩ có thể là "hai mươi bảy năm" nếu tính từ khi mở Đạo.
Q.5/28: VÍA ĐỨC KHỔNG THÁNH - TRIẾT LÝ ĐẠO CỦA NGÀI.
Đền Thánh đêm 27/8 năm Nhâm Thìn (1952)
Đêm nay là ngày vía của Đức Khổng Thánh, mỗi năm Bần Đạo có dịp giảng giải kiếp sanh của Ngài và triết lý Đạo của Ngài, chúng ta chỉ để ý một điều trọng hệ này là Đức Chí Tôn đến lấy chơn tướng Nho Tông đặng chuyển thế. Vì cớ cho nên triết lý của Đạo Cao Đài là Nho Tông chuyển thế.
Bần Đạo đã có dịp giảng về kiếp sanh của Ngài rồi. Tưởng cũng không cần lập đi lập lại, nhưng chúng ta tự tìm hiểu nghĩa, một câu cao siêu của Đức Chí Tôn đến lập giáo, lấy Nho Tông làm căn bản mà đó là triết lý của Ngài ấy là tại duyên nào.
Chúng ta đã ngó thấy Đức Khổng Phu Tử giáng sanh buổi Đông Châu Liệt Quốc, chúng ta dư hiểu, từ thử đến giờ chưa có một quốc gia nào hỗn loạn hơn là Đông Châu Liệt Quốc buổi nọ. Dầu cho tới ngày hôm nay cũng còn là nước Tàu buổi trước, phân ra là sáu nước tranh quyền lợi với nhau. Một tấn tuồng tương tàn tương sát của Trung Hoa là nòi giống vinh quang của họ, dầu cho họ tầm phương sống, để sống, sống trong một cõi đại đồng, tức nhiên họ chưa tạo dựng một cái gì để làm cho ta kinh khủng, họ có cách thí nghiệm sơ sài ngay buổi ấy và khi Đức Khổng Phu Tử Ngài đã đến.
Nếu chúng lấy theo Nho thì chúng ta có thể nói: Bao giờ cái quyền Thiêng Liêng có tại mặt thế này. Tinh thần của con người tổng số lại làm một xã hội hay cả thiên hạ và hễ khi nào có loạn tức nhiên cả thảy thiên hạ tìm kiếm phương pháp đặng làm chủ lấy mình.
Đức Khổng Phu Tử đã sanh ra trong cái thời kỳ hỗn loạn ấy, vì cớ nên Ngài mới tìm một phương pháp để cứu nước, cứu toàn sanh mạng của giống dân Trung Hoa của Ngài cho còn tồn tại, chớ không thì tấn tuồng tương tàn, tương sát ấy không thế nào dứt được.
Vì cớ cho nên Đức Chí Tôn đã nói: Hễ chúng ta sống một ngày thì hay một ngày, chớ chẳng hề khi nào chúng ta cãi đặng khuôn luật thiên nhiên của Tạo hoá được, ví như muốn cứu vãn, muốn thức tỉnh các nước như Đông Châu Liệt Quốc buổi nọ, Bần Đạo xin nói: Phải giữ gìn phương pháp đạo đức thì mới có thể làm dứt được cái nạn nồi da xáo thịt của nước Trung Hoa buổi nọ. Vì vậy nên Đức Khổng Phu Tử mới đem đạo nhơn luân của con người ra làm căn bản. Bởi cớ cho nên Ngài chỉ tìm một phương pháp là Nhơn Đạo để cứu vãn tình thế dân Trung Quốc. Nhưng Trung Hoa buổi nọ cũng vẫn còn các bậc siêu hình khôn quá, không ai cho là giả thuyết.
Đức Khổng Phu Tử đến nước Châu hỏi lễ, Đức Lão Tử nói cùng Đức Khổng Phu Tử: "Người quân tử đức thạnh dung mạo như kẻ ngu" chúng ta biết rằng cái thuyết Đạo giáo của chúng ta là cái thuyết siêu hình, một lời nói ngộ nghĩnh là khi gặp Đức Lão Tử, rồi các Môn đệ của Ngài hỏi Ngài, Ngài trả lời rằng: "Rồng biết nương mây nương gió". Ngài trả lời một câu hay ho làm sao! Can chi họ lại kiếm Ngài mà hỏi nữa, Ngài đáp: "Con cá nó lội dưới nước, dưới bàu bằng vi, con thú nó chạy trên đồng bằng chân và đã biết căn bản của mỗi con rồi, duy có con rồng bay trên mây kia ta không thấy được hình, ta đoán không được mà thôi. Đức Lão Tử là Rồng đó vậy".
Cả thảy đều hiểu lời nói đó khéo léo làm sao, mà Ngài không quyết định đặng. Chính mình Ngài cũng không tìm hiểu được lẽ sống chết của Môn đệ của Ngài. Ngài nói cái sống đương nhiên mà chúng ta đã sống chừng nào chết chúng ta sẽ hay. Ngài nói một cách đơn giản cái thuyết chen lấn của xã hội như thế.
Ấy vậy cái thuyết bảo vệ nhơn luân chi đạo của Ngài đó, chúng ta đã hiểu như thế, Đức Chí Tôn đến đặng đem Thượng Nguơn Tứ Chuyển và tinh thần đạo đức mà tìm chúng ta để làm căn bản, nhưng hiện giờ đạo đức tinh thần của nhơn loại không còn như thời Thượng Cổ nữa. Chúng ta có thể nói theo Tiên Nho rằng: "Cổ nhơn hình tợ thú, tâm hữu đại Thánh đức, kim nhơn biêu tợ nhơn, thú tâm an khả trắc". Tất cả nhơn quần xã hội trong thời văn minh này họ hay hỏi lắm, họ làm tinh thần trí não của chúng ta thêm rối, ta tiếc có một điều là Thánh đức của họ không có.
Hại thay! Họ không cần Thánh đức, thì tức nhiên cái sống của họ không phương nào bảo vệ được đạo nhơn luân của họ, nếu bảo vệ không được đạo nhơn luân, tức nhiên họ xu hướng theo vật hình thú tánh mà thôi. Họ sống theo vật hình, theo thú tánh thì ngoài ra không biết gì hết. Như thế Thánh đức không còn giá trị gì nữa.
Vì cớ cho nên nhơn loại đã ly loạn, đạo nhơn luân nó đi đảo ngược con đường Thánh đức. Bởi cớ cho nên Đức Chí Tôn đến lấy Nho Tông trước kia làm căn bản, Đức Khổng Phu Tử đã cứu vãn tình thế nước Trung Hoa thế nào, thì ngày nay Đức Chí Tôn đến cứu vãn nhơn loại với phương pháp ấy.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 27-08-Nhâm Thìn nhằm ngày (dl. 15-10-1952).
Q.5/29: HAI BÀI THI CỦA THẤT NƯƠNG VÀ BÁT NƯƠNG LÚC BAN SƠ MỚI KHAI ĐẠO.
Đền Thánh đêm 30/8 năm Nhâm Thìn (1952)
Hôm nay Bần Đạo giảng hai bài thi của Thất và Bát Nương lúc ban sơ mới khai Đạo, trong hai bài thi ấy cả Thánh Thể Đức Chí Tôn tức nhiên Hội Thánh và con cái của Ngài chẳng luận Nam, Nữ suy gẫm rồi sẽ thấy lời tiên tri kết liễu ngày nay một cách lạ thường, nhứt là đêm nay Bần Đạo giảng cho mấy em Luật Sự Hiệp Thiên Đài lãnh sứ mạng đi cùng các nơi cầm cân công bình Thiêng Liêng của Đạo.
Vả chăng chơn lý của Đạo Cao Đài đã tỏ cho toàn thể nhơn sanh đều hiểu lời tiên tri của Phật Giáo đã nói: Qua cuối Hạ nguơn Đức Chí Tôn đến để mở Hội Long Hoa đặng lập vị cho Đức Di Lặc Vương Phật. Nhưng khi ấy cả Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật tại Ngọc Hư Cung cầu xin Đức Ngài để cho các Đấng ấy đảm đương phận sự thay thế cho Ngài. Vì cớ cho nên Ngài không đi, Ngài không có đến tức nhiên Ngài không có giáng trần tái kiếp.
Từ thử đến giờ, Bần Đạo chưa hề biết nói đến sứ mạng Thiêng Liêng của Bần Đạo, là vì Đức Chí Tôn không đi, nên mới có Hộ Pháp của Ngài đến. Hộ Pháp của Ngài đến, cốt yếu thay thế cho Ngài đặng lập vị cho Đức Phật Di Lặc Vương Phật mở Hội Long Hoa, tức nhiên sứ mạng của Hộ Pháp là cầm cân công bình Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn giao phó, nắm cả tâm lý tinh thần nơi mặt địa cầu này đặng hòa giải hầu sửa đương tâm đức tinh thần của nhơn loại, tức nhiên là Ngài đến trước khi mở Hội Long Hoa tạo Tiên, Phật tâm đức từ trong cửa Thánh của họ đặng họ từ từ bước đến phẩm vị của họ tại mặt thế này.
Ngày giờ nào nhơn sanh đã tiến bước, Bần Đạo chỉ nói một người mà thôi, đạt được Phật Vị thì ngày ấy Hội Long Hoa mới mở, mà Hội Long Hoa chưa mở thì Đức Di Lặc Vương chưa có đến, nghe cho rõ rồi nhớ, phải chăng là chung tâm cả thảy Thánh Thể và con cái của Ngài thấy cái trường Đời tức nhiên nhơn quần xã hội đương ly loạn, mà chính trong một quốc dân Đức Chí Tôn đến đặng lựa chọn một phần làm Thánh Thể của Ngài tức là nước Việt Nam đương nhiên, mà ngày giờ này cũng bị đảo lộn loạn ly hỗn loạn, mà lẽ dĩ nhiên là hễ không có hỗn loạn thì tức không có bình trị.
Chúng ta đã thấy luật thiên nhiên tương đối kia muốn cho nước đục được trong, phải đánh cho nó đảo lộn đi rồi nó mới lóng phèn nước mới trong lại được. Cuộc thế đương thời là vậy đó. Bây giờ vận mạng nước nhà Nam cũng thế ấy, phải có loạn mới có bình trị, cũng như chúng ta thấy giờ này đạo lý đã xuất hiện, và nhờ đạo lý ấy họ mới nhìn nhận Hội Thánh chúng ta, mà chúng ta có sợ sệt chi chăng? Bần Đạo nói: Chẳng hề khi nào biết sợ, Bần Đạo quả quyết như thế. Đây là cái bằng cớ mà con cái của Đức Chí Tôn đã thấy rõ, từ khi mở Đạo đã gặp khó khăn ấy rồi. Bần Đạo chưa hề sợ ai làm khó hết. Càng hỗn loạn ấy Bần Đạo cũng mở tầm mắt xem coi và đợi kết liễu của nó. Bần Đạo chẳng hề khi nào khủng khiếp, tại sao lại khủng khiếp chớ! Đức Chí Tôn biểu mình hiến trọn Tam Bửu của mình tức là mảnh thân phàm, trí não và linh hồn mình cho Ngài, thì mảnh xác thân của ta đây đã làm tế vật cho Ngài, thì dầu chết dầu sống vì thời thế nào cũng không sao, vì rằng: Dầu ta đương sống với Đời mà đã chết với Đời còn sống cốt là sống vì Đạo, có gì phòng sợ, cái gì mà khủng khiếp? Khủng khiếp là điều bạc nhược của chúng ta đó. Cái trường đời còn đảo ngược thì Bần Đạo càng có phương thế đem cái sứ mạng của mình làm cho nó có mực thước. Trái ngược lại Bần Đạo cầu cho như thế, cái hổn loạn ấy nó khởi từ lúc ban sơ. Đức Chí Tôn đến đặng đem mối Đạo đưa cho con cái của Ngài, tức nhiên là các phần tử Thánh Thể của Ngài đầu tiên mà Ngài đã đến kiếm. Ngài tự đưa cái hỗn loạn ấy, cái khó khăn ấy khởi đương trong gia đình Thánh Thể của Ngài là mỗi phần tử ấy, Bần Đạo trông lại đàn anh của chúng ta cho đến Bần Đạo đây cũng vậy, đem thân vào cửa Thánh của Ngài thì thấy khổ nhọc khó khăn biết bao nhiêu. Nói đến sứ mạng yếu trọng của mình hôm nay thì cũng thế đó.
Trong gia đình có hỗn loạn, có thống khổ thì tới xã hội nhơn quần cũng vậy, cớ sao xã hội có như thế? Phương pháp ấy cốt để cho toàn cả nhơn quần xã hội thấy đặng khó khăn thống khổ tức phải thọ khổ rồi mới thắng khổ.
Bài thi của Bát Nương lúc ban sơ nói về nỗi khó khăn khởi đương của nền Tôn giáo của Ngài mà Ngài đã gánh vác, đã đảm đương, thấy cái khó khăn ấy Bần Đạo lại e sợ cho phần tử Hiệp Thiên Đài làm không đặng mà thối chí ngã lòng.
Buổi nọ Bát Nương đến kêu Bà Nữ Chánh Phối Sư của chúng ta, Bà Nữ Chánh Phối Sư Hương Hiếu là bạn thân của Đức Cao Thượng Phẩm, làm một bài thi mình thương Đạo kêu nói ngay Bà Nữ Chánh Phối Sư một điều, để Bần Đạo đọc rồi cả thảy nghe câu văn cũng ngộ nghĩnh, cho kêu Bà Nữ Chánh Phối Sư lại:
Bài Thi
Mua vải dùm em để phất diều,
Treo văn trước mõ mới là kêu.
Cánh sườn cột nẹp cân cho đúng,
Lèo lái so dây gióng đặng đều.
Luồng gió ồ ào vừa thổi dậy,
Mấy anh tỉnh mỉnh phóng lên kêu.
Chín từng lồng lộng bay cho thấu,
Thì hiểu Hiệp Thiên nghĩa ít nhiều.
Đức Hộ Pháp giải nghĩa từ câu. Nhứt câu: "Treo văn trước mõ mới là kêu" Ngài nói thêm ý chỉ nói văn mà thôi chớ không phải võ.
Khi đến viếng Hội Thánh Ngoại Giáo nơi Tần Quốc Kiêm Biên xong việc, Đức Quyền Giáo Tông và Bần Đạo tính về Tòa Thánh, Bát Nương muốn cầm lại. Giáng làm Bài Thi như vầy:
Dường đợi Thanh Loan đến Hớn Đài,
Tửu Tiên chưa phỉ tỉnh cùng say.
Nghe danh Ông Tắc, Y lìa ruộng,
Lóng tiếng Vua Nghiêu, Thuấn bỏ cày.
Ái vật Thành Thang quên dở ná,
Thương dân Hạ Võ mặc hài gai.
Ngóng mưa đã đợi ba thu mãn,
Cứu chúng hờn ai chẳng trổ tài.
Đức Chí Tôn mới mở Đại Đạo thì Hội Thánh Ngoại Giáo đã cầu cơ, Bát Nương đến biểu chúng ta đem cả năng lực đặng cứu chúng sanh, sứ mạng cứu thế phải khổ hạnh khó khăn thế nào, nguy hiểm thế nào! Bần Đạo để cho con cái Đức Chí Tôn suy gẫm hiểu cho thấu, tự hiểu lấy mình vì nó không phải khó kiếm hiểu.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 30-08-Nhâm Thìn nhằm ngày (dl. 18-10-1952).
Q.5/30: CÂU CỔ NGỮ: "NHỨT TÂM NHỨT ĐỨC"
Đền Thánh đêm 14/9 năm Nhâm Thìn (1952)
Đêm nay Bần Đạo giảng câu cổ ngữ "Nhứt tâm nhứt đức".
Chữ nhứt tâm nhứt đức; riêng tâm và đức có một mà thôi. Chúng ta chẳng cần gì luận, chẳng cần để công kiếm cho lắm. Chữ tâm Bần Đạo đã giảng, cổ nhơn chưa có biết Chơn linh của ta đó vậy. Nó là hồn cái danh là Tâm hay là chữ Đạo. Tâm ấy tức nhiên Chơn linh của chúng ta đó. Vậy Chơn linh ấy tại sao có một mà thôi? Tức nhiên chữ Tâm biến ra đó vậy. Bởi vi ta muốn nói nó là Thiên Tâm.
Còn đức, nhứt đức thì chúng ta chẳng cần kiếm xa xôi, chỉ biết nó là Thiên Đức mà thôi. Thiên Tâm, Thiên Đức, Đức Chí Tôn đã đến để hiển nhiên trước mặt đó vậy. Ta đã biết Nguơn linh của chúng ta do nơi Đức Chí Tôn mà sản xuất, tức nhiên cả toàn thể nhơn loại thống hiệp lại là cái khối Nguơn linh của Đức Chí Tôn. Vì cớ cho nên Đức Chí Tôn đã để "Thiên Thượng, Thiên Hạ". Thiên Hạ tức nhiên toàn thể nhơn loại, bây giờ ta muốn nói cả toàn nhơn loại có nhứt tâm hay chăng? Ta đã rõ biết rằng do nơi nguyên căn của nó, tức nhiên do nơi Đức Chí Linh sản xuất; nếu nó hiệp lại làm một với nhau thành ra Đấng Chí Linh, mà cả thảy biết mình là một căn bản với nhau hay chăng? Nếu cả toàn nhơn loại biết mình là một căn bản, xuất hiện do nhứt tâm ấy, thì cơ thể sống của họ, tranh sống lại với nhau nơi mặt thế này, nạn tương tàn, tương sát không có hiệu lực đau đớn vậy.
Vì họ chưa biết cái nhứt tâm ấy, hễ nói chữ Tâm thì tức nhiên nói đến Thiên lương vô đối, mà lấy Thiên lương vô đối làm căn bản, tức nhiên nhơn loại có thể lấy nhơn luân làm căn bản, họ thống hiệp làm một cùng nhau, con người chẳng hề kiếm, mà phải đến và họ đường tìm nẽo đặng đến. Chúng ta ngó thấy họ đương tò mò rờ rẫm tiến tới trạng luận vô đối. Nào là Trung Quốc, nào là Liên Hiệp Quốc, nơi Á Đông, Âu Châu, nơi Mỹ Quốc họ đương đem cái tinh thần họ tìm tòi.
Ấy vậy, nhứt tâm ta đã biết ta đã do nơi Trời, lấy cái căn bản của ta chỉ biết duy Thiên Tâm mà thôi, mà Thiên Tâm ấy nó đã biểu ta tôn sùng mạng sống, tức nhiên tôn sùng cái nguơn linh của người, không đặng chia rẽ, câu: "Khi nhơn tức khi tâm, khi tâm tức khi Thiên". Hễ khi người tức khi lại mình, mà khi lại nguơn linh của mình, tức nhiên khi Đấng Chí Linh là Đức Chí Tôn đó vậy. Hễ khi Trời tức nhiên có tội."Khi Thiên vô sở đảo dã" hễ khi Trời thì không có người trốn.
Trái ngược lại Ngài đã căn dặn một điều trọng yếu này: Ngài nói thà các con vô lễ cùng Thầy, Thầy đặng lòng từ bi mà tha thứ; Thầy chỉ dặn các con chẳng nên vô lễ cùng Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, bởi họ chẳng hề tha thứ bao giờ. Đức Chí Tôn đã căn dặn rõ ràng, biểu chúng ta đừng sát sanh, biết đâu trong một cành hoa kia không phải là một vị Phật giáng sanh, nếu chúng ta đang tay bẻ nó, chúng ta đã phạm đến cái tội ấy rồi.
Hại thay các Chơn linh cao trọng đã đến thế gian này, có một điều nguy hiểm cho chúng ta hơn hết là họ sẽ lấy một hình thể căn bản của họ, hèn tiện, thiệt thòi, có khi họ lại lấy hình thể họ ngu dại nữa chứ.
Hại thay! Những kẻ đó không biết tôn trọng nguơn linh của người, khi rẻ đến họ, hiện diện trên thế gian này họ sẽ chịu những hình phạt, chẳng hề khi nào tránh khỏi.
Bần Đạo mục kiến vài ba bằng cớ rõ ràng, dầu cho Tiên vị, một chơn linh cao trọng mà họ phạm đến điều ấy, Thiên điều chẳng hề tha thứ họ. Bằng cớ Bần Đạo chỉ rõ căn nguyên của Đức Quyền Giáo Tông là Tiên vị, những kẻ đã khi rẻ Ngài hồi còn sanh tiền. Các con cái của Đức Chí Tôn dòm coi, những kẻ đó giờ phút này thế nào, dầu cho hạng đồng bực cùng Ngài mà đã khi rẻ Ngài, rồi giờ phút này không còn gì hết. Một cảnh tượng nữa, Bần Đạo mục kiến Phối Thánh Màng, người thiệt thòi làm sao, hiền lương không thể nói, bần tiện lắm, mà có kẻ đã khi rẻ hiếp đáp, giờ phút này tàn gia cả thảy những người đó không thể chối tội. Phối Thánh Thoại cũng vậy cũng thế đó. Mấy vị Đại Thiên Phong và cả con cái của Đức Chí Tôn nam, nữ phải dè dặt cho lắm, đừng thấy sắp em của mình nó hèn tiện thiệt thòi, ngu dại mà khi dể nó. Biết chừng đâu Đức Chí Tôn đã dành để một tình cờ bất ngờ chúng ta sẽ phạm đến họ, rán coi chừng cho lắm, nhứt là trong cửa Đạo Cao Đài, dầu nam cũng vậy, nữ cũng vậy, không biết có chơn linh trong ấy.
Bần Đạo xin căn dặn một điều trọng yếu hơn hết: đừng khi người.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 14-09-Nhâm Thìn nhằm ngày (dl. 01-11-1952).
Q.5/31: TÔN GIÁO ĐỐI VỚI NỀN VĂN MINH CỦA THỜI ĐẠI.
Đền Thánh đêm 29/9 năm Nhâm Thìn (1952)
Đêm nay Bần Đạo giảng về Tôn giáo đối với một nền văn minh của thời đại.
Hai chữ văn minh thiên hạ đã nói, chúng ta cũng nên tìm hiểu nghĩa lý của nó, và tìm cho biết cái nguồn cội đã sản xuất nó. Văn, chúng ta ngó thấy thiên hạ cũng gọi là văn chương hay là văn hóa. Nhờ văn hóa mà đã ghi rõ những gì từ trước đã lưu chiếu lại, những biến cố trong lịch sử của toàn nhơn loại, trong lịch sử của một quốc dân, xã hội và văn hóa, ấy là những văn từ đã lưu chiếu lại tạo một sự hiểu biết, để phổ hóa trong một sắc dân, trong một xã hội hay là toàn thể nhơn loại.
Ấy vậy chữ văn chương chúng ta đã ngó thấy lưu chiếu lại một lịch sử của toàn thể một thế hệ, của một xã hội trong một thời đại. Văn chương ấy hữu ích thế nào, chúng ta chằng cần gì luận cũng đã chán biết. Lạ thay! Con người bao giờ cũng có một cái linh. Cái linh tâm lạ lùng lắm! Vả chăng loài người bao giờ cũng sản xuất trong một đời sống của mình, đời sống ấy từ 1 dĩ chí 100 tuổi, chúng ta đã ngó thấy họ nhớ lại hết và tìm tòi biết mãi tới, họ có lạ lùng ấy. Họ sống trong một thế hệ của họ, mà họ đã có năng lực hiểu biết cả căn bản trong thế hệ đã qua rồi, họ còn có thể định đoạt cái thế hệ sẽ tới. Đó là một điều phi thường từ trước tới giờ không có phương gì để lại, chỉ có căn bản là làm cho phát khởi cái đó do cảm động và nhớ.
Văn chương lưu chiếu lịch sử làm một bài học để tìm tòi hiểu biết thế tình nhơn loại, thì văn học phải phổ hóa tinh thần và vật hình của con người đời. Nếu muốn phổ hoá cho đặng cái vật hình của con người, thì chúng ta ngó thấy văn chương trên lịch sử, nó phải có một năng lực nuôi cả tinh thần và hình thể của người mà chớ.
Hễ muốn nuôi cho đặng cái vật hình của họ vẫn dễ, còn nuôi tinh thần của họ rất khó. Bởi vì tinh thần ấy nếu không do Đạo Giáo, chẳng hề khi nào có năng lực phổ hóa họ đặng. Chúng ta ngó thấy mỗi phen Đức Chí Tôn đến, hay là sai vị Giáo chủ nào đến đặng tạo Tân dân bao giờ cũng vậy. Trước tiên cái nền văn minh đến, thì nền Đạo Giáo đã thành lập trước, bởi Đạo Giáo là căn bản của nền văn minh đó vậy.
Đạo là khuôn khổ, còn văn minh là hình chất, Đạo là hình, văn minh như bóng. Chúng ta đã quan sát thấy văn minh sản xuất hình thể và tinh thần là do một nền Tôn giáo đã tạo dựng nó ra. Chúng ta ngó thấy như Đạo Phật đã tạo ra một thế hệ, thế hệ ấy nó có năng lực tạo cả hình chất của Tân dân Phật Giáo, tức nhiên trong tình trạng của họ, họ tỏ ra rằng: Họ là người trong Đạo Giáo. Chúng ta đã ngó thấy các vị Thầy tu nhà Phật, cạo đầu bận đồ vàng, bộ tịch của họ dù cho đi, đứng, nằm, ngồi, cử chỉ cái sống của họ đều trong khuôn khổ do nơi Đạo Giáo mà xuất hiện đặc biệt. Thiên Chúa Giáo, chúng ta để mắt quan sát cho tới hình thể tinh thần của họ, cử chỉ đều có vẻ đặc biệt riêng. Nho Giáo cũng vậy, Bần Đạo chẳng cần gì tả cho nhiều, cả thảy đều biết điều ấy rồi.
Còn trọng hệ hơn hết là cái nền văn minh lưu chiếu lại, chỉ có năng lực để bảo tồn được các Tân dân của mình tạo ra, cốt do tinh thần vi bổn. Chúng ta ngó thấy các nền Tôn giáo đã tạo văn minh hiện tại. Hiện nay còn cái hai nền văn minh. Thật ra từ Thượng cổ các nền văn minh đã lưu chiếu tại mặt địa cầu này vẫn nhiều. Tỉ như các nền văn minh tối cổ bên Âu Châu là văn minh: Grecque, Egypte, Romain hay (Rome). Còn bên Á Đông của chúng ta, văn minh của nhà Phật, văn minh của Đức Lão Tử, văn minh của Đức Khổng Phu Tử, Châu Công (kế Đức Khổng Phu Tử). Các nền văn minh ấy họ tạo Tân dân của họ thế nào Bần Đạo chẳng cần nói cả thảy các con cái Nam, Nữ cũng vậy đã quan sát.
Bần Đạo thuyết đêm nay cho đám thanh niên nam, nữ con cái của Đức Chí Tôn nên để ý và hiểu biết cho lắm. Chúng ta ngó thấy trước mắt kiểu vở của các nền văn minh đã có, là do nơi các Tôn giáo đã tạo. Đương nhiên bây giờ có hai nền văn minh trọng yếu hơn hết của tinh thần nhơn loại là: Văn minh của Phật Giáo và văn minh của Thiên Chúa Giáo. Hai nền văn minh tinh thần của hai Đạo giáo đó rất cao thượng. Bần Đạo chỉ nói rằng: Tốt đẹp không thể gì tả hình trạng ra cho đặng. Tại sao nó tốt đẹp ấy? Là nó có năng lực bảo sanh hình chất của nhơn loại, nó có thể bảo vệ cho đời sống tinh thần thiêng liêng của họ mà chớ.
Con cái của Đức Chí Tôn biết rằng: Các Tôn giáo xuất hiện rất có ích cho nhơn loại tại mặt thế gian này, về hình thể, tinh thần và nó phải làm thế nào bảo tồn sống còn của nhơn loại, mà trong sự sống ấy khó mà bảo tồn đặng sống còn tinh thần họ. Hỏi có phương pháp nào giải quyết cái khổ của họ đặng chăng? Bần Đạo đã giải nghĩa nào là thắng khổ, nào là tùng khổ, nào là giải khổ, đủ thứ hết thảy, trọng yếu hơn hết là phải tìm phương nào cho các nền văn minh ấy, phải chia sống với nhau, phải đừng có tranh sống với nhau, bởi chia sống thì tồn tại, bảo vệ được sống còn của nhơn loại, mà tranh sống tức nhiên phải tiêu diệt. Gương của hai vị Giáo Chủ đã lưu lại nơi mặt thế gian này, bên Á Đông, bên Âu Châu hai nền văn minh đặc biệt. Hai vị Giáo Chủ đó trước kia là gì chớ? Một người ăn mày cầm Bình Bát đi xin cơm đặng nuôi kẻ khó kẻ đói, đi bòn mót từ miếng vải rách đặng chầm khiếu mặc cho lành, tức là Đức Phật Thích Ca.
Còn cái người đã chia từ miếng bánh mì, từ miếng cá nuôi kẻ đói là Đức Chúa Jésus Christ, Ngài lấy sống của Ngài, Ngài chia cho kẻ đói, đến đổi Ngài phải nhịn miệng ăn của Ngài cho nó sống.
Gương hai vị tạo nền văn minh đó đẹp đẽ làm sao.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 29-09-Nhâm Thìn nhằm ngày (dl. 16-11-1952).
Q.5/32: NGÀY MAI NÀY LÀ NGÀY VÍA ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG THƯỢNG TRUNG NHỰT.
Đền Thánh đêm 12 /10 năm Nhâm Thìn (1952)
Ngày mai này là ngày Lễ vía Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt, tưởng khi cả anh em chúng ta nam, nữ lưỡng phái đều tưởng nhớ Ngài lắm vậy. Ấy là người Anh Cả đầu tiên của chúng ta. Đức Chí Tôn đã ban hồng ân Thiêng Liêng vô đối ở dưới thế gian này, có một vị Giáo Tông đầu tiên của nền Đạo.
Nhân dịp ngày Lễ Đức Quyền Giáo Tông, chúng ta nên để tâm suy đoán nhớ lại thử coi cái gương của Ngài để lại cho chúng ta là cái gì, Bần Đạo xin nói rõ giúp cho toàn thể con cái của Đức Chí Tôn có phương thế suy đoán.
Hỏi lúc nòi giống Việt Nam và Quốc gia Việt Nam ở vào thời kỳ Pháp thuộc một người như Đức Quyền Giáo Tông, Bần Đạo nói rõ là một người bần hàn xuất thân, cha chết sớm duy có bà mẹ nuôi cho đến khi lớn, chỉ ở vậy thôi, không tái giá, chớ phải chi nhà giàu có "Môn đăng hộ đối" chẳng nói gì, nhà nghèo mà hẩm hút làm lụng nuôi con ăn học đến nên người.
Bần Đạo còn nhớ lại Đức Quyền Giáo Tông có nói với Bần Đạo một chuyện rất ngộ nghĩnh, Bần Đạo minh tả ra đây cho tất cả bên phái nữ để ý cho lắm, để làm một bài học hay, khi Bà thân của Người đã qua đời, thì cả trong làng thương yêu một cách không thể nói được, Chức Sắc làm bàn đưa linh mà trong bài châm ấy để mấy chữ như vầy: "Tích Mạnh Mẫu" tức nhiên toàn thể nhận tang cả, chẳng khác gì Mạnh Mẫu cho lắm, chỉ biết mình là hạng bần hàn nên con mắt của người không bao giờ ngó đến kẻ nghèo khổ, lam lụ như Ngài thuở ấu xuân vậy. Vì cớ cho nên Ngài đem tâm chí làm sao ích lợi cho dân, tức nhiên cho đồng bào trong nước. Vì thế cho nên Ngài phản đối một cách không thể tưởng tượng trong buổi lệ thuộc ấy, can đảm chúng ta không bao giờ dám đề xướng như vậy đặng. Trong nước chúng ta buổi nọ, nhứt là trong Nam Kỳ (Bần Đạo dùng tiếng xưa) buổi nọ nếu có một người An Nam nào đứng đầu quần chúng, thì duy có Ngài mà thôi. Bởi chính mình Ngài vào Thượng Nghị Viện Chính Phủ Pháp buổi nọ duy có một mình Ngài trong Nam Kỳ.
Ấy vậy, nếu như buổi nọ Ngài muốn giong ruổi trên con đường danh lợi, thì cái công danh phú quý của Ngài vẫn ở trong tay, không xin ai, không hạ mình mà bợ đỡ hay nịnh hót ai đặng danh lợi ấy.
Danh lợi sở hữu vì tài đức của Ngài, Bần Đạo có thể nói Ngài là một người sống trong trưởng giả đó vậy, nhưng mà dòm trước mắt thấy cả đồng bào thống khổ, cái lẽ bất công nó cứ chàng ràng trước mắt của Ngài hoài, cho nên thật sự ra, dầu ngồi trên địa vị cao kỳ sang trọng bao nhiêu đi nữa Ngài không buổi nào thỏa thích được, đến nỗi Ngài tranh đấu, tranh đấu thấy mình bất lực muốn chết đi cho rồi, muốn tự vận nên hút á phiện đặng chết cho sớm, cho khuất con mắt, tránh cái thống khổ của dân đã chịu. Nhưng cái người mà Đức Chí Tôn đã dành để đó, dễ gì chết một cách dễ dàng như thế. Nên Ngài sống, Ngài sống cho đến khi Đức Chí Tôn đến mở Đạo. Một lời Đức Chí Tôn phán thì cả cái sang trọng phú quý của Ngài, Ngài coi như bọt nước, nội một ngày cả sự nghiệp đều để cho thiên hạ. Ngài bán cả của cải ấy, Ngài ra với một mình không. Buổi nọ hút một ngày năm mười đồng bạc, mà bỏ hút rồi có một ngày ăn trường trai kể từ ngày Đức Chí Tôn đến, chính mình Bần Đạo làm chứng cho vậy.
Cái đức tin phi thường đã thấy trong cửa Đạo Cao Đài nầy có hai người: Một Đức Quyền Giáo Tông, hai Đức Cao Thượng Phẩm mà thôi. Phải chăng do nơi khối đức tin vô đối ấy đã làm cho Đạo Cao Đài nên hình như ngày hôm nay.
Một cái sứ mạng khó khăn nhứt là buổi nọ Đức Chí Tôn đến, Bần Đạo nhớ lại thiên hạ trở thành vô Đạo, cả toàn thể quốc dân giong ruổi theo duy vật, văn minh đương thời bây giờ, quên hẳn cả lễ nghi phong hóa nước nhà, làm cho sống lại chẳng phải là một điều dễ, phải chiều chuộng, bợ đỡ, nâng niu, chẳng khác nào bà mẹ coi từ vú sữa, mớm cơm cho con thơ dại, mới tượng hình của Đạo ngày hôm nay. Cái khó khăn hơn hết Bần Đạo nói có bằng chứng, chính mình Đức Chí Tôn đến mở Đạo Ngài than khó lắm. Chính mình Ngài là Đức Chí Tôn quyền năng vô đối mà còn than về cái khó đó. Bần Đạo để bằng cớ hiển nhiên cho con cái Đức Chí Tôn ngó thấy, Đại Từ Phụ đã làm hai bài thi than buổi nọ như vầy:
"Cao Đài tá thế đến phàm gian,
Bạch Ngọc Huỳnh Kim cũng chẳng màng.
Chiều lụy đòi phen, xem quá tục,
Nghĩ không đổ lụy phải cường khan".
"Cười khan mà khóc bởi thương bây,
Chẳng mất một con nghiệt cả bầy.
Biết phận già không chờ chống gậy,
Nương theo con dại mới ra vầy".
Bằng cớ hiển nhiên đó chính mình Đức Chí Tôn còn than, chúng ta nhớ lại, buổi nọ cái sứ mạng thiêng liêng của Đức Quyền Giáo Tông và của Đức Cao Thượng Phẩm nó khó khăn dường nào. Thật sự phải chìu luỵ về tâm hồn con người buổi nọ một cách không thể tưởng tượng được. Bần Đạo thú thật, buổi nọ Đức Quyền Giáo Tông, Đức Cao Thượng Phẩm và Bần Đạo cũng vậy, chỉ có ba anh em ôm sứ mạng thiêng liêng ấy nơi mình. Lãnh sứ mạng khó khăn thì tưởng đâu Đạo Cao Đài cũng như Đạo Phật hay Minh Sư, Minh Đường, đáo để, cạo đầu vô chùa làm thầy Chùa tu là cùng, tưởng dễ dàng lắm, kiếp sanh nơi thời bấy giờ đã khổ não tâm hồn và xác thịt lệ thuộc như thế, Ổng biểu tu, nào dè mở Đạo trong thời gian ngắn ngủi không bao lâu thấy cả con cái của Ngài, đến cùng Ngài, cả muôn, cả triệu, chừng đó mới biết sợ sệt. Chính mình buổi nọ Đức Quyền Giáo Tông ra hậu điện, Người hỏi Bần Đạo: Đại Từ Phụ làm cái gì vậy? Thấy thiên hạ vào cửa Đạo quá chừng Đại Từ Phụ làm cái gì kỳ quá vậy? Chính mình Bần Đạo cũng không biết, biết đâu Ông làm gì, Ông đến Ông thâu Tín đồ nhiều quá ảnh than rằng: Tới đâu hay tới đó chớ biết sao!
Kể từ đó bị khảo miết Đức Cao Thượng Phẩm bị khảo đến ngày giờ chót. Ngày giờ cuối cùng nằm trên giường bệnh cho tới hơi thở cuối cùng, không buổi nào không bị khảo, không buổi nào không bị nhục nhã. Cái luật thiên nhiên không có điều gì xin xỏ điều gì cũng phải mua chuộc.
Bần Đạo đã quyết rồi xin để Bần Đạo kết luận bởi mua chuộc với cái khảo đảo nhục nhã của đời, để bảo trọng danh giá của Ngài. Ngày nay Ngài sang trọng vô đối.
Chúng ta thấy gương rõ ràng Đức Phật Tổ là Chúa cả linh hồn của nhơn loại bên cõi Á Đông nầy. Đức Chúa Jésus Nazareth hay Christ Chúa của các linh hồn bên cõi Âu Châu. Hai người ấy một người thì đi ăn xin, cầm Bình Bát đi ăn xin, không phải ăn xin cho Ngài, ăn xin cho kẻ đói khó nghèo nàn đem về cấp Cô Độc Viện, đặng nuôi dưỡng họ, một đời không có cái áo lành. Ngài đi mót máy đồ rách rưới, rồi chầm khiếu, gặp người nào lạnh cởi ra đưa cho bận, ở trần mãi thôi. Đức Chúa Jésus Nazareth (Christ) không có được hai cái áo, không có chỗ nương thân Ông than một câu, than nghe thảm thiết làm sao: Con chim nó có cái ổ, con chồn nó có cái hang, mà con người này không biết chỗ nào gối đầu của mình!
Hai người ấy mà cái nghiệp họ đã đào tạo nơi thế gian này, một người hai ngàn năm, một người hai ngàn năm trăm năm vẫn còn tồn tại mãi thôi. Biết bao nhiêu cơ nghiệp Đế Vương, biết bao nhiêu người giàu sang ở dưới mặt thế gian này, nào là đài Tần, đảnh Hớn cả thảy đều tiêu tan, chúng ta không còn ngó thấy một dấu tích gì lưu lại. Mà hai người nghèo ấy, hai người bần hàn ấy, một người hai ngàn năm, một người hai ngàn năm trăm năm, đại nghiệp họ vẫn còn tồn tại.
Một điều Bần Đạo buồn cười hơn hết, ở ngoài đời dùng cường lực nào là bom nguyên tử, nào là gươm đao, súng đồng mọi thứ để tàn sát thiên hạ đặng làm bá chủ, đặng giành bá chủ không phải dễ làm. Bởi vì họ muốn làm bá chủ của thiên hạ nhưng không được đâu, thiên hạ phản đối luôn, chống lại cường lực mãi thôi, chẳng buổi nào ngừng.
Mới đây con cái Đức Chí Tôn đã ngó thấy Xá Lợi Phật, tức nhiên xương của Đức Thích Ca buổi nọ thiêu còn sót lại miếng nhỏ nhỏ để lại phân phát các Chùa ở bên Ấn Độ qua tới bên Ấn Độ Dương một miếng có một chút, đem Xá Lợi Phật bằng đầu mũi kim chớ có lớn đâu, thiên hạ hoan nghinh cả Xá Lợi Phật, không có súng, không ai ràng buộc, không đem súng mà họ theo, cả thảy đều cúi đầu không phải cầm súng mà người ta coi mạnh phi thường không thể gì tưởng tượng được. Cái Ông mà nghèo nàn đệ nhất hơn hết, bây giờ thiên hạ thấy hình trái tim của ông cháy lửa ra, hễ ngó thấy hình trái tim thì cúi đầu hết thảy, mà cả toàn thể các liệt cường sắc dân Âu Châu cho tới Á Đông 600 triệu Tín đồ ngó trái tim đời đời không khi nào mỏi.
Đức Quyền Giáo Tông đã khéo lựa, Ngài bỏ cái ngôi vị Thượng Nghị Viện của Ngài, chỉ theo Đức Chí Tôn, nên người ta gọi Ông già tu Tiên (gọi theo lối kiêu ngạo) mà ngày hôm nay địa vị nầy Bần Đạo nói thật nó còn đời đời kiếp kiếp, cái danh giá của Ngài không bao giờ tiêu hủy. Cao Đài còn, danh giá của Ngài vẫn còn, công nghiệp của Ngài đối với nhân loại vẫn còn. Ngộ nghĩnh thay! Cả thiên hạ hạng nhứt là quốc dân Việt Nam đã nô lệ về phần xác, Đức Chí Tôn cho một người Tướng Soái đến đặng giải thoát họ, quí trọng hơn hết trong kiếp sống của họ là giải thoát về phần hồn. Nắm về phần hồn làm chúa thiên hạ, ngộ nghĩnh thay! Tượng hình làm chúa trong đó tay Đức Quyền Giáo Tông là tay thứ nhứt hơn hết. Sao, giờ phút này, Bần Đạo ngó lại phải để câu hỏi: Nền Đạo Cao Đài ngày kia sẽ tạo nền văn minh như thế nào? Thật vậy nền văn minh sẽ ra sao?
Bần Đạo nói hai vị Giáo Chủ kia đã mang thi phàm xác tục, mà họ còn để lại hai gương đẹp đẽ vô biên ấy, họ tạo Tân dân, họ đã đến đây phương kế hiệp thành chữ "Khí" của Đức Chí Tôn đến giữa Thánh đức của Ngài, rồi giờ phút nầy Đức Chí Tôn đến để nơi mặt thế gian này nền Tôn Giáo Cao Đài, thì nền văn minh ấy thế nào con cái của Đức Chí Tôn đoán biết.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 12-10-Nhâm Thìn nhằm ngày (dl. 28-11-1952).
Q.5/33: NỀN TÔN GIÁO CỦA ĐỨC CHÍ TÔN LẠI THÊM MỘT TUỔI NỮA, TỨC LÀ 28 TUỔI.
Đền Thánh đêm 14 /10 năm Nhâm Thìn (1952)
Kể từ đêm nay nền chơn giáo của Đức Chí Tôn lại thêm một tuổi nữa, tức nhiên đã đặng 28 tuổi. Con đường viễn vọng trên 28 năm ngó lại như giấc chiêm bao ngắn ngủi.
Chúng ta cũng nên mừng, một nền chơn giáo mới mở 28 năm, mà độ rỗi cả các chơn linh về Đạo về Đời như thế này, cũng gọi nó là may mắn lắm vậy. Khi Đức Chí Tôn đến chính mình Ngài nói: Hễ Đạo mở trể một ngày, tức nhiên hại cho chúng sanh không biết mấy. Đại Từ Phụ nói: Một con đường của chúng ta đi, cái năng lực phàm của ta nơi cõi trần nầy nhiều điều gay trở khó khăn, mà điều ấy có lẽ Đức Chí Tôn, tức nhiên Đại Từ Phụ đã chung chịu cùng chúng ta đó vậy. Lại nữa đêm nay là đêm chúng ta kỷ niệm các bạn Thiêng liêng của chúng ta, dầu các chơn linh ấy ở nơi cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống hay là các bạn đồng khổ với chúng ta đã quy hồi cựu vị của họ.
Bần Đạo thừa dịp kỷ niệm của các Đẳng linh hồn, thuyết một vấn đề, Bần Đạo nói trước, hạng nhứt bên phái nữ, nghe câu chuyện rùng rợn đừng về nhớ giựt mình giựt mẩy đa nghe.
Trước khi mở Hội Thánh, Bần Đạo có dịp hội đàm cùng Đức Lý Giáo Tông, Ngài chỉ cho biết trước, kết liễu của Hội Thánh như thế nào, nhưng điều ấy tưởng cả toàn thể con cái Đức Chí Tôn cũng không nên tìm hiểu điều tọc mạch đó làm gì, chuyện tới nó sẽ tới.
Luôn dịp, luận về một vấn đề: Nó thắc mắc làm cho Bần Đạo để ý hơn hết. Mới rồi đây, các báo cáo cả toàn cầu mới đăng cái tin, nói tại Mỹ Quốc có một nơi nào đó đĩa bay rớt xuống, những tay hiếu kỳ muốn đi tìm cho đặng, coi đĩa bay như thế nào? Họ lên núi cao kia, xa thẳm trong rừng già, họ tìm đĩa bay rớt xuống, vô trỏng không thấy gì hết, chỉ thấy xuất hiện một kỳ nhân lạ lùng, nghe nói mà rùng rợn: Con người gì mà ước độ 19 thước bề cao, 5 thước bề ngang, mình xanh lè, hào quang xanh chiếu diệu ra, con mắt đỏ như huyết, chiếu ra như đèn pha xe hơi. Người ta thấy dị hình, dị dạng, bắt sợ hãi lắm, trong mình người đó xuất ra hơi khí, cái mùi lạ lùng lắm, giống như thể mùi kim khí cháy vậy; nghe như mùi xe hơi cháy ra mùi khét. Khi ấy làm cho người đó chịu không nổi, đến khi về phải ói mữa, phải đau. Trong số ấy cũng có người phụ nữ cũng tọc mạch vậy, theo bên phái nam là bảy người, có một người phụ nữ làm chứng chắc rằng: Dị hợm lắm có bốn chân, mấy người kia không chắc 4 chân hay 2 chân. Duy có người can đảm hơn hết ở lại đặng coi, người ta đã chạy hết mà ở lại coi cho được đến khi người Dị Nhân đó đi lại gần thì hoảng la ré lên phát chạy, sau khi về bị đau gần chết.
Bần Đạo nghe chuyện đó dị kỳ lắm mới vấn nạn Đức Lý Giáo Tông, hỏi cái người đó là gì?
Đức Lý Giáo Tông trả lời: Thần chớ gì. Té ra từ thử đến giờ họ vô Đạo, không kể Trời, Đất, Thánh, Thần, Tiên, Phật gì hết, nên Đức Chí Tôn lại sai một chơn linh, một lấy năng lực nguyên tử mà họ thí nghiệm, đặng tạo hình hài của vị Thiên Thần đó cho Đời ngó thấy, nhứt là lời nói của Đức Chí Tôn cho con cái trong Đạo Cao Đài của Ngài sẽ còn thấy nhiều cái dị nữa.
Bần Đạo hỏi vậy chớ Đức Chí Tôn cho ngó thấy điều đó để làm gì?
Đức Lý Giáo Tông nói Đại Từ Phụ cho ngó thấy đặng nhơn loại hay rằng: Nếu họ không trở lại Thiên tánh của họ, không tự mình lấy bổn nguyên sanh hóa của Tạo Đoan, tức nhiên không lấy căn bản của Đại Từ Phụ mà làm mực thước, làm tinh thần, làm năng lực thì nhân loại ngày kia sẽ tiêu diệt và thay đổi cả xác thịt, hình thể nhân loại nơi mặt địa cầu nầy thành một hình thể khác hẳn bây giờ.
Bần Đạo mới hỏi cái thi thể của người Dị Nhân đó lấy năng lực nguyên tử tạo hình, cái sự làm đó có phải là do quyền năng vô lượng của các Đấng Thiêng Liêng mới làm được, hay là ai cũng có thể làm được.
Đức Lý nói: Các chơn linh nơi Càn Khôn Vũ Trụ đều làm được hết, chư Hiền Hữu một ngày kia cũng có thể làm được, bất quá vị đó là một chơn linh Thần vị mà thôi. Hiền Hữu đừng tưởng rằng: Loài người dị hình dị trạng vậy mà thôi. Trong ngũ hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, nhơn loại ở Càn Khôn Vũ Trụ đều tạo hình hài bằng ngũ hành hết.
- Nói vậy cái vị Thiên Thần nói đó, tạo hình bằng kim khí. Còn chúng tôi ở quả địa cầu 68 tạo hình hài bằng gì?
Đức Lý nói: Chư Hiền Hữu là Thổ Hình.
- Còn chỗ nào có hình khác, khác nữa không?
Đức Lý nói: Chư Hiền Hữu ở thế gian này, thấy sống trăm năm, cầu ước cho trường sanh bất tử, nếu Chư Hiền Hữu đầu kiếp lên ngôi Hỏa Tinh kia các người có thể sống đôi ba ngàn năm, bởi vì nó thuộc về Hỏa, cho nên nó không bị tiêu diệt. Mà sống đây có nhiều người, sự sống đó biết bao nhiêu vì sống lâu quá!
- Cái thân thể vậy mà sống khổ cái nổi gì?
- Chư Hiền Hữu biết rằng: Ngũ hành tương khắc với nhau, hễ có thân nầy thì có thân kia, tương khắc với nhau làm đau đớn, khổ não chớ vui sướng nỗi gì.
Thành thử luận rồi Bần Đạo cũng xét mình với cái Thổ hình của chúng ta, nghĩ ra mình hạnh phúc hơn hết. Nếu sự thật có thi hài nơi Hỏa Tinh dầu sống trăm năm trong Thổ hình còn hạnh phúc hơn họ nhiều. Trên kia có nhiều Đấng Chơn linh Phật thể của mình, trong Ngũ hành họ chịu đau đớn khổ não hơn mình. Mang một kiếp sanh dầu có quyền năng thế nào thì cái khổ não ấy chẳng hề khi nào thoát khỏi, dầu có thoát khỏi đặng hay chăng là nhờ cái quyền năng của Đức Chí Tôn cho ta đặng sống nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 14-10-Nhâm Thìn nhằm ngày (dl. 30-11-1952).
Q.5/34: NĂNG LỰC PHI THƯỜNG CỦA ĐỨC TIN.
Đền Thánh đêm 14 /11 năm Nhâm Thìn (1952)
Trước khi giảng Đạo Bần Đạo để lời khen cả toàn thể con cái Đức Chí Tôn hành lễ rất nghiêm chỉnh, nhứt là tụng kinh có niêm luật qui tắc.
Đã mấy kỳ đàn rồi, Bần Đạo không có đi cúng, hôm nay dự lễ nầy có thể nói làm cho Bần Đạo hết đau.
Đêm nay Bần Đạo giảng về năng lực phi thường của đức tin trên con đường chí chơn chí Thánh, chí là khối thương yêu, Bần Đạo đã giảng về đức tin nhiều lần rồi, và cũng đã giảng cái năng lực của khối thương yêu như thế nào rồi.
Đêm nay Bần Đạo chỉ giảng về năng lực phi thường của đức tin hay là cái năng lực huyền diệu của đức tin và khối thương yêu vô tận của Đức Chí Tôn. Chúng ta đã chán biết cũng như Đức Phật Thích Ca khi đạt đặng bí pháp mà trước kia chưa có vị Phật nào đạt đặng là nhờ Ngài đã tìm hiểu quả quyết. Cái đức tin của Ngài nó mạnh mẽ phi thường và Ngài dùng nó để làm cái thuyết vô nhơn vô quả.
Nếu có nhơn quả, thì tức nhiên con người phải chịu trong Tứ Khổ, ấy là vì cái căn quả đó vậy, mà muốn đạt đặng vô sanh vô tử, tức nhiên phải đạt đặng năng lực thương yêu giải thoát cho mình, phải diệt quả. Ngài đã quả quyết, rồi Ngài ngó lộn lại Vạn Linh sanh chúng đang chìm đắm trong khổ hải, chịu trong Tứ Khổ là "Sanh, Lão, Bệnh, Tử" nên Ngài đem cái thuyết thương yêu vô tận của Ngài truyền bá cho toàn thể nhơn sanh noi theo cái chí chơn chí Thánh ấy, đặng họ đạt bí pháp của họ, có phải đức tin của Ngài mạnh mẽ chăng? Ngài để đức tin trên khối thương yêu của Ngài và Đạo của Ngài đã 2.500 năm mà vẫn còn tồn tại bền vững đến ngày nay.
Đức Lão Tử khi đạt được cơ quan vô đối của Ngài tức nhiên Ngài lấy chí chơn chí Thánh để hiểu trong kiếp sanh của chúng ta và nếu chúng ta có phương thế tương liên với cả chúng sanh trong Càn Khôn Vũ Trụ để làm khối thương yêu duy nhứt, chúng ta mới có thể siêu thoát đặng, chúng ta chớ tưởng sự ấy làm không được, chúng ta sẽ đoạt đặng mà chớ nếu đoạt đặng quyền vô sanh, vô tử thì sẽ đi đến cõi Thiêng Liêng Hằng Sống. Bởi cớ cho nên Ngài để cái luật vô tử nầy cho nhơn loại tìm hiểu mà đạt Đạo. Cũng như Đức Khổng Phu Tử, Ngài thấy nhơn loại đã phế vong Đạo Nhơn Luân của mình, nên mới tương tàn, tương sát với nhau, như hồi Đông Châu Liệt Quốc buổi nọ, Ngài lấy Đạo Nhơn Luân làm căn bản, đặng cứu Đời gọi là lấy Đạo Nhơn Luân cứu thế. Cũng như ngày nay, Đức Chí Tôn quả quyết rằng: Cái thuyết ấy nó thuộc về năng lực thương yêu, nên Đức Chí Tôn mới đem tạo nền Chơn giáo của Ngài. Ngài lấy Đạo Nho làm căn bản, lấy Đạo Chơn Luân của nhơn loại làm phương cứu cánh, để cứu khổ cho loài người, cũng như Đức Lão Tử trước kia đó vậy.
Đức Chí Tôn ngày nay cũng thế, chỉ vì lòng thương yêu nhơn loại vô tận, nên Ngài tìm cách giảng cái thuyết ấy, truyền ra cho cả nhơn sanh đều hưởng ứng theo, để họ biết cái sanh tử của họ, đặng họ tự giác, đó là phương cứu thế vậy.
Tưởng cả chúng sanh Chức Sắc trong hàng Thánh Thể Đức Chí Tôn nam, nữ cũng biết cái đức tin ấy là ngọn đuốc Thiêng Liêng, còn lòng thương yêu của ta là khối lửa Tam Muội để đốt cây đuốc ấy cho sáng láng, cho rực rỡ, đặng dìu đường cho Vạn Linh sanh chúng.
Chúng ta đã ngó thấy cái quyền năng ấy trong một đại gia đình nên hư đều ngó theo ngọn đuốc Thiêng Liêng đó, đặng đi đến con đường vinh quang vô đối của Đức Chí Tôn đã rọi sáng, đã dành để cho chúng ta hồi ban sơ.
Bần Đạo nói quả quyết mỗi sự khó khăn gay trở, mọi sự khổ hạnh, mà Thánh Thể Đức Chí Tôn đã chịu mà có thể thắng được mọi trở lực là nhờ khối thương yêu của Đức Chí Tôn đã dành để cho chúng ta, nếu chúng ta lấy khối thương yêu cứng rắn ấy làm căn bản, thì không có quyền năng nào dưới thế gian nầy làm cho khối ấy lay chuyển, tiêu diệt được.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 14-11-Nhâm Thìn nhằm ngày (dl. 30-12-1952).
Q.5/35: LƯỢC GIẢI VỀ NGŨ CHI ĐẠI ĐẠO: PHẬT ĐẠO, TIÊN ĐẠO, THÁNH ĐẠO, THẦN ĐẠO VÀ NHƠN ĐẠO.
Đền Thánh, ngày 15 /12 năm Nhâm Thìn (1952)
Đức SHIĐARTA (Cakya Mouni) nghĩa là người ở xứ Cakya, lấy lòng nhân bao trùm thiên hạ, tầm thêm đặng chơn lý sanh khổ, mà lập thành Phật Giáo, nên dùng đoạn trái oan trừ nghiệt chướng, đặng làm phương giải thoát luân hồi.
Ấy là giữa chốn khổ não đau thương, Ngài lại đem tánh từ bi tự tại ra chuyên chế lòng phàm, cầu sanh chúng tương thân tương ái, thật chẳng khác nào đã khổ nơi ô trược nhớp nhơ mà Ngài đến rải mùi thơm ngào ngạt.
Ngài nhờ Lão, Bịnh, Tử Khổ, giác minh bổn thiện mới đạt phương cứu khổ loài người.
Đức Lý Lão Đam (Lão Tử) là Thái Thượng Lão Quân, vì lòng nhân phổ độ thế gian nên tìm đặng chơn lý tinh thần vi chủ, trừ khử phương dĩ vật lụy hình, định tự chủ kỳ tâm là diệu pháp, lại lấy phép an nhàn làm cơ thoát tục.
Ấy đời là cảnh sầu thảm khó khăn, mà Ngài đến bày phép chơi hay cho giải trí, chẳng khác nào Ngài là người đương ngậm đắng trêu cay, Ngài cho nếm mùi ngon vị ngọt.
Ngài nhờ quyền vật dục trong trường công danh phú quí của lục quốc phân tranh, tạo ác đã vô ngằn, nó thức minh "bổn thiện" của Ngài, nên Ngài ái dân sanh, mới truyền phương thoát khổ.
Đức Chúa Jésus de Nazareth (gọi là Christ) bởi lòng nhân cứu thế lập nên Thánh Giáo Gia Tô, Ngài mượn bác ái nhân sanh, đặng thay mặt Chí Tôn khai hóa, xem phổ tế chúng sanh rằng trọng, nên chuyên lo giúp khó trợ nghèo, dỗ kẻ dữ, dạy người ngu, ngó chân thật mạng sanh hành thiện Đạo, diệt dị đoan, trừ mê tín, dụng chân lý để răn đời, nhìn lương tâm là hình ảnh của Trời, lấy trí tuệ vẽ tươi Thiên Cảnh.
Ngày hằng dạy rằng: Cái khổ của thế gian là sự nghiệp của con người, phải thọ khổ mới rõ cơ thoát tục.
Ấy là đời đang giả dối mà Ngài đem chân thật đặng khử trừ, chẳng khác nào vào chốn náo nhiệt dữ dằn mà Ngài đờn tiếng thanh tao hòa nhã.
1/- Ngài nhờ Đạo luật của Môi-sen (Moise), thế kỷ ấy quyền hành biến đổi nên sanh nhiều chi Tả Đạo Bàn Môn, lại thế lực của (Cai phe) về bên mặt phần hồn rất nên mạnh mẽ buộc dân Do Thái (Juifs) nhiều lẽ nên tà. Cả mê tín của dân (Giu Đê) buổi ấy luận không cùng.
2/- Quyền luật đời nước La Mã (Rome) của César nghiêm khắc khốc hại sinh linh đồ thán.
Những nguyên ủy khai minh "Bổn thiện" của Ngài làm cho Ngài phải cam tâm gánh vác cả sự đau đớn của loài người, cũng bởi ái tuất thương sanh chịu tử tội đặng truyền gương thọ khổ.
Khương Thái Công gọi là (Thái Công Vọng) hay là Khương Tử Nha vâng lịnh Đức Ngươn Thỉ Thiên Tôn ở Côn Lôn Sơn lấy Phong Thần Bảng đến giúp nghiệp Châu, cũng vì nhơn sanh mà khai minh chơn lý của quyền hành thưởng phạt thiêng liêng giúp thế trị đặng thêm mỹ mãn, tôn sùng trung liệt, trừ khử nịnh tà, mượn tinh thần làm nhuệ khí đặng trừ tan ác nghiệt của xác thân ấy là dụng phép vô hình đặng điều khiển hành tàng mặt thế. Ngài giúp cho thế gian kinh nghiệm đủ cớ hiển nhiên rằng nạn ác đã đào tạo kiếp sống của con người, chẳng trốn tội khỏi nơi kiếp chết. Phép thưởng phạt thiêng liêng có đủ quyền năng cả xác cùng hồn. Thế thì có trí tuệ của loài người, còn Đạo lại còn Thần minh giám sát. Triết lý Thần linh nghĩa là: Quyền phép của lương tâm, do đó mà lập thành căn bản và năng lực vận hành hiện tượng của tư tưởng cùng bổn nguyên Thần pháp đặng nảy sanh.
Ôi! Cũng vì cớ quả nhiên thật sự bí pháp nầy đây mà đời chất chứa nhiều điều mê tín.
Tuy vân, chẳng phải chính mình Ngài làm chủ tạo phép huyền vi bí mật Phong Thần, song Ngài biết tùng lịnh thật hành những tư tưởng cao thượng của Đức Ngươn Thỉ Thiên Tôn, thì công ấy cũng đủ làm đầu Thần giáo.
Đôi (Đời?)(1*) khi ấy dường như đang bị phát bối ung thư, chịu đau đớn sầu than chẳng xiết, mà Ngài lãnh đặng hoàn thuốc linh đơn thoa cho đặng lành lẽ tốt tươi mặt thế.
Ngài nhờ thấy bạo tàn Thương Trụ và thương đạo nghĩa của nhà Châu vua Văn Vương và Võ Vương dục khai "bổn thiện" nên tuổi dầu cao, tác dầu lớn, mà dám chịu nhọc nhằn khổ cực giúp đạo đức, khử bạo tàn, thâu cơ nghiệp Thành Thang, cứu dân đen trong nước lửa, tuy đôi bên Thương, Châu khác giá mà đối với lực trung can trí dũng, vị quốc vong xu, Ngài vẫn giữ dạ vô tư trong Thần vị, chỉ ngó mặt công phong tước phẩm.
Đức Khổng Phu Tử tự là Trọng Ni, cũng vì nhơn thấy đặng hung bạo của Đời nên lo trù hoạch phương châm giảm ác, mới đạt đặng triết lý chí thiện là cơ quan bảo thế, Ngài đắc thông nên tự nhiên biết rằng cơ tạo nghĩa là Trời Đất và vạn vật hữu hình, phải tấn hoá lần lần cho tận con đường chí thiện. Người thì tận thiện, vật thì tận mỹ gọi là Đạo. Ngài chỉnh chiếu theo sự tự nhiên hành động tâm lý của người đời đặng làm chuẩn thằng đoán xét, ngoài phép an tâm luyện tánh, Ngài không nhìn phương pháp nào tự giác đặng "bổn thiện" và kềm chế lấy điểm lương tâm, nên không chịu tin theo lý thuyết mị thuật huyền vi mà trí khôn ngoan của người không thấu đáo. Ngài đã thấy phép trị thế, dầu cho dân sanh phản kháng thế nào, cũng tùy theo một chủ quyền chính thể, hoặc do nơi đông tay xúm nhau đào tạo hay là do ở một người đã đặng mạng Trời làm chúa Đời, cầm luật pháp trị bá tánh.
Ngài cho chánh trị hành tàng, của xác thịt thế nào thì chánh trị tinh thần cũng vậy, nên nhìn nhận rằng trên các chủ quyền trị thế, có quyền vô vi của Đấng Chí Tôn, Ngài gọi là Nhứt Đại nên viết Thiên (天) nắm trong phép thiêng liêng thưởng phạt, Đấng Chí Tôn ấy chẳng phải có quyền năng về phần hồn mà thôi, lại cũng đặng oai linh phần xác, lý thuyết Trời và Người đồng trị nảy sanh ra trí đó.
Cơ nghiệp Văn Vương qua đến Đông Châu là cùng vận , mà Ngài cố quyết duy trì, mong lòng hiệp quốc đem luật đặng trị bình, lấy nghĩa nhân đặng khử bạo.
Ngài hiểu rõ rằng quyền hành chánh trị chia ra 2 phần:
1/- Sanh hoạt của thi hài.
2/- Biến hóa về tâm lý.
Nên Ngài cho luật pháp là cơ quan độc thiện để trị an thiên hạ, còn đạo nhơn nghĩa đủ thế kềm thúc tánh đức người đời, nên Ngài mới cầm nhiếp chánh nhà Châu để sở vọng chấn hưng.
Thương thay một Đấng Chí Thánh như Ngài mà cũng phải chịu bề thất vọng, bởi gặp buổi đời quá bạo tàn, nên cây quạt và mảnh mền là đạo nhơn nghĩa của Ngài không đủ thế quạt nồng đắp lạnh, Ngài phải thối bước về quê, cam phận thiệt thòi trọn đời ngồi dạy học.
Bài tự thán "Chi Lan" của Ngài ai đọc đến cũng phải rơi châu đổ lụy.
May thay! Qua đến đời Khổng Cấp (Tử Tư) là đích tôn của Ngài dạy đặng một trang môn đệ là Mạnh Tử, rất nên bậc hiền triết nối chí Thánh nhơn, cố mở mang Đại học.
Triết lý của Mạnh Tử là tại Minh Đức tại Tân Dân tại chỉ ư Chí Thiện.
Người đi châu lưu nước nầy qua nước nọ, lấy nhơn nghĩa đặng khuyến khích nhơn tâm, cảm hóa các chư hầu, chỉnh đốn chế chuyên Vương Đạo.
Thật ra các xã hội Á Đông nầy đã nhờ ảnh hưởng công nghiệp của Người lắm lắm.
Đời Đông Châu sôi nổi, giặc giả chiến tranh cả ác hành, sử chép không cùng, mà qua đến đời của Người thì trở lại như xưa, tin dùng "bổn thiện" thật tài chính trị của Ngài rất nên siêu việt.
Đức Khổng Phu tử cũng nhờ ác hành Đông Châu Liệt Quốc trong trường chiến đấu đua tranh, giành quyền lợi, mà giáo minh "bổn thiện" của Ngài mới đắc pháp cao thâm, chí thiện.
Những triết lý Thánh Hiền, dầu cổ kim cũng thế, cốt để dìu dắt nhơn sanh đi thong thả trên con đường lành cho cùng tận, đặng phục nguyên bổn thiện của mình, các Tôn giáo gọi tên là Đạo.
Ngày nào "bổn thiện" đã phát minh, thì cảm hoá chúng sanh rộng thế. Hèn thì làm cho một gia đình thiện hành gia pháp, trọng thì giúp quốc gia xã hội thiện hành quốc chánh. Còn tối đại thì làm cho toàn thiên hạ đặng thiện giao hiệp chủng đại đồng.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 15-12-Nhâm Thìn nhằm ngày (dl. 29-01-1953).
(1*) Nơi đoạn thứ 16: Đôi (Đời?) khi ấy dường như đang bị phát bối ung thư, chịu đau đớn sầu than chẳng xiết,... ... ...
Chúng tôi xin đề nghị cho rõ nghĩa hơn: Đời khi ấy dường như đang bị phát bối ung thư, chịu đau đớn sầu than chẳng xiết,... ... ...
Q.5/36: LỄ RƯỚC CHƯ THÁNH ĐÁO TÂN NIÊN.
Đền Thánh đêm 30 /12 năm Nhâm thìn (1953)
Thưa Chư Chức Sắc Thiên phong và toàn cả con cái của Đức Chí Tôn nam nữ, xin ngồi chỉnh tề tịnh tâm đặng Bần Đạo dâng Thần cho Đức Chí Tôn đến ban phép lành cho toàn thể (ngồi xuống hết sau khi ban phép lành).
Bần Đạo nhắc lộn lại, khi Đức Chí Tôn đến mở đạo năm Bính Dần tại chùa Gò Kén, đêm giao thừa 30 tháng chạp Bính Dần, sáng ngày mồng một Đinh Mão. Đức Chí Tôn giáng cho Bần Đạo và Đức Cao Thượng Phẩm bảo đứng dậy giơ cần cơ ra ngay chính giữa, dặn các con cái của Đức Chí Tôn mỗi người phải chun qua cần cơ đó. Cái ơn Thiêng Liêng ấy không người nào mà Đức Chí Tôn không có ban cho. Con cái của Ngài giờ phúc nầy cũng vậy.
Mỗi năm đêm nay là đêm trọng hệ hơn hết. Bần Đạo dám chắc và quả quyết giờ phút này là giờ phút tối yếu tối trọng hơn tất cả. Vì cớ cho nên Bần Đạo dâng Thần cho Đức Chí Tôn đặng Ngài lấy hình thể hữu vi ấy mà ban ơn cho con cái của Ngài.
Bần Đạo có giảng "Tam Bửu" đã nhiều phen rồi, cái Bí Pháp huyền diệu vô biên ấy nếu toàn thể con cái của Ngài dầu cho đứng trong phần tử Thánh Thể của Ngài lớn nhỏ cũng vậy, toàn cả con cái của Ngài, tức nhiên Thánh Thể của Ngài tại thế này đó vậy.
Nếu cả thảy khi dâng "Tinh" tức nhiên dâng cái xác thịt và cái sống của mình cho Đức Chí Tôn, chỉ nhờ Đức Chí Tôn ban huyền diệu mới độ tận chúng sanh được, nếu cả thảy triệu người đều nhứt tâm nhứt đức thì dầu cái thân hình và kiếp sống của mình có khổ sở thì cái cơ cứu khổ chẳng hề khi nào mà không làm được.
Tiếc thay! Con cái của Ngài chưa trọn tâm đức, nên cơ giải khổ của nhơn loại chưa thực hiện đặng.
Nói về"Khí" tức nhiên cả trí óc khôn ngoan của chúng ta nếu toàn con cái của Ngài cứ lo vật chất hữu hình, nào quyền lợi, nào thân danh dưới thế gian nầy nó đều là mộng ảo; thì kiếp sống ấy là vô vị, chúng ta đã thấy câu "Mộng huyễn bào ảnh" nên Đức Chí Tôn có nói "Thiệt thì bỏ, giả vay nên nợ" cái tâm của mình đã bị cái hình xô đẩy vào con đường trụy lạc, thì không mong gì thoát khỏi kiếp luân hồi của Đức Chí Tôn đã định; vậy cả thảy dâng"Khí" tức là trí óc của mình đó.
Bần Đạo dám nói chắc: Cái thống khổ tâm hồn con người nơi mặt thế gian này chúng ta có phương pháp, có quyền năng an ủi được. Bần Đạo nói thiệt chúng ta sống là do cái hồn mà sống, chớ cái xác là vật tạm để cho chúng ta mượn đặng trả quả kiếp đó thôi. Còn các bạn của chúng ta nơi cõi Thiêng Liêng Hằng sống có hồn mà không xác là vì họ đã thoát kiếp trần rồi.
Bây giờ họ ở trên ấy, họ sẽ đến cái cơ Thiêng Liêng vận chuyển Pháp luân không cùng tận đó, rồi họ ở ngôi vị ấy chuyển luân mãi mãi, còn nơi mặt địa cầu này các đẳng linh hồn đồng chung sống với nhơn loại, nhưng chỉ cách nhau ở chỗ vô hình và hữu hình mà thôi.
Nếu toàn thể con cái Đức Chí Tôn trụ hồn lại cả thảy muôn triệu hay là một ngày kia toàn nơi mặt địa cầu này, mặt thế gian này làm một, thì cái khối quyền năng vạn linh của thiên hạ nơi mặt địa cầu nó sẽ hiện tượng, mà có hiện tượng được là họ phải thọ khổ, thắng khổ, rồi giải khổ thì mới mong đoạt vị được.
Chừng ấy chẳng phải đại đồng thiên hạ mà thôi, lại còn đại đồng tất cả Càn Khôn vũ trụ nữa mà chớ.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 30-12-Nhâm Thìn nhằm ngày (dl. 13-02-1953).
CHUNGLỜI THUYẾT ÐẠO CỦA ÐỨC HỘ PHÁP |
Chúng tôi trình bày quyển Lời Thuyết Ðạo của Ðức HỘ PHÁP Năm Nhâm Thìn (1952) do Ban Tốc Ký Tòa Thánh Tây Ninh Sưu Khảo có những phần khác biệt sau đây so với bản chánh về mặt hình thức (nội dung vẫn y nguyên):
1./ Sửa một số lỗi chánh tả thông thường (khi gặp phải) căn cứ vào quyển Việt Nam Tân Tự Ðiển của Thanh Nghị do nhà sách Khai Trí xuất bản tháng 12 năm 1967 & Việt Nam Tự Ðiển của Lê Văn Ðức, Lê Ngọc Trụ do nhà sách Khai Trí xuất bản tháng 4 năm 1970.
2./ Phụ ghi vào cuối một số bài khi gặp một vài nghi vấn (có thể) được Ban Ðạo Sử duyệt xét lại sau nầy.
3./ Phụ ghi ngày và tháng dương lịch (cho những bài không ghi rõ ngày & tháng) căn cứ theo Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996.
Trong việc đánh máy và sao chép lại, nếu có điều chi sơ sót, xin quí Đạo huynh vui lòng chỉ giáo, để trong những lần tái bản sau nầy được hoàn hảo hơn.
Tháng Hai năm Giáp Thân (2004),
Thánh Thất New South Wales thành thật kính cáo.
) )( __)_(__ __(_____)__ (((_________))) ) ׀ ( |
|
ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
LỜI THUYẾT ÐẠO
|
Hội Thánh Giữ Bản Quyền |
Tài Liệu Do Ban Tốc Ký Tòa Thánh Tây Ninh Sưu Khảo.
MỤC LỤC năm Quý Tỵ
Chú thích: MỤC LỤC năm Giáp Ngọ
Ghi chú: MỤC LỤC năm Ất Mùi
|
Mỗi lần ly loạn là mỗi lần thư tịch bị làm mồi cho binh lửa.
Nhìn vào lịch sử, những vụ "Phần Thư", những vụ chiếm đoạt thư tịch đã xảy ra như một hệ luận trước những biến cố. Tình trạng nầy đã kéo dài qua các thời đại ấy là biện pháp của những kẻ mạnh nhắm vào mục đích thực hiện chính sách ngu dân và đồng hóa triệt để.
Những kinh nghiệm đau thương ấy là nguyên nhân thúc đẩy chúng tôi cố gắng thực hiện công việc sưu tập những tài liệu nầy.
Chúng tôi nghĩ: Nếu tài liệu kinh sách chỉ được tập trung tàng trữ vào một chỗ tránh sao cho khỏi bị hủy diệt khi kẻ cường quyền cướp đến phá. Do đó chúng tôi quyết định quây ra làm nhiều bản để gởi đến và ký thác vào những tâm hồn trung kiên với Ðạo, những người dám chết để bảo tồn những tiếng nói của Ðấng thay Trời dạy Ðạo.
Nếu một mai thời cuộc lại biến thiên, có thể các cuộc "Phần Thư" lại diễn thì thiết tưởng trong số tài liệu nầy vẫn còn có nhiều người nhiệt tâm gìn giữ được vẹn toàn.
Ðây không phải là việc làm của cá nhân hay một đoàn thể nhưng là một sự đóng góp chung của những người vô danh, nguyện đem hết năng lực của mình để phụng sự cho lý tưởng bảo tồn truyền thống giáo lý của Ðạo. Trong khi quyển tài liệu nầy đến tay quí vị thì cũng đã có người vì quá hăng say trong công việc thực hiện lý tưởng mà phải lao tâm kiệt sức hóa ra người thiên cổ.
Việc làm của chúng tôi không phải là một ý nghĩ nông nỗi của một sớm một chiều, nhưng là một hoài bảo trong suốt thời gian ly loạn. Chúng tôi hằng cầu nguyện Ðức Chí Tôn và Phật Mẫu ban bố phước lành sớm gặp dịp may để thực hiện hoài bảo ấy.
Ngày nay chân trời đã rạng tỏ, ý nguyện đã đắc thành.
Chúng tôi xin hiến dâng trọn vẹn cho Hội Thánh tất cả những tài liệu mà chúng tôi đã ghi chép, góp nhặt sau bao nhiêu năm theo đuổi mục đích bảo tồn những lời vàng tiếng ngọc của Ðức Hộ Pháp.
Từ đây bản quyền nầy sẽ tùy thuộc hoàn toàn của Hội Thánh. Kính xin Hội Thánh kiểm duyệt và ấn hành, để cho mọi người đều được nghe lời dạy dỗ đầy yêu ái của Ðức Hộ Pháp, đã dành cho chúng ta trong thời gian Ðức Ngài còn tại thế.
Tòa Thánh, ngày rằm tháng 6 năm Bính Ngọ (1966)
Ban Tốc Ký
|
|||||||||||||||||
Năm Quý Tỵ - Giáp Ngọ - Ất Mùi
(1953 - 1954 - 1955)
Phần 1: Năm Quý Tỵ (1953)
Q.6/1-01: Trong dịp chúc xuân tại Giáo Tông Đường.
Lời đáp từ của ĐỨC HỘ PHÁP tại Giáo Tông Đường trong dịp lễ các Cơ quan chúc xuân Đức Ngài. (Ngày 1-1 Quý Tỵ)
Bần Đạo lấy làm cảm khích được nghe mấy lời tâm huyết của toàn các cơ quan Chánh Trị Đạo đã chúc thọ cho Bần Đạo.
Hồi tưởng lại khi Bần Đạo để bước trở về cố quốc sau 5 năm bị đồ lưu nơi Hải Ngoại, thì cũng tưởng rồi cái vận mạng của nước Việt Nam, có lẽ chờ đến ngày về của Bần Đạo nó sẽ đặng hoàn tất, và đem sở năng hạnh phúc đặng thành tựu, thì cả tinh thần anh dũng của toàn quốc dân đứng dậy phá hủy xiềng xích lệ thuộc, điều ấy Bần Đạo đã nghe ra từ khi còn ở nơi Hải Đảo.
Ôi thôi! Trái lại khi Bần Đạo bước chân trở về thì đã ngó thấy cái chí quật cường và lòng phục quốc chẳng có năng lực nào khác hơn là năng lực của Quân Đội Cao Đài.
Thưa cùng các Cơ Quan Chính Trị Đạo, Hành Chánh, Hiệp Thiên Đài, Phước Thiện, Quân Đội, Bần Đạo xin cả toàn thể đứng yên lặng trong 5 phút đồng hồ để tưởng niệm đến các Thánh Tử Đạo, vì vận mạng của nước nhà, vì chánh thể của nền chơn giáo đã hy sinh đặng làm sứ mạng Thiêng Liêng của mình bằng xương máu. Bần Đạo xin cả thảy đều tịnh tâm cầu nguyện.
Các bạn Hiệp Thiên Đài, nhứt là Cao Tiếp Đạo những lời châu ngọc của Hiền Hữu nó đã ăn sâu trong tâm hồn của Bần Đạo thật vậy, nếu kiếp sanh nầy may duyên nó có thể nói rằng: Kiếp sanh tại thế nầy nó là con vật, mà con vật ấy có thể hữu dụng được cũng là hạnh phúc cho kiếp sanh của Bần Đạo đó vậy.
Trên nhờ ơn Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu thương tưởng, dưới nhờ toàn thể con cái của Ngài nam cũng vậy, nữ cũng vậy. Bần Đạo nghĩ lại chẳng còn phần thưởng Thiêng Liêng nào hơn, cả bao nhiêu lời cầu chúc của toàn thể con cái Đức Chí Tôn đã trả công nghiệp cho Bần Đạo với một giá rất mắc mà không hay đó vậy.
Các bạn Hiệp Thiên Đài, các người cầm cân công bình Thiêng Liêng của Đạo mà Đức Chí Tôn đã để tại nơi mặt thế nầy, hạnh phúc hay đau khổ của toàn thể nhơn loại một ngày kia đều mơ vọng trên mặt cân của Chư Hiền Hữu. Bần Đạo xin nhắc lại lời yếu thiết của Đức Chí Tôn đã hòa ước với chúng ta là: "Công bình" mà công bình ấy Bần Đạo đã gởi nơi Hiệp Thiên Đài đó vậy.
Hành Chánh Bần Đạo để lời cám ơn từ khi Bần Đạo để bước về cố quốc tới giờ thì năng lực của toàn Thánh Thể Đức Chí Tôn nam nữ lưỡng phái, nên giờ phút nầy Bần Đạo đủ năng lực, đủ quyền hành đặng làm trách vụ Thiêng Liêng của mình một cách mạnh mẽ oai quyền, Bần Đạo để lời cám ơn và cầu chúc cho Đức Chí Tôn ban khiếu huệ quang cho toàn thể nam nữ thấu đáo cho đặng Thánh ý của Đức Chí Tôn thêm nữa đặng tạo thành cơ quan cứu khổ thiên hạ và tạo hạnh phúc cho đồng bào quốc dân Việt Nam tức nhiên là đồng bào của Thánh Thể buổi nầy vậy.
Hội Thánh Đường Nhơn giờ phút nầy trong giai đoạn ngắn ngủi đây Hội Thánh Đường Nhơn sẽ có một trách vụ yếu trọng, Bần Đạo nói tiên tri cho biết đặng sửa soạn lấy mình định phận trước.
Hội Thánh Phước Thiện. Ôi! Nếu Bần Đạo dòm trước mắt thấy một điều đau khổ của chúng sanh chừng nào thì Bần Đạo để hy vọng trong cơ quan ấy hơn hết.
Trải qua một thời gian định quốc đây rồi cái sự thống khổ của toàn Quốc Dân Việt Nam nó sẽ định quyền lực lại nhứt là các chiến sĩ đã hy sinh vì nước họ đã bị bịnh hoạn tật nguyền, đau khổ, nghèo nàn, muốn cứu vãn tương lai ấy đặng đem mãy may hạnh phúc lại cho họ, Bần Đạo chỉ trông mong nơi Phước Thiện mà thôi đó nghe.
Các con chiến sĩ anh dũng Cao Đài, một lần nữa Thầy để lời cám ơn các con.
Trong sáu, bảy năm Thầy đã dìu dẫn các con đi trên đường hy sinh vô bờ bến, hồi tưởng lại nếu các con để tâm bình tỉnh lấy cả đạo đức tranh đấu vì non sông vì Đạo, thì Thầy chắc các con chiến thắng đó vậy, và Bần Đạo dám nói rằng: Lời ấy không phải là lời quá đáng, các con đã đi đủ hai giai đoạn.
Giai đoạn đầu, các con đã tạo thành năng lực cách mạng đã đảo chánh quyền đem cả năng lực chiến đấu của nòi giống Việt Nam, lộn lại mới có một tấn tuồng mạnh mẽ như thế hiện trước mặt Bần Đạo đã ngó thấy cái ngày đã đảo chánh quyền quật cường của nòi giống các con.
Ngày nay nó đã tới giai đoạn phục quốc thì cũng nhờ cuộc đảo chánh quá cường liệt ấy cho nên phục quốc của các con mới liên tiếp mãi, vì cớ nên đoàn anh của các con họ mơ vọng ngày định vận mạng của Tổ Quốc chỉ ở sớm tối đặng thành tựu mà thôi, nhưng tội nghiệp thay! Các đoàn anh mơ vọng ấy họ phải ân hận trong giờ chót của họ.
Vậy Thầy cho các con biết giai đoạn phục quốc đã qua, giai đoạn định quốc đã đến, tức nhiên giai đoạn lập chánh thể nước nhà các con. Nếu nền độc lập nước Việt Nam bền vững hay chăng, Bần Đạo không ngại ngùng không thẹn thuồng nói: Năng lực bảo vệ nền độc lập nước nhà các con được vinh hiển bền bĩ hay không là do nơi năng lực quốc tế mà thôi.
Hạnh phúc thay! Mới thâu hoạch lại nền độc lập đã mất hơn 80 năm mà hôm nay được hơn 40 nước liệt cường nhìn nhận, dầu muốn, dầu không, không có quyền lực nào thâu nền độc lập ấy lại đặng, không có quyền lực nào dang tay phá hủy nó cho đặng, chánh thể lập quốc của các con sẽ tới trong giai đoạn ngắn ngủi đây.
Hôm nay Thầy nói rõ, chắc các con lấy làm lạ, sao đương lúc bình tịnh nầy mà xảy ra một đại cuộc làm đau đớn cả cơ thể các con, các con cứ yên tâm, Thầy giải nghĩa cho các con biết, giai đoạn tới trước rồi Thầy dìu dẫn các con để bước lần đến địa vị cho đúng, đó là phận sự các con phải làm bất quá cả cơ thể Thầy xô các con bước tới một bước mà thôi. Các con đừng tưởng phận sự phục quốc các con là vậy đâu, còn nữa. Thầy sẽ xô các con đi đến mức chánh thể nước nhà và lập phương pháp để bảo vệ nền độc lập của các con được bền vững chớ không có chi khác.
Khi thầy ở Hải Ngoại về, Thầy có giao một tờ hòa ước với kẻ cầm quyền nước Pháp, ở trong đó Thầy nhứt định phải trả từ mũi Cà Mau dĩ chí đến ải Nam Quan lại, tức nhiên Hoàng Đồ đất Việt Nam phải giao dưới quyền lãnh đạo của nhà Vua Bảo Đại là người kế tự cho các Đế Vương ta. Dòng nhà Nguyễn duy có người đó mới có đủ quyền lực ăn nói cùng với Quốc Tế. Vì cớ cho nên ngày về Thầy qua bên Hồng Kông Hương Cảng Thầy đã nói với Ngài, theo mặt luật Quốc Tế thì Hoàng Thượng vẫn còn Hoàng Đế, còn nói với toàn thể Quốc Dân Việt Nam khi Hoàng Thượng thoái vị có nói rằng: Hoàng Thượng để hạnh phúc Quốc Dân trên ngôi báu của Hoàng Thượng "Thiên Tử vô hí ngôn" đối với Quốc Dân Hoàng Thượng còn làm Quốc Trưởng. Tôi xin hứa với Hoàng Thượng cái giai đoạn nầy nó sẽ tới giai đoạn "Quân chủ lập hiến" mà thôi, chớ chưa hề nước của mình đi đến Dân Quốc được.
Đức Quốc Trưởng đã chịu và hứa như vậy, nên ngày nay Ngài đã thi hành mấy lời hứa với Bần Đạo thì ngày Lập Quốc Dân Quyền giờ phút tới đây Bần Đạo giữ lời hứa với Ngài, Bần Đạo sẽ sắp đặt Quân Chủ Lập Hiến ra thiệt hiện.
Bần Đạo nói quả quyết, các con trụ cả khối tin trung lộn lại đối với toàn thể nước nhà chủng tộc của các con, thì trên Đức Quốc Trưởng không thay lời hứa, dưới Thầy không lỗi hẹn, thành thử Thầy xin lại cho dân tộc của các con độc lập thiệt hiện đặng.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 01-01-Quý Tỵ nhằm ngày (dl. 14-02-1953).
Q.6/1-02: Lễ xuất quân.
Lời diễn thuyết của ĐỨC HỘ PHÁP trong dịp Lễ Xuất Quân của Quân Đội Cao Đài ngày 9-1 Quý Tỵ
Thưa cùng Chư Quí Quan, thưa cùng toàn thể các vị Sứ Thần nước ngoài, thưa cùng Ngài Thủ Tướng Chánh Phủ của chúng tôi, thưa cùng Quan Trung Tướng BONDIS và Quí Ngài có mặt nơi đây.
Hôm nay là ngày Lễ Xuất Quân của Quân Đội Cao Đài, Bần Đạo lấy làm cảm kích vô cùng.
Thưa Quí Ngài xin cho phép Bần Đạo để lời căn dặn cả chiến sĩ của Bần Đạo đôi điều trọng hệ hơn hết là về mặt Đạo. Bần Đạo đã nói cho các con Thượng Hạ Sĩ Quan Chiến Sĩ Quân Đội Cao Đài hiểu rõ.
Từ ngày Thầy bị đồ lưu nơi Hải Ngoại, khi trở về cố quốc, Thầy đã đem cho các con một phận sự mới mẻ yếu trọng tưởng cả thảy đều biết là phận sự cứu quốc, cái hy sinh vô tận của các con từ 10 năm nay Thầy không có phần thưởng nào cho xứng đáng, duy có hai cây Đạo Kỳ nầy mà Thầy để cả tâm hồn vào đó và Thầy đã ban cho các con, hễ đến ngày kỷ niệm Lễ Xuất Quân thì Thầy đây là Ông Cha Thiêng Liêng của mấy con, vậy các con nên tưởng niệm các Thánh Tử Đạo, các chiến sĩ hy sinh vì Tổ Quốc, việc ấy Thầy không cần miêu tỏa các con cũng đã hiểu biết cái thâm tình ấy.
Hôm nay đến giai đoạn định quốc Thầy sẽ ban cho các con một phận sự yếu trọng mới mẻ, phận sự nầy khó khăn nguy hiểm hơn trước kia nhiều nữa.
Muốn cho cả tinh thần của Chiến Sĩ Cao Đài thống họp lại làm một khối, tinh trung cứng rắn mạnh mẽ để cứu vãn tương lai của nước, tạo thành hạnh phúc cho chủng tộc của các con, nên Thầy làm một vị Giáo Chủ đây tức là một vị Giáo Sư để Giáo Đạo cho nòi giống Việt Nam mà thôi, nhưng vì huyết quản của Thầy đã xuất hiện trong nòi giống các con, nên phải làm cho xứng phận công dân ấy, thì Thầy làm phận sự Thiêng Liêng mới đáng giá của nó.
Thầy đã ban cho lá Quân Kỳ có bốn chữ "Tận Trung Báo Quốc" có lẽ miệng đời dị nghị cho rằng bốn chữ đó làm không đúng gì hết, chỉ có hình thể mà thôi.
Những tiếng dị nghị ấy Thầy nói cho các con nhớ, duy có Bà Mẹ của Nhạc Phi Bàn Cử đề bốn chữ "Tận Trung Báo Quốc" mà Nhạc Phi đã cứu nước Tống khỏi thất quốc.
Người của nước ta duy có hai tướng:
Võ Tánh
Ngô Tùng Châu.
Hai vị ấy đã hy sinh tánh mạng khôi phục Hoàng Đồ cho Tổ Quốc. Thầy nói quả quyết rằng: Các con coi bốn chữ ấy nó sẽ thay đổi tinh thần nòi giống dân tộc, nó sẽ giúp các con đắc lực và oai quyền hơn nữa.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 09-01-Quý Tỵ nhằm ngày (dl. 22-02-1953).
Q.6/1-03: Đức Hộ Pháp phủ dụ Chiến sĩ Cao Đài.
ĐỨC HỘ PHÁP để lời cám ơn Quan Khách và để lời phủ dụ Chiến Sĩ Cao Đài ngày 16-1 Quí Tỵ
Thưa cùng Chư Viên Quan, Chức Sắc Đời và Đạo.
Trước khi Bần Đạo để lời, Bần Đạo xin nghiêng mình cảm tạ cả thảy đồng bào đôi bên niệm tình của Quân đội và của Đạo đến dự lễ đông đảo và long trọng làm cho rỡ ràng thêm vẽ Đạo. Bần Đạo xin cúi mình cám ơn toàn thể.
Thưa cùng toàn thể đồng bào,
Bần Đạo xin để lời cùng các Ngài, trước vận mạng đương nhiên của Tổ Quốc, nòi giống tới một giai đoạn rất nên yếu trọng, nếu không nói nó đã đến giai đoạn khó khăn đặng định vận mạng tương lai của nó. Nhứt là Bần Đạo xin để lời riêng biệt cùng các nhà văn sĩ và các sứ giả. Trên (chín) 9 năm tranh đấu, hôm nay cái phận sự ấy, yếu trọng cho các Ngài hơn hết, bởi nó đến giai đoạn chúng ta phải tranh đấu về trí thức tinh thần, nếu không nói rõ rằng: Ta vẫn tiếp tục đương tranh đấu về tâm lý. Tưởng khi trên chín năm quật cường thâu hồi độc lập cho Tổ quốc giang sơn, các Ngài đã có sẵn trong tay một sử liệu, có thể một ngày kia ngòi bút quí báu của các Ngài lưu lại cho hậu tấn một kiểu vở một khuôn mẫu y theo tinh thần cố hữu của Tổ phụ để lại.
Cái chí quật cường sau 80 (tám mươi) năm đô hộ khiến cho đồng bào chúng ta muốn giải thoát thâu hồi độc lập và Hoàng Đồ của Tổ Phụ lại. Một giang sơn gấm vóc như thế nên buộc chúng ta phải hy sinh xương máu, từ cổ chí kim vẫn vậy. Luật thiên nhiên dưới thế nầy, chẳng có điều chi mà ta đã xin đặng, ta chỉ phải mua phải chuộc với một giá cho đồng giá trị với vật mà ta muốn thâu hoạch. Nhưng ôi thôi! Vật của toàn quốc dân đồng bào muốn thâu hoạch ấy, vật đó nó quá giá tưởng tượng, cho nên phải trả với một giá rất mắc, là cái giá xương máu trên 9 (chín) năm tranh đấu.
Thưa cùng đồng bào các nhà văn sĩ các vị cầm bút đang dìu dẫn cả tinh thần trí não của chủng tộc ta buổi hôm nay. Có lẽ khi trong lúc rổi rảnh các Ngài có thể để một dấu hỏi? Cái đường lối của Đạo Cao Đài đã tự xưng là Quốc Đạo, hỏi lấy cả tánh chất của nó, nó đã hiển nhiên trở nên một nền Đại Đạo cho Quốc Tế, mà cái nạn nước của họ như thế nầy thì phương pháp giải quyết của họ như thế nào mà chớ? Có lẽ trong khi rảnh ấy các Ngài cũng để câu hỏi? Trường hợp đó thử nghĩ cả thảy những kẻ trí thức tinh thần phải đi đường lối nào? Phải dùng giải pháp nào? Nhứt là tình trạng của Bần Đạo sau 5 năm đồ lưu trở về nước. Năm 1946 cả cái tình trạng của nước nhà, các Ngài cũng hiểu thấu. Bần Đạo xin thú thật buổi nọ Bần Đạo đã bí lối, không ngõ thoát. Một đàng thì Việt Minh lợi dụng tinh thần ái quốc của toàn thể quốc dân đồng bào, chí hướng có một điều là lập trường cứu quốc. Nhờ cái năng lực mạnh mẽ và quyền năng ấy, họ đã nắm trọn cả số mạng của nòi giống và tổ quốc trong tay từ Nam chí Bắc. Nếu như cơ cấu tranh đấu của họ quả là một cơ cấu quốc gia chân chính, thì sự thâu hoạch và thống nhứt hoàng đồ đã làm rồi, đã thành tựu rồi. Hại nỗi họ phải xu hướng theo hai chí hướng của hai khối, nhứt là họ vẫn thấy khối Cộng sản đương mạnh. Lầm lạc của họ là nương nơi khối ấy mà họ định vận mạng tương lai nước nhà chủng tộc là cái lầm nhứt hết. Nếu quả nhiên cái định hướng của họ thật đem lại thắng lợi cho nước nhà, cho chủng tộc thì Bần Đạo tưởng không nói rõ ra cả thảy đồng bào đều biết, cũng như kẻ tôi đòi đổi chủ mà thôi chớ không chi khác. Ngó ngọn cờ độc lập mà cũng lệ thuộc vẫn như xưa, thì làm thế nào mà tạo hành phúc cho tổ quốc nòi giống đặng. Hại nỗi, khi về nước, bên nây giành giựt cả quần chúng, thì bên kia cũng giành giựt cả quần chúng, bên nây Việt Minh bên kia Pháp, khối Quốc Gia ở giữa hai tình thế rất nguy hiểm là hai lằn tên mũi đạn.
Thưa cùng cả thảy đồng bào, thử như thế đồng bào mới chỉ con đường nào cho Bần Đạo đi mà chớ. Có một con đường duy nhứt là con đường sẳn có của chúng ta mà Tổ Phụ ta đã để lại. Con đường đã có trên 4.000 năm lập quốc và 4.000 năm văn hiến là con đường duy nhứt Bần Đạo phải đi. Mà con đường ấy, ôi! Không biết bao nhiêu đau đớn. Đã hy sinh cái khối xương máu của Chiến Sĩ Cao Đài, làm thành, làm lũy đăïng bảo vệ sống còn của nòi giống dưới ngọn cờ Bảo Sanh Nhơn Nghĩa Đại Đồng. Nếu toàn thể đồng bào hiểu cái thâm ý của nó sẽ ứa lụy cùng Bần Đạo mà chớ.
Có một phen mà Bần Đạo đã tuyên bố "Quân Đội Cao Đài xuất hiện ra đặng làm tấm bình phong chịu chết cho giống nòi khỏi chết, bảo vệ cho giống nòi còn sống, bảo thủ cái Nhơn Nghĩa của Tổ Phụ để lại". Có nhiều khi Bần Đạo cũng lấy làm đau đớn lắm vậy, nhưng nghĩ đến cái sứ mạng Thiêng Liêng cao cả ấy, có chút an ủi mảy may trong tâm não.
Các con Chiến Sĩ Cao Đài, từ Thượng Hạ Sĩ Quan dĩ chí đến binh sĩ một phen nữa Thầy xô các con ra hy sinh cứu nòi giống và Tổ Quốc các con, tương lai vận mạng nhứt định thế nào các con vẫn tiếp tục tranh đấu cho kỳ đặng thâu độc lập cho nòi giống và Tổ Quốc các con.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 16-01-Quý Tỵ nhằm ngày (dl. 01-03-1953).
Q.6/1-04: Thể Pháp của Đạo.
ĐỨC HỘ PHÁP Thuyết Đạo đêm 29 tháng 1 Quí Tỵ
Mấy kỳ đàn rồi bị lập thệ cho Quân Đội thành thử không thuyết Đạo được, có lẻ cả thảy hôm nay muốn nghe lắm, Bần Đạo có bịnh mệt một chút nên tiếng nói có hơi ồ ề, thuyết Đạo cả con cái Đức Chí Tôn nên để tai nghe.
Hôm nay tình trạng biến thiên các thanh niên của Đạo đã bị trào lưu loạn lạc lôi cuốn tâm đức của họ điên đảo Bần Đạo có thể nói tinh thần của họ hoang mang mà chớ; nên bữa nay Bần Đạo thuyết về Thể Pháp của Đạo nghĩa là: Khuôn luật của Đạo Cao Đài chúng ta đó vậy, Bần Đạo đã thuyết minh về Thế Đạo của Đạo Cao Đài là Nho Tông chuyển thế, mà Nho Tông tức nhiên Đạo của Tổ Phụ của chúng ta từ ngàn xưa để lại.
Ấy vậy những yếu lý của Nho Tông mới có thể làm mực thước mà định chuẩn thằng trong khuôn khổ cái sống đương nhiên của mình đặng, chúng ta đã ngó thấy Nho Tông của chúng ta là một nền Tôn Giáo xã hội, cái đặc điểm của nó là Đức Chí Tôn đến lập trường Nho Tông trị thế.
Ấy vậy tinh ba của Nho Tông là gì? Phải chăng cái chiến thuật của nó là "Tu thân tề gia trị quốc bình thiên hạ" tức nhiên cái tôn chỉ cao thượng của Đức Mạnh Tử là "Đại học chi Đạo, tại minh minh đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện".
Bây giờ xin cả toàn thể con cái của Đức Chí Tôn từ từ nghe Bần Đạo thuyết chữ "Tu thân" trước: Từ Thượng Cổ tới giờ Đức Thánh Nhơn lấy hai chữ tu thân làm căn bản, hai chữ tu thân đã có từ lâu, nếu chúng ta xem lịch sử của Nho Tông thấy nó đã xuất hiện từ Đức Huỳnh Đế có trên không biết mấy ngàn thế kỷ, trước Chúa Giáng Sanh.
Ấy vậy nó là tối cổ, cái phương pháp tu thân dầu thời đại nào cũng có, cái chí hướng của các Tôn Giáo là phải tu thân lấy mình dầu cá nhân, dầu xã hội hay toàn thể nhơn loại cũng vậy, cái tâm đức của con người bao giờ cũng có hễ họ nghe thấy điều nào hay, điều nào thiện đặng họ biết nhìn một cách chơn thật, nhưng mà họ không có làm còn biết chê cái dở cái ác mà họ lại làm, hai cái đó nghịch cảnh với cái tâm, không có một vị Thánh nào ở thế gian nầy tìm nguyên lý nó cho đặng.
Bởi vậy cái tâm lý của con người họ hay xu ác mà xa thiện, vì cớ cho nên các vị Giáo Chủ lập nền Tôn Giáo dạy phải làm thế nào gọi là tu thân, dầu cá nhân hai toàn thể nhơn loại cũng phải lấy hai chữ tu thân làm gốc, Bần Đạo đã nói, nó khởi đường lập tức là tại minh minh đức.
Hại thay, nơi thế gian họ đã hiểu như thế mà họ không kể đức, họ không lập đức, hỏi vậy thành Đạo làm sao được? Cái đức ấy thiên hạ chỉ ngó mịt mịt mờ mờ, nhưng họ đâu có biết rằng nó vô hình, vô ảnh mà quyền năng của nó không ai đảm đương được, đã tạo lập cái đức ấy phải trọn tâm, làm một mới có thể thiên hạ kính trọng, nhờ tâm đức ấy chúng ta mới có thể coi cả huyền vi của họ được, họ tạo đức ra là chỉ đặt cái sở hành đê hèn mà thôi, họ muốn thế cho nên họ chỉ kiếm cái người không biết lập đức mà họ làm màu cho ra vẽ người có đức, bởi không có đức thì không hề lập nên thân danh đặng.
Bây giờ chúng ta đã ngó thấy từ Thượng Cổ đến giờ dầu cho từ hàng lê thứ dĩ chí đến bực Đế Vương muốn lập vị mình cũng phải nương theo cái đức ấy, nếu chúng ta thấy họ còn dùng cái đức ở chỗ hèn hạ bao nhiêu thì không bao giờ giữ cái đức ấy còn tồn tại đặng, rồi đến cái ngày bỏ đức của họ, trở lại dùng bạo tàn như Sở Bá Vương, như Tần Thủy Hoàng thì dầu cho cơ nghiệp họ có bền chắc bao nhiêu cũng phải xiêu đổ.
Còn kẻ không màng thân danh Bần Đạo chỉ cái bằng cớ hiển nhiên như Hứa Do là một vị Hiền Tài mà thôi, chỉ có biết đức mà Vua Nghiêu đi tìm Ngài để rước về đặng truyền ngôi cho Ngài, nhưng Ngài chỉ coi công danh như phù hoa, như mây gió, nên Ngài có kể gì đâu. Cái giá trị của Vua Nghiêu đối với Hứa Do không có gì hết, mới có câu: "Tiêu liêu sào lâm bất quá nhứt chi, yến thử ẩm hà bất quá mãn phúc". Nghĩa là con chim tiêu liêu làm ổ trên rừng chẳng qua một nhánh, con chuột uống nước sông chẳng qua đầy bụng, vì thần đã quen cái thú an nhàn của thần rồi, dầu bệ hạ có truyền ngôi cho thần đi nữa thần cũng không làm, thần chỉ biết lập đức mà thôi, dầu cho cả công danh phú quí ở mặt thế gian này đối với cái đức không có giá trị gì hết.
Bởi cái thuyết lập đức người ta đã ham làm mà làm không được, nên cái giá trị của Hứa Do đối với Đức Nhan Hồi cũng tương đương với nhau, khi Đức Nhan Hồi đai cơm bầu nước đi giáo đạo đến nước Tề. Tề vương biểu ở lại thì bực công khanh của Ngài không mất, nhưng Ngài trả lời rằng: Thần đã quen cái thú an nhàn của thần rồi. Thú an nhàn không có thể gì mà đem đổi cái giá trị công danh quyền tước đặng, nếu bệ hạ muốn đổi đặng nên biết cái giá trị lập đức nó trọng hệ là thế nào?
Hại thay! Ở giữa thế gian này không biết mấy vị Hiền Nhân chí sĩ đã hiểu được cái giá trị lập đức chưa đến, nên mới xa sự tôi mọi hạ tiện, làm hư danh thể của mình, nếu để cái giá trị ấy lại thì không đáng giá gì hết mà phải hạ mình làm chi? Hai ngôi vị ấy đối chọi với nhau như một trời một vực.
Ở nơi cửa Đạo Bần Đạo đã đem con cái Đức Chí Tôn và thanh niên của Đạo đặng làm Thánh Thể tương lai của Ngài, nếu cả thảy đều biết nỗi khổ để làm phương tu thân lập đức thì cái giá trị của thiên hạ làm dễ như ăn ớt chớ không có chi khó.
Vậy toàn thể con cái Đức Chí Tôn và Thánh Thể của Ngài, phải đem cái đức Thiêng Liêng ấy rải khắp cả thiên hạ thì chúng ta mới có thể cứu khổ được.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 29-01-Quý Tỵ nhằm ngày (dl. 14-03-1953).
Q.6/1-05: Vía Đức Cao Thượng Phẩm - Đức Chí Tôn tạo nghiệp cho con cái của Ngài. (*1)
ĐỨC HỘ PHÁP Thuyết Đạo tại Đền Thánh, đêm 30 tháng 2 năm Quí Tỵ
VÍA ĐỨC CAO THƯỢNG PHẨM
Từ hôm Bần Đạo bịnh tới nay không có giảng Đạo đặng; vậy đêm nay dâng sớ cầu nguyện cho Đức Cao Thượng Phẩm đặng cao thăng Thiêng Liêng chi vị. Bần Đạo mong chí thượng đạt của Ngài cũng như lúc sanh tiền đã đối với Bần Đạo và toàn thể con cái Đức Chí Tôn.
Bần Đạo đêm nay lấy cái đề trọng yếu mà giảng.
Hôm nay cái lễ trọng yếu này là cả sự nghiệp Thiêng Liêng Đức Chí Tôn đem đến tạo dựng nơi mặt thế này. Và hiện giờ có 3 sắc dân được hưởng hồng ân đặc biệt của Đức Chí Tôn đến tạo nghiệp cho họ.
Sắc dân thứ nhứt là sắc dân Ấn Độ Brahmane (kêu là Bà La Môn) Đức Chí Tôn đến tạo Đạo cho họ và tạo đại nghiệp Thiêng Liêng cho sắc dân ấy trước nhứt.
Sắc dân thứ nhì: Chính Ngài đến là Chúa Jésus Christ đặng tạo nghiệp cho sắc dân Do Thái mà ngày nay vẫn còn tồn tại.
Sắc dân thứ ba: Thời kỳ này sắc dân Việt Nam hưởng được đặc ân ấy là lần thứ ba, cái lý do Đức Chí Tôn đến cùng con cái của Ngài là vì trong thời kỳ Hạ Nguơn tam chuyển, đang bắt đầu Thượng Nguơn tứ chuyển, Ngài đến đặng Ngài thống họp toàn thể con cái của Ngài lại làm một. Ngài đến đặng lập một nền Chơn Giáo, lựa chọn con cái của Ngài, tạo Thánh Thể của Ngài làm một cơ quan cứu khổ và tạo đại nghiệp cho con cái của Ngài là mấy em Thanh niên Nam, Nữ của Đạo đó vậy. Nhứt là bên phái Nữ phải chịu thiệt thòi, phải chịu nghèo khổ hơn hết và có lúc lại bần hèn hơn nữa, mà đến nay dường như thời gian nó gợi lại trong tâm não của mấy em. Nhưng nghèo hèn rồi cũng có sung sướng là lúc này mấy em sắp hưởng một đại nghiệp mà Đức Chí Tôn đã dành sẵn cho mấy em. Cái đại nghiệp ấy là của mấy em, mấy em phải rán gìn giữ, nếu muốn gìn giữ cái đại nghiệp ấy cho tồn tại thì mấy em phải thương yêu nhau, nâng đỡ cho nhau dìu dắt nhau, chịu khổ với nhau thì mới là bền bĩ được.
Giờ phút này Qua đứng trên Tòa giảng này Qua nói: Cái tương lai của con cái Đức Chí Tôn nó sẽ giàu có không thể tả được, từ năm 1926 cho tới ngày nay mới có hai mươi mấy năm thôi, mấy em ngó thấy cái đại nghiệp vĩ đại như thế này là do nơi đâu không? Phải chăng là do nơi huyền diệu vô biên của Đức Chí Tôn đã ban cho mới tạo dựng được như thế này và Ngài trụ cả con cái của Ngài làm Thánh Thể mà lập nên đó thôi. Nhưng có một điều rất ngộ nghĩnh là đứa ngu sẽ được khôn ngoan, đứa giỏi lại giỏi hơn, có tài hoạt bát trọn tâm lo Đạo. Vì cớ cho nên Ngài mới đem cái đại nghiệp mà giao cho con cái của Ngài đặng đem cả năng lực Thiêng Liêng thắng sự khổ não đặng làm cơ quan cứu khổ, nên Đức Cao Thượng Phẩm và Đức Quyền Giáo Tông vì lẽ ấy mới hy sinh cho Đạo. Chính Bần Đạo đây cũng vậy nếu mấy em biết trọng dụng chơn lý nền Chơn Giáo của Đức Chí Tôn thì mấy em phải nuôi nấng cứu khổ, dung dưỡng các em của mấy em, thì ít nữa mấy em phải có đủ phương thế bảo vệ sanh mạng của nó mới được. Qua nói như vậy có lẽ mấy em cũng đủ hiểu, cái làm ăn, cái làm giàu, chưa hề tạo được cái đại nghiệp như thế này và không thể gì bảo trọng cả sanh mạng con cái của Ngài đặng. Nếu muốn bảo trọng các em của mấy em thì đừng dùng quyền hành sửa trị, phải dùng đạo đức răn họ, thì mới mong thực hiện một nền chơn giáo đại đồng, vì Đức Chí Tôn đến lập Hội Thánh là cốt yếu Ngài định vận mạng cho nước nhà đó vậy.
Qua nói thiệt, nếu không phải Thánh Thể của Đức Chí Tôn cậy mượn thì chưa hề ai làm được điều ấy. Bần Đạo chỉ nói đến tương lai của mấy em mà thôi. Khi mấy em đã hưởng được quyền năng Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn rồi, thì Qua cậy mấy em hy sinh cái tự do của mấy em đặng làm cái đại nghiệp cho nó thật nên hình nên tướng, vì đại nghiệp này không biết bao nhiêu giọt mồ hôi của mấy em trong đó.
Khi Qua bị đồ lưu nơi Hải Ngoại đến lúc về cả cơ nghiệp làm trước kia đều bị tiêu phá hết, duy còn Tòa Thánh, Báo Ân Từ, Khách Đình cũ, Hộ Pháp Đường, Giáo Tông Đường còn sót lại, còn bao nhiêu đều tiêu hủy hết.
Từ năm 1946 -1947 vừa bắt đầu tạo dựng đại nghiệp ấy lại nên mấy em bắt tay làm lại, cả các con Nam cũng vậy, Nữ cũng vậy biết bao nhiêu sự khổ não, biết bao nhiêu sự hy sinh mà tạo dựng có mấy năm thôi, nay đã nên hình tượng, cái của này là của mấy em nghèo khổ đã tận tâm tạo dựng, nếu mấy em cực khổ bao nhiêu thì cơ nghiệp Thiêng Liêng của mấy em càng ngày càng lớn, mấy em càng ngày càng giàu, cái giàu của mấy em không phải giàu như các nền Tôn Giáo nơi mặt địa cầu này. Cái giàu của mấy em cốt yếu bảo vệ sanh mạng khổ não cho mấy em của mấy em, không ai có quyền năng gì làm chủ đại nghiệp Thiêng Liêng này đặng, mấy em hiểu chưa?
Ngộ nghĩnh thay! Một nền Tôn Giáo lấy hai chữ Bác Ái Công Bình làm căn bản mà cái tương lai nó rực rở làm sao mấy em ôi! Còn quyền Thiêng Liêng của Đạo mấy em đã biết nó cũng như các nền Tôn Giáo khác, chớ có lạ gì đâu. Trái ngược lụng lại nếu Thánh Thể Chí Tôn cầm quyền mà còn ỷ lại thì thiên hạ trông vào họ tránh hết. Qua nói thiệt, nếu mấy em thật hành đúng theo chơn giáo của Chí Tôn thì không có quyền lực nào đàn áp nó đặng.
Nếu muốn thi ân bố đức, thì phải cần làm cho đáng giá Thánh Thể của Ngài, là công các con cái khổ não của Ngài đem vào chia cơm, chia muối, chia khổ não của họ, thì mới là xứng đáng Thánh Thể, mới xứng đáng là cơ quan cứu khổ của Ngài.
Mấy em khá nhớ mấy em là người phụng sự cho Đạo mà thôi, không phải như các nền Tôn Giáo khác là muốn làm Chúa thiên hạ, nếu muốn làm Chúa thiên hạ thì tốt hơn là làm tôi cho con cái Đức Chí Tôn là phải hơn.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 30-02-Quý Tỵ nhằm ngày (dl. 13-04-1953).
(*1) Vì có 2 đề tựa Vía Đức Cao Thượng Phẩm, nên chúng tôi mạo muội thêm vào phần Đức Chí Tôn tạo nghiệp cho con cái của Ngài - để tiện cho đọc giả dễ phân biệt. TT/NSW kính cáo.
Q.6/1-06: Vía Đức Cao Thượng Phẩm.
ĐỨC HỘ PHÁP Thuyết Đạo trong ngày Vía ĐỨC CAO THƯỢNG PHẨM (1-3 Quí Tỵ)
Thưa cùng Chư Chức Sắc Thiên Phong Hội Thánh Hiệp Thiên Đài, Cửu Trùng Đài, các Cơ Quan Chánh Trị Đạo, Phước Thiện và Quân Đội cùng toàn thể con cái Chí Tôn Nam, Nữ.
Hôm nay là một ngày kỷ niệm Vía của Đức Cao Thượng Phẩm mỗi năm Bần Đạo đã nói, đã thuyết, đã tâm tình của Bần Đạo đối với ngày này rồi, nếu lập lại một phen nữa cũng không ích. Vậy yếu điểm hôm nay Bần Đạo lên đứng đây chỉ nhắc Đức Cao Thượng Phẩm một điều mà thôi, lúc Ngài mới qui liễu, Ngài cũng vậy mà Đức Quyền Giáo Tông cũng vậy. Hồi Đạo mới phôi thai thiên hạ khinh khi chế nhạo hết sức, nên Bần Đạo nói rằng: Họ đã dùng cường quyền họ làm cho hai người ấy phải chịu thống khổ một cách không thể tả.
Đôi phen mỗi ngày Vía như vậy, nó khêu gợi một cảm tình của toàn thể con cái Đức Chí Tôn và Bần Đạo, nhưng Bần Đạo đè nén nó lại.
Đã hai mươi mấy năm Bần Đạo còn nhớ cái ngày di Liên Đài của Đức Cao Thượng Phẩm ra Tháp, Bần Đạo còn hứa với Ngài một điều rất trọng hệ; Bần Đạo nói Bần Đạo sẽ báo thù cho Ngài báo thù ắt tưởng lại cả thiên hạ cho rằng cái tình thế thường tình kia như gươm, đao, mưu kế tàn ác cái gì cũng không làm được. Trái lại Bần Đạo lấy cả tinh thần hai khối của hai Ngài, đặng Bần Đạo tạo ra một khối thương yêu vô đối để làm chuẩn thằng tâm lý cho quốc dân Việt Nam, và làm một khối năng lực tranh đấu, cái khối ấy đã thành ra bửu bối đặng Bần Đạo trả thù, mà hôm nay đã giải đặng ách nô lệ cho dân tộc nữa. Những lúc đó môn đệ của Đức Chí Tôn tức nhiên các bạn của chúng ta có một thiểu số, trong thiểu số ấy tánh tình họ hèn tiện, biểu sao thiên hạ không khi rẻ.
Nói về võ thì năng lực không có một miếng sắt trong tay, còn về văn thì chưa có cầm được cả vận mạng tương lai nòi giống của Tổ Quốc mưu sĩ chưa có ai đảm nhiệm và quyết định cái hưng vong của Tổ Quốc, biểu sao thiên hạ không chia rẻ.
Bần Đạo dám quả quyết và đại ngôn nói rằng: Bần Đạo sẽ trả thù vì hôm nay ngó thấy Bần Đạo không phải yếu ớt, bạc nhược, cô quả, hèn tiện như buổi nọ đâu.
Mỗi năm không có cái gì làm cho thiên hạ ngó thấy cái năng lực tinh thần, tức nhiên năng lực quốc hồn của nòi giống. Bần Đạo dám quả quyết rằng: những điều Bần Đạo làm không đặng, con cháu của Bần Đạo sẽ làm, Môn đệ của Bần Đạo sẽ làm, hôm nay hiện tượng ra quả quyết, lời đoán trước của Bần Đạo nó đã thiệt hiện, nó đã thành hình, còn gì vui sướng hơn, còn gì hạnh phúc hơn.
Nếu Đức Cao Thượng Phẩm giờ phút này Chơn Linh của Ngài còn ngự nơi đây. Bần Đạo sẽ nói chưa ngó thấy một lời nói nào của Bần Đạo đoán trước trật một điều gì.
Phải chăng lời tiên tri ấy rất nên hiệu quả, vì tinh thần của Bần Đạo đoán thế nào nó cũng thế ấy. Rồi một ngày kia về nơi cõi Thiêng Liêng vừa gặp mặt nhau thì sẽ có một trận cười của Ngài cùng Bần Đạo. Trận cười ấy chắc chắn ở thế gian này chưa có ai hưởng được.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 01-03-Quý Tỵ nhằm ngày (dl. 14-04-1953).
Q.6/1-07: Vấn đề lập Tịnh Thất.
Lời Giảng Đạo của ĐỨC HỘ PHÁP
Đêm 1 tháng 4 năm Quí Tỵ
Bần Đạo mới về hội đàm với Đức Cao Thượng Phẩm bàn luận cùng nhau về vấn đề Tịnh Thất, nhưng Ngài không nói rõ, đại ý nói: Chờ ngày Lễ Vía Đức Phật Mẫu tức nhiên Lễ Trung Thu tới đây Đức Phật Mẫu sẽ giáng đặng dạy bảo cái thắc mắc cho Bần Đạo về việc lập Tịnh Thất cho Phái Nữ mới xong là "Trí Huệ Cung" còn "Vạn Pháp Cung" là Tịnh Thất của Phái Nam chưa làm đặng, vì làm ở trên núi, mà trên núi buổi nầy không thể nào tạo đặng, theo ý Ngài đã định và Ngài nói: Hiện giờ đã có tạo xong "Trí Giác Cung" rồi có thể mượn "Trí Giác Cung" để cho Phái Nữ tới đó cho Đức Phật Mẫu đến đặng giảng dạy và luận về vấn đề Tịnh Thất.
Hôm nay Bần Đạo thuyết minh cái Bí Pháp, tức nhiên cái Bí Pháp Tịnh Luyện và khuôn luật tấn hóa Tạo Đoan của con cái Chí Tôn, đối với cơ huyền bí ấy Đức Chí Tôn đã đem đến cho chúng ta đặng cho chúng ta đoạt cơ tấn hóa. Nhưng luật tấn hoá ấy Bần Đạo đã có thuyết minh rồi, thì các con cái Chí Tôn có thể hiểu từ trong vạn vật cho đến phẩm vị loài người là các chơn linh phải tiến tới mãi tức nhiên luật tấn hóa ấy nó buộc các linh hồn là từ vật chất đi cho đến địa vị loài người.
Chúng ta đã ngó thấy cái luật ấy mặc dầu có trong tay vạn vật nhưng chúng ta có thể lấy cái thuyết Kim Thạch kia là từ đá sỏi có thể nó đi đến một viên ngọc vô giá, chúng ta ngó thấy cái phẩm vị của nó trong vật chất từ từ tấn hóa là trọng yếu dường nào.
Bây giờ nói đến Kim Thử vô giá kia nó sẽ đi đến bạch kim, cái giá trị đổi đặng cùng không là đều do nơi luật tấn hóa cả.
Giờ đây nói đến thảo mộc là cây, cỏ mà cỏ lan nó khác hơn cỏ chạ, như cây dầu khác hơn cây vên vên, mà cây vên vên không thể gì so sánh với cây tùng được.
Nói tới con người trong hạng Tiểu Nhơn chưa hề khi nào đương đầu kịp với bậc Trượng Phu được. Cái tinh thần của kẻ Tiểu Nhơn không bằng tinh thần của một vị siêu thoát. Nếu luận đến trong Tứ Hồn kia thì một vị Thần chưa có thể gì so với một vị Phật được. Chúng ta đã ngó thấy cái luật tấn hóa nó đứng trước cái khuôn khổ ấy là nó từ từ nhi tiến mà thôi, không có phương nào làm cho nó đứng lại một chỗ được.
Nói đến kiếp sanh của ta, ta chớ lầm cái chết là một cái lớp, cái chết ấy là chúng ta bước lên con đường tiến triển đó vậy. Nếu một kiếp sống mà chưa trọn thì sẽ thấy và biết lý do cái chết của anh ta như thế nào? Cái sống ấy không khác nào một anh trò đứng giữa lớp kia để cho thiên hạ khảo dượt, cũng như cái xác thân chúng ta hiện giờ đang bị khảo dượt trong khuôn khổ, đến lúc chết mới biết chúng ta đậu hay rớt, có đậu hay rớt là trong buổi này.
Ấy vậy luật tấn hóa không có một linh hồn nào, không một chơn linh nào mà qua khỏi trong cơ quan huyền bí đó.
Bây giờ nói đến cơ huyền bí của Chí Tôn, Ngài đã đem đến trong buổi Khai Nguơn Chuyển Thế này, Ngài để hiệu là "Tam Kỳ Phổ Độ". Chúng ta biết Ngài đến đặng đại ân xá cho con cái của Ngài, Bần Đạo nói: Nếu như Ngài không có lãnh trọn quyền hành nơi Bạch Ngọc Kinh là Đức Chí Tôn tức nhiên Đại Từ Phụ, Ngài không nắm trọn quyền vô đối ấy thì cơ quan huyền bí chưa chắc Ngài trọn quyền ân xá cho con cái của Ngài được.
Vì cớ cho nên Kinh Phật có nói: "Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ" chúng ta mới ngộ Đạo mà gặp Đức Chí Tôn đem hồng ân Thiêng Liêng của Ngài đại ân xá cho toàn con cái của Ngài. Chúng ta được hưởng hồng ân ấy chúng ta không thể nào luận cho cùng tột được. Cái huyền bí siêu thoát của Đức Chí Tôn là Ngài đến đặng lập Đạo độ tận con cái của Ngài với khối quyền năng vô đối, cái quyền năng vô biên của Ngài làm cho các con cái của Ngài không một người nào mà không có Đạo, Ngài làm cho con cái của Ngài nghe và thấy nếu con cái của Ngài nương theo phương pháp ấy thì chính Ngài phải làm sao? Vì đó Ngài mới nói mà thôi. Nếu con cái của Ngài biết cái bí ẩn đó đối với cơ quan huyền bí siêu thoát thế nào thì sẽ biết đặng chơn tánh của chúng ta, Bần Đạo dám chắc không có một chơn linh nào, hay một vị Phật nào làm đặng.
Nói về mặt luận tiến triển của các chơn linh, các đẳng chơn hồn khác, nó đoạt được kiếp siêu thoát lại khác, tức nhiên chúng ta muốn đoạt cơ siêu thoát đặng làm một vị Phật, nhưng không dễ gì ta đoạt được cơ siêu thoát huyền bí ấy, phải hiểu điều ấy cho lắm.
Bởi cớ cho nên Bần Đạo thuyết minh cái Bí Pháp tịnh luyện là cốt yếu làm phương pháp mở huệ khiếu cho chúng ta, thật ra Đức Phật Tổ chỉ đoạt được có một kiếp siêu thoát của Ngài mà thôi, mấy người đã đoạt được vị Phật đều là ở trong cái huyền bí tịnh luyện để làm cho chúng ta sống đời, sống lụng lại ba kiếp trước, rồi nhờ kiếp trước ta có thể biết Luật Nhơn Quả của ta, rồi nhờ kiếp nầy có thể đem tương lai cho ta đoạt Phật vị ba kiếp trước được. Đoạt Bí Pháp ấy chúng ta mới có thể biết ta là ai, ta biết đường lối chúng ta đi thế nào, ta có thể nói ta đoạt đặng cơ siêu thoát chớ không phải làm cơ siêu thoát đặng. Đoạt cơ siêu thoát là một bằng cớ mở khiếu thông minh cho chúng ta đó vậy.
Chúng ta đã ngó thấy biết bao nhiêu vị Đại Tiên còn lẫn lộn dưới hồng trần, biết bao nhiêu vị Phật còn mang thân phàm xác tục của họ trước khi đoạt đặng huyền bí vô biên trong chốn tịnh luyện của họ, rồi bây giờ họ dùng khiếu thông minh ấy họ tìm nào nguyên tử lực, nào phép thăng thiên, rốt cuộc họ qua đời mà họ không đoạt được cơ siêu thoát của Chí Tôn đem đến cho họ, tội nghiệp thay! Nếu quả nhiên cái cơ huyền bí của cơ tịnh luyện đó tức nhiên bí pháp ấy giúp họ siêu thoát đặng thì tội nghiệp cho Đạo Lão Tử ra đời chỉ độ có hai ức nguyên nhân mà thôi, Đức Phật Tổ cũng giáng sanh vì lẽ ấy mà chỉ độ có sáu ức, còn chín mươi hai ức hiện nay họ còn ngồi yên tịnh tạo thêm những món độc ác giết người. Hỏi trước kia họ đã làm gì? Mà cho họ đoạt được cơ siêu thoát ấy? Nếu họ đoạt đặng thì tội nghiệp cho Đức Chí Tôn phải chịu khó nhọc nhục nhã trong buổi Hạ Nguơn nầy, Ngài đến cũng vì con cái của Ngài, cũng vì quả kiếp của họ nên Ngài mới đến chỉ đường cho họ đoạt được cơ siêu thoát, chớ đừng tưởng nói tu cho chính là phải để râu ria xồm xàm mà đạo đức huyền bí thì không có, họ cứ muốn thành Tiên hóa Phật nhưng họ không biết cơ siêu thoát là gì? Để đến một ngày kia vào Tịnh Thất rồi Bần Đạo sẽ cho họ ngó thấy cái sự thật của cơ siêu thoát.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 01-04-Quý Tỵ nhằm ngày (dl. 13-05-1953).
Q.6/1-08: Chơn Truyền Bí Yếu.
Lời Giảng Đạo của ĐỨC HỘ PHÁP tại ĐỀN THÁNH đêm 15 tháng 4 năm Quí Tỵ
Đêm nay Bần Đạo giảng Đạo hơi lâu một chút, cả toàn thể con cái Đức Chí Tôn có hơi mệt một chút, dầu có mỏi cũng đừng phiền vì lâu lâu mới có một lần giảng Đạo.
Bần Đạo đêm nay giảng Đạo có Chơn truyền Bí yếu trong đó cả con cái Đức Chí Tôn nên để ý cho lắm, nghe và nhớ những ai đã để tâm tìm Đạo họ sẽ để một dấu hỏi (?) họ nói vì lẽ gì? Cái lý do gì mà Đức Chí Tôn đến lập Giáo?
Đêm nay Bần Đạo giảng về cái đại nghiệp Thiêng Liêng của Đạo đối với con cái khổ não của Ngài, họ đã để dấu hỏi (?) Đức Chí Tôn đến đặng chi? Đặng làm gì? Khi mà các vị Giáo Chủ đã đến lập các nền Tôn Giáo rồi. Thử hỏi trong cái phương diện của Ngài đến với phương diện cũ kỷ của các vì Giáo Chủ thể nào? Để dấu hỏi chúng ta tìm hiểu.
Phải chăng Ngài đến đặng Ngài chia khổ não cùng con cái của Ngài. Phải chăng Ngài đến cùng chúng ta với sự từ bi bác ái của Ngài đặng Ngài cứu khổ cho toàn con cái của Ngài đó vậy. Phải chăng ngoài ra mục đích ấy thì chúng ta không thể lấy lý do gì mà giải nghĩa cho hết được.
Ngộ nghĩnh thay! Ngài đến lập Giáo mà Ngài không có giáng trần, Ngài không có xác thịt, trái lại Ngài chia khổ não cùng con cái của Ngài bằng một cái quyền năng Thiêng Liêng vô đối đó vậy. Ngài có đủ phương thế làm một cách ngộ nghĩnh là Ngài dùng quyền năng Thiêng Liêng kia Ngài đã tạo thành nền Tôn Giáo Cao Đài hôm nay chẳng phải là điều dễ.
Bần Đạo nói rằng: Ngài đến đặng Ngài tạo đại nghiệp cho chúng ta, thì chúng ta mới có phương thế quan sát tận tường được. Ngài đến đặng Ngài trụ cả lương sanh lại. Ngài lấy xác phàm của họ đặng làm Thánh Thể của Ngài là Hội Thánh, Thánh Thể của Ngài cốt yếu là thay thế hình ảnh hữu hình của Ngài, hình ảnh phàm tục của Ngài, với bằng cớ hiển nhiên trước mắt là Ngài dùng quyền năng cô đối để chia khổ cùng con cái của Ngài, sự thật là đó vậy, khéo léo hay chăng là trong các lương sanh của Ngài thống họp lại làm Thánh Thể của Ngài, Ngài chỉ cho họ cái quyền trước hết là quyền làm Thầy để giáo hóa chúng sanh, nếu đáng phận làm Thầy ấy thì mới vào hàng phẩm làm Cha, làm Anh Cả con cái của Ngài.
Bằng cớ hiển nhiên là trong Thánh Thể của Ngài từ Giáo Hữu, Giáo Sư, Phối Sư, Đầu Sư, Chưởng Pháp rồi lên tới Giáo Tông mới được quyền kêu Anh Cả mà thôi.
Ngài lấy cái quyền anh cả đặng chi? Có phải quyền huynh thế ngôn chăng? Quả nhiên vậy. Tỷ thí như một ông Cha trong con cái của Ngài muốn cho có mực thước chuẩn thằng để thay thế Ngài thì Ngài phải lựa chọn ai trước hết, có lẽ Ngài lựa người con trưởng nam, tức nhiên người Anh Cả có đủ quyền giáo hóa đoàn em đi cho có mực thước lẽ tự nhiên đó vậy. Làm cha ấy đặng chi? Phải chăng làm cha ấy đặng điều đình trong gia đình, nuôi nấng đoàn con của họ, bằng cớ hiển nhiên vẫn vậy.
Nếu ông cha đã chọn người con trưởng nam thay thế quyền cha để nuôi nấng, dạy dỗ, dìu dắt đoàn em thì tức nhiên người ấy phải đủ đầy đức hạnh thì ông cha mới giao trọng trách ấy. Một điều trọng yếu hơn hết là làm sao cho cả con cái của Ngài không có chịu nghèo đói, khổ não, truân chuyên, thúc phược nô lệ của đời như trước kia thì mới đáng người Anh Cả đó vậy.
Đức Chí Tôn đến lập giáo Ngài có nói: Thầy đến đặng Thầy chia khổ não cùng con cái của Thầy. Ngài lập Hội Thánh là cốt yếu làm cho nên hình, nên tướng cho nó biến ra thành đại nghiệp Thiêng Liêng của Đạo.
Hôm nay chúng ta có thể nói rằng: Cái quyền năng đại nghiệp Thiêng Liêng của Đạo nó sẽ giàu có mà chớ, giàu của cải ấy để làm gì? Chúng ta thấy trước mắt các nền Tôn Giáo từ trước giàu có sang trọng của họ biết bao nhiêu mà họ đã chia khổ cùng con cái của Ngài chưa? Chưa có chia. Nếu có chăng là quyền Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn tức nhiên là Ông Trời mà thôi.
Phải chăng cả nhơn sanh thống khổ chừng nào thì họ cứ ngước mặt lên kêu Trời, còn than thì chẳng biết than với ai, chỉ có than với Trời mà thôi. Biết bao nhiêu tâm hồn thống khổ đã kêu Ngài biết mấy lượt, kêu gào cảnh khổ não đường đời của cái sống khổ biết bao nhiêu.
Ta thử nghĩ, đoàn anh kia thấy đoàn em khổ não, chịu đói khát, chịu rách rưới, chịu truân chuyển, chịu lệ thuộc, chịu đủ thức cái khổ trên đời về phần xác của họ, trong khi con cái của Ngài đã lâm vào cảnh khổ não ấy, thì đoàn anh lại không biết dìu đỡ, nuôi nâng con cái của Ngài, một mảy may gì hết. Trái lại nó lợi dụng cái khổ não con cái của Ngài đặng làm sang trọng, vinh hiển của nó. Khi Ông Cha nghe đoàn con khổ não kêu nài đường đó, thử hỏi tâm hồn của Ông Cha như thế nào ? Nếu trong gia đình phận sự Ông Cha như thế đó, thì có lẽ Đức Chí Tôn cũng thế ấy và phải hơn nữa.
Bần Đạo đã giải nghĩa như thế và Bần Đạo nói quả quyết, cái đại nghiệp Thiêng Liêng của Đạo nếu không bảo vệ được kẻ ăn mày còn đang vẫn vơ ngoài chợ, họ không được hưởng sự giàu có của Đạo, thì cả đại nghiệp này là dối và là đồ bỏ.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 15-04-Quý Tỵ nhằm ngày (dl. 27-05-1953).
Q.6/1-09: Vía Đức Phật Tổ và Bà Nữ Đầu Sư.
ĐỨC HỘ PHÁP Thuyết Đạo Lễ kỷ niệm Bà Nữ Đầu Sư LÂM HƯƠNG THANH, ngày 8 tháng 4 năm Quý Tỵ (1953)
Mấy Em Nam, Nữ Lưỡng Phái, Thưa cùng Chư Chức Sắc Nữ Phái Đại Diện các Cơ Quan Chánh Trị Đạo.
Hôm nay, ngày Vía của Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh, tức nhiên là Chị Cả của Nữ Phái đó vậy.
Bần Đạo hồi tưởng lại lúc ban sơ, mới Khai Đạo năm Bình Dần cho đến ngày hôm nay, tuy thời gian hai mươi mấy năm, xem lại nó ngắn ngủi chẳng khác nào giấc chiêm bao kia vậy. Một người Chị hồi đó đã chịu cả khó nhọc cùng toàn thể Thánh Thể Đức Chí Tôn tạo cho nên nghiệp Đạo, ngày giờ qui liễu của Chị, Chị chưa ngó thấy cái tướng diện cơ nghiệp của Đạo sẽ thành hình như thế nào. Bần Đạo tưởng, nếu giờ phút chót của Chị, Chị còn có một điều ân hận, khi xuất hồn ra khỏi xác, có thể Chị để dấu hỏi (?) chẳng biết tương lai của Đạo nó sẽ ra thế nào? Chẳng biết mấy em của tôi có đủ cương quyết, đủ nghị lực, đủ tài đức đặng tạo cho thành tướng hay chăng? Đó là một điều Chị lo ngại hơn hết. Bần Đạo nhớ lại lời của Đức Chí Tôn đã có nói trước rằng: "Nếu Đạo không thành thì chính mình Thầy sẽ đến". Tôi tưởng chẳng phải một mình Chị mà thôi, mà cả mấy Anh đã qua đời, dĩ vãng rồi, giờ chót họ còn một điều ái ngại trọng hệ hơn hết là đây.
Thưa cùng mấy chị toàn thể Nữ Phái, mấy em Thánh Thể Đức Chí Tôn Nam Phái, chúng ta nên tưởng tượng điều này. Chúng ta sẽ biết chúng ta thật là hạnh phúc, hạnh phúc đặc biệt ấy Đức Chí Tôn đã ban cho ta, vì thấy chúng ta đã chịu cả sự nhọc nhằn khổ cực, khổ hạnh nhiều điều, nên ngày nay Ngài cho chúng ta được thỏa mãn, chúng ta đã thấy cơ quan cứu khổ của Đạo đã thành tướng, nên chơn truyền của Đạo đã để khắp nơi mặt địa cầu này. Vui hứng cho chúng ta hơn hết là trong Thánh Thể Chí Tôn chưa có một người nào bước ra khỏi nước Việt Nam đặng truyền giáo mà cả Vạn Quốc đều hưởng ứng, đều ngưỡng mộ. Nếu chúng ta đã tưởng tới điều đó chúng ta thấy rằng: Thánh Thể Đức Chí Tôn chưa hề làm được, duy có quyền năng vô đối của Đức Chí Tôn mới có thể làm được mà thôi.
Ấy vậy, nếu ta xét công nghiệp thì ta đặng lời, chớ không phải chịu lỗ, làm ít hưởng nhiều, chúng ta phải nhìn điều đó là sự thật.
Hại thay! Chỉ có một điều đáng buồn là cơ nghiệp của Chị giàu có vinh hiển, sung sướng hơn ai hết, cái nghiệp của Chị để lại theo tánh chất thường tình của chúng ta tưởng nó sẽ được vĩnh cửu. Đau đớn cho Bần Đạo hơn hết là hôm nay Bần Đạo thấy cái cơ nghiệp ấy đã tiêu tan không còn tồn tại, hể nghĩ tới điều đó thì Bần Đạo có một điều ân hận lớn hơn hết là buổi làm Đền Thánh trong cơn túng thiếu Bần Đạo đi đến Chị đặng hỏi mượn tiền, hồi đó toàn cầu bị khẩn bách tiền tài. Trọng hệ hơn hết là nền móng đã làm đặng nhưng không có tiền để xây dựng lên, Bần Đạo phải chạy xuống nhà Chị đặng mượn tiền, gặp Chị trong buổi mắc nợ nần, lúa gạo mất giá, một giạ lúa có 2 cắc ($0.20) lúa chất đầy kho dầu có bán cũng không bao nhiêu tiền, cái nghèo của Chị nghèo chướng hơn ai hết, nghèo lạ lùng không ai tưởng tượng được, Chị không tiền, chị mới đem ra cái rương sắt (5 tấc tây) chứa đầy vàng với hột xoàn đem ra nói trong buổi khó khăn này không thể nào kiếm tiền đặng, vậy Em đem đồ này về Sài Gòn cầm không dưới tám chín chục ngàn đồng.
Bần Đạo chỉ mượn được rồi trả làm sao chớ, lấy đem về được nhưng đến khi trả lấy ai? Ngán quá chừng quá đổi. Bần Đạo nói: Thôi Chị ôi! Đồ này đã lưu truyền 3 đời rồi, hôm nay Chị đưa Tôi đem về cầm, nếu không chuộc được mới tính sao? Chị lại quả quyết nói: Qua không nghèo hoài đâu em, em nên nghe lời Qua đem về cầm đi, rồi Qua sẽ kiếm phương chuộc lại, Bần Đạo nhứt định không mà thôi, rồi đi về với hai bàn tay trắng mà lập nên Đền Thánh.
Nếu buổi đó, lấy của ấy làm Đền Thánh, thì hôm nay giúp cho Chị một công đức biết bao nhiêu lớn, rối trí rồi tính sợ trả nợ nên không làm được một công nghiệp vĩ đại.
Thưa cùng mấy chị, kiếp sống của chúng ta ở thế gian này đã đứng trong Thánh Thể của Ngài, mấy em dong ruổi trên con đường Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn đã sắp sẵn, mấy em đừng sợ nghèo, đừng sợ khổ, không phải vậy, nơi cửa Thiêng Liêng không phải giàu mà lập nghiệp được, còn nghèo mà không đâu, nhớ điều ấy chớ đừng quên. Biết bao nhiêu người mấy em thấy trước mắt, tưởng họ công nghiệp vĩ đại có phương thế hành Đạo một cách oai quyền, hành Đạo với phương pháp đắc lực tưởng họ hơn mấy em ở cõi Thiêng Liêng, không phải cân về mặt cân này, nhớ điều đó. Qua căn dặn một điều, hạng nhứt là Phái Nữ coi bước đường trước kia, quan sát lại hồi Chị Cả thế nào, bây giờ thế nào? Mấy em coi cái hay, định cái dở, định phận sự Thiêng Liêng của mình mà hãnh diện. Rán coi bước đường trước kia làm sao, sau chúng ta làm vậy.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 08-04-Quý Tỵ nhằm ngày (dl. 27-05-1953).
Q.6/1-10: Nguyên do tánh đức và nguyên trí thức.
LỜI GIẢNG ĐẠO của ĐỨC HỘ PHÁP tại Đền Thánh đêm 1 tháng 5 năm Quí Tỵ
Bần Đạo thấy dường như con cái Đức Chí Tôn càng ngày càng lu lờ, đêm nay đi cúng coi lơ thơ có bấy nhiêu đây thôi. Đáng lẽ hôm nay không giảng Đạo, nhưng dầu có một người Bần Đạo cũng vẫn thuyết.
Đêm nay Bần Đạo giảng về nguyên do của tánh đức và nguyên do của trí thức.
Tánh đức của con người bao giờ cũng có vẻ thiên nhiên của nó, chúng ta không cần phải quan sát, chúng ta thấy hiển hiện nguyên căn tức nhiên nó do nơi tiền kiếp tâm hồn của ta xuất hiện. Trí thức nó thuộc về mạng, tức nhiên nó do một hiện tượng kiếp sanh của chúng ta. Chúng ta đoạt được địa vị tối cao là do nơi chúng ta chịu khổ tu hành. Khi trí của chúng ta nó biểu lộ thì chúng ta gọi rằng có thể tưởng mình đã đoạt Pháp đặng.
Từ Thượng Cổ các nhà triết học Á Đông đã quan sát tận tường cái hình trạng của trí thức tinh thần rồi. Các bậc Thánh Nhơn ngày xưa cũng thế, nên mỗi ngày hằng buổi họ tự hỏi mình cái tánh đức của tôi nó có phương thế điều hòa với trí thức tinh thần của tôi không? Nếu không thì làm thế nào cái trí thức nó điều hòa với tánh đức đặng. Nhưng tới ngày giờ nào chúng ta ngó thấy cái tánh đức nó phải lụng lại với trí thức của mình, thì chúng ta có thể nói chúng ta chưa đoạt vị đặng.
Từ Thượng Cổ chúng ta ngó thấy không biết bao nhiêu giả thuyết họ học họ biết, nhưng họ không biết nguyên căn là đâu, nên các bậc Hiền Nhân cho rằng: Phải đoạt Thần mới đoạt vị đặng việc ấy không sai không chạy được.
Trước kia vì cái huyền bí của Đạo chưa định quyết được, nên các nhà triết học như Ông Tô Đông Pha có để trong sách ba hạng người.
Thượng Phẩm chi nhơn bất giáo nhi thiện.
Trung Phẩm chi nhơn giáo nhi hậu thiện.
Hạ Phẩm chi nhơn giáo diệt bất thiện.
Nghĩa là bậc Thượng Phẩm chẳng dạy mà hay. Bậc Trung Phẩm dạy mà sau hay. Còn bậc Hạ Phẩm dầu dạy cũng không lành là tại sao? Là tại họ chưa biết. Cái nguyên căn của các bậc Thượng Phẩm họ đã tạo thành là do nơi căn tu của họ đoạt đến địa điểm. Trên có thể thông suốt cả Thiên cơ, dưới có thể đoạt được Địa lý, việc ấy chẳng phải trong một kiếp sanh mà đoạt được, nó phải nhiều kiếp sanh mới đoạt được.
Trước kia theo Đạo Giáo người ta có giả thuyết nói rằng: Con người trước khi đi đầu kiếp thì bị mụ bà cho ăn cháo lú, tức nhiên cho ăn cháo ấy đặng ta quên hết tiền kiếp của ta, cái đó có thể có, và đó là theo về tín ngưỡng. Còn về mặt triết học chúng ta có thể nói: Nếu chúng ta tin có quả kiếp của chúng ta thì chúng ta biết kiếp trước là gì? Kiếp này là gì? Nếu kiếp trước thảm khổ thì giờ buổi này phải gánh một gánh đau thảm chồng chất gớm ghê, rồi trong kiếp sanh này chịu đau khổ không kham không nổi. Nếu kiếp trước chúng ta vinh diệu thì kiếp này chúng ta được an ủi sự vinh diệu ấy có thể tồn tại nơi mặt thế gian này được. Nếu rủi kiếp trước chúng phải bị thảm khổ, rồi kiếp này chúng ta chịu thảm khổ nữa, thì chẳng hề khi nào chịu nỗi và nó không có tồn tại nơi mặt thế gian này nữa đâu.
Vì cớ cho nên quyền lực Thiêng Liêng buộc họ phải quên cái tánh đức cái trí thức kia đi, nên khi đầu kiếp làm một đứa bé thơ sanh, phải học, phải tìm, phải hiểu, tới chừng tìm hiểu được là nhờ cái ấy nó mở khiếu ta, ta mới định cái nguyên căn của ta được, một bằng cớ hiển nhiên là một vị Phật Vương tức nhiên Đức Đạt Ma (Dalayama) Đấng ấy tái sanh được làm Vua mà trong triều chánh lúc trước có một vị Đạo Quang giữ gìn cả chơn truyền pháp luật và truyền kế nhau mãi mãi, khi Ngài đầu kiếp làm một đứa bé thơ sanh kia ở trong gia đình ông Đạo Quang đó, nhưng khi ấy vị quan kia biết vị Phật đầu kiếp là đứa con nít đó, nhưng Ngài cũng phải dạy dỗ và giáo huấn nó.
Ấy vậy cái căn của nó không đồng với mạng, cái mạng chẳng hề khi nào trái ngược lại được, bởi vì trong Truyện Kiều ông Nguyễn Du có để chữ tài chữ mạng không có đồng nhau nên căn kia với cái tài nọ không có gì hết, bất quá đầu ấy là một đầu dư thừa thôi. Mạng kia có tài mà không có thiện căn thì không làm gì được, nếu không có thiện căn tức nhiên không có thiên mạng, mà nếu không thiện căn thì chẳng hề khi nào thắng được kiếp quả của mình được.
Ấy vậy thuyết đêm nay là Bần Đạo chỉ cho toàn thể con cái Đức Chí Tôn biết rằng: Chúng ta tu là nhờ nguyên căn của tiền kiếp nên giờ phút này chúng ta mới gặp Đạo gặp Đức Chí Tôn đến với chúng ta. Tánh đức của chúng ta nó điều hòa với trí thức là do nơi sự tu của chúng ta đó.
Ông Tô Đông Pha đã nói: Ngày giờ nào mà tự mình biết là đi đến Thượng Phẩm chi nhơn, và tới chừng đó có thể nói kiếp tu của chúng ta có thể đoạt vị và đắc quả đặng.
Vậy toàn con cái Đức Chí Tôn rán cố gắng, một ngày kia vào Tịnh Thất chúng ta phải chuyên chú đặng đeo đuổi theo chữ mạng.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 01-05-Quý Tỵ nhằm ngày (dl. 11-06-1953).
Q.6/1-11: Hưng Quốc Khánh Niệm.
ĐỨC HỘ PHÁP THUYẾT ĐẠO tại Tổng Hành Dinh ngày 2-5 Quí Tỵ (1953) Lễ Hưng Quốc Khánh
Hôm nay ngày Lễ Quốc Khánh, tức nhiên ngày Lễ Trùng Hưng của nước Việt Nam thống nhứt Hoàng Triều của Đức Cao Hoàng Gia Long.
Theo lịch sử, thời kỳ Lễ Trùng Hưng từ 1502 tới 1789 đã biến sanh ra nạn nước Nam, Bắc phân tranh, Hoàng Đồ chia rẽ Đế vị nhà Vua Lê cầm vận mạng nước nhà, còn Hoàng Đồ chia phân ra từ Miền Trung, tức nhiên từ Miền Nam nầy từ Núi Hoành Sơn đổ vô thuộc Chúa Nguyễn, từ Hoành Sơn đổ ra thuộc về Chúa Trịnh. Nước đã ly loạn, trong Nam có đảng tranh vì Chúa Tây Sơn Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ đã dấy loạn, theo lịch sử thì cả toàn quốc không có một người nào là không hiểu, Bần Đạo chẳng cần nhắc lại đây mà làm gì.
Đến năm 1778, Nguyễn Nhạc đã xưng Vương tức vị và định chiếm đoạt luôn Bắc Việt, tức nhiên tạo loạn cả toàn quốc. Trong thời kỳ ấy đất Tây Sơn có người đã làm cho nước nhà nổi danh đối với Trung Hoa, tức nhiên đối với nước Tàu, là Nguyễn Huệ, khi đặng lịnh của Nguyễn Nhạc ra trận, Ngài phân binh đuổi quân Tàu ra khỏi Bắc tức nhiên ra khỏi Thăng Long Thành của mình, Nguyễn Nhạc tạm phong cho Nguyễn Huệ Bắc Bình Vương. Tuy vậy Tây Sơn lấy thuyết hồi Lê diệt Trịnh, gọi là phò Lê diệt Trịnh, song kỳ trung, Tây Sơn đã mong chiếm đoạt Hoàng Đồ, thì trong khi ấy từ Nam chí Bắc đều thuộc về Tây Sơn.
Vận nhà Nguyễn đã đến, nên sản xuất ra một vị anh hùng là Nguyễn Ánh, đã phiêu lưu vô ngằn, khi ở Nam, khi ở Xiêm, khi về nước, Ngài không biết bao gian khổ, may thay, cái nạn Đế Vương hay là cái nạn nước, nó đã qua, thành thử Ngài xuất hiện nơi Nam Kỳ, tức nhiên trong Nam chúng ta đây, nhờ vị anh hùng cứu quốc, trải biết bao nhiêu đau khổ, đã đem lại một giai đoạn lịch sử vinh diệu, không biết sao mà nói đặng, không thể tỏa. Ngài đã làm cho nước Việt Nam thống nhứt từ Nam chí Bắc.
Còn trong công cuộc định quốc, Bần Đạo nói có hai vị trung thần mà Hoàng Triều đã đặt họ là "Trung quân" tức là Võ Tánh và Ngô Tùng Châu, Tây Sơn đem cả lực lượng mình đặng lấy thành Bình Định, Võ Tánh với Cao Hoàng Gia Long chẳng cần gì phải giải vây cho thành Bình Định tức nhiên là Qui Nhơn, nên thừa cơ hội binh lực của Tây Sơn không có đề phòng mà đánh lấy luôn thành Phú Xuân, nhờ thế Gia Long tức nhiên Đức Cao Hoàng đã lấy Phú Xuân đặng hai người Ngô Tùng Châu và Võ Tánh tử tiết, thật sự ra Hoàng Đồ nước Việt Nam ta đặng thống nhứt từ Mũi Cà Mau đến Ải Nam Quan ngày nay là nhờ lực lượng Cao Hoàng đã cầm vận mạng, và nhờ hai vị "tinh trung" Ngô Tùng Châu và Võ Tánh mà ta có thể hãnh diện nói rằng: Hai người ấy là người đồng bào trong Nam ta đó vậy.
Ngoài ra cái công nghiệp, Ngài chẳng phải khôi phục Hoàng Đồ mà thôi, Đức Cao Hoàng Gia Long tức nhiên là Nguyễn Ánh, đã đem lại hai Tỉnh của Lào thêm vào bản đồ Việt Nam, một là Sơn La hai là Lai Châu, nếu chúng ta coi lịch sử thì người trước nhứt nước Pháp đã nói: Le Grand Législateur du Việt Nam, tặng một người đã cầm vận mạng nước Việt Nam về luật vĩ đại hơn hết. Cao trọng hơn hết là ngày (1802) Ngài đã chỉnh đốn từ nội bộ tới ngoại thuộc, Ngài lấy cả các Cựu Luật của Ngài, số của Ngài vĩ đại không thể tỏa đặng, chỉnh đốn duy tân, Ngài đã đem lại cho chúng ta một địa dư mới, Quan chức mới, Luật binh mới, Quân dụng mới, hình thức Chính trị mới, Bình dân mới, cả thảy đều được Ngài chỉnh đốn, nếu chúng ta không có bị bảo hộ, từ thử thì Bần Đạo dám chắc rằng: Cái công nghiệp vĩ đại của Đức Gia Long Cao Hoàng đã trở thành đại công cùng Tổ Quốc, chúng ta hôm nay đến đây là cốt yếu để cả tâm đức của mình, trong tinh thần của Ngài.
Bần Đạo mong ước con cái của Đức Chí Tôn cả thảy quân sĩ anh dũng Cao Đài, ngó cái chí hùng của Ngài làm mục đích đặng thi thố thực hiện, cho nước Việt Nam được độc lập.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 02-05-Quý Tỵ nhằm ngày (dl. 12-06-1953).
Q.6/1-12: Đức Hộ Pháp nói về sinh nhật của Ngài.
ĐỨC HỘ PHÁP Thuyết Đạo tại Đền Thánh đêm 4 tháng 5 năm Quí Tỵ
Bần Đạo xin để lời cám ơn toàn thể, Thánh Thể Đức Chí Tôn, các nhà cầm quyền và các cơ quan Chánh trị Đạo, mấy em nam nữ lưỡng phái, mấy con Đồng Nhi nam, nữ.
Hôm nay cả thảy con cái Đức Chí Tôn đến tại Đền Thánh cầu thọ cho Bần Đạo, tưởng cái phúc hạnh Đức Chí Tôn đã ban cho Bần Đạo hưởng tại thế đã nhiều lắm, đã quí báu lắm rồi, Bần Đạo tưởng dầu cho một ngày kia về nơi cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống ơn nghĩa này cũng chẳng quên đặng nhau.
Bần Đạo xin thuật lại một chuyện. Ngày mai này lối 9 giờ gần tan chợ. Bà Mẹ của Bần Đạo nói: Không biết mấy giờ ngày mồng 5 tức nhiên là ngày sanh của Bần Đạo, và ngày mai đây Bần Đạo đã đúng 64 tuổi chẵn, không dư một ngày không thiếu một ngày.
64 năm qua, thật ra Bần Đạo tưởng tượng chẳng khác gì một giấc chiêm bao. Đã 64 năm Bần Đạo chẳng hề buổi nào hưởng đặng hạnh phúc vui vẻ, vì tánh đa sầu đa cảm nên chỉ biết nhiều sầu nhiều tư lự, hơn vui hứng, bởi quả số cho nên tấm thân phải chịu đau khổ.
Bần Đạo xin nói sơ lược Tiểu Sử của Bần Đạo, Bần Đạo sanh ra trong một gia đình đông con, Bần Đạo là con dòng thứ hai, gia đình hiệp lại với nhau để sống, Bần Đạo là con thứ tám, gốc gát Ông thân của Bần Đạo ở An Hòa (Trảng Bàng) tùng theo Khổng Giáo, gia đình nhà khá giả, nhưng Ông thân của Bần Đạo là con thứ sáu của Ông Nội Bần Đạo, Ông thân của Bần Đạo bị tai họa liên can một vụ ở Cần Đước nên Pháp kiếm bắt, vì cảnh tượng nghèo của gia đình buổi nọ, nên Ông thân của Bần Đạo phải buộc mình ra đầu quân cho Pháp để cứu vãn tình thế, vì cái lẽ đó Bần Đạo tưởng lại người đã chịu một tấn tuồng khỗ não về tinh thần lắm. Người muốn chết cho rồi, nhưng dòm lại đám con nên Ông tự an ủi đặng sống. Khi Ông đã lên tới chức Đội của Quân Đội Pháp, Ông đi chiêu an nên bị binh cựu bắt ông đem về đánh hơn 10 roi, trong 10 roi đau thảm Ông ân hận cho đến chết không quên được, sau ngày ra đầu thú thì mấy anh của Bần Đạo đều theo cha làm sĩ quan hết, duy còn Bần Đạo và người anh thứ bảy không biết một tiếng Pháp, mà bây giờ cũng vẫn còn đó.
Hồi còn thơ ấu, Bần Đạo nói thiệt, đường liêm khiết cả một đời làm việc chưa biết hà lạm ăn của ai một đồng xu nhỏ, dầu cho nghèo cũng vậy.
Nhắc lại khi Bần Đạo lúc còn thiếu sinh đi học tại Trường Tây Ninh, buổi đi về đang ngồi ăn cơm Bà Mẹ mới hỏi Ông thân của Bần Đạo, Ông cho cả con cái theo bên võ, không cho đứa nào theo bên văn sao? Ông thân trả lời: Võ nó không biết kiếm thế hà lạm, bên văn nó hay hà lạm tôi không chịu, Bà già chỉ Bần Đạo và nói, còn thằng nhỏ này yếu ớt bạc nhược, thôi cho nó theo văn đi, Ông thân của Bần Đạo nói: Được nếu nó theo bên văn mà tham quan ô lại thì tôi vặn họng nó. Vì lời nói đó mà cả một đời nghèo khổ thật, nhưng Bần Đạo chưa biết hà lạm chưa dám ăn đồng xu nhỏ nào cho tới ngày phế quan về hành Đạo, lạ một điều, mấy anh mấy chị của Bần Đạo nói lại, hồi nhỏ Bần Đạo khó nuôi lắm, hể mỗi khi nóng lạnh là chết, chết miết vậy thôi, tới 10 tuổi mà còn chết, chết sống không biết mấy lần, hể mỗi khi nóng lạnh thì cả nhà phải thức ngồi một bên đó vậy mãi, chỉ vì sợ Bần Đạo chết mà thôi.
Ông già, Bà già là người có Đạo, mà buộc mình phải vào Đạo đặng đem Bần Đạo đi rửa tội theo Thiên Chúa Giáo, tình trạng lúc đó trong nhà sợ sệt biết bao nhiêu, cho tới năm 7 tuổi Bần Đạo còn chết một lần nữa, chừng sống lại được rồi thân thể không còn gì hết, vì lúc chết người ta gỏ đầu, gỏ cổ, căn tay, căn chơn không còn hết, chịu đau đớn biết mấy.
Cái chướng ngại của Bần Đạo chết hoài, chết sống đến đổi trong nhà cha mẹ anh em của Bần Đạo toàn thể trong nhà phải vào Thiên Chúa Giáo, đặng cầu cho Bần Đạo sống, vì cớ mới có Đạo Thiên Chúa.
Cái đa sầu đa cảm của Bần Đạo hồi 17 tuổi nếu không may phải giết Bà Mẹ một cách gián tiếp. Bà Mẹ cứng quá đổi nên khiến trắc trở không xuất dương du học được, chớ phải chi quyền Thiêng Liêng quyết định thì Bần Đạo đã lưu vong nơi hải ngoại rồi, dám chắc Bần Đạo đi khỏi thì Bà Mẹ sẽ chết. Lúc đó nhờ Ông Lưu Khắc Ninh đốt hết giấy tờ, thành thử đi du học không được, tới khi ra làm quan với nhà nước chỉ ngồi đó đặng xem cái đau khổ của gia đình, cho đến ngày Ông già hồi lưu một gia đình Ông nghèo khổ không có đủ chỗ sống, mấy anh em phải tạm nhờ trong gia đình nầy Bần Đạo nhận thấy sự thương đau ngoài trường thế kia đồng bào đang đau khổ lệ thuộc, vì cớ không có buổi nào an vui được.
Kể từ 17 tuổi dĩ chí buổi nầy, không buổi nào không tranh đấu, không buổi nào an nghĩ được chờ tới cái năm chót của Bần Đạo bị đồ lưu hải ngoại, khi trở về được may duyên cho Bần Đạo, hạnh phúc là còn xác thịt nầy được làm tôi cho con cái Đức Chí Tôn, còn xác thịt này thì còn mong mỏi tạo hạnh phúc cho Đạo đặng, dầu bền vững hay không, Bần Đạo cũng vẫn lui cui làm mãi, vì thấy trước mắt con cái Đức Chí Tôn đau khổ thì không buổi nào an vui được, không buổi nào ngồi nghĩ được. Ngó lụng lại đám hậu tấn sau kia họ dầu có biết lệ thuộc buổi nọ thế nào, đau khổ tâm hồn thế nào, xác thịt thế nào, Bần Đạo muốn làm phương nào để giải thoát lệ thuộc đám hậu sinh đó cho đặng là hạnh phúc trong kiếp sống của Bần Đạo đó vậy.
Giờ phút này tuy nó khó nhọc thật, nhưng Bần Đạo được hưởng đặc ân của Đức Chí Tôn ban cho, và đã làm tôi cho Ngài và làm tôi cho con cái của Ngài.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 04-05-Quý Tỵ nhằm ngày (dl. 14-06-1953).
Q.6/1-13: Đáp từ các Cơ quan chúc thọ.
ĐỨC HỘ PHÁP đáp từ sau khi các cơ quan Chánh Trị Đạo chúc thọ.
Thưa Chư Chức Sắc Thiên Phong Nam, Nữ Lưỡng Phái, cùng Chư Vị cầm quyền các Cơ Quan Chánh Trị Đạo, mấy em nam, nữ, mấy con Thiếu Sinh nam, nữ.
Bần Đạo để lời cám ơn mấy em một cách nồng nàn, và lời cám ơn ấy nó chẳng phải ở ngoài môi, mà nó ở trong tâm não của Bần Đạo đem ra đó vậy.
Thưa cùng toàn thể Đạo, và các nhơn sĩ, chư vị đồng chí đã có lịch trình tranh đấu cho quốc dân cho Tổ Quốc. Bần Đạo thú thật, cái kiếp sanh hữu dụng này, nếu không có nhờ oai quyền và ân Thiêng Liêng đặc biệt của Đức Chí Tôn đã ban cho thì kiếp sống này cũng như các kiếp sống khác kia vậy. Có, không, không, có, luật tạo đoan đã tạo ra các sanh vật ở thế gian nầy thế nào mạng sanh ta cũng thế ấy có chi đặc biệt. Nếu luận cho chánh lý mình có đầu óc, tay chơn, thì cả toàn thể ai kia cũng vậy, chẳng có hơn ai, cũng chẳng kém ai, chỉ là một phần tử trong vạn linh đó vậy mà thôi, nếu không có ân Thiêng Liêng dành để đặc biệt thì Bần Đạo bất quá cũng như một người đó vậy thôi, nó có khác chăng là cái tình ái nồng nàn. Tình ái ấy làm cho Đức Chí Tôn biết đặng, hiểu đặng, mà Ngài tuyển chọn làm một phần tử trọng yếu của Ngài mà thôi.
Thưa cùng các bạn, chư Chức Sắc Thiên Phong Hiệp Thiên Đài, Tiếp Đạo khi nảy nói rằng: Chúng ta chỉ chủ hướng có tinh thần đạo đức mà thôi, thật quả vậy, nếu như lấy tâm phàm mà luận bao giờ thấy trước mắt một trường tranh đấu, quyền lợi công danh của thường tình thế sự là một điều thiên hạ đã ham chuộng mê luyến mà Bần Đạo tránh khỏi ra vòng ấy, danh không ham, lợi không mê, là vì biết khối tinh thần vô đối của một nòi giống Việt Nam nay đã 4.000 năm lập nghiệp, nó có một tinh thần mạnh mẽ, uy quyền cao thượng thế nào, đã hiểu rằng: Nó có năng lực, cái năng lực ấy nó có thể đổi mãi, đổi biến đặng, vì có đức tin ấy. Bần Đạo chỉ lấy nó làm môi giới, làm phương pháp đặng cứu vãn cái tình trạng nguy nan của nước, của chủng tộc Việt Nam. Bất quá cũng như một anh bán ngọc kia, mua đặng về bán lại mà thôi, chớ không có cái giá trị về tinh thần khác, chỉ đặc biệt biết ngọc, mua ngọc, lời về ngọc, không có chi khác hết. Nếu có định được tương lai hạnh phúc của nòi giống thì bất quá khác cái tinh thần anh dũng của quốc dân vô đối đặng họ định vận mạng lấy họ mà thôi, chớ Bần Đạo không có công cán chi trong đó hết. Vì cớ cho nên Bần Đạo chỉ quyết đánh về mặt tinh thần mà thôi, ngoài ra nữa Bần Đạo không muốn ngó đến, có phải chăng mạnh của Đạo Cao Đài vì lẽ đó, ta cũng nên tưởng tượng suy nghĩ.
Thưa cùng chư Chức Sắc Cửu Trung Đài, các Ngài đã vân mạng lịnh của Đức Chí Tôn cả nam nữ lưỡng phái, thay hình ảnh cho Ngài, ở cùng con cái khổ não của Ngài, một thời giáo hóa, hai là an ủi, ba là nuôi nâng, cái trách vụ trọng yếu đó giờ phút nào Bần Đạo cũng tưởng trong óc, nếu một ngày kia hình trạng Thiêng Liêng ấy nó kết liễu được, thiệt hiện được, cái danh dự dành để cho phận sự tối cao trọng của quí Ngài, nó sẽ quí quá thế nào? Không, thưa không phải kiếp sanh này mà đủ, còn sau lưng các em ta sẽ nối chí, ngày giờ nào có thể tượng trưng rằng Thánh Thể của Đức Chí Tôn chẳng hề chết thì cả Cửu Trùng Đài không thể diệt, sự quả nhiên nó vậy.
Các em Phước Thiện, Qua chỉ có một thân, một đầu, một óc, một hình ảnh cũng như mấy em thôi, nghĩ lụng lại khổ não của chúng sanh các em đã hiểu, Đức Chí Tôn đến Ngài có mục đích chia khổ và cứu khổ cho con cái của Ngài. Qua đã giao cho mấy em một sứ mạng đặc biệt là hai chữ "Phước Thiện" Qua cầu mong cho có một điều chúng ta ngó thấy trước mắt một khổ não của Đời, mấy em giăng tay ra nâng đỡ an ủi, binh vực được, ấy là sở vọng của Qua để nơi mấy em. Mỗi phen Qua tưởng đến công nghiệp và phận sự Thiêng Liêng của mấy em nó, khó khăn nặng nề chừng nào thì Qua xúc động chừng nấy. Vì cớ cho nên Qua ở chung cùng mấy em hai mươi mấy năm trường thầy trò chung sống, chung khổ cùng nhau là cũng vì lẽ ấy.
Qua để lời cám ơn mấy em.
Mấy con, các chiến sĩ anh dũng Cao Đài, mỗi lần mà Thầy thấy các con dưới mắt Thầy, thì nó có tinh thần làm cho Thầy an ủi được thế nào, Thầy thường nói với mấy con Thầy có Ông Cha, Ông Cha ấy giao cho Thầy hai món: Một là cái Thuyền Bát Nhả, hai là cái Xa Thơ của Tổ Quốc. Cái Thuyền Bát Nhả Thầy có thể cậy Thánh Thể Đức Chí Tôn dìu đỡ được, còn cái Xa Thơ của Tổ Quốc đi trên đường nguy hiểm khó khăn nó tiến được bước nào là nhờ năng lực của mấy con đẩy tới bước nấy. Cái mục đích của Thầy các con đã giúp được hai phần, còn một phần nữa Thầy cậy các con đưa nó tới chút nữa. Thầy chỉ nói: Có một bọn người ngồi trên Xa Thơ ấy các con xúm nhau đẩy mà bọn ấy ngồi làm cho nặng thêm nữa, các con phải làm sao mời họ, thỉnh cầu họ, lạy lục họ xuống, đặng cho bớt nặng đẩy cho tiến tới.
Phục Quốc Hội định vận mạng tương lai chánh sách an dân một cái chánh thể tương lai ở trong đấy, có thể Thầy mong ước rằng: Cả đầu óc Phục Quốc Hội giúp cho nên hình tướng chương trình của chúng ta có thể kết thúc thật hiện được, thì cái tương lai của nước Việt Nam mới sẽ mỹ mãn đẹp đẽ. Bần Đạo chưa gì đã mừng trước và đã khoái lạc trước. Cả toàn thể Phục Quốc Hội cho Bần Đạo hưởng khoái lạc ấy, thiệt hiện ra đừng để thất chí Bần Đạo tội nghiệp, Bần Đạo để hết tín nhiệm trong đấy, biết rằng một bước tiến tới là một bước thay đổi cho Tổ Quốc giang san phải cố gắng.
Trước khi dứt lời Bần Đạo để lời cám ơn toàn thể Đời và Đạo.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 05-05-Quý Tỵ nhằm ngày (dl. 15-06-1953).
Q.6/1-14: Đức Hộ Pháp phủ dụ khách phạm được ân xá.
Nhân ngày sinh nhật mồng 5-5 Quí-Tỵ (15-6-53)
ĐỨC HỘ PHÁP phủ dụ khách phạm được ân xá
(trên 20 nạn nhân)
Hôm nay là ngày được tự do của các anh em để về với gia đình, các anh em phải hiểu biết bổn phận công dân của mình đối với xứ sở. Về đến gia đình, các anh em nên lo làm ăn hằng ngày để nuôi lấy vợ con các anh em được ấm no. Các anh em không nên làm việc gì có di hại cho xứ sở, các anh em phải làm sao cho xứng đáng mình trong công cuộc xây dựng Tổ Quốc.
Người ở thế gian nầy không ai được trọn lành cả, việc làm bất hợp pháp của các anh em tức nhiên là cái bịnh, các anh em nên diệt bỏ, để làm việc hữu ích cho đại cuộc Quốc Gia ngày nay.
Các anh em nên nhớ lấy.
Q.6/1-15: Đức Hộ Pháp giảng về Ngọc Xá Lợi.
ĐỨC HỘ PHÁP Thuyết Đạo tại Đền Thánh đêm 15-5 Quí Tỵ
Bần Đạo xin cho toàn thể con cái Đức Chí Tôn hay, ngài mai nầy là ngày chúng ta sẽ làm lễ rước Ngọc Xá Lợi của Đức Phật Thích Ca. Rất may duyên của Tòa Thánh là được cái báu ấy, vì vật báu đó từ trước đến giờ chỉ có trong hàng Phật Tử của nước Ấn Độ được hưởng mà thôi.
Sau khi Đức Thích Ca tịch diệt thì mấy vị Đại Đức theo Đạo của Ngài, họ mới đem cái thi hài của Ngài tức nhiên là cái cốt của Ngài mà hỏa táng xong còn sót lại chút ít xương Môn Đệ của Ngài lấy cái đó làm báu vật đặng thờ Đức Ngài tức nhiên là thờ Bổn Sư của họ.
Tòa Thánh đây cũng là nơi của Ngài ngự, lại hữu hạnh được vị Đại Đức trong hàng Phật Tử nước Ấn Độ đem dâng cho Tòa Thánh một cái Ngọc Xá Lợi.
Bần Đạo xin toàn thể con cái Đức Chí Tôn nam, nữ ngày mai này nghinh tiếp cho đông đảo, tưởng khi Đạo hạnh của chúng ta đổi lụng lại với Đức Phật Thích Ca sẽ làm cho đẹp lòng Đức Chí Tôn đó vậy.
Đêm nay Bần Đạo thuyết cái Luật Thương Yêu và Quyền Công Chánh của Đức Chí Tôn nó không định giới, định hướng nơi nào tất cả. Thật ra Đức Chí Tôn đến lập Thánh Thể của Ngài, tức nhiên lập Hội Thánh thay thế hình ảnh của Ngài nơi mặt thế gian, tức nhiên ở địa cầu 68 nầy, cốt yếu Ngài tỏ cho nhơn loại đều ngó thấy rằng: Ngài đến đặng Ngài chia khổ não với con cái của Ngài, Ngài lấy xác phàm của các phần tử tức nhiên các lương sanh nơi mặt thế gian này đặng Ngài tuyển chọn lập Hội Thánh, tức nhiên là Thánh Thể của Ngài và Ngài đem cái luật ấy giao cho Hội Thánh, mà luật ấy không có nhiều, chỉ có một mà thôi, cái luật của Ngài là Luật Thương Yêu, tức nhiên là Luật Từ Bi, còn phép của Ngài cũng có một mà thôi, đó là Phép Công Chánh, Công Bình.
Ở trước Đền Thờ của chúng ta có "Tam Thánh" đã ký kết Hòa Ước cùng Đức Chí Tôn lãnh cái Luật Từ Bi, tức nhiên là Luật Thương Yêu đặng độ rỗi con cái của Ngài trở về cựu vị, còn quyền Đức Chí Tôn chỉ lấy Quyền Công Chánh mà thôi.
Luật và Quyền ấy chúng ta thử để trí phàm tìm hiểu lấy trí não suy tính và suy ngợi coi Ông lấy hai món ấy giao cho ta và biểu ta thay thế cho Ổng mà thiệt hiện ra căn nguyên ấy là phải do nơi nào. Bần Đạo thường thuyết nơi giảng đài nầy, Bần Đạo nói: Chúng ta nên lấy cái nhỏ mà luận cái nhỏ ấy chúng ta mới có thể tìm cái lớn được, lấy cái tối thiểu mà tìm ra cái tối đại, nguyên căn đó vậy không có lạ gì hết.
Vả chăng chúng ta sanh đứng làm người trên cõi tạm này có hai mối nợ:
1/ Mối nợ Thân sinh của ta, tức nhiên là Cha Mẹ của ta.
2/ Mối nợ Tạo Hóa, tức nhiên là Đức Chí Tôn.
Hai mối nợ ấy chúng ta có thể nói là hai Ông Trời, Ông Trời trên và Ông Trời dưới. Tánh đức của họ giống nhau như thế nào, chúng ta dư hiểu.
Có phải cha và mẹ chúng ta tức nhiên thân sinh ta khi sanh ta ra chỉ cầu có một điều là chúng ta phải biết thương yêu mà thôi. Vì sự thương yêu ấy mà cha mẹ ta gìn giữ sự sống còn của ta, nuôi dưỡng ta cho nên người, nên phận. Phải chăng Luật Thương Yêu ấy nó đứng đầu hết các Đạo làm cha mẹ hay chăng? Chúng ta chẳng cần hỏi và cũng đã hiểu rồi.
Bây giờ hỏi thử khi tạo một gia đình có con cái, có dâu cháu, cả Tông Đường họ hiệp lại tinh thần của họ và họ muốn gì chớ? Phải chăng họ cầu nguyện có một điều là toàn cả gia tộc, toàn cả cháu chắc của họ biết thương yêu nhau mà thôi. Mong mỏi có bấy nhiêu đó, phải chăng luật đó là luật thiên nhiên của cha mẹ chúng ta mà Đấng Tạo Hóa đã định sẵn. Chúng ta không chối cãi và quả quyết như vậy.
Trong gia nghiêm của chúng ta bao giờ cũng gìn giữ cho con cái thuận hòa hay là chung sống với nhau trong lòng yêu ái. Chúng ta đã biết "Sanh con há dễ sanh lòng" một đứa một tánh đức, một đứa một tinh thần, một đứa một sở hàm, mỗi đứa nó đi mỗi đường, không có đứa nào giống nhau. Nếu như gia đình nào có anh em giống nhau, thì gia đình ấy hạnh phúc lắm.
Chúng ta ngó thấy con cái trong nhà bao giờ cũng có nặng nhẹ nhau, bất đồng tánh đức tình ý với nhau. Nếu muốn ở trong nhà con cái được thuận hòa, biết yêu ái với nhau, thì trong gia nghiêm phải giữ cho có mực thước, mà muốn cho có mực thước tức nhiên Đạo làm cha mẹ phải lấy quyền công chánh công bình của mình mà xử con, lý do đó chúng ta tức nhiên là Đấng sanh thành dưỡng dục ta, cái khuôn khổ ấy thế nào, thì Đấng Tạo Đoan khuôn khổ cũng thế ấy mà thôi.
Luật thiên nhiên Đức Chí Tôn muốn gì? Phải chăng Ngài muốn cho cả nhơn loại biết nhìn nhau là cốt nhục, biết nhìn nhau là con cái của Ngài đã tạo đoan ra. Nếu bây giờ toàn thể con cái Đức Chí Tôn biết rằng: Con người sanh trong mặt thế gian nầy, sanh trong cảnh khổ nầy biết thương yêu nhau, biết giúp đỡ nhau đặng chia cảnh khổ ấy, thì Đức Chí Tôn chẳng đến lập nền Tôn Giáo, nhưng Ngài đến buổi nầy đặng chi? Có phải Ngài đến đặng Ngài gieo hột giống Thương Yêu ấy, gieo cái tình thương trong tâm não con cái của Ngài hay chăng? Chúng ta thấy hiển nhiên là thế đó. Cái Luật Thương Yêu đó đối với Thiên vị là Thánh Thể của Ngài nơi mặt thế gian nầy, vì chúng ta lãnh sứ mạng nơi Ngài tức nhiên một phần tử của Hội Thánh đó vậy.
Ngộ nghĩnh thay! Chúng ta tùng một khuôn Luật Thương Yêu ấy, rồi chúng ta nắm một quyền hành trong tay, ấy là quyền hành công chánh. Phải vậy, trong hết thảy chúng ta không thể chối được. Trái lại nếu trong cửa Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn, trong lòng thương yêu vô tận ấy, quyền năng công bình vô đối ấy không phải là con cái của Ngài, cái lẽ tự nhiên đó vậy.
Bần Đạo đã nói cái Luật Thương Yêu ấy nó không định giới, định hướng đặng, và chúng ta có thể nói, trong một gia đình đương nhiên bây giờ, ta có con trai phải cưới dâu trong Tông Đường khác, ta có con gái phải gã cho Tông Đường khác, thì nó mới sống lụng lại trong gia đình của chúng ta, sự thương yêu nó không định giới định hướng là vậy. Huống chi là lòng thương yêu vô tận của Đức Chí Tôn.
Bần Đạo chỉ nhắc một điều trọng yếu cho con cái của Ngài nam, nữ cũng vậy, nghe và nhớ để ý cho lắm.
Con người tuổi thơ sanh không có gì, như những người có niên kỷ rồi, nào là ông, bà, cha, mẹ, cô, bác, thân tộc, họ đã qua đời, tức nhiên họ đã qui liễu. Chúng ta ngó thấy giọt nước mắt của chúng ta trong kiếp sanh đã đổ biết bao nhiêu là giọt nước mắt đau thảm. Lòng thương yêu cốt nhục ấy, nó đã làm cho ta hiểu cái giá trị của nó thế nào rồi. Coi chừng nghe, mình đau đớn, mình khổ não, mình thương nhớ, rồi mình cúng quảy lễ tế. Đạo làm con hiếu hạnh phải vậy. Nhưng phải coi chừng, họ tái sanh họ đứng ngay trước mặt mình với đứa con nít kia mà mình không biết không hay, mình lãnh đạm, ghét dơ. Đến khi về nơi cõi Thiêng Liêng mình nhìn thấy mặt họ, rồi mình tự hổ nhục vì cái hổ nhục đó làm cho ta phải tái kiếp luân hồi trở lại.
Dám chắc không có cái đau đớn, cái hổ nhục nào bằng khi trở về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống mà gặp cảnh tượng ấy.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 15-05-Quý Tỵ nhằm ngày (dl. 25-06-1953).
Q.6/1-16: Lễ phát phần thưởng tại Đạo Đức Học Đường.
ĐỨC HỘ PHÁP phủ dụ Giáo Chức và học sinh trong cuộc Lễ Phát Phần Thưởng tại Trường Đạo Đức Học Đường ngày 17 tháng 5 Quí Tỵ (27-6-53)
Thưa cùng Chư Chức Sắc Thiên Phong Nam Nữ, Chư Quan Viên, các yếu nhân nam nữ đã đến dự lễ phát phần thưởng nầy làm cho thêm phần long trọng. Bần Đạo xin kiếu lỗi mấy Ngài, mấy Bà cho Bần Đạo để lời với con cái của Bần Đạo.
Các con Giáo Viên Đạo Đức Học Đường, sự khổ hạnh, sự hy sinh của các con từ khi mở Đạo đến giờ đã ung đúc tinh thần trí não của đoàn em mấy con hôm nay đã kết liễu. Cái nên của Đạo dường nầy, mỗi công trình vĩ đại của các con, Đạo sử đã ghi chép.
Hôm nay đến đây Thầy không để lời cám ơn các con, bởi vì lời cám ơn ấy nó ở đầu môi chót lưỡi không có giá trị gì. Thầy chỉ chúc có một điều là lòng yêu ái của Thầy tương hiệp với các con, vì nó là báu vật để cho Thầy đối với các con đó vậy.
Chúng ta sanh làm người đứng giữa vũ trụ này, đứng trong Hoàng Đồ Việt Nam, giờ phút này chẳng qua là một phần tử trong xã hội thôi. Bần Đạo thường nói, chúng ta cũng có một thân thể, một đầu óc. Thân thể ấy, đầu óc ấy cũng như thân thể đầu óc kia vậy, không hơn, không kém. Nếu chúng ta làm đặng điều gì đắc lực về tương lai, định vận mạng cho xã hội, định vận mạng cho nòi giống, cho Tổ Quốc là đều do chí cương quyết của ta hiệp chủng đồng tâm, nhứt trí, đa số tinh thần thống nhứt lại, thì cái hành tàng năng lực mới có thể hoạt bát đặng.
Các con cũng như Thầy, Thầy hồi nhớ lại khi mới mở Đạo, một thân côi quạnh bị cường quyền áp bức. Đạo lúc đó còn đương trong buổi phôi thai như trứng mỏng kia. Đời lại bị lệ thuộc. Dân nghèo đồng bào khổ não, cảnh tượng chết trước mắt, chết lần, chết mòn, làm cho tinh thần của Bần Đạo thống khổ biết bao nhiêu. Nhưng Bần Đạo vẫn cương quyết rằng, một thân làm không nổi, mà cái sở vọng của ta quyết đem ra cứu nước, cứu dân thì nó thì nó sẽ đoạt được cái sở vọng ấy. Nếu ngày giờ nào ta có thể nào tạo các thanh niên đoàn hậu tấn của chúng ta họ nhứt tâm nhứt đức, thì ta mới có thể cứu vãn tình thế vận mạng nước nhà và chủng tộc đặng.
Vì cớ cho nên ta phải cố gắng, các con ngó thấy buổi sơ khai Đạo như thế nào? Nước nhà các con thế nào? Vì Thầy cũng có đầu óc như các con chớ có lạ chi đâu. Có lạ chăng là nhờ huyền diệu Chí Tôn ban cho Thầy để thống hợp cả tinh thần các con lại làm một cho nên hình nên tướng, và Thầy giảng cho các con hiểu thêm rằng: Buổi nọ thiên hạ đã áp bức, chê đè, nhục mạ Bần Đạo biết bao nhiêu, nhưng Bần Đạo có thể an ủi đặng là Bần Đạo tự nói rằng: Một thân ta có thể các người chà đạp đặng, chớ khối hậu thuẩn tương lai chưa hề ai chà đạp đặng.
Vì chí hướng cương quyết và can đảm ấy, nên hôm nay tinh thần Đạo Đức nầy vẫn tiến triển mãi và thống nhứt lụng lại làm một khí cụ vững chắc và mạnh mẽ hơn định vận mạng cho nước nhà đương nhiên bây giờ đó vậy.
Tinh thần các con cũng như tinh thần của Thầy, hết thảy đều đem chí hướng tương lai, nòi giống do đám thanh niên của mấy con đào tạo thế nào, thì cái hình trạng của Thầy đào tạo các con thế ấy. Rồi đây nó sẽ từ từ tiến tới với vẽ đẹp của chúng ta, chúng ta hãy cố gắng làm cho hiện tướng ra đặng đào tạo cả tương lai kia, thì chúng ta mới có thể định trước một tương lai tốt đẹp cho nòi giống nước nhà đó vậy.
Mấy con học sinh nam nữ, ở thế gian này có hai năng lực tinh thần là:
1- Chữ Tài
2- Chữ Tâm
Chữ Tài với chữ Tâm mà các nhà triết học chúng ta buổi trước đã trích điểm, họ đã để hình trạng nó như thế nào, họ tỏa ra cái hình trạng của nó vô hình. Nhưng các bậc tiền nhân nòi giống của chúng ta đã có trạng tỏ một cách có thể nói sáng suốt tỏ rõ không có gì gọi là mờ ám.
Chữ Tài, chữ Tâm kia, hai tinh thần đó giờ phút này nó tương đương với nhau, và nó tranh đấu đặng định hướng cho nhơn loại, và định tương lai cho nòi giống hay chăng? Có chớ, nhưng chúng ta cần phải coi lại tình trạng đương nhiên chúng ta thấy rõ rằng: Chữ Tài với chữ Tâm hai tinh thần đó giờ phút này nó đương tranh đấu với nhau, tranh đấu để định vận mạng cho nhơn loại đó vậy.
Ở phương Âu dường như chữ Tài thắng hơn chữ Tâm, chữ Tài ấy nó đã xô nhơn loại đi đến địa điểm nào? Thử hỏi hai trận đại chiến ở Âu Châu nó làm cho nhơn loại giết lẫn nhau phải chăng là một bài học hay ho về chữ Tài ấy hay chăng? Còn chữ Tâm kia vẫn mịch mờ biến mất theo thời gian.
Phải chăng Đức Chí Tôn đến đặng làm cho rỡ ràng chữ Tâm nơi Á Đông nầy hay chăng? Có lẽ Bần Đạo tin quyết như thế đó. Nếu nhơn loại không tin tưởng chữ Tâm, lại chạy theo chữ Tài, thì sẽ đi đến chỗ tiêu diệt. Vì cớ cho nên chúng ta phải nhìn nhận rằng: Chữ Tài, chữ Tâm phải đi đôi với nhau. Nếu chữ Tài mà không có chữ Tâm thì không được. Còn chữ Tâm mà không có chữ Tài cũng không được.
Hai cái tinh thần tâm não ấy của nhơn loại nó phải đi đôi với nhau mới có thể bảo tồn vĩnh viễn mạng sống của nhơn loại trên mặt địa cầu nầy. Ghê gớm hơn hết là giờ phút nầy vận mạng tương lai của nhơn loại có thể tiêu diệt đặng trong khi nhơn loại hưởng được chẳng biết một phần thưởng hay một hình phạt về tương lai. Hai khối tinh thần ấy nó có một quyền lực vô biên vô đối, nó có thể cứu vãn sanh mạng nhơn loại nơi mặt địa cầu này là chữ Tâm, mà cũng có thể tiêu diệt cả toàn thể nhơn loại trên mặt địa cầu nầy là chữ Tài, là năng lực nguyên tử đó vậy.
Phải chăng cái năng lực ấy nó làm mô giới cho chữ Tài và chữ Tâm thí nghiệm với nhau hay chăng? Thầy mong ước cho các con ngó vào chữ Tâm làm chuẩn đích, chữ Tài nó là thừa vì chữ Tâm của nòi giống mấy con đã 4.000 năm lập nghiệp dưới lệ thuộc của các sắc dân mạnh mẽ, đa số dưới hoàng đồ nước Tàu đã bảo vệ tinh thần nòi giống cho tới ngày nay còn tồn tại vĩnh viễn. Tâm ấy nó chẳng đâu xa, chỉ tìm kiếm là có hiển nhiên, vì nó ở trong đầu óc của các con, trong năng lực của các con. Các con thâu đoạt cả tương lai của thiên hạ đem làm khí cụ đặng định hướng cho tương lai của mấy con mà thôi.
Q.6/1-17: Lễ phát phần thưởng tại trường Lê Văn Trung.
ĐỨC HỘ PHÁP phủ dụ Giáo Chức và Học sinh trong cuộc Lễ Phát Phần Thưởng trường LÊ VĂN TRUNG ngày 18 tháng 5 năm Quí Tỵ
Thưa chư Chức Sắc Thiên Phong nam nữ, Chư Viên Quan nam nữ đã có lòng hạ cố đến dự lễ làm cho càng thêm long trọng cái lễ phát phần thưởng cho mấy em học sinh. Bần Đạo xin kiếu lỗi quí ngài Bần Đạo để lời cùng Quân Đội có công lập ngôi trường Lê Văn Trung này.
Các con trong Quân Đội, một lần nữa Thầy để lời cám ở các con và Thầy thú thật rằng: Thầy đã hưởng được cái vui hứng của các con đã làm được. Các con đã thắng được mặt trận ngoài tiền tuyến, mà về mặt tinh thần các con cũng toàn vẹn, cái sự làm của các con từ thử đến giờ bên võ bị của các nước có lẽ ít làm đó vậy. Thầy đã nói chí khí sự làm của các con hôm nay là một điều hi hữu bên võ chức, nó sẽ nêu lên toàn cầu mà chớ.
Thầy đã thường nói và Thầy đã tự nghĩ, nếu như Thầy không có giao nơi tay của các con một cái câu Bảo Sanh Nhơn Nghĩa đặng bảo vệ cho Tổ Quốc, binh vực đoàn em của các con được sống còn và đem vào cửa Đạo, vì cửa Đạo là một cửa Thiêng Liêng Hằng Sống, một cửa để cứu khổ, một cửa để giải mê cho thiên hạ, thử coi mặt luật ấy nó như thế nào, các con thử nghĩ, cái lẽ bất công của thế gian đương buổi hôm nay, họ đang dùng cái mạnh hiếp yếu, lấy cái khôn chê cái dại, họ đã nương nơi quyền lực nào? Phải chăng họ đã nương cái quyền lực của quân đội mà làm những điều đáng tiếc ấy. Thầy đã nói các con chưa hiểu thấu, vậy Thầy chỉ cho các con hiểu theo lối văn minh Âu Châu đã nói "Bras séculier". Còn văn minh của Á Đông thì dùng thủ đoạn nầy. Quân đội của các nước phụng sự cho nhơn loại về chơn lý thì ít, còn về cái áp bức tâm tánh thì nhiều.
Chúng ta thử nghĩ trong xã hội của chúng ta, dầu một cái yến tiệc, hay là dầu một cái cơ thể hội hiệp nào mà rủi cho chúng ta có cử chỉ không đặng kín đáo nó không đúng mực thước giữa cả thảy. Nếu trong lúc đó có kẻ khó tánh họ đã trích điểm và họ cho rằng ta không đáng đứng giữa xã hội với họ.
Một lẻ nữa một kẻ sát nhơn kia nó chỉ giết có một người mà cái luật công chánh của xã hội đã buộc đem nó ra Tòa công lý, buộc nó phải thường mạng. Rồi hỏi lại những kẻ đã giết người nơi mặt trận hằng hà sa số mà được thăng phẩm vị và tôn trọng, đem vào xã hội họ đứng trên đầu thiên hạ, cả ngực của họ đầy những biểu hiệu danh dự. Hỏi vậy cái công chánh, công bình của xã hội đương nhiên ở chỗ nào? Như vậy thì chưa phải xã hội của nhơn loại.
Trái ngược lụng lại xã hội như thế nó là thù nghịch của nhơn loại mà chớ, vì lẽ ấy mà Thầy đã hãnh diện cho các con, Thầy được vui, được hãnh diện giao cho các con cầm giềng Bảo Sanh Nhơn Nghĩa đem nhơn loại chiến đấu, chiến đấu của các con về mặt tinh thần, chớ không phải về mặt danh, vì lợi và tàn sát một cách vô lý vô nhân đạo cả sanh mạng của loài người đó vậy.
Các con bên Giáo Chức, các con đã lãnh sứ mạng tạo tinh thần tương lai cho nòi giống của các con. Thầy rất hài lòng về việc đó, các con nên cố gắng thêm lên chút nữa.
Bần Đạo nhớ lại khi mới mở Đạo có một vị Giáo Chức đến dâng sớ vấn nạn Đức Chí Tôn, hồi Đức Chí Tôn còn xưng là A, Ă, Â. Đức Chí Tôn cho một bài thi để trả lời:
Dạy trẻ con toan trước dạy mình,
Cái công giáo hóa cũng đồng sinh,
Đạo Đời tuy biết Đời rằng trọng,
Một điểm quang minh một điểm linh.
Đức Chí Tôn chỉ nói một điểm quang minh mà thôi. Vậy các con hãy dạy cho em các con một điểm quang minh đó. Các con cố gắng tạo điểm quang minh ấy cho cả thiếu sinh là đoàn em của mấy con, và nó sẽ thừa kế vận mạng của Đạo, của Tổ Quốc, của nòi giống, rồi các con sẽ thấy nó không tự kiêu, tự đắc, cái hãnh diện cao thượng đó, dầu cho một kẻ nào khó tánh bao nhiêu cũng phải cúi đầu tôn tặng đó vậy. Chính mình Bần Đạo thấy trước cái hành tàng cao thượng của các con, Thầy cũng phải cúi đầu kính mến và tôn tặng. Thầy để lời cám ơn các con đã cho Thầy hưởng được hạnh phúc ấy.
Các con học sinh nam nữ, các con ngó đoàn anh của các con, rồi các con sẽ định vận mạng tương lai của các con như thế nào? Các con đã thấy cái sống của Thầy các con trước mắt là sống eo hẹp, sống vất vả, sống đau khổ không buổi nào mà Thầy thấy cái sống của Thầy các con đặng mãi mãi hạnh phúc. Mấy con muốn trả ân ấy cho xứng đáng Thầy chỉ có một điều là mong cho các con khôn ngoan sáng suốt đặng khi ra trường lập nên thân danh làm cho rạng rỡ danh thể Thầy của các con. Một lời tâm huyết Bần Đạo để trong tâm não của mấy con đặng làm định hướng cho mấy con đó vậy.
Giờ phút nầy trong đường Đạo của mấy con có hai điều trọng yếu về tinh thần là: Yêu ái và chơn thật. Nếu các con giữ được hai điều ấy. Thầy dám chắc dầu cho gặp khó khăn trở ngại bao nhiêu trên đường tiến bước, Bần Đạo quả quyết nó sẽ cải hóa một cách dễ dàng và êm thắm.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 18-05-Quý Tỵ nhằm ngày (dl. 28-06-1953).
Q.6/1-18: Lễ đăng điện Xá Lợi Phật tại Đền Thánh.
ĐỨC HỘ PHÁP Thuyết Đạo trong cuộc Lễ Đăng Điện "XÁ LỢI PHẬT" tại Đền Thánh đêm 18-5 năm Quí Tỵ
Hôm nay chúng ta thiết Tiểu Đàn an vị Xá Lợi Phật của Đức Phật Thích Ca. Bần Đạo đã để Xá Lợi Phật tại Nghinh Phong Đài ba ngày ba đêm cho con cái Đức Chí Tôn chiêm ngưỡng Đức Phật Thích Ca. Hôm nay đã đủ ba ngày Bần Đạo hành lễ an vị cho Ngài. Chúng ta hân hạnh được Đức Chí Tôn ban cho đặc ân nơi Tòa Thánh, tức nhiên Đức Chí Tôn đem Đức Thích Ca về ở cùng chúng ta. Cái hạnh phúc ấy giá trị thế nào Bần Đạo không cần phải minh tả.
Ngộ nghĩnh là những điều Đức Chí Tôn làm bao giờ cũng dành để cho chúng ta một sự ngạc nhiên, và Xá Lợi Đức Phật Thích Ca là gì? Bần Đạo giải nghĩa cho toàn thể con cái Đức Chí Tôn hiểu: Khi Đức Phật Thích Ca qui vị, thì Ngài để di chúc cho cả Môn đệ của Ngài hỏa táng tức nhiên thiêu cái thi hài đó, thi hài của Ngài đã đốt nhưng chẳng hề khi nào tiêu hết, vẫn còn lại mấy miếng xương của Ngài dư thừa lại không cháy gọi là Xá Lợi.
Buổi sau này nước Anh, tức nhiên Anh Quốc hiệp lại với nước Ấn Độ mới đào lên gặp một cái hộp bọc pha ly, trên nóc có đề chữ rằng "Di hài Xá Lợi Đức Phật Thích Ca" lúc đó nước Anh mới lấy cả hộp Xá Lợi ấy. Sau này nước Ấn Độ được độc lập mới đòi nước Anh phải trả Xá Lợi Phật cho Ấn Độ. Nhưng Ấn Độ buổi đó cuộc cách mạng tranh chủ quyền độc lập vẫn còn ở trong Liên Hiệp Anh. Mãi đến sau này nước Ấn Độ mới hoàn toàn độc lập, nhưng trong nước tín ngưỡng về Phật Giáo tức nhiên Đức Phật Thích Ca đã giảm suy nhiều. Trong số 3.500 triệu dân, mà Tín đồ chỉ có 10 triệu thôi, thành thử vì cái lẽ loạn lạc của nước, chính phủ nghĩ rằng: Để trong nước e Xá Lợi có thể bị mất, nên dành để có một mớ, chia cho Tích Lan một mớ, Đức Narada Théra đem hiến cho Tòa Thánh Ngọc Xá Lợi là người Tích Lan đó vậy.
Trước kia Tích Lan dâng Xá Lợi Phật ấy cho Nhật có đi ngang qua Đông Dương (Sài Gòn) cuộc tiếp rước ấy rất nên long trọng. Tín ngưỡng về Phật Giáo của sắc dân Việt Nam rất nồng nàn thế nào thì các vị Đại Đức đã ngó thấy trước mắt.
May thay: Ông Bửu Chơn là người Việt Nam, nhưng Ngài là Môn Đệ của Đức Narada Théra, Phó Giáo Tông Phật Giáo Tích Lan. Ngài Bửu Chơn muốn xin Ngọc Xá Lợi ấy để trong nước Việt Nam, nên Đại Đức Narada Théra đem cho nước Việt Nam ba hột Ngọc Xá Lợi Phật, một cho Đại Thừa, một cho Tiểu Thừa, lại còn một hột để cho Tiểu Thừa Phật Giáo tại Kiêm Biên, tức nhiên là Miên Quốc.
Trong cái tình trạng của các Môn Đệ của Đức Phật Thích Ca nơi nước Việt Nam Phái Tiểu Thừa có hạnh phúc thống nhứt lụng lại. Còn Đại Thừa thì còn phân vân. Thành thử hột ngọc giao cho Tiểu Thừa đã thọ lãnh, còn Đại Thừa họ đương rắc rối không có định đoạt, họ tính để Ngọc Xá Lợi ấy lại đó, rồi họ chung họp với nhau cất một cái Tháp đặc biệt để Thờ. Thành thử Ngọc Xá Lợi dành để choĐại Thừa giờ phút này Đức Narada Théra giao cho Đức Hoàng Thái Hậu Từ Cung, do ý Ngài muốn cho nơi nào tùy ý để quyền cho Đức Hoàng Thái Hậu Từ Cung định liệu.
Ba cây Bồ Đề cho Tiểu Thừa một cây, cho Tiểu Thừa Phật Giáo Miên Quốc một cây, còn một cây của Đại Thừa đem về Tòa Thánh. Hột Ngọc Xá Lợi đem về Tòa Thánh hôm nay là đặc biệt của Đại Đức Narada Théra, Phó Giáo Tông của Đạo Giáo Tích Lan, lấy của tư của Ngài hiến cho Tòa Thánh. Chúng ta thấy cả hành tàng cả sự khó khăn đem Ngọc Xá Lợi về Tòa Thánh đều do nơi công nghiệp vĩ đại của Ngài Bảo Sanh Quân Hiệp Thiên Đài, tức nhiên Phó Thủ Tướng Việt Nam đương giờ này là Ông Bảo Sanh Quân Lê Văn Hoạch, ông đã chịu nhọc nhằn cả thảy con cái Đức Chí Tôn đều ngó thấy. Ngài hạ mình xin cho đặng Ngọc Xá Lợi ấy thế nào? Nên hôm Ngài trở về Sài Gòn, Bần Đạo nhân danh toàn thể con cái Đức Chí Tôn và Hội Thánh nam nữ lưỡng phái để lời cám ơn ông Bảo Sanh Quân rồi, và Bần Đạo sẽ cho các cơ quan Chánh Trị Đạo làm một tờ chúc thơ cảm tạ công nghiệp của Ngài.
Đức Phật Tổ tức nhiên Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Boudda Çakyâmouni) cả thảy con cái Đức Chí Tôn đã nghe Đức Narada Théra thuyết Đạo rồi. Ngài nói Đức Phật Thích Ca là người cũng như ta, có xác thân như ta, sống chết như ta, chớ không phải là người ở trong thần thoại. Nhưng cái cao siêu về tâm hồn của Ngài, về tiền căn Thiêng Liêng của Ngài đã lên tới Phật vị. Ngài tái kiếp làm người với mãnh thân phàm của Ngài cũng như ai kia vậy.
Cái quí trọng của Đức Phật Thích Ca họ đã nhìn nhận cái cao siêu về linh hồn của Ngài trước khi chưa đầu kiếp. Các Tôn Giáo bao giờ cũng vậy, họ muốn tôn tặng Giáo Chủ của họ lên một địa vị phi phàm, tức nhiên họ đặt ra nhiều lẽ dường như ảnh hưởng của thần thoại. Tinh thần con người bao giờ cũng vậy, sợ chết, muốn sống, mà cái sống ấy muốn thế nào cho trường cửu với họ mới được.
Hại thay! Cảnh Hằng Sống không phải ở thế gian này với thi phàm xác tục của ta, mà cảnh Hằng Sống ấy nó ở nơi cõi Thiêng Liêng Vô Hình kia. Cảnh ở thế gian này là cảnh đau khổ, họ muốn cho các vị Giáo Chủ của họ phi phàm họ bày ra nhiều cái thuyết thần thoại, giờ phút nầy làm cho khoa học phải trợn trạo đánh đổ về cái lý lẽ ấy, đánh đổ rất khoa học không thế gì chối cải được.
Nào là họ nói Đức Chúa Jésus do một người đồng trinh tự nhiên đẻ ra, chính mình trong Đạo sử của Đức Chúa Jésus, cha của Ngài là Ông Thánh Joseph, mẹ của Ngài là Bà Marie, họ lại nói Đức Phật Thích Ca khi xuất thế ở trong nách của Bà Maya mà ra, Đức Lão Tử cũng thế, họ làm cho giờ phút nầy cả tín đồ các Tôn Giáo khó giải quyết, họ đem cái lý do thần thoại nêu ra làm một sự chơn thật.
Hại thay! Nếu mọi sự chơn thật nó có thể làm cho cả đức tin con người phải điên đảo. Chúng ta ngó thấy cơ thể tạo đoan có âm dương tương hóa mới sản xuất hình ảnh tức nhiên cả kiếp sanh và sanh mạng cả toàn thể vạn linh nơi mặt địa cầu nầy. Đừng có nói chi nhiều, nội điên lực, nếu không âm điện và dương điện thì chúng ta không có ngọn đèn sáng như thế nầy được.
Lại nói đến hơi thở của ta không có âm khí (Hydrogène) dương khí (Oxygène). Nếu chúng ta không có hơi thở đó chưa chắc gì chúng ta sống đặng, đừng nói chi nhiều cả cơ thể tạo đoan không có hàn nhiệt ôn lương, thì vạn linh nơi mặt địa cầu này chưa chắc họ sống còn và tồn tại được.
Huống chi cái luật Tạo đoan phải có cha mẹ, có âm dương của cha mẹ mới sản xuất cái nhơn hình của chúng ta. Thành thử Đức Phật Thích Ca cũng sanh như ai kia vậy. Nhưng Tiền căn của Ngài cao siêu hàng phẩm của Ngài tới Phật vị, cho nên sự sáng suốt khôn ngoan của Ngài phi phàm hơn hết nên cả nước Tích Lan (Ceylan) đều gọi Ngài là Mâu Ni tức nhiên một vị Hiền Triết vô đối của họ. Họ tôn tặng chức tước, tôn tặng Đức Thích Ca xứng đáng quá chừng, cũng như Đức Chúa Jésus Christ nhờ thiên căn sáng suốt thành thử người ta gọi Ngài là "Le Saint des Saint" (một vị Thánh trên các Thánh) Đức Lão Tử, Đức Khổng Phu Tử cũng thế, các vị ấy đều do nơi tiền kiếp phi phàm mà thôi, chớ các vị ấy xác tục cũng như ta, người cũng như ta, sống chết cũng như ta, đầu óc trí não cũng như ta, sống trong cảnh khổ não cũng như ta.
Bần Đạo ước mong các con cái Đức Chí Tôn hiểu đặng các điều chơn thật ấy, đặng tu, cố gắng làm sao cho phi phàm, làm sao dòm tánh đức của Đức Chí Tôn thế nào? học đòi cho đặng huệ quang của Ngài ban cho thì trí não ta mới thông suốt như Ngài đặng.
Trước kia Đức Phật Thích Ca đã thành Phật đặng, thì chúng ta cũng thành Phật đặng, chính Ngài làm bằng chứng lẽ ấy. Bần Đạo mong mỏi cả con cái Đức Chí Tôn cố gắng học đòi như Ngài đặng thành Phật như Ngài vậy.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 18-05-Quý Tỵ nhằm ngày (dl. 28-06-1953).
Q.6/1-19: Tánh khiêm nhượng.
ĐỨC HỘ PHÁP Thuyết Đạo tại Đền Thánh
(đêm 30 tháng 5 năm Quí Tỵ)
Mấy em Thanh niên nam nữ lưỡng phái.
Đêm nay Bần Đạo giảng đặc biệt cho mấy em đó. Cái tương lai cơ nghiệp Đạo, tương lai của Thánh Thể Đức Chí Tôn đào tạo cho mấy em, mấy em sẽ nối chí cho chúng Qua, hay là mấy em lập thân danh đặng một ngày kia vào hàng Thánh Thể Đức Chí Tôn tại thế nầy. Qua còn giảng giải cho mấy em đi trong khuôn khổ của Đức Chí Tôn. Muốn cho mấy em phải đào luyện nên Qua nói phần tu tức nhiên trau giồi tánh đức của mấy em đặng xứng đáng cái phận sự trọng yếu của mấy em tương lai ngày sau kia.
Hôm nay Qua giảng về sự thật và cái hay của tánh đức hạ mình và khiêm nhượng đổi lụng lại phản lực của nó là: Tự cao, tự tôn, tự đại.
Chúng ta thử xét đoán tại mặt thế nầy, ta mang thi phàm xác thịt cũng như ai, ta xét đoán lại coi ta có hơn ai chăng? Có đặng hơn cái chi mà ta tự cao, tự tôn, tự đại? Cũng ở trong lòng mẹ mà ra, ai cũng sanh trong một khuôn luật như ta. Thân hình cả thiên hạ nơi mặt địa cầu này hai ngàn bảy trăm triệu người, ta thử so sánh có thể hơn hai ngàn bảy trăm triệu người đó hay chăng? Mà ta tự tôn, tự đại. Ta cũng như một hột cát ở bãi sa mạc kia.
Lấy theo tình lý mà luận, đầu ta cũng một đầu, thân ta cũng một thân, ta không phải ba đầu sáu tay hơn ai mà ta tự tôn, tự đại, nếu lấy theo hình thể mà luận thì thân nầy thế nào, thì thân của bạn đồng sanh ta cũng như ta vậy. Ta không có lý do gì gọi ta hơn kẻ đó, hơn bạn đồng sanh ta mà ta tự tôn tự đại. Nếu như ta luận về mặt tinh thần tại sao ta còn được Đại Từ Phụ ban cho ta khôn ngoan khéo léo, biết nên, hư, phải, quấy, lấy tinh thần đặng định hướng cái cái mạng sống của mình coi có mục đích chuẩn thằng không? Ôi! Thoảng như bạn đồng sanh ta thiệt thà hơn ta thiếu kém về mặt trí thức tinh thần hơn ta, ta ngó thấy, nếu ta hơn bạn ta là nhờ căn tu của ta dày hơn họ chút thôi, còn căn tu của họ mỏng hơn ta một chút mà thôi, lấy theo lý luận về căn tu ấy, thì ta hơn họ, hơn mảy may mà thôi, hơn môt chút xíu thôi, không phải đủ mà ta tự cao, tự tôn, tự đại. Trái ngược lại, nếu người bạn đồng sanh thiếu kém hơn ta, khiếm cảnh tu hơn ta, mạng căn quả kiếp nặng nề hơn ta, thì ta phải thương yêu họ, tội nghiệp dùm họ, chớ ta không có quyền nào thù ghét họ, coi họ là hèn hơn ta, ta cao trọng hơn họ là không có lý do vậy.
Bây giờ trái lại cái phản lực đó, chúng ta thử nghĩ coi, mình phải khiêm nhượng chơn thật hay xảo trá? Nếu kẻ nào tự cao, tự tôn, tự đại, mà giờ phút nầy không biết hạ mình đặng chiều chuộng người, thì đời nó không buổi nào thiên hạ thương được, dầu cho từ buổi nhỏ dĩ chí 100 tuổi già đến chết nó vẫn học mãi thôi, không buổi nào gọi tự đủ. Đời nó 100 tuổi vẫn tìm tàng học mãi học sách đời, học sách Thánh Hiền để lại học cả hay ho khéo léo của các vị Giáo Chủ đạo đức tinh thần để lại, mà nếu không biết khiêm nhượng thì không ai thèm dạy mà chúng còn ghét là khác, nếu kẻ nào như vậy thì chúng bỏ xó phải chịu cái phận khổ não mà thôi không ai thèm dạy hết, bởi vì người ta ghét, không ai ngó ngàng tới đâu có dạy dỗ gì mà nên được, dầu cho một kẻ thiếu niên kia mà biết khiêm nhượng phục sự một ông già. Tuổi mình đang thanh niên mà đặng ông già giáo hóa mình, khi tuổi mình còn non mà trí đặng già là nhờ biết khiêm nhượng. Còn như những kẻ không biết hạ mình hiu hiu tự đắc, tự cao, tự đại, thành ra cái giá trị của nó đối với thiên hạ vì kiêu một chút mà người ta bất mãn, vì nó tự cao, tự tôn, tự đại, xấc xược dối trá không đáng giá gì hết, mà lại chọc cho thiên hạ ghét gớm thân danh mình thì dầu cho học bao nhiêu người ta cũng vẫn ghét vẫn gớm thôi.
Bây giờ cái tính đức của sự khiêm nhượng, lấy theo hình thể mà luận, mình biết thân mình, mình vẫn kiếm thế học mãi. Mình vẫn hạ mình kiếm thế hiểu lấy mình và biết người, thì sự khiêm nhượng hạ mình có cái hay, dầu cho cái giá trị của mình không nên gì hết, nhờ sự khiêm nhượng mà người ta thương mình, nâng đỡ mình, dìu dắt mình, đưa mình lên phẩm vị xứng đáng với mình, cũng nhờ sự khiêm nhượng ấy mà người ta tôn tặng. Cái đó nói thiệt là hơn, còn những kẻ tự cao, tự tôn, tự đại, nếu mình đi con đường nguy hiểm tới trước mắt chết cũng thây kệ mình cũng không ai nói, là vì chúng ghét. Nhưng hại thay! Chúng còn bắt mình làm một sanh vật để họ thí nghiệm.
Bây giờ lấy tinh thần mà luận, sự khiêm nhượng buộc mình phải khiêm nhượng, chính mình chưa đủ gì hết.
Đức Khổng Phu Tử kia còn bị một đứa con nít là Hạng Thác dạy Ngài thay! Đến khi gặp Đức Lão Tử Ngài nói, cái thuyết nhơn luân để tạo xã hội cho thế gian. Cái thuyết của Ngài, nếu ta nghĩ Đạo của Ngài thì rộng không biết bao nhiêu, mà Đạo của Ngài đối với Đức Lão Tử nó vẫn thơ sinh, thì chẳng hề khi nào làm thỏa mãn đặng cả nhơn tâm, của thế thái nhơn tình được. Cái thuyết lập xã hội thơ sinh của Ngài đối với Đạo của Đức Lão Tử thì nó già, còn của Đức Khổng Phu Tử còn thiếu niên, còn thơ ấu nên bị Ngài trích điểm.
Thử nghĩ một vị Thánh như Đức Khổng Phu Tử bị một đứa con nít dạy, rồi bị ông già chê mà Ngài cũng khiêm nhượng, nên chúng ta nhìn nhận Ngài là một vị Thánh sống hiển hiện tại thế.
Còn những kẻ tự cao, tự tôn, tự đại bất quá làm hề cho một người thiếu trí coi chơi chớ cái giá trị không đáng gì hết, rốt chuyện thiên hạ coi nó là giả không có giá trị chi đâu, mà tự cao, tự tôn, tự đại.
Bần Đạo nói: Những kẻ tự cao, tự tôn, tự đại là giả dối, người đó không còn cái giá trị gì đặng sống cùng thiên hạ xã hội nhơn quần, vì họ mất cả tinh thần cả hình thể đó vậy.
Ấy vậy mỗi kiếp sống của chúng ta đây, Bần Đạo thường giảng là cái kiếp duyên, chỉ sống đây là một kiếp thường mà thôi còn cái tánh đức tự cao, tự tôn, tự đại không khi nào thiên hạ thương được, nên kiếp sanh ấy xét ra sống chi vô ích không ăn thua gì hết.
Bần Đạo thường giảng, cái sự yêu thương là một của cải Thiêng Liêng, nếu cả toàn thể con cái Đức Chí Tôn tạo nó đặng, thì dầu cho Cửu Phẩm Liên Hoa ở Cực Lạc Thế Giới vô cũng đặng.
Bần Đạo đã nói: Nếu chúng ta làm cho người chí thân ta, trong thân ta, máu thịt ta, thương ta được, giá trị nó là đồng.
Làm cho những kẻ không phải trong thân ta, người ngoại nhân kia, thương ta được giá trị nó là bạc.
Làm cho những kẻ thù địch ta, thương ta được giá trị nó là vàng.
Ba món báu ấy mà tạo đặng, thì cái kiếp sanh này dầu cho Cửu Phẩm Liên Hoa ở Cực Lạc Thế Giới vô cũng đặng.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 30-05-Quý Tỵ nhằm ngày (dl. 10-07-1953).
Q.6/1-20: Năng lực tinh thần đối với hình thể.
ĐỨC HỘ PHÁP Giảng Đạo tại Đền Thánh
(đêm 14 tháng 6 Quí Tỵ)
Đêm nay Bần Đạo giảng về cái năng lực của tinh thần đối với hình thể, hay nói về năng lực của tâm hồn đối với xác thịt muốn nói rõ ra hơn nữa là quyền năng Thiêng Liêng đối với hành vi kiếp sống.
Bần Đạo đọc một tờ báo, luận về Đông Đức đã đứng lên phản kháng cả hành tàng vô nhân đạo của khối Cộng Sản. Tội nghiệp thay! Một nước liệt cường như thế hôm nay đã bị bại trận, nước chia ra làm đôi, dân chịu thống khổ, bị hai quyền năng áp bức.
Một là Đồng Minh dân chủ bên Tây Đức. Khối của Nga tức nhiên Cộng Sản bên Đông Đức, cho nên công thợ lúc ấy không còn quyền, nên phải đình công đặng bảo vệ quyền lợi của họ. Nhứt nhứt dầu phương thế trọng hay khinh đều ngó thấy có tay của Chánh Phủ định hết.
Về công thợ cũng thế! Về chủ nhân cũng thế! Chánh sách của Cộng Sản trước, binh vực về quyền lợi của công thợ tức nhiên lấy cái tài sản của chủ nhân đặng họ mua lòng công thợ. Mua lòng công thợ đặng chi? Đặng giục họ làm Cách Mạng cho thành công, khi đã thành công cho họ rồi, họ nắm chủ quyền trong tay thì họ từ từ đi đến địa điểm của họ. Day qua quyền lợi của chủ nhân họ phế hủy cả quyền lợi công thợ, làm cho dân thợ sống một cách chật vật, thiếu thốn, nghèo nàn. Nhất là một nước mới bị bại trận, nước nghèo dân khổ, thêm bị chủ quyền chuyên chế chịu không nổi, đến đổi dùng hai bàn tay trắng đối thủ với thiết giáp, súng đồng. Họ đã liều hy sinh tánh mạng của họ đả đảo quyền độc đoán của Cộng Sản. Vì thế cho nên Bần Đạo nói: Dầu cho năng lực quyền hành hình thể mạnh bạo thế nào cũng không thế gì đè nén làm cho tinh thần họ lệ thuộc được. Thật vậy, sự thật là vậy.
Chúng ta đã ngó thấy, từ cổ chí kim có cái cường lực hình thể nào làm cho họ khủng khiếp, sợ hãi chăng? Họ chỉ lấy cái thân hình mà làm cái mạnh bạo của họ. Hễ thuận mạng lịnh của họ thì sống, trái mạng lịnh thì họ giết chết. Cái năng lực hình thể có bao nhiêu quyền năng nương cái chết của thiên hạ là căn bản mà thôi, nên làm cho tinh thần họ càng lừng lẫy coi cái chết là thường, thật vậy, cái chết không nghĩa lý gì hết. Trong khi có kẻ vì tình cảnh thống khổ về hình xác của họ mà tự tử, tức nhiên họ tự vận. Họ chết trong giá trị mảy may mà thôi, chớ không phải chắc chắn, đến khi thiên hạ coi cái chết ấy là rẻ, bởi tinh thần chủ quyền thi hài của người cốt yếu là con vật, nếu không có chủ quyền tinh thần thì phải bị hủy bỏ. Còn như muốn bảo vệ tồn tại thì tinh thần phải định chủ quyền của mình, khi tinh thần đã nhứt định nắm chủ quyền ấy trong tay rồi thì không còn lực lượng nào đè nén nó được.
Chúng ta đã ngó thấy. Trước kia Công Giáo tức nhiên Đạo Thiên Chúa hay Đạo Gia Tô bị Judas đè nén một cái quyền mạnh mẽ biết bao nhiêu. Nó đã bắt Đạo, giết Đạo hồi Đạo mới phôi phai, tưởng rằng nền Tôn Giáo hôm nay có quyền làm bá chủ của tâm hồn thiên hạ. Cái chết vì Đạo nên cả Đền Thờ sang trọng của Thánh Giáo Gia Tô hôm nay chúng ta thấy trước mắt, nó đã xây dựng bằng xương máu của các Thánh Tử Đạo đó vậy.
Hồi Đạo Phật xuất thế. Đạo Bà La Môn ỷ nắm quyền Đạo trong tay bắt buộc làm cho thống khổ không thế gì tả được, vì dân NaVa, mà hôm nay Đạo Phật đã lan tràn khắp Ngũ Châu, thì cái mạnh của Đạo Phật sẽ còn tồn tại mãi mãi mà chớ!
Còn Đạo Cao Đài chúng ta đã ngó thấy, nền Chơn Giáo của Đức Chí Tôn, hồi buổi phôi thai thế nào, họ đã dụng quyền lực mưu chước, quỷ quyệt xảo trá, cáo gian, cái tâm vô nhơn đạo họ đã đối với ta, tức nhiên họ muốn liệu phương thế nào tiêu diệt Đạo Cao Đài trong buổi mới phôi thai cho rồi.
Ngộ nghỉnh thay! Cũng thế, không có quyền lực nào đè nén lệ thuộc tinh thần của Đạo được, nên hôm nay Đạo Cao Đài vẫn còn tồn tại và Bần Đạo quả quyết rằng: Nó sẽ tiến mãi tiến đến cực điểm danh dự đặng cứu khổ thiên hạ. Trái ngược lại, nếu thiên hạ còn thống khổ đau đớn chưa có cơ quan nào an ủi chia sớt cho họ. Thực sự ra cái năng lực hình thể mạnh mẽ buộc thiên hạ múa men trước mắt kia không chắc chắn, vì cái quyền năng tinh thần vẫn làm chủ của nó.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 14-06-Quý Tỵ nhằm ngày (dl. 24-07-1953).
Q.6/1-21: Lễ khai trường Huấn Luyện tại Giang Tân.
ĐỨC HỘ PHÁP PHỦ DỤ TRONG DỊP LỄ KHAI TRƯỜNG HUẤN LUYỆN TẠI GIANG TÂN ngày 24 tháng 6 Quí Tỵ (03-08-1953)
Thầy để lời chào các con Thượng Hạ Sĩ Quan Quân Đội.
Thầy đã giao cả sở vọng giáo hóa của đoàn em các con định vận mạng tương lai của Quân Đội trong tay, dầu nên hay hư là do sự khéo léo giáo hóa của mấy con dạy đoàn em lập đức, lập công và định vận mạng tương lai Tổ Quốc của nòi giống.
Các con Sinh viên, Thầy hằng nói với các con rằng: Thầy đã chịu biết bao hoàn cảnh, mà từ thử đến giờ dám chắc các nhà đạo đức chưa có chịu khảo đảo nào như Thầy. Thầy nói thật cùng các con cái tương lai của các con. Thầy trọn giao nơi tay các con định trong buổi đương nhiên bây giờ. Thầy đã nói cả cái gia nghiệp tương lai của Tổ Phụ các con để lại đã 4.000 năm. Thầy đem cho các con làm, không cho các con đi trên đường khác, là tại sao? Vì các con là trai, cái phận cung kiếm của các con lập công, Thầy không phương nào để cho các con đào tẩu trước một phận sự tối Thiêng Liêng, mà các con đã hy sinh xương máu để bảo vệ cho nòi giống các con. Thầy đã chịu nhiều khổ não về mặt Đạo. Thầy làm sao cho không còn quyền năng nào đè nén lệ thuộc các con được. Thầy đã tranh đấu khổ não, thì giờ phút nầy chính mình Thầy để cho các con thoát vòng nô lệ ấy. Các con biết điều ấy cho Thầy ngay vậy!
Từ ngày Thầy ở Hải Ngoại về, các con đã ngó thấy trước mắt những hành vi của Thầy, như lời của Đại Tá Tham Mưu Trưởng nói với các con khi nãy. Thật vậy. Nếu không có cái tinh thần phi thường không có cái trí não quyết định đặng điều nên lẽ hư. Trong cả hai điều ấy, mà định mạng tương lai chắc chắn của Tổ Quốc các con, thì có lẽ các con thấy sự giáo hóa hy sinh Thầy không phải đứng cùng các con, sự thật đó vậy!
Thầy đã nhẫn nại đổi từ mức. Thầy đổi cũng vì định vận mạng tương lai Tổ Quốc của các con đó thôi. Chẳng phải nói cho các con biết đăïng điều ấy, hay là một kẻ thù các con biết, mà Thầy muốn cho toàn thể nhơn loại nòi giống ở mặt địa cầu này điều biết hết nên Thầy thắng là thắng điều đó.
Bảy tám năm nay Thầy đã dìu dắt các con đi trên con đường chiến đấu, vô bờ bến, không mục đích. Trên đường chiến đấu các con đã phí biết bao công trình xương máu mà nó kết liễu ngày hôm nay là định vận mạng trong buổi này. Các con phải có năng lực định vận mạng tương lai của các con cho mỗi đứa tức nhiên các phần tử tự định vận mạng của mình, nên Thầy mới dạy Quân Đội mở Trường Huấn Luyện lại đặng đem cả tinh thần Đạo Đức dạy người, dỗ người, năn nỉ ỉ ôi phục lụy người, nhưng cũng không có đủ, phải nhờ phận kiếm cung của các con có đủ quyền năng định quyết. Thầy nói cái phận kiếm cung của các con phải làm sao cho rõ thiệt dưới bóng cờ "TẬN TRUNG BÁO QUỐC". Nó không phải dùng cái quyền sanh sát và cũng không phải dùng cái quyền bằng gươm đao mà định vận mạng hay buộc người phải tùng phục cái quyền hạn của mình, không đâu! Còn thiếu! Thiếu một cái hồn là: Cái năng lực tinh thần, nếu cái năng lực tinh thần yếu ớt dầu cho các con có một cái đại nghiệp kinh dinh đủ quyền năng giết người, các con cũng không thế nào phục người đặng.
Cổ ngữ có nói: "Giữa mặt trận ta có thể giết Tướng được, chớ cướp chí người không phải dễ ".
Ấy vậy, các con muốn thắng thì trong tay các con, vì nó đã hy sinh xương máu rất nhiều rồi, nên cái quyền năng ấy các con phải xét đoán nghe sợ cho lắm mà định phận của mình.
Q.6/1-22: Luận về Chơn Giả.
ĐỨC HỘ PHÁP Thuyết Đạo tại Đền Thánh
(Đêm 29 tháng 6 Quí Tỵ)
Đêm nay Bần Đạo luận về hai chữ "Chơn" và "Giả".
Hễ gọi là Chơn thế nào cũng gọi là Chánh. Nhứt là về Đạo thuyết. Còn Giả gọi là Tà. Hai tiếng biện luận từ thử đến giờ nhứt là phần đông kẻ tu hành ra nơi miệng thường khoe mình tâm chơn. Bởi cái chơn ấy chúng ta phải mượn tiếng của người Pháp Le Vrai est enrapport avec La Réalite nó phù hạp với chí lý. Le vrai est en rapport avec le bon Raisonnement. Giải nghĩa là: Chơn, chơn ấy làm thế nào cho chí chơn, Le vrai est en rapport. Cái chơn ấy nó phải ăn hiệp với tánh chất của chơn lý.
Hai chữ Chơn, chữ Giả đã để cho mặt Đời luận biện không biết bao nhiêu mực viết, họ muốn tầm chơn ở bên duy vật: Matérialisme tức nhiên là thuyết chí, lấy cái sống làm căn bản cái sống ấy nó hiện ở trong con vật của đương nhiên bấy giờ ở thế gian nầy, ta sống giờ nầy đây phải tìm phương pháp nào để bảo tồn được cái sống ấy, dầu cho nó vô nhân đạo tàn ác cả hành vi bất chánh thế nào miễn bảo vệ cái sống còn tồn tại của họ. Họ chỉ bảo vệ sao cho được hơn cái sống của kẻ khác, họ cho là chơn của họ. Phần nhiều cái lý thuyết ấy ở nơi miệng của kẻ giục tấn ở đường đời của họ hơn hết thảy.
Ở mặt thế gian nơi giữa thế kỷ này cái thuyết ấy nó đã làm cho thiên hạ mùi mẫn mê theo. Cái chơn lý của họ gọi là lý thuyết độc đoán, thật vậy!
Sống giữa thế kỷ nầy một nền văn minh phát triển máy móc nếu sống mà không có trường hợp tranh đấu đặng bảo vệ sanh mạng, thì thấy cái sống của con người ta khó khăn không biết thế nào, vì lẽ khó khăn ấy, trong trường hợp tranh đấu không có đủ năng lực, nên dường như con người bị đào thải ra khỏi xã hội nhơn quần. Vì cớ cho nên họ tranh đấu đặng sống cho lấy đặng, có khi trong trường tranh đấu họ đắc thế gặp đường chiến đấu đã đa số hơn họ. Họ làm chúa các sanh mạng trong tay họ để đoạt cái sở năng ấy rồi, thì họ gọi là chơn lý, gọi là hay hơn hết, là chơn thật chánh đáng hơn hết. Đó là luận theo cái thói tục của Đời. Còn luận theo Đạo các vị Giáo Chủ trước khi đoạt Pháp đặng, thì họ ngó thấy ngoài ra tâm hồn của họ với họ, ngoài ra họ với họ, không có cái nào chơn thật ở tại mặt thế gian nầy. Bởi cớ cho nên họ đi kiếm cái ngã tướng của họ, biết lấy họ mà thôi, cái thuyết ấy ở bên Châu Âu ông Pythagore và các nhà Triết Học bên Âu Châu đã tìm được chơn lý ấy, tiếng Pháp gọi là: Conscience, là chỉ người tìm biết lấy ý thức lương tâm người thôi. Họ thử nghĩ cái đường lối sanh sống với bạn đồng sanh của họ là một trường hợp giả dối không có cái gì thiệt trước mắt họ hết. Chính mình cái sống của họ cũng giả với họ, tức nhiên họ biết cái mảnh thân của họ dối gạt họ.
Muốn tìm cho biết cái chơn được thì họ phải tìm cái chơn trong tinh thần với tâm hồn của họ mà thôi, lấy tâm hồn họ đối với tinh thần, lấy ngã tướng chơn thật của họ chớ không phải với ai.
Vì cớ cho nên cái thuyết của Tiên gia "Lánh tục tầm Tiên" vì lẽ đó.
Ta thử để dấu hỏi (?) Một thuyết duy vật thế đó, còn một thuyết duy tâm thế đó, hỏi chớ cái nào thiệt?
May thay Bần Đạo hồi ở tại Thủ Đức nhờ Đức Chí Tôn cho Đức Lý Giáo Tông đến giáo hóa thì hai đứa luận biện về lý thuyết ấy rất đáo để. Đức Lý Giáo Tông mới lấy thuyết ấy nói rằng: Sự thật làm thế nào mình biết mình thật mới ra thật, chưa làm gì thật chưa biết mình là thật, mình muốn tìm đặng biết là chữ thật, thì đã ngó thấy cái sống của mình, nó biết mình không có cái gì thật hơn là phải chia cái sống đặng đồng sống.
Trong khi ta đã thọ một điểm tinh của cha, đã thọ một huyết bổn của mẹ đặng tượng hình của ta, thì ta đã thiếu nợ máu thịt thiếu nợ sống của ta rồi đó, nếu ta bỏ cái nợ đó, ta gọi là chơn thì phi lý.
Bây giờ ta sống ta nhờ có xã hội nhơn quần tức nhiên kẻ đồng sống cùng ta, giúp ta sống, họ chia từ hột cơm, manh quần tấm áo, ta sống ta chia sớt với họ phương nào? Không thể cho ta hết, trong khi ta đã nhờ kẻ nào mà ta đã sống, ta bảo kẻ đó không khi nào là chơn thật.
Ấy vậy, theo cái thuyết của Đức Chí Tôn đã nói rằng: "Cái sự chơn thật của các con thì các con phải thùy từ mẫn khổ. Giờ phút nào các con thấy trước mắt các con đầy những sự khổ não mà thiên hạ họ không có phương nào giải khổ cứu khổ ấy đặng, các con cũng không an ủi nâng đỡ cho họ bớt khổ, thì các con không khi nào đạt chánh giáo đặng".
Chúng ta đã ngó thấy, Đức Chúa Jésus đã chia từ miếng bánh mì, chia từ miếng cá cho kẻ nghèo.
Ta ngó thấy Đức Thích Ca đi hành khất đem về cấp Cô Độc Viện để nuôi kẻ nghèo đói.
Ta ngó thấy Đức Lão Tử, là một vị quan nhà Châu, mà Ngài còn bỏ quan đi theo dạy một học trò là ông Doản Hỉ. Vì lẽ bất công của xã hội nhơn quần, bất công của cả cái sống ở thế gian, nên cái phương an ủi tâm hồn ta ngó thấy từ trước đến giờ không có vị Giáo Chủ nào không lấy căn bản thùy từ mẫn khổ làm chơn thật.
Ấy vậy, nền chơn giáo nào mà không theo thuyết của Đức Chí Tôn và Đức Lý đã dạy, dầu cho cái thuyết họ cao siêu thế nào, nhưng họ chưa có thể chia khổ cùng nhơn loại, tức nhiên chúng ta để dấu hỏi (?) mơ hồ không phải là chánh giáo.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 29-06-Quý Tỵ nhằm ngày (dl. 08-08-1953).
Q.6/1-23: Luật thương yêu.
ĐỨC HỘ PHÁP Thuyết Đạo tại Đền Thánh
(đêm 14 tháng 7 năm Quí Tỵ)
Đêm Bần Đạo giảng Luật Thương Yêu, Quyền Công Chánh của Đức Chí Tôn đã đến ký Hòa Ước với chúng ta, để cả chơn truyền trong tâm hồn của ta.
Bần Đạo giảng về Luật Yêu Thương và Quyền Công Chánh đối với lẽ sống hiện tại của nhơn loại. Chúng ta đã ngó thấy, cả toàn thể nhơn loại nơi mặt địa cầu nầy, các dân tộc, các quốc gia liệt cường bị đảo lộn rối loạn, nhơn loại không được hưởng thái bình của Đức Chí Tôn hứa hẹn là do nơi khuôn Luật Thương Yêu và Quyền Công Chánh không có hiện tượng tại thế nầy.
"Nhơn tâm chi linh" Tâm con người ta bao giờ cũng vọng niệm thay đổi và theo luật định thiên nhiên của họ. Họ muốn dung hòa cả tâm lý nhơn loại, nhứt là hạng thượng lưu trí thức của nhơn loại đã đặt quá nhiều luật pháp, quá nhiều quyền hành, mà hễ càng đào tạo nhiều luật pháp và nhiều quyền hành chừng nào thì nhơn loại càng ly loạn chừng nấy, ở các nước giờ phút nầy cả nền chánh trị toàn thể nhơn loại bị đảo lộn. Họ muốn tìm cái giải pháp làm cho dung hòa tâm lý đặng đem cái hòa bình thiệt hiện
Hại thay! Họ đã tìm tàng không biết bao nhiêu phương pháp, họ định không biết bao nhiêu luật lệ mà không kết liễu gì hết. Bởi có các luật lệ ấy tùng theo luật tương đối nó vẫn mâu thuẩn nhau mà thôi, mặt luật duy nhứt là mặt Luật Thương Yêu mà thiên hạ quên lửng thiên hạ đã bỏ nó.
Hại thay! Bỏ nó thì nhơn tâm không có căn bản không có chuẩn thằng mực thước. Chúng ta thử nghĩ, trong một gia đình nếu không khuôn luật thương yêu ấy không có, thì chồng không thuận vợ, vợ chẳng thuận chồng, con không thuận cha, cha chẳng thuận con, tôi không thuận chúa, chúa chẳng thuận tôi. Hỏi ta lấy cái tối thiểu luận ra cái tối đại kia, trong gia đình ta chỉ dụng cái gia nghiêm mà thôi, gia nghiêm là khuôn luật thương yêu trong gia đình. Nếu ai đi ngoài vòng luật ấy thì không đặng, gia nghiêm buộc họ phải tùng theo khuôn luật thương yêu ấy mà thôi.
Chúng ta thử hỏi? Một bằng cớ hiển nhiên con ta không phải lớn hơn ta, mà tới chừng khuôn luật thương yêu bắt buộc ta tùng theo khuôn khổ thiên nhiên của nó.
Ngộ nghỉnh thay! Con ta đủ quyền sai khiến ta, vì tình thương yêu lợi dụng ta được mà thôi. Chúng ta thử lấy cái tối thiểu ấy so sánh với cái tối đại cả nhơn loại nếu mất luật thương yêu thì đem chìu sống của nhơn loại đáo đến nước tương tàn tương sát giết hại lẫn nhau, làm cho mặt địa cầu nầy phải chinh nghiêng, làm cho tâm lý nhơn loại đảo điên.
Chúng ta đã ngó thấy chán chường, thiên hạ đã nói tìm hòa bình, mà trong hòa bình ấy luật thương yêu không có hiện diện không có kết liễu hình tướng được, thì họ chỉ mò trăng nơi đáy biển mà thôi.
Cái khuôn luật thương yêu nó làm mực thước cho chúng ta đặng định quyền công chánh trong một gia đình, nếu vợ không công chánh với chồng, chồng không công chánh với vợ, thì gia đình không thể gì hòa đặng. Vua không công chánh với tôi, tôi không công chánh với vua, không lấy tâm não làm mực thước thì trong nước không có hòa đặng. Nhơn loại cả toàn thể không có công chánh đối đãi với nhau, thì nhơn loại ly loạn mãi thôi, chẳng hề khi nào hưởng được cái hạnh phúc hòa bình.
Ấy vậy khuôn luật của Đức Chí Tôn để trong cửa Đạo, là khuôn Luật Thương Yêu và cái quyền hành Công Chánh.
Giờ phút nào nhơn loại biết lợi dụng mặt luật và quyền năng ấy mới đem cái hạnh phúc hòa bình cho nhơn loại tương lai tới đây. Bằng chẳng vậy, thì cái nạn tương tàn, tương sát vẫn tiếp tục mãi mà thôi.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 14-07-Quý Tỵ nhằm ngày (dl. 23-08-1953).
Q.6/1-24: Khánh thành Văn phòng Ban Quản Trị chợ Long Hoa.
KHÁNH THÀNH VĂN PHÒNG BAN QUẢN TRỊ CHỢ LONG HOA, ngày 15-7 Quí Tỵ
Nếu nhơn loại biết trụ cả đức tin lại làm một khối thì không có chuyện gì mà nhơn loại không làm đặng. Bần Đạo nhận thấy được cái sự nghiệp kinh doanh do tinh thần đoàn kết, cái đời sống an nhàn no ấm do công bình nhân ái của mấy em tức là Bần Đạo đã được hưởng một phần hạnh phúc tại thế đó vậy.
Qua năm tới đây, Bần Đạo rất trông cậy ở lòng nhiệt thành của toàn thể hãy giúp cho Ban Quản Trị và Hội Thánh hoàn thành Chợ Long Hoa thiệt (vì hiện giờ chỉ là tạm thôi). Khi thiệt thọ rồi Bần Đạo dám chắc rằng đời sống của mấy em sẽ tăng thêm không biết bao nhiêu tươi đẹp nữa và ngôi nhà chung của chúng ta là một Tông Đường để đào tạo đám thơ sinh tiếp tục làm Thánh Thể Đức Chí Tôn thừa chí đem hết năng lực, tâm tình đặng cứu khổ chúng sanh.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 15-07-Quý Tỵ nhằm ngày (dl. 24-08-1953).
Q.6/1-25: Phủ dụ trong Lễ Khánh Thành Văn phòng Ban Quản Trị Long Hoa Thị.
ĐỨC HỘ PHÁP để lời phủ dụ trong cuộc Lễ Khánh Thành Văn phòng Ban Quản Trị Long Hoa Thị ngày 16 tháng 7 Quí Tỵ
Trước khi mở lời Bần Đạo xin để lời cám ơn các Chức Sắc Thiên Phong, các Sĩ Quan, các nhà cầm quyền của cơ quan Chánh Trị Đạo.
Bần Đạo khi nãy tới giờ nghe mấy em tỏ cái tình cảm đối với Bần Đạo. Về mặt công nghiệp cỏn con phận sự Thiêng Liêng của Bần Đạo phải làm. Nhứt là mấy em nam nữ lưỡng phái, các con cái yêu dấu của Đức Chí Tôn phải hiểu rõ sứ mạng Thiêng Liêng của Bần Đạo là gì? Rồi mấy em mới đủ tinh thần nghị lực định quyết cái phận của Đạo đối với Đời.
Giữa thế kỷ 20 nầy cả tinh thần toàn thể nhơn loại nơi mặt địa cầu nầy bị thuyết duy vật đã làm cho họ điên đảo cả tâm hồn, nếu Bần Đạo không nói rằng: Nhơn loại trong buổi nầy bị thống khổ về tâm hồn thì không buổi nào đã có Đức Chí Tôn đến cũng vì lẽ nhơn loại thống khổ ấy. Ngài đến lấy Quốc Đạo của toàn thể mấy em của Tổ Phụ mấy em để lại tức nhiên là Đạo Nho đó vậy.
Thật, Bần Đạo không có ngờ một văn hiến một phong hóa cổ truyền quí hóa Tổ Phụ mấy em đã để lại cho mấy em, ngày hôm nay nó trở thành một cái báu vô giá cho nhơn loại. Thật, Qua không có buổi nào tưởng đến, rồi về phần tâm hồn về phần trí thức tức nhiên phần hồn của nhơn loại.
Bần Đạo tưởng Đức Chí Tôn đã đến cho nhơn loại một huờn thuốc phục sinh của họ do nơi kho vô tận Tổ Phụ của mấy em để lại tức nhiên Đức Chí Tôn đến lấy Nho Tông đặng chuyển thế, ngoài ra nữa Đại Từ Phụ lại lập Hội Thánh.
Hôm nay Bần Đạo đứng đây nói rõ Hội Thánh của Ngài là gì? Bần Đạo đã nói rằng: Vì nhơn loại thống khổ nên Đức Chí Tôn đã đến đặng chia khổ cùng con cái của Ngài. Hội Thánh đến thay thế hình ảnh xác thân của Ngài, chung khổ cùng con cái của Ngài lẽ dĩ nhiên là vậy. Biểu sao Ngài không giao Hội Thánh của Ngài. Nhứt là từ ban sơ tới giờ. Bần Đạo là người biết điều ấy hơn hết. Ngài giao cái cơ cứu khổ cho con cái của Ngài thay thế hình ảnh cho Ngài đặng chia khổ cùng con cái của Ngài.
Thầy đã nói: Dưới bóng cờ cứu khổ của Đức Chí Tôn tức nhiên cả Chức Sắc Thiên Phong cả Cơ Quan Chánh Trị Đạo, Bần Đạo đã đào tạo sứ mạng trọng yếu hơn hết là làm thế nào cho mấy em hưởng đặng hạnh phúc giảm khổ, Qua nói thật, có chứng Ngài Trần Khai Pháp ngồi đây: Qua buổi nọ Đạo đương nghèo khổ hèn tiện bị mọi nỗi áp bức khó khăn, biết phận hèn hạ Bần Đạo để cả tiếng nói ngay cùng Chánh Phủ Pháp rằng: Ngày giờ nào toàn thể con cái Đức Chí Tôn đạo còn nghèo khổ thì ngày giờ ấy Bần Đạo không biết tội tình gì khác hơn là làm cho họ sống với mọi nỗi vinh quang hạnh phúc. Mấy em trong buổi nghèo khổ kia thấy bắt gió nắn hình mà Bần Đạo còn cố làm thay, huống chi hôm nay đã chung về ngồi trong lòng của Đức Chí Tôn, tức nhiên ngồi nơi Đền Thánh, chung vào trong lòng yêu ái của Ngài, phận sự của chúng Qua bảo vệ sự sống của mấy em cho đặng hạnh phúc là phận sự trọng yếu của cả Chức Sắc Thiên Phong Lưỡng Đài đó vậy.
Hôm nay Qua đã đặng hạnh phúc, hân hạnh được cả toàn thể Thánh Thể của Đức Chí Tôn giao phó cái sứ mạng trọng đại của Hội Thánh. Qua tạm làm Anh Cả của con cái Đức Chí Tôn hôm nay, thì mấy em thử nghĩ, cái đó làm cho Qua đã lo lắng quá lẽ mà chớ! Qua chỉ sợ cho mấy em, đời của mấy em hèn.
Hôm nay sau chỉ có 2 năm Qua còn nhớ lại, khi Qua ra khỏi nhà Tịnh Trí Huệ Cung, về nơi đây Qua ban phép lành nơi Chợ Long Hoa là ngày mồng 2 tháng 5 năm Tân Mão khởi sự làm Chợ Long Hoa thì tháng 7 năm Tân Mão cho tới tháng 7 này thật ra chỉ có 2 năm mà thôi. Mấy em coi cái đức tin của con người, nếu mà nhơn loại trụ cả đức tin lại làm một khối thì không có gì mấy em làm không làm đặng, Qua vẫn biết cả cái sự nghiệp kinh dinh do tinh thần hoạt bát của mấy em, làm cho Qua được hưởng hạnh phúc trước mắt, cái đền ơn rất trọng hậu của mấy em đối với Qua đó vậy.
Thử nghĩ, mấy em ban thưởng cho Qua có hơn điều ấy chăng? Không, Qua chỉ ước một điều là mỗi nhà của mấy em đều đủ sống hạnh phúc nuôi sấp nhỏ, nuôi cho ăn học, làm thế nào cho cả gia đình của mấy em được vinh hiển, sang trọng, Qua sở vọng hơn hết là điều đó.
Chợ Ngã Năm mấy em đừng tưởng có phép tắc huyền bí, Qua chỉ thấy chợ Ngã Năm rất sung túc mà lại ủm thủm chật chội, Qua chỉ biết rằng: Cái tinh thần của mấy em đi cao tiến triển mạnh, hơn nữa mấy em do vị tổ chức của mấy em mà thôi, đủ thấy chợ Ngã Năm thế nào? Đủ địa thế phương tiện họat động vĩ đại hơn nữa.
Vì cớ cho nên Qua mới lấy khu rừng 47 mẫu, từ thử chưa có chợ nào có đặng 47 mẫu, mấy em ngó thấy chừng vài năm nữa đây sẽ chật hết, Qua đã ngó thấy chen chúc với nhau rồi đó, Qua liệu phương làm sao mở mang rộng ra nữa cho mấy em. Nếu Qua nói một điều trọng yếu của Qua hơn hết, trong năm tới đây mấy em giúp Ban Quản Trị; cả toàn thể con cái Đức Chí Tôn nơi Chợ Long Hoa, giúp thuế cho Hội Thánh làm thành tựu cái chợ thiệt, mấy em sẽ ngó thấy một cái hoạt động vĩ đại mà mấy em làm thành chợ Long Hoa thiệt, thiệt thọ rồi cái sự sống của mấy em, Qua dám bảo kê rằng: Nó sẽ tăng thêm không biết bao nhiêu nữa mà chớ, mà hễ cái sống của mấy em mạnh mẽ chừng nào thì tương lai của đoàn hậu tấn Qua giao phó sẽ được bảo đảm chừng nấy. Qua mơ ước sao, mọi nhà của Tông Đường mấy em trẻ thơ sinh sau kia là con cái của mấy em đào tạo nên, đặng một ngày kia nối cho chúng Qua tiếp tục làm Thánh Thể của Đức Chí Tôn thừa chí đem hết năng lực tâm tình của nó, đặng cứu khổ thiên hạ, ấy là điều mơ ước của Qua. Điều Qua mong ước mấy em giúp nó đặng định lương lai cho Đạo.
Mấy em nhớ rằng: Cái vinh quang Tổ Phụ của mấy em đó vậy.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 16-07-Quý Tỵ nhằm ngày (dl. 25-08-1953).
Q.6/1-26: Bổ Chức Sắc Bộ Nhạc đi Hành Đạo.
ĐỨC HỘ PHÁP để lời phổ hóa trong cuộc Lễ Phát Thánh Lịnh cho Chức Sắc Bộ Nhạc đi hành đạo Nam, Trung, Bắc và Kim Biên Tông Đạo ngày 18 tháng 7 năm Quí Tỵ
Thưa cùng Chư Vị cầm quyền các Cơ quan Chánh Trị Đạo.
Hôm nay Bần Đạo đến dự lễ nầy trọng yếu đặng mừng cho cả Chức Sắc Bộ Nhạc lãnh sứ mạng đặng chỉnh đốn cả Lễ Nhạc y theo chơn truyền của Đạo.
Các em, mấy đứa nhỏ, Thầy lấy làm vui mừng thấy cả tâm Đạo của mấy em biết chọn một con đường lập thân danh khéo léo. Qua thường nói với mấy em rằng: Nếu một nền Tôn Giáo mà không có Lễ không có Nhạc thì cả cái mỹ pháp của nó, dầu Thể Pháp, Bí Pháp cũng vậy, chẳng hề khi nào đặng tốt đẹp hoàn mỹ, Qua có giảng cho mấy em biết, vì cớ nào Nhạc là Lễ, mấy em biết khuôn khổ của Nhạc, do tinh thần xuất hiện, Qua chỉ rõ một bằng chứng, dầu cho cả thảy mấy em trong Nhạc Sĩ cho tới chức lớn của Bộ Nhạc là Tiếp Lễ Nhạc Quân, mấy em cầm một cây đờn mà đờn thì không có đứa nào giống đứa nào hết, bởi cả tinh thần ra trong ngón đờn của mấy em, đó là cá nhân của mấy em đó vậy.
Ấy vậy, nhạc nó sản xuất trong tinh thần, mà tinh thần là gì? mà tinh thần mới thiệt là Đạo, tại sao Nhạc là Lễ? Lễ ngoài Đời mấy em đã ngó thấy một bằng cớ hiển nhiên, là khi mấy em đờn hòa cùng nhau, tuy vân ngón đờn của mấy em mỗi đứa đều khác nhau, hay dở đặc biệt mỗi đứa đều không giống nhau, nhưng mà cái nhịp trường canh mấy em phải theo nó mà thôi, nếu không tùng nó thì mấy em chẳng hề khi nào hòa nhạc cùng kẻ khác được.
Ấy vậy, trong khuôn khổ hòa với nhau, ấy là Lễ. Vì cớ cho nên Qua giảng tiếp cho mấy em hiểu, Lễ và Nhạc do âm thinh đó vậy.
Ngộ nghỉnh thay! Giờ phút nầy Qua cho mấy em biết, chỉ có dân tộc Việt Nam về văn hóa Nho Tông của chúng ta mới có đặng một cái Nhạc là đều do nơi âm thinh và điều Qua đương nói với mấy em, cái kinh dinh của các sắc dân trên mặt địa cầu nầy, cả các quốc dân xã hội điều nhận điều đó. Nước Trung Hoa hay các sắc dân chịu ảnh hưởng cái văn minh tối cổ của Nho Tông chúng ta mới có Nhạc, âm thinh ấy là Lễ. Bằng cớ hiển nhiên, chính Qua đọc một tờ nghị luận tại nơi Liên Hiệp Quốc, họ luận rằng: Nếu cả thảy các dân tộc nơi mặt địa cầu nầy mà đặng giữ gìn cho còn Lễ cũng như nước Tàu đã được Lễ tối cổ của họ, cả những điều nghịch hẳn cùng nhau, khởi hấn cùng nhau giữa hội nghị của Liên Hiệp Quốc chẳng hề khi nào xảy ra, nếu có xảy ra là tại họ vô lễ cùng nhau mà chớ. Do nơi vô lễ ấy mà nhơn loại chịu thống khổ hai phen đại chiến hoàn cầu, mấy em nghĩ, họ vô lễ cùng nhau cho đến nước họ đập bàn ghế ra khỏi Hội nghị của Quốc Tế là tại họ thiếu Lễ, mà Lễ là Nhạc. Qua lấy một bằng cớ rõ ràng, người Pháp đã nói: La musique adoucit les moeurs. Nhạc làm cho phong hóa luân lý tốt đẹp dịu dàng, mà không phải một mình nước Pháp mà thôi, mà cả các liệt quốc Âu Châu đều cũng nói.
Ấy vậy, giờ phút nầy Qua ký Thánh Lịnh cho mấy em đi các nơi, cốt yếu đặng mấy em đen cái ngôn ngữ điều hòa, lấy một ống tiêu mà Trương Lương đã làm cho tan vỡ một đạo binh hùng tráng của Hạng Võ, đánh tan nát cơ nghiệp của Sở, thâu đạt cơ nghiệp ấy đem lại cho nhà Hớn, duy có ống tiêu Trương Lương mà thôi.
Giờ phút nầy, Qua giao cho mấy em một sứ mạng làm sao cho thiên hạ nghe ống tiêu Thiêng Liêng của mấy em đặng tinh thần nòi giống mấy em đứng dậy định tương lai vinh quang cho mình, với cái giọng ngọt dịu của mấy em, làm cho thiên hạ thức tỉnh, diệt tiêu bớt hung hăng bạo ngược, trái lại đem đến một con đường hòa huởn, cao quí, tốt đẹp, êm dịu đem lại cái đạo đức tinh thần chiến thắng để cứu vãn sanh mạng loài người. Bởi giờ phút nầy họ đang đi đến con đường diệt vong mà chớ.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 18-07-Quý Tỵ nhằm ngày (dl. 27-08-1953).
Q.6/1-27: Thuyết về Đại Đoàn Kết.
ĐỨC HỘ PHÁP Thuyết Đạo tại Đền Thánh
(đêm 30 tháng 7 năm Quí Tỵ)
Thưa cùng chư Chức Sắc Thiên Phong và chư Đạo Hữu Nam Nữ Lưỡng Phái.
Khi Bần Đạo đến Sài Gòn đặng mở cuộc Hội nghị thì hay tin rằng: Trong các Tôn Giáo, nhứt là bên Công Giáo đã ra lịnh cho toàn Tín Đồ của họ đều làm lễ cầu nguyện, đặng cho các lực lượng Quốc Gia tinh thần cũng như thể chất, hiệp nhứt cùng nhau, để tổ chức cho thành vấn đề "Đại Đoàn Kết" của toàn thể Quốc dân Việt Nam, hầu làm hậu thuẩn cho Đức Quốc Trưởng Bảo Đại thương thuyết cùng Pháp đặng đem địa vị của mình đứng trong Liên Hiệp các Quốc Gia.
Còn vấn đề thiệt hiện độc lập của chúng ta nó không còn là vấn đề nữa, dầu muốn, dầu không quyền độc lập chúng ta phải thâu hoạch tự giành lại mà thôi.
Thật sự cái hại nhứt trong nước từ cổ trào tới bây giờ chỉ có nhiều mưu chước, trước kia nhà Vua cũng thế, mà sau nầy quyền lực của Pháp cũng thế. Họ dùng cái phương pháp chia rẽ phận sự, nhứt là sắc dân Việt Nam chủng tộc của chúng ta hay bị cái nền móng chia rẽ hơn hết, đừng nói chi ngoài xã hội nhơn quần, nơi trong gia đình kia cũng có tinh thần chia rẽ nữa, rồi Bần Đạo nghĩ chẳng khác gì một cây cổ thọ kia với niên cao trong bao nhiêu năm, mà bị cái tay huyền bí của thiên hạ áp bức thân thể nó để làm cây kiển họ chơi.
May thay! Đức Chí Tôn đem lại trường hợp ấy nó không thể còn tồn tại được nữa. Chính mình Bần Đạo lãnh cái sứ mạng đem cây kiển của thiên hạ áp bức trồng xuống một miếng đất phì nhiêu, để thành hình cây cổ thọ, đặng chi? Đặng cho toàn thể nhơn loại hùn núp dưới cái bóng mát của nó.
Thật sự ra, kỳ Bần Đạo đi đây vì lẽ đến mở cuộc Hội nghị "Đại Đoàn Kết" mà thôi, chớ chưa có Liên Hiệp Quốc Gia thống nhứt đại đoàn kết được. Cái tay bí mật đủ quyền hành, đủ năng lực đã tìm những mưu mô bí mật để phá hoại. Nhưng Bần Đạo cho con cái Chí Tôn hay rằng: Đã có thiên mạng nơi mình, Bần Đạo quả quyết không có tà mưu nào làm trở ngại đường tiến triển và giải thoát Quốc Dân Việt Nam của Đức Chí Tôn đã phó thác cho Bần Đạo. Không có cái quyền năng nào làm trở ngại đường tiến triển của nó đặng, và Bần Đạo quả quyết thế nào cũng thắng mà thôi.
Cái phương pháp đầu tiên của Bần Đạo là Bần Đạo kêu gọi tất cả các Đảng phái Quốc Dân Pháp và Việt, đừng xảo mị mưu chước cùng nhau, phải lấy thuyết tâm chánh đặng cư xử với nhau thì mới có thể giải hòa và đem quyền lợi hạnh phúc cho hai sắc dân được. Nhứt là dân Việt Nam đã đòi nền độc lập và thâu hồi cái đại nghiệp tinh thần của chúng ta đã 4.000 năm văn hiến, phong hóa chánh trị đường lối mà từ Thượng Cổ đến giờ các quốc dân của toàn thể nhơn loại đã chịu biết bao ách nước, nạn dân, cũng lắm khi muốn thâu hoạch cho kỳ được nền độc lập ấy.
Hại thay! Có một điều rất mắc mỏ là họ hy sinh không biết bao nhiêu xương máu, trước kia cũng thế mà nay cũng thế, giờ phút nầy chúng ta quyết hy sinh để đạt cho kỳ đặng hoàng đồ của Tổ Phụ ta đã truyền lại.
Hội nghị sơ khởi "Đại Đoàn Kết" Bần Đạo đã định quyết theo đuổi hai năm nay mới thiệt hiện đặng, dầu cho những trở lực nào mạnh mẽ bao nhiêu bất quá là làm cái vị trí mà thôi, chớ không khi nào ngăn cản được cái năng lực tranh đấu của chúng ta được.
Bần Đạo mở cuộc Hội nghị "Đại Đoàn Kết" đặng tổ chức các Ủy Ban liên lạc đi từ Nam chí Bắc, đặng thống hiệp các lực lượng Quốc Gia lại làm một và y theo lịnh của Đức Hoàng Đế Bảo Đại đã phó thác cho Bần Đạo, lại lập một Ủy Ban đặng đem ra ký hòa ước cùng Pháp chớ Chánh Phủ không còn quyền ký hòa ước nữa mà lại là để cho quyền của Dân định liệu.
Đức Quốc Trưởng muốn vậy đặng một ngày kia Quốc Dân Việt Nam không thể nói, ký hòa ước với Pháp do một mình Ngài hay Chánh Phủ của Ngài. Ấy là Ngài muốn thiệt hiện ba chữ "Dân Vi Quí" của Ngài, kể từ hôm nay đã gọi dân quyền, nên Bần Đạo sợ ngày sóc vọng ở nơi Thánh Địa con cái của Đức Chí Tôn trông ngóng. Bần Đạo lật đật về cúng sóc vọng đặng tỏ cái hành trình buổi hội cho con cái Đức Chí Tôn biết, rồi Bần Đạo còn phải trở xuống tiếp tục hội nữa, để đem cái mục đích tối yếu, tối trọng đặng lập thành Quốc Gia thống nhứt và cả toàn thể Quốc Dân thống nhứt, Bần Đạo sẽ tiếp tục đi Hội Nghị Quốc Dân toàn quốc.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996:
Tháng 07 âm lịch năm Quý Tỵ (tháng thiếu) không có ngày 30. Ngày âl. 29-07-Quý Tỵ nhằm ngày (dl. 07-09-1953).
Q.6/1-28: Vía Đức Lý Giáo Tông.
ĐỨC HỘ PHÁP Thuyết Đạo đêm 17-8 Quí Tỵ tại Đền Thánh
(Vía ĐỨC LÝ ĐẠI TIÊN)
Đêm nay là ngày vía của Nhứt Trấn Oai Nghiêm, kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Đức Lý Giáo Tông chúng ta lấy làm hân hạnh nhờ ơn Đức Chí Tôn ban cho chúng ta một người Anh Cả Thiêng Liêng hiển linh quyền năng vô đối. Bần Đạo nhớ lại hồi buổi ban sơ mới Khai Đạo, thật ra Bần Đạo không có đức tin gì hết, không có đức tin đến nước Đại Từ Phụ tức cười. Ngài đến nhà Bần Đạo năm Sửu dạy cả mấy Anh Lớn ngày nay là Chức Sắc của Đạo, đi đến mọi nhà, thật ra Đức Chí Tôn đến thăm, đến viếng mọi con cái của Ngài, Bần Đạo không đức tin gì hết nghe nói Tiên giáng đi theo nghe Thi chơi, làm cho Đại Từ Phụ phải tức cười. Ngài cho Bài Thi ai nấy cũng tốt, duy có Bài Thi của Bần Đạo rất dị hợm như vầy:
THI
Ngao ngán không phân lẽ thiệt không,
Thấy thằng áp út quá buồn lòng.
Muốn giàu Thầy hứa đem cho của,
Cái của cái công phải trả đồng.
Đại Từ Phụ còn thêm hai chữ "Nghe con" cho đến bảy tháng lúc xuống ở Thủ Đức, năm thiên hạ bị bịnh chướng, khi không khởi phù mình rồi chết, nhứt là ở tại Thủ Đức, lắm bịnh nhơn quá chừng. Đức Chí Tôn biểu xuống ở Thủ Đức cứu bịnh cho họ trong bảy tháng xuống ở Thánh Thất của Đạo, nhờ Đức Lý giảng dạy với ngòi bút, trọn bảy tháng trường mới biết Đạo. Có cái hay ho hơn hết là những điều gì Ngài dạy trong Cơ Bút là những sở hành trong kiếp sanh của Bần Đạo.
Bần Đạo làm chứng một Đấng mà Đức Chí Tôn đã lựa làm Anh Cả của chúng ta linh hiển lạ lùng, không cần lập đi lập lại, đối với Chức Sắc tức nhiên cả Thánh Thể của Đức Chí Tôn Bần Đạo cốt yếu nói cho toàn con cái của Ngài nam, nữ lưỡng phái phải định tâm và kiên cố đức tin của mình, các việc Đức Chí Tôn tiên tri, Bần Đạo vừa nói từ từ, nói đủ hết, Bần Đạo thú thật nhờ cái linh hiển của Ngài, nhờ Ngài giáo hóa nên Bần Đạo hôm nay được khối đức tin mạnh mẽ to tác. Nếu không có nhờ Anh Cả vô biên linh hiển ấy chắc là phận sự yếu trọng của Bần Đạo hôm nay chỉ mơ hồ, đức tin yếu ớt, thiếu đức tin, thiếu cương quyết, thiếu tâm Đạo vững chắc. Bần Đạo tưởng nếu ba điều ấy thiếu thì nền chơn giáo không được nên hình như thế nầy, cả thảy con cái Đức Chí Tôn đều biết không có nền chơn giáo nào chỉ có hai mươi mấy năm mà đặng bành trướng, danh thể của nó cao trọng truyền bá một cách mau chóng, như nền Đạo Cao Đài của Đức Chí Tôn. Hôm nay Bần Đạo chứng chắc quả nhiên như vậy, cái năng lực của Đạo hôm nay được như thế này là nhờ Đức Lý Đại Tiên cầm quyền Thiêng Liêng vô đối, nhờ người Anh Cả của ta là Đức Lý Giáo Tông điều khiển quyền năng vô hình của Ngài. Bần Đạo hôm nay mới đặng cái quyền và năng lực bành trướng như thế nầy. Có một điều Bần Đạo dặn trước. Những kẻ tưởng Ngài vô hình coi chừng Ngài, những kẻ thiếu đức tin dám khi rẻ quyền lịnh của Đạo, oai quyền của Ngài coi chừng Ngài trừng trị, những kẻ nào phạm nhầm Thiên Điều Bần Đạo dám quả quyết khó tránh nơi tay của Ngài. Các con cái Đức Chí Tôn coi Ngài rất công bình. Ngài dạy: Phải lập Công, lập Đức, lập Ngôn tức nhiên là "Tam Lập" Ngài rất công bình, rất oai quyền, thiên vị chúng ta nhờ Ngài bảo vệ không thế gì sơ sót. Đức Chí Tôn coi Ngài cũng như một Tướng Soái, oai quyền của Ngài lớn lắm. ở nơi Ngọc Hư Cung quyền của Ngài yếu trọng vĩ đại to tác lắm. Cả con cái của Ngài cũng nên tin nơi Ngài, mong mỏi nơi Ngài để cả ước vọng và đức tin nơi Ngài. Bần Đạo xin khuyên một điều, lớn, nhỏ phải yên tâm giữ Đạo, đừng sơ sót, nhứt là đừng có ỷ công khi lịnh coi chừng Ngài, Ngài trừng trị một cách oai quyền, trước mắt Bần Đạo đã thấy, hai mươi mấy năm lập Đạo cùng Ngài, Bần Đạo quả quyết như vậy. Chúng ta hãy để trọn đức tin nơi Ngài một Đấng công chánh oai quyền, nhưng rất yêu ái. Chúng ta được Ngài bảo vệ cho thật là một sự an ủi vĩ đại trong kiếp sanh của chúng ta đó vậy.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 17-08-Quý Tỵ nhằm ngày (dl. 24-09-1953).
Q.6/1-29: Đức Hộ Pháp thuyết đạo sau khi ở Saigon về.
ĐỨC HỘ PHÁP Thuyết Đạo tại Đền Thánh đêm 14 tháng 9 năm Quí Tỵ
Đêm nay đi cúng đông đủ, Bần Đạo đoán biết rằng, tại sao đi cúng đông, thật sự nếu được thường như vậy thì không có gì hạnh phúc cho cửa Đạo hơn.
Thì lẽ dĩ nhiên luật tự nhiên vẫn vậy hễ khi một ông cha vắng mặt có người anh thì mỗi hành vi của anh cả thảy đoàn em đều ngó đến chú ý từ chút từ điều. Đại gia đình Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn đã tạo dựng cho toàn thể con cái của Ngài cũng thế. Phải, cả con cái Đức Chí Tôn muốn nghe Bần Đạo thuật lại trong 17 ngày đã Hội Nghị Toàn Quốc chắc chắn như vậy. Vì lẽ ấy nên đi cúng đông là phải.
Thật có một điều làm cho Bần Đạo từ thử đến giờ lấy làm lo lắng ái ngại hơn hết. Đã lãnh sứ mạng Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn giao phó đem cái khối thiên lương để nơi mặt thế nầy, chỉ mong một điều làm thế nào cho toàn thể con cái Đức Chí Tôn tức nhiên toàn thể nhơn loại, đặng hòa nhã yêu ái với nhau, biết nhìn với nhau là bạn đồng sinh, nghĩa là anh em cốt nhục với nhau vậy.(*1)
Chẳng phải khác nước da sắc tóc, khác chủng, khác nòi, mà nhơn loại phải chia rẽ nhau, tương tàn, tương sát nhau cái thảm trạng trước mắt ai có lòng ái tuất thương sanh cũng phải đau đớn, huống chi Bần Đạo đã lãnh sứ mạng Thiêng Liêng nơi Đức Chí Tôn làm cho toàn thể con cái của Ngài cộng yêu hòa ái đem nền Chơn Giáo để phổ hóa chúng sanh đặng dìu dẫn họ đi đến cảnh Đại Đồng Thế Giới, chỉ còn nước Việt Nam và Pháp hai bạn yêu ái với nhau, đã chung sống với nhau có trên 80 năm mà không đem lại một tình yêu ái nồng nàn dung hòa với nhau một nước cộng hưởng hòa bình hạnh phúc.
Kỳ hội này Bần Đạo chỉ có mục đích tìm phương dung hòa làm cho hai nòi giống hiểu biết với nhau đặng giải quyết một vấn đề rất nên đau khổ tâm hồn, là vì không hiểu với nhau mà đã sát phạt tương tranh cùng nhau.
Hại nổi Đức Quốc Trưởng đã phú thác cho Bần Đạo cái sứ mạng Hội Nghị Toàn Quốc ấy. Thật từ thử đến giờ không có kỳ nào lo lắng cho Bần Đạo hơn 17 ngày nay.
Hại nổi Quốc Dân Việt nam họ đã mất cả tinh thần không có tài nào dìu đường cho họ đi trên con đường nhơn nghĩa công bình đem cả hai vấn đề của Đức Quốc Trưởng đã định.
1-Là phải định thế nào cho nước Việt Nam được độc lập, về phương diện nầy thì lẽ tự nhiên.
2- Là phải định phương thế liên kết cùng Pháp.
Điều thứ nhứt vấn đề giải quyết, chính mình Pháp đã định, vì Pháp Quốc kêu gọi nước Việt Nam do tờ hiệu triệu ngày 3-7, nước Pháp đã định giao quyền độc lập hoàn toàn cho Việt Nam, điều ấy có nói đi nói lại cũng chán, Nước Pháp có giao kiến nghị cho Việt Nam được độc lập. Độc lập ấy dễ giải quyết. Bởi nước Pháp đã trả hoàn toàn độc lập cho Việt Nam. Một điều thắc mắc hơn hết là phương pháp liên kết cùng nước Pháp. Bần Đạo chỉ sợ có bao nhiêu đó mà thôi. Bởi vì chính mình Bần Đạo biết Liên Hiệp Pháp chưa hoàn toàn, thế nào tinh thần của toàn dân Việt Nam cũng có thể trích điểm nên Bần Đạo lo ngại chỉ có đề xướng một điều để cho họ lấy độc lập trước, chừng nào độc lập xong, thành lập Quốc Hội rồi mới định phương bang giao với Pháp, tránh một điều mà Bần Đạo đã biết trước một điều quá khích cũng như vừa xảy ra họ đã đề nghị nước Việt Nam độc lập không trong Liên Hiệp Pháp, thành thử làm cho cả hai quốc gia náo động không biết lối phải đi đường nào, một đàng đã 80 năm chung sống là nước Pháp chỉ sợ có một điều Việt Nam chưa có thế lực bảo vệ độc lập của mình.
Còn nước Việt Nam lo có một điều, Việt Minh lại nghĩ rằng: Không thâu lại được hoàn toàn thì cứ khởi giặc mãi mà thôi. Chỉ có đọat đặng hoàn toàn độc lập. Độc lập là Việt Nam đã đề xướng. Họ lấy độc lập làm thành lũy, làm binh khí đặng dấy loạn.
Cả toàn sắc dân Việt Nam muốn dành lại hoàn toàn độc lập ấy đặng cho cả Việt Minh hết lý do gì tiếp chiến nữa, hai chí hướng nó đều hữu lý cả, nhưng chỉ có một điều là không ai hiểu rõ tâm tình với nhau, nên chưa quyết định. Bần Đạo lấy làm đau đớn một việc giải quyết rất dễ dàng mà chưa có phương pháp nào làm cho cả hai được hiểu biết nhau, đặng đem lại hòa bình cho nước Việt Nam và Pháp. Bần Đạo chỉ có cầu nguyện cùng Đức Chí Tôn, nếu sứ mạng Thiêng Liêng giao phó cho Bần Đạo thiệt hiện được giúp đỡ cho hai sắc dân hiểu biết nhau, đặng thương yêu nhau, tính toán giàn xếp việc nhà của mình, đừng để cho ngoại bang dòm ngó, lại nữa Bần Đạo chỉ mong một điều là nếu như Đạo Cao Đài có sứ mạng dung hòa cả toàn thiên hạ, về tín ngưỡng, về xã hội ít nữa quyền Thiêng Liêng giúp cho Bần Đạo thiệt thi nhơn nghĩa, thật hành phương pháp đem hòa bình hạnh phúc cho toàn nhơn loại.(*2)
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 14-09-Quý Tỵ nhằm ngày (dl. 21-10-1953).
(*1) Nơi đoạn thứ 3: Thật có một điều làm cho Bần Đạo từ thử đến giờ lấy làm lo lắng ái ngại hơn hết. ... ... ...chỉ mong một điều làm thế nào cho toàn thể con cái Đức Chí Tôn tức nhiên toàn thể nhơn loại, đặng hòa nhã yêu ái với nhau, biết nhìn với nhau là bạn đồng sinh,... ... ...
Nguyên bản chánh in là: Thật có một điều làm cho Bần Đạo từ thử đến giờ lấy làm lo lắng ái ngại hơn hết. ... ... ...chỉ mong một điều làm thế nào cho toàn thể con cái Đức Chí Tôn tức nhiên toàn thể nhơn loại, đang hòa nhã yêu ái với nhau, biết nhìn với nhau là bạn đồng sinh,... ... ...
(*2) Nơi đọan thứ 12: Cả toàn sắc dân Việt Nam muốn dành lại hoàn toàn độc lập ấy đặng cho cả Việt Minh hết lý do gì tiếp chiến nữa,... ... ... nếu sứ mạng Thiêng Liêng giao phó cho Bần Đạo thiệt hiện được giúp đỡ cho hai sắc dân hiểu biết nhau, đặng thương yêu nhau, tính toán giàn xếp việc nhà của mình,... ... ...
Nguyên bản chánh in là: Cả toàn sắc dân Việt Nam muốn dành lại hoàn toàn độc lập ấy đặng cho cả Việt Minh hết lý do gì tiếp chiến nữa,... ... ... nếu sứ mạng Thiêng Liêng giao phó cho Bần Đạo thiệt hiện được giúp đỡ cho hai sắc dân hiểu biết nhau, đang thương yêu nhau, tính toán giàn xếp việc nhà của mình,... ... ...
Chúng tôi mạn phép trình bày như trên cho rõ nghĩa hơn. Kính cáo.
Q.6/1-30: Hạ Ngươn.
ĐỨC HỘ PHÁP Thuyết Đạo tại Đền Thánh đêm 14 tháng 10 năm Quí Tỵ
Hôm nay cửa Đạo thêm một tuổi nữa. Thật ra, nếu không phải cái huyền linh vô đối của Đức Chí Tôn đến đặng chuyển Quốc Đạo thì trong một thời gian ngắn ngủi nền Đạo chưa rõ đến địa vị cao trọng và quí hóa như thế này.
Đạo Cao Đài tức Đạo Tổ Phụ của chúng ta chỉ mới có hai mươi mấy năm thôi, nếu chúng ta kể từ ngày chuyển thế của nó. Nhưng Thánh Thể Đức Chí Tôn và toàn thể con cái Nam, Nữ của Ngài nên nhớ rằng: Đạo Tổ Phụ mấy người đã 2.500 tuổi. Phải nhớ điều đó.
Đêm nay Bần Đạo giữ lời hứa buổi hôm kia. Bần Đạo nói rõ Thánh Ý của Đức Chí Tôn đến mức nào và Ngài muốn gì? Giờ phút nầy cả toàn con cái của Ngài chắc có lẽ thắc mắc vì vậy. Nội tình của Đạo gặp nhiều nỗi khó khăn, nếu chúng ta không nói rằng nó đã chịu một khó khăn về mọi phương diện.
Nhưng đối với Bần Đạo, Bần Đạo thấy mỗi phen Đạo chịu khổ nhục chịu khó khăn hay bị chê rẻ khinh khi thì Bần Đạo lại vui mừng mới chướng chớ! Bởi mỗi phen như thế là mỗi phen Đức Chí Tôn muốn rửa ráy nó, tô điểm nó đến một địa vị cao trọng thêm nữa chớ chẳng chi khác. Cả con cái Đức Chí Tôn đều tin nơi Bần Đạo để con mắt quan sát coi có quả như vậy hay không?
Cái khó đảm đương-nhiên bây giờ làm cho thêm nhục cơ thể Đạo là sửa soạn tô điểm đặng một đài vinh diệu vô đối. Trong thời gian ngắn ngủi tới đây, nếu cả con cái Đức Chí Tôn có đức tin thì hiểu rõ điều ấy.
Trái ngược lại hễ mỗi phen đã gặp khổ hạnh khó khăn chi trong cửa Đạo thì nhớ lời của Bần Đạo vui đi! Mừng đi! Bởi chẳng hề khi nào trật điều đó. Để quan sát lại coi, rồi sẽ thấy cái vinh diệu của Đạo Cao Đài sẽ đến mức nào trong thời gian sau đây.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 14-10-Quý Tỵ nhằm ngày (dl. 20-11-1953).
Q.6/1-31: Thánh Thể Đức Chí Tôn là gì?
ĐỨC HỘ PHÁP Thuyết Đạo tại Đền Thánh, đêm 29 tháng 10 năm Quí Tỵ
Đêm nay Bần Đạo giảng: Thánh Thể Đức Chí Tôn là gì? Quyền siêu thoát của cả con cái của Ngài nơi đây.
Cái luật Thiên nhiên của Tạo Đoan vẫn có một khuôn khổ mà thôi. Khuôn vàng thước ngọc Đức Chí Tôn đã để nơi mặt Càn Khôn Vũ Trụ vẫn một khuôn với nhau hết, nếu chúng ta có chủ tâm tìm hiểu, thì luật Thiên nhiên nó ở trong tối thiểu thế nào, thì tối đại của nó cũng thế ấy.
Chúng ta đã ngó thấy làm người sanh trưởng từ khi mới lọt lòng mẹ cho đến lớn khôn, chúng ta nhắc lại kể từ ngày sơ sanh dĩ chí tới 30 tuổi khi mới sanh chúng ta vẫn còn khờ khạo ngu dốt.
Trong xác thân chúng ta có ba món báo; Đức Chí Tôn để cho ta là: "Tinh, Khí, Thần".
Tinh là thi hài xác phàm của chúng ta, lấy hình vật thú của ta nó là Tinh.
Trí não khôn ngoan của ta nó là Khí.
Nguơn linh của chúng ta nó là Thần (gọi là Linh Hồn).
Ba món báu ấy nó không có điều hòa, thì con người của ta không nên gì hết! Nghĩa là con người ba báu không hiệp một cùng nhau, không đủ cả ba hiện tượng ra, thì không nên hình gì hết.
Nhờ vậy nên trong linh tánh khôn ngoan ta biết hiểu cả cái sống chết tinh thần đạo đức của chúng ta Thánh Thể Đức Chí Tôn cũng thế, mấy em Nam, Nữ Lưỡng Phái rán để ý nghe Qua giảng. Thánh Thể Đức Chí Tôn chẳng phải trong Hội Thánh mà thôi, mà cả toàn con cái của Ngài Nam, Nữ, nếu Qua không nói đến mấy em mới sơ sanh, nó cũng là đám Thánh Thể của Ngài, là buổi may duyên của chúng nó ngộ Đạo "Bá Thiên vạn kiếp nan tao ngộ". Bởi cái may duyên ấy do nơi mấy em đào tạo nó một phần tử buổi sơ sinh tức nhiên, kể từ hạng sơ sinh Đức Chí Tôn đã đến lựa từ khi mấy em đã có trí khôn ngoan cho nhập Thánh Thể của Ngài đứng vào hàng Chức Sắc Thiên Phong gọi là Chư Thánh, mấy em mới nên người "Tam thập nhi lập".
Cái phẩm vị Thiêng Liêng của mấy em nơi mặt thế, Phó Trị Sự, Thông Sự đối với Ngôi Giáo Tông, Hộ Pháp, trong khi tuổi của mấy em đã tri thiên mạng rồi, rất ngộ nghỉnh thay Đức Chí Tôn lấy công bình ấy đặng lập Thánh Thể của Ngài, Ngài để một kiểu vở, một khuôn luật Tạo đoan hay là một gia đình kia không khác gì hết. Mấy em đã ngó thấy trong Đạo Đức Chí Tôn đã để hàng Tín Đồ đối với Đại Từ Phụ, Phó Trị Sự và Thông Sự đối với Phẩm Giáo Tông và Hộ Pháp, Chánh Trị Sự đối với Phẩm Đầu Sư, thì mấy em thử nghĩ coi khuôn khổ Thánh Thể của Ngài không có một cái gì sơ sót hết.
Tỉ như một hột kia chúng ta gieo xuống, nó hột xoài thì sanh xoài, mít thì sanh ra mít, khi mấy em gieo hột mít xuống rồi mấy em quả quyết nó sẽ có cây mít, thì cây mít có ngay, khuôn luật vẫn có một mà thôi. Qua nghĩ cái độc tâm của người có những quỉ quyền tưởng đâu sẽ tiêu diệt Thánh Thể của Đức Chí Tôn. Qua nói thiệt, nếu dưới mặt thế gian nầy tiêu diệt cả Thánh Thể của Đức Chí Tôn được, thì không còn ai nữa. Từ Tín Đồ đến Hội Thánh chẳng hề khi nào tiêu diệt nó được, kẻ nào muốn tiêu diệt Đạo Cao Đài tốt hơn đừng sanh ra bởi chẳng hề khi nào muốn tiêu diệt Đạo đặng, khuôn luật vẫn vậy.
Hôm nay Qua giảng một điều thiết yếu cho mấy em nghe, quyền siêu thoát. Mấy em xét coi nơi mình mấy em từ chân, tay trong xác thân cho tới cả tinh thần đầu óc mấy em nó đều có linh cảm cả.
Khốn nạn thay! Con người không biết thương nhau mà lại ghét lẫn nhau, mà hễ ghét lẫn nhau tức nhiên ghét Thánh Thể Đức Chí Tôn, nếu ghét Thánh Thể Đức Chí Tôn rồi, thì ngày Qua về cảnh Thiêng Liêng đứng trước Cực Lạc Thế Giới, mấy em chẳng hề khi nào chối tội đặng. Nếu mấy em thương nhau không được thì không được phép ghét nhau.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 29-10-Quý Tỵ nhằm ngày (dl. 05-12-1953).
Q.6/1-32: Trong cuộc Lễ Thăng quyền TTL/QĐCĐ cho Thiếu Tướng Nguyễn Thành Phương.
ĐỨC HỘ PHÁP Huấn Dụ trong cuộc Lễ Thăng Quyền T.T.L.Q.Đ.C.Đ. cho Thiếu Tướng Nguyễn Thành Phương ngày 1 tháng 11 Quí Tỵ (06-12-1953)
Thưa cùng Chư Chức Sắc Thiên Phong Nam, Nữ Lưỡng Phái. Cùng các Quan Khách, Các đại diện Chánh Phủ Pháp, Nam.
Bần Đạo để lời cám ơn các Ngài đã có mặt hôm nay làm cho cuộc lễ thêm phần long trọng. Bần Đạo xin kiếu lỗi các Ngài cho Bần Đạo tỏ nỗi tâm tình của Đạo đối với các Sĩ Quan và Chiến Sĩ Cao Đài.
Các con! Nền văn minh tối cổ của Tổ Phụ các con để lại là Đạo Nho, mà chính mình Thầy là người Đức Chí Tôn tuyển chọn lãnh trách nhiệm Thiêng Liêng bảo vệ nền văn minh ấy. Thầy nhớ lại khi Đức Khổng Phu Tử hỏi môn đệ của Ngài, nhứt là trong Thất Thập Nhị Hiền. Ngài tìm hiểu đức tánh của mỗi môn đệ, Ngài hỏi:
- Nếu như nước Tề đem binh đánh nước Triệu, hay là nước Yên đánh nước Tề. Các ngươi phải nghĩ sao?
Các Môn Đệ đều nói: Như vậy phải hiệp lại làm một lực lượng, để đủ năng lực quyết chiến diệt Tề. Ngài nói: Cái kế đó chỉ để bảo vệ vận mạng nước mình mà thôi, chớ chưa phải đại đồng. Duy có một người môn đệ đứng đầu của Đức Khổng Phu Tử là Thầy Nhan Hồi, tức là Nhan Uyên, Thầy nói: Nếu thoản như đệ tử đã gặp trường hợp như thế, thì chính mình các con sẽ chọn một lập trường bình đẳng, để khỏi đao binh đổ máu tàn sát lẫn nhau.
Khi Thầy ở hải ngoại về đối với Quân Đội Cao Đài, Thầy thú thật cùng các con. Thầy quyết định cho các con phải hy sinh làm con tế vật để đứng giữa vòng binh. Một bên là Cộng Sản, một bên là Quốc Gia để tránh cái nạn tương tàn, tương sát của họ.
Ấy vậy, trên ngọn cờ "Bảo Sanh Nhơn Nghĩa Đại Đồng" của các con, lại thêm 4 chữ "Tận Trung Báo Quốc" nó có nghĩa lý Thầy nhứt định hy sinh sanh mạng của các con đặng cứu toàn thể sanh mạng nòi giống các con.
Hôm nay con đường của các con đã đi xa nó sẽ kết liễu nhờ nước bạn của chúng ta là nước Pháp hiểu nỗi khổ não khó khăn để giúp sức cho chúng ta có phương thế liên hiệp cả các Đảng Phái trong nước, rồi chúng ta mới có phương thế hiệp tác cùng Pháp đặng tạo dựng một nền hòa bình trong khuôn khổ tự do bình đẳng. Với ý Thầy đã định từ trước sự kết liễu nay được thành tựu các con cố gắng tới một đoạn đường nữa ở trước mắt kia, nếu nhờ ơn Thiêng Liêng Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu định kết liễu sớm ngày nào thì sự hy sinh của các con càng nhẹ chừng nấy.
Các con ôi! Cái hy sinh ấy nó đã hao tốn sanh mạng và xương máu các con rất nhiều, thật ra giọt huyết lệ Thầy đã chảy nhiều lắm rồi. Thầy muốn thế nào mau chấm dứt nạn chiến tranh đặng đem lại hạnh phúc hòa bình cho Tổ Quốc và chủng tộc các con và Thầy giao vận mạng tương lai ấy với cái năng lực của các con trước kia thế nào ngày giờ này cũng thế ấy.
Nhứt là Tân Tổng Tư Lịnh Thiếu Tướng Nguyễn Thành Phương, Phó Tổng Tư Lịnh Đại Tá Lê Văn Tất, Tham Mưu Trưởng Trung Tá Lê Quang Thế, Thầy giao cái hạnh phúc tương lai của Tổ Quốc nòi giống mình nơi tay các con. Thành tựu hay chăng đều do nơi sự khôn ngoan đạo đức tâm tình ái chủng ái quân vô đối của các con do đó mà thành tựu được.
Thầy trông cậy nơi các con.
Năm Quý Tỵ - Giáp Ngọ - Ất Mùi
(1953 - 1954 - 1955)
Phần 2: Năm Giáp Ngọ (1954)
Q.6/2-01: Đức Hộ Pháp huấn dụ Quân Đội Cao Đài trong dịp đầu xuân.
ĐỨC HỘ PHÁP KIÊM THƯỢNG TÔN QUẢN THẾ HUẤN DỤ CÁC CẤP CHỈ HUY và CHIẾN BINH CAO ĐÀI TRONG DỊP ĐẦU XUÂN GIÁP NGỌ (1954)
Các con,
Thầy thường nói với các con: Lập một nước thì dễ mà trị một nước thì khó. Về mặt tinh thần, lập một nền Đạo lại khó mà trị một nền Đạo lại khó nữa. Vì phải hàng phục nhơn tâm thành hay bại là do nơi đó.
Quân Đội của các con thành lập đặng cũng do toàn thể trụ cả năng lực trên nền tảng nghĩa nhân, đạo đức, ngọn cờ cứu khổ của các con xuất hiện nơi nào thì nhân sanh nơi ấy đều phải đặng các con bảo vệ, cứu hiểm phò nguy mà làm cho rạng danh anh tuấn của non sông chủng tộc. Thầy lại giao luôn cho các con ngọn Đạo Kỳ là cốt ý muốn cho các con bền trụ khối tin trung đặng giữ vững cơ đồ Tổ Phụ các con, đã dầy công xây dựng trên 4.000 năm và hiện nay bao nhiêu dòng máu anh phong của nòi giống Lạc Hồng đã rưới chan đất Việt.
Phận sự của các con vì đó mà khó khăn. Trách nhiệm của các con vì đó mà cao cả. Sự khó khăn cao cả ấy nếu các con nhứt quyết thành công thì tên tuổi các con mới ghi tạc nơi Đài Vân mà lưu lại những trang sử uy hùng cho hậu thế.
Thầy không nói, các con cũng dư hiểu rằng từ xưa các bậc thương đời, hễ lo cho quần chúng thì quần chúng thương yêu, bằng ghét bỏ nhơn sanh thì nhơn sanh ghét lại. Vậy quyền lợi nào hạp với nghĩa nhân thì các con dùng làm quyền lợi chung, còn trái với nhân tâm thì các con nên từ bỏ.
Để kết thúc lời Huấn dụ này, Thầy chỉ nói vắng tắt với các con: Chí ôn nhu của các con là khí cụ tinh anh, còn lòng đạo đức của các con mới thật là lủy đồn kiên cố vậy.
Đầu xuân Giáp Ngọ Thầy ban ơn lành cho toàn cả các con và mong các con đoạt thành nguyện vọng đặng giải nguy cho Tổ Quốc và mở con đường vinh hiển cho chủng tộc của các con buổi sau này.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 01-01-Giáp Ngọ nhằm ngày (dl. 03-02-1954).
Q.6/2-02: Lễ Xuất Quân.
ĐỨC HỘ PHÁP Thuyết Đạo tại Đền Thánh, ngày 9-1 năm Giáp Ngọ (1954)
Hôm nay là ngày kỷ niệm Đệ Thất Chu Niên Lễ Xuất Quân Quân Đội Cao Đài, Bần Đạo xin để lời cám ơn toàn cả các quan khách Đời và các Chức Sắc Đạo có mặt hiện diện làm cho cuộc lễ thêm phần long trọng, Bần Đạo để lời cám ơn và xin toàn thể cho phép Bần Đạo để lời phủ dụ các chiến sĩ tại đây.
Thượng, Hạ Sĩ Quan Chiến Sĩ của Đạo, chính Đức Chí Tôn đã dạy Bần Đạo làm cho nền Đạo chóng sản xuất cho các con đều nhờ nó.
Ngày Thầy bị lưu đồ về nước, giữa Quốc Gia và chủng tộc các con đã chịu ở trong một cảnh trạng nguy hiểm, một đàng Cộng Sản Quốc Tế họ nhứt định lấy cường lực của họ đoạt chủ quyền Tổ Quốc chủng tộc của các con, một đàng phản động lực là khối Quốc Gia họ không chịu để cho Cộng Sản lệ thuộc.
Hại thay! Trong trường chiến đấu ấy cả các lực lượng Quốc Gia của các con nằm ở giữa, tức nhiên chịu trong cảnh tượng của hai đường tên mũi đạn, sự thống khổ của toàn quốc dân nếu muốn tỏ rõ ra cho hết, ít nữa phải viết một quyển sách, chớ không phải diễn nơi diễn đàn cho rõ hết đặng.
Các con ơi! Khi Thầy bị lưu đày trở về Thầy đã cầu lụy các con phải hy sinh xương máu để cứu nước, cứu dân, đặng vầy hiệp các quốc gia, xuất hiện cho kỳ được một nền công lý thật sự.
Bấy lâu Thầy hiểu cái công nghiệp vĩ đại của các con và tinh thần anh dũng của các con mà thành hình được cuộc tranh đấu đương đầu hôm nay, tuy còn phân vân nhưng Thầy dám quả quyết rằng: Sự hy sinh của các con có khuôn luật thiên nhiên của tiền định, luôn luôn cái công lý phải thắng cường quyền, thì cái hạnh phúc tương lai do các con đem cho nòi giống và Tổ Quốc các con, mà Thầy quả quyết rằng: Các con làm nên đặng và các con sẽ toàn thắng.
Thầy mong mỏi chí hy sinh của các con, Thầy ước sao tinh thần anh dũng của các con phải làm sứ mạng Thiêng Liêng mới có thể cứu vãn tình thế đặng.
Các con đã qua một giai đoạn khắt khe nguy hiểm cuối cùng rồi, chỉ còn đem cái thắng lợi vinh quang cho toàn quốc và chủng tộc của các con.
Thầy chỉ biết rằng: Sau lưng của các con có các nước bạn nhứt là dân tộc Pháp đã cùng nhau chung sống trót 80 năm, biết cái lẽ nên hư thắng bại, biết cả tinh thần ái quốc nồng nàn của chủng tộc các con thế nào, nước Pháp sẽ thật tâm giúp đỡ các con làm phận sự Thiêng Liêng cho toàn vẹn và mỹ mãn đặng.
Trước khi dứt lời Bần Đạo cám ơn quí quan khách và toàn thể chiến binh và Thầy mơ ước năm nầy là năm vinh quang của các con sẽ đắc thắng.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 09-01-Giáp Ngọ nhằm ngày (dl. 11-02-1954).
Q.6/2-03: Lễ Thượng Ngươn.
ĐỨC HỘ PHÁP Thuyết Đạo tại Đền Thánh, đêm 14-1 năm Giáp Ngọ
Đêm nay ngày Rằm tháng Giêng. Theo luật pháp của Đạo Giáo, nhất là triết lý của nhà Phật, trước khi lập thành mối Đạo, mỗi năm phân ra tam nguơn là: Thượng nguơn, Trung nguơn, Hạ nguơn. Mỗi nguơn niên, theo ta hiểu biết cái đại nghiệp của Càn Khôn Vũ Trụ với triết lý nhà Phật, thì cả tinh thần lẫn vật chất của vạn linh đều thay đổi mới. Theo triết lý ấy, ngày nay là ngày các chơn hồn đặng quyền Chí Tôn ân xá, nếu không nói rằng hưởng được một đặc ân tiến hóa hơn nữa.
May duyên cho nòi giống Lạc Hồng: Chúng ta nhờ Đạo Giáo của Tổ Phụ lưu truyền, một chơn lý mà người ta lấy làm ngạc nhiên thấy cả nòi giống dân Việt tình cờ nắm trong tay được một cách đột ngột cũng nhờ ơn Thiêng Liêng của Chí Tôn (tức nhiên Đại Từ Phụ) đem đến sự thật mà Tổ Phụ ta dành để. Triết lý lập giáo cao siêu của ta, không ngờ có sẵn, về tín ngưỡng hay về xã hội cũng thế, tinh thần Đạo Giáo của Tổ Phụ ta rất đơn giản, nhưng mà rất chơn thật. Bần Đạo đã có dịp giảng giải cho con cái Đức Chí Tôn nghe, cả nòi giống của chúng ta không có điều chi thắc mắc gọi là cao kỳ, chỉ tin sự thật để định cái tâm hồn của mình. Nay nhờ khoa học, nhờ chơn lý của trí não tâm hồn của nhơn loại, đương nhiên đã tiến triển đến một trình độ rất cao, đã hiểu thấu các chơn lý ấy, mà thật vậy, Tổ Phụ ta chỉ thờ Trời và thờ Ông Bà, rất hiếu hạnh đối với Cửu Huyền Thất Tổ.
Cái Đạo Giáo tinh thần ấy, sẽ được đem ra làm căn bản cho tâm hồn của nhơn loại trong buổi tương lai kia. Hiện giờ, cả chúng sanh đang tìm hiểu, vấn để dấu hỏi mãi, hỏi có Âm Phủ hay không? Tội nghiệp thay! Tiếng Âm Phủ nó làm cho họ chỉ đeo đuổi tìm tàng mãi mãi mà họ chưa thoả mãn đặng, vì họ chưa đoạt đặng sự chơn thật của tâm hồn, nên muốn kiếm hiểu.
Bần Đạo thường hay nói cái khuôn luật Tạo Đoan thiên nhiên kia vẫn có một, dầu cho nó hữu tướng hay huyền vi, chỉ có một tình trạng với nhau mà thôi, vì lẽ thiên hạ đã để câu Âm Phủ Dương Gian mà từ trước tới giờ làm cho kẻ tìm Đạo rất thắc mắc không thấu đáo được ý nghĩa của hai lẽ ấy.
Đức Chí Tôn đến, Ngài dạy một cách rất đơn giản, Ngài nói:
"Cái cảnh các con đương sống hôm nay, mảnh xác thịt cơ thể các con thấy trước mắt đó là cảnh hữu hình, còn cảnh một ngày kia các con bỏ thi hài này trở về cảnh Thiêng Liêng thì Đức Chí Tôn cho nó một cái tên là cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống".
Ngộ nghỉnh thay! Là nhơn loại đương buổi này, sống đây gọi là sống, không dè nó là cảnh chết. Thấy cảnh chết kia là vô hình tưởng nó là không có, ai ngờ nó là cảnh tồn tại mãi mãi, không khi nào tiêu diệt, cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống của Đức Chí Tôn lập sẵn mà Ngài gọi nơi ấy, Ngài đã đào tạo dành để cho mỗi đứa con của Ngài một cái gia nghiệp Thiêng Liêng, Ngài đã nói: Cái gia nghiệp ấy mỗi đứa con của Ngài đã có sẵn, kỳ dư những đứa con nào chê bỏ thì chính mình Ngài mới có quyền cho kẻ khác.
Bần Đạo giải nghĩa cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống ở mặt thế gian này chúng ta đã thấy cả khuôn khổ của xã hội sẵn có, lành có, dữ có, hư có, nên có, đủ mọi lẽ, đương nhiên giờ phút này xã hội đã biến thiên, kẻ dữ bị trừng trị, phạt răn đặng chừa lỗi. Tức nhiên kẻ nên có địa vị quan viên, kẻ giỏi trí não cao kỳ, dìu đỡ chúng sanh tạo ra các cơ thể của xã hội nhơn quần giúp sống cho nhơn loại. Mỗi hành vi đều có định luật của nó, cảnh hữu hình thế nào thì cảnh Thiêng Liêng kia cũng thế. Khi luận đi tới điều ấy, Bần Đạo nhớ lại thuyết Cộng Sản ở mặt thế này họ muốn tiêu diệt cấp bậc tức nhiên là muốn phá hủy cả định luật thiên nhiên, chúng ta thử để một vài dấu hỏi: Ngày giờ nào chúng ta đem một người thường dân lên cầm quyền được thì chúng ta mới có thể đả đảo cả đẵng cấp được. Chừng nào chúng ta đem chú chăn bò lên ngôi làm quan tòa chừng đó chúng ta mới có thể đả đảo các đẳng cấp được, chừng nào chúng ta bắt đứa con nít làm ông già, chừng đó chúng ta mới có thể đả đảo cả đẳng cấp được. Bởi cả đẳng cấp nơi mặt thế gian này đều có định luật, mà định luật thiên nhiên ấy không có quyền năng nào sửa đương được.
Cảnh thế gian chúng ta thấy có quan, có dân, có kẻ tôi đòi, có người làm chủ, cả đẳng cấp trước mắt thế nào, cải cảnh Thiêng Liêng kia cũng thế mà thôi.
Chúng ta đang sống đây cốt yếu đến đặng tạo nghiệp mình, nếu chúng ta dở thì tạo nghiệp dở, hay thì tạo nghiệp hay, nên thì tạo nghiệp nên, hư thì tạo nghiệp hư. Còn cái cửa Địa Ngục trước kia đã gọi là khảo tội trừng răn, thiên hạ họ đã tả một cái cảnh rất quá đáng, làm cho thiên hạ ghê tởm có sự thật. Cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống cái hình nó khác ở thế gian này, cái hình của nó là hình về tâm hồn về trí não. Nơi thế gian này những kẻ đã làm hung ác tội tình, nét mặt họ thấy ghê tởm, hình dung con vật gì, hiện tượng ra con vật đó như hùm, beo, cọp, sấu, các con vật dữ người ta trông vào thấy đủ cả phương diện hung ác .
Ngày kia chúng ta bỏ xác này rồi, nguơn linh (tức nhiên xưa kia gọi là cái vía hay là phách), hiển hiện tâm đức của chúng ta con gì thì nguyên tướng ra con nấy, cũng như nhiều kẻ để tâm hồn của họ vào con vật nào giống như họ thì hiện tướng giống in khuôn.
Ấy vậy, tổng luận Bần Đạo nói: Cảnh hữu vi kia thế nào thì cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống cũng thế ấy, ta có Tổ Phụ Ông Bà chung ở cùng ta, họ đợi ta qui liễu bỏ xác phàm về cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống, họ còn sống, họ đợi ta về.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 14-01-Giáp Ngọ nhằm ngày (dl. 16-02-1954).
Q.6/2-04: Đức Hộ Pháp thuyết Đạo trong cuộc Lễ Di Liên Đài của Ngài Khai Pháp Chơn Quân.
ĐỨC HỘ PHÁP Thuyết Đạo trong cuộc Lễ Di Liên Đài của Ngài Khai Pháp Chơn Quân (Ngày 28 tháng Giêng năm Giáp Ngọ)
Bần Đạo tưởng ngày giờ này toàn con cái Đức Chí Tôn Nam, Nữ đang chung chịu cùng Bần Đạo một cái tang, tuy vân; không nói cả thảy đều muốn nghe Bần Đạo nói: Muốn nghe Bần Đạo nói đặng chi? Đặng hiểu rõ tâm tình của người bạn tri âm, tri kỷ đồng chung khổ cùng Đức Khai Pháp Chơn Quân thế nào?
Thật vậy, ở đời những sự vinh sang phú quí bất quá họ cũng hưởng hạnh phúc thế tình của họ qua một thời gian ngắn ngủi, cả thảy những hạnh phúc bóng dáng ấy đều tiêu tan như giọt sương đầu cỏ, cái tâm tình chia sớt khổ não sanh tử với nhau, tình ấy nó mới bền vững và cứng rắn. Đứng nơi đây Bần Đạo chỉ sợ có một điều là giọt huyết lệ của Bần Đạo nó sẽ làm cho Bần Đạo, không ngăn được đặng đem cả tâm tình của Bần Đạo trải qua trước mắt toàn thể con cái Đức Chí Tôn để dành làm khuôn vàng thước ngọc, cho cả Thánh Thể Đức Chí Tôn nhứt là những lời nói của Bần Đạo. Hôm nay Bần Đạo mong mỏi một điều Thanh Niên Nam, Nữ lưỡng phái của Đạo, tương lai các con còn dài xin để ý đặng ghi nhớ cho lắm.
Đức Khai Pháp Chơn Quân cả toàn Thánh Thể và con cái Đức Chí Tôn đều hiểu là ai? Trong 12 vị Chơn Quân của 12 con giáp là cơ huyền bí tạo Càn Khôn Vũ Trụ thế nào có lẻ cả tinh thần của toàn thể con cái Đức Chí Tôn hiểu thấu.
Bần Đạo lại thêm một điều trọng hệ hơn hết, người không phải xa lạ nhơn loại nơi mặt Địa Cầu 68 này, người đã cùng làm bạn với nhơn loại và chịu khổ cùng nhơn loại, Ngài là một bậc yếu nhân đã giúp Đức Chí Tôn tạo dựng một nền Văn Minh hiện tại. Bần Đạo nói quả quyết rằng: Ngài là một vị yếu nhân đã cầm quyền về tinh thần của nền văn minh. Ngài tái kiếp sứ mạng của Ngài là không chi khác hơn làm thế nào cho nền văn minh ấy chung hiệp các nền văn minh tối cổ trên mặt địa cầu này, làm cho thiên hạ thống nhứt về tâm hồn, thống nhứt về đạo đức.
Đức Khai Pháp Chơn Quân hiện nay đi đến cái cảnh đại đồng của nhơn loại Ngài đến cốt yếu để làm chứng điều ấy và đến đặng để cái tinh thần của Ngài thiệt hiện cho tròn vẹn cái sứ mạng Thiêng Liêng. Còn về phần hình chất Ngài cũng sanh trưởng như ai.
Từ nãy giờ các cơ quan đã tả cho cả con cái Đức Chí Tôn đều hiểu Bần Đạo không cần lập lại, cái mảnh xác thịt này như con kỵ vật, tốt cũng thế, xấu cũng thế, sang cũng thế, hèn cũng thế, không có giá trị chi đối với nền văn minh tối cao tối trọng chẳng có chi khác đối với Ngài Khai Pháp Chơn Quân cả.
Phải, những công nghiệp vĩ đại của Ngài, Bần Đạo mơ ước một điều ngày kia toàn thể con cái Đức Chí Tôn Nam, Nữ và đời đời noi theo cái chí hướng gương mẫu ấy, đặng làm cho Thánh Thể Đức Chí Tôn càng ngày càng mạnh càng huyền năng, hễ Thánh Thể của Ngài càng mạnh càng huyền năng chừng nào thì Đức Chí Tôn mới có thể phục sự cho con cái của Ngài nơi cảnh khổ này.
Bần Đạo nhấn mạnh một điều này, Đạo Cao Đài vốn là một nền Tôn Giáo để cứu khổ cho nhơn loại, Đạo Cao Đài cốt yếu không phải làm chủ thiên hạ, mà cốt yếu làm tôi đòi tạo hạnh phúc cho thiên hạ, tạo cái hạnh phúc chơn thật, hôm nay Ngài Khai Pháp hưởng đặng nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống mà Ngài đã hiểu thấu chơn lý ấy là thật sự, nên Bần Đạo cùng Ngài, Đức Cao Thượng Phẩm và Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt đã có công lao chung chịu khổ hạnh cùng nhau nhứt tâm, nhứt đức quyết gồng gánh một nền Tôn Giáo của Đức Chí Tôn và bảo vệ nâng đỡ thiện hiện hình tướng cho cơ quan giải khổ. Hôm nay một chơn lý bí yếu hơn hết là: Chúng ta chỉ mơ ước một điều là làm thế nào cho cả sự bất công của nhơn quần xã hội giờ phút này phải thay đổi hết. Nói cho cùng, nếu chúng ta không phương thế sửa cải cả sự bất công ấy được thì chúng ta còn một điều hèn hơn, tiện hơn chúng ta lấy mảnh thân đạo đức vô biên của chúng ta đặng làm phương an ủi cho nhơn loại bớt thống khổ, bớt đau đớn, để nêu lên một tâm đức yêu đời đặng làm gương mẫu tương lai cho con cái Đức Chí Tôn đó vậy.
Chúng ta chỉ sợ một điều, cả con cái Đức Chí Tôn rán ghi nhớ là buổi chung qui của chúng ta, hễ chúng ta thất Đạo tức nhiên chúng ta không đáng làm con cái của Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu không đáng làm bạn Thiêng Liêng của Thần, Thánh, Tiên, Phật, chúng ta sợ chết, thiên hạ gọi chết là mất, Bần Đạo thuyết minh cái cảnh chết là cảnh sống, cái cảnh sống là cảnh chết, họ có biết giá trị nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống thế nào đâu? Họ chỉ biết tìm mãi cái hạnh phúc trong cảnh khổ hải này họ gọi là cảnh sống, mà thật quả nó là cảnh chết, hễ giờ phút nào chúng ta đã thất phận, thất Đạo, chúng ta sợ buổi chung qui của chúng ta lìa cõi trần này. Ngày nào chúng ta biết trọn trung cùng Hội Thánh, trọn hiếu cùng Đức Chí Tôn và Phật Mẫu, trọn tín với các Đấng Thiêng Liêng thì cái hạnh phúc của chúng ta khi lìa trần là cái vinh diệu chúng ta đó vậy.
Thật sự hôm nay Đức Khai Pháp Chơn Quân đã hưởng được hạnh phúc mà Bần Đạo đã tả ra khi nãy đó, cái hạnh phúc chơn thật của Ngài hôm nay Ngài hưởng được, trái lụng lại chúng ta buồn thảm chia ly về phần xác, mà Bần Đạo lấy làm hân hạnh phúc hậu vui hứng thấy Ngài đã đoạt Đạo, Đức Khai Pháp Chơn Quân đã đoạt Đạo tại thế đó vậy.
Bần Đạo làm chứng cho toàn thể con cái Đức Chí Tôn điều ấy.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 28-01-Giáp Ngọ nhằm ngày (dl. 02-03-1954).
Q.6/2-05: Đức Hộ Pháp hành Lễ Độ Thăng Đạo Nhơn Phạm Công Đằng.
ĐỨC HỘ PHÁP Thuyết Đạo sau khi Hành Lễ Độ Thăng Ngài Đạo Nhơn PHẠM CÔNG ĐẰNG tại Đền Thánh ngày 10 tháng 2 Giáp Ngọ (1954)
Phạm Công Đằng là một vị Môn Đệ trong Phạm Môn hồi ban sơ.
Bần Đạo còn nhớ lại, khi Bần Đạo đến Kiêm Biên mở Hội Thánh Ngoại Giáo, khi trở về Đức Cao Thượng Phẩm ở nhà dạy đặng một đoàn Môn Đệ. Trong số ấy có Ông thân của Phạm Công Đằng, buổi nọ Ông Đằng chỉ theo cha hành Đạo, có một điều là gia đình của người rất hạnh phúc hơn hết, cả toàn con cái Tông Đường đều mộ Đạo.
Sanh nơi thế kỷ 20 này dưới quyền Pháp thuộc gia tộc của Phạm Công Đằng chỉ thủ cựu, cả phong hóa cổ tục của Tổ Phụ để lại, tức nhiên là gìn giữ Đạo Nho, nhứt là Ông thân của Phạm Công Đằng.
Khi Bần Đạo về cả cha con phế Đời hành Đạo, dầu rằng buổi nọ gia đình ở tại Thanh Phước nhưng cả con cái Nam, Nữ toàn thể đều theo Đạo. Phạm Công Đằng tiếp tục đến khi nền Đạo chinh nghiêng trong bị quyền Đạo khảo đảo, ngoài bị Pháp buổi nọ áp bức làm cho mấy Anh lớn cầm quyền của Đạo chia rẽ nghịch lẫn nhau với thiên hạ giục cho nghịch, giục cho loạn.
Đức Cao Thượng Phẩm về Thảo Xá Hiền Cung, chỉ còn Đức Quyền Giáo Tông, tình trạng nguy ngập không thể tưởng tượng, chúng tuyệt lương, chúng bắt buộc bất cứ ai trong Đền Thánh buổi nọ đi ra hành Đạo đều bị chúng bắt và đem giam cầm. Pháp định diệt Đạo hồi buổi sơ sanh mới phôi thai. Họ bắt buộc cho đến đổi không có cơm ăn đủ, có sao đặng, miệng ăn đông, việc làm không có gì hết, ba bốn phen đi xin tiền về để tạo Đền Thánh, ba bốn phen đều ăn hết, làm cho thiên hạ thối chí ngã lòng, trong cũng thế, ngoài cũng thế.
Bên ngoài chúng mướn tay sai của Pháp buổi nọ bắt buộc, giam cầm, bị nhục một cách không thể tưởng tượng.
Bên trong chia phe phân phái, một đoàn theo Đức Quyền Giáo Tông, một đoàn theo Ông Tương, một đoàn theo Đức Cao Thượng Phẩm (ba bốn phe).
Họ nghịch nhau cho đến nước, Thầy trò Phạm Môn không có gì hết, để lại bao nhiêu người Môn Đệ thiên hạ lại gọi rằng Tả Đạo Bàn Môn, lập phe lập phái đi đầu cáo Pháp. Pháp bắt Phạm Môn đem ra tòa xử nào phạt vạ nào tù tội, làm cho Đạo buổi nọ phải chết cho đến những kẻ chứa Đức Cao Thượng Phẩm cũng không đặng và những người trọn hiến thân hy sinh vì Đạo cũng bị thiên hạ xô đuổi.
Buổi nọ Phạm Môn cũng bị đuổi ra khỏi Đền Thánh Thầy trò dắt nhau mua miếng đất tạo nên Phạm Nghiệp làm cho Đạo sống trở lại.
May thay! "Hoàng Thiên bất phụ hảo tâm nhơn" nhất là Đức Chí Tôn ở bên mình nên những mâu thuẩn phá hoại không thành tựu gì hết.
Trong số 72 Môn Đệ của Bần Đạo, thật sự hành Đạo chỉ có 26 đứa mà nghiệp Đạo hôm nay được thành tướng dường này. Nếu không có Phạm Môn thì Đền Thánh không thành tựu, nếu không có Phạm Môn thì nền Đạo Cao Đài đã chết rồi.
Trong công nghiệp gầy dựng, cứu cống Đạo, Phạm Công Đằng đã có chung chịu trong đó.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 10-02-Giáp Ngọ nhằm ngày (dl. 14-03-1954).
Q.6/2-06: Cái thiệt và cái giả của quyền lợi. (*1)
ĐỨC HỘ PHÁP Thuyết Đạo, đêm 1 tháng 3 Giáp Ngọ
Ngày mai này là ngày Lễ của Đức Cao Thượng Phẩm, Bần Đạo xin toàn thể con cái Đức Chí Tôn lưỡng phái có mặt đông đảo dự lễ đặng làm cho Chơn Linh của Người được vui mừng.
Đêm nay Bần Đạo giảng cái thiệt và cái giả của quyền lợi giữa thế kỷ 20 này mà cả toàn thể nhơn loại đã bị khuẩn bách về tinh thần. Thật sự, từ Thượng Cổ đến giờ, không có buổi nào nhơn loại không bị thống khổ tinh thần như hôm nay vậy.
Giờ phút này nơi mặt địa cầu số nhơn loại đã tăng lên quá độ, chẳng còn như buổi Thượng Cổ kia. Nếu ta lấy dân số từ thế kỷ thứ 3 cho đến ngày nay thì ta ngó thấy nó sắp đôi bằng hai buổi nọ, vì cớ sự sanh sống của nhơn loại trở nên khó khăn, trường hợp tranh sống của họ càng thêm náo nhiệt. Ta thử nghĩ một Quốc Gia đã sanh ra trong đời, con người muốn lập thân danh của mình là một điều rất khó.
Chúng ta đã ngó thấy hạng lê thứ vẫn nhiều, mà hạng thượng lưu trí thức vẫn ít, luật thiên nhiên vẫn vậy. Vì cớ cho nên trường tranh đấu đặng bảo vệ quyền lợi của họ trở nên khó khăn và nguy hiểm.
Thật, con người bao giờ cũng chạy theo quyền lợi, dầu cho một Quốc Gia hay Quốc Tế toàn thể trên mặt địa cầu này cũng vậy. Chỉ tranh quyền lợi mà nhơn loại đã tương tàn tương sát với nhau, chúng ta lấy theo tâm lý của loài người mà luận thì chưa có buổi nào mà trình độ tâm hồn của nhơn loại đã nghiêng đổ thái quá như buổi hôm nay. Thật tâm hồn nhơn loại đã bị sa sút xuống một mức quá thấp hèn.
Vì cớ cho nên toàn cả tinh thần không còn Thánh Đức như buổi trước nữa, Tiên Nho đã có nói: "Cổ nhơn hình tợ thú, tâm hữu đại Thánh Đức; Kim nhơn biểu tợ nhơn, thú tâm an khả trắc". Người cổ nhơn hình dạng xấu xa gần giống như con thú, mà tâm của họ là đại Thánh Đức và Thánh Đức của họ còn nguyên vẹn.
Ngày hôm nay nhơn loại đẹp đẽ đáng phẩm con người, nhưng thú tâm không thể đoán xét được. Nhứt là quyền lợi, thiên hạ đã theo dõi và mê mẫn, nếu nói cái hám vọng của họ nơi cửa quyền thì thấy rằng: Trong xã hội muốn đứng đầu thiên hạ cho có tên tuổi của mình có quyền hành đặng điều khiển độc đoán là một cái khó làm hơn hết khó thiệt hiện được.
Vì cớ cho nên họ không từ chối không có một phương pháp nào hèn hạ mà họ không làm, thử nghĩ chúng ta đoán xét từ cổ chí kim những quyền mà lập với phương pháp tàn ác vô nhân đạo thì ta quan sát coi có bền vững tồn tại hay chăng? Con người đem quyền mà thua chuộc với xương máu của người. Cả cái quyền hành đó nó trở lại làm một ác khí, thử hỏi những kẻ thọ hưởng nó có bền vững hay chăng? Chúng ta đã ngó thấy nào là đài Tần nào đảnh Hớn mà từ trước tới giờ trên mặt địa cầu này đã tạo dựng trên xương máu của nhân sanh, hết họ này đến họ khác làm chúa, làm vua thiên hạ thay đổi mãi không có một ngôi báu nào còn tồn tại là do chỗ nào? Là do ngôi báu ấy đã mua chuộc bằng xương máu của dân, cho nên chẳng hề khi nào những kẻ thọ hưởng nó được trường cửu đặng.
Chúng ta thử quan sát trước mắt ngó thấy những mưu mẹo những phương pháp, những trí độ, họ tìm tàng, họ làm cách nào đặng lập quyền cho họ. Rốt cuộc lại, chúng ta thấy cái hưởng của họ, nếu họ hưởng, trong cái hưởng ấy nó dành để cho họ một sự nguy hiểm chẳng khác nào trong ấy dành để cho họ một chén thuốc độc đặng tự diệt lấy họ.
Quyền; Chúng ta thấy quyền thế nào? Giờ chúng ta kể lại sự tích của Tàu; Như Hạng Võ khi vô Bao Trung đã có lời cam kết, kẻ nào đã vô Bao Trung trước thì được làm Chúa.
Hớn Bái Công và Sở Bá Vương hai người lãnh sứ mạng đặng vô diệt Tần phục Hớn, Sở Bá Vương ỷ mạnh tới đâu đánh đó, thành thử vô Bao Trung sau Hớn Bái Công. Còn Hớn Bái Công chỉ lấy nhơn nghĩa mà làm thành thử thành lũy, quan ải, đều mở rộng cửa cho người vào. Đã vậy Sở Bá Vương không giữ lời hứa và kiếm lời bào chữa đày Hớn Bái Công vô Bao Trung. Rốt cuộc lại cả sự nghiệp của Hớn lấy nhân nghĩa hưởng được 800 năm. Còn Sở Bá Vương chỉ một đời người mà chưa hết thì đây là cái giả của Sở Bá Vương, còn cái thiệt của Hớn Bái Công là 800 năm đó vậy.
Chúng ta thử nghĩ các giả quyền đương giờ phút này mới vừa qua trận đại chiến thứ nhì như Hitler, Mussolini, Thiên Hoàng của Nhật muốn làm bá chủ với cả phương pháp cường quyền của họ, vì quân lực của họ có đủ cường lực muốn cho cả hoàn cầu phục lụy tôn làm bá chủ. Rốt chuyện cái ngôi báu đã làm cho ba sắc dân ấy điên đảo thống khổ biết bao nhiêu, bao nhiêu Đế Vị cường liệt hôm nay chúng ta đã ngó thấy đều là giả hết. Bởi họ không có lưu lại cho đời một mãy may gì. Còn cái thiệt là người mà chúng ta lên án là mê tín dị đoan; đem đóng đinh trên cây Thánh Giá là Đức Chúa Jésus Christ, quyền của Ngài 2.000 năm vẫn còn tồn tại mãi thôi mà trái lại càng ngày nó càng cường liệt.
Người thứ nhì nữa; là Ông Già mang Bình Bát đi xin nơi này ăn, đi xin nơi kia ăn, đi mót từ manh giẻ rách của thiên hạ đặng chầm khiếu làm áo mặc cho kẻ lạnh, mà 2.500 năm cái quyền Ông ấy vẫn còn tồn tại. Cái quyền giả thế nào? Cái quyền thiệt thế nào? Thật không thể đoán trước được.
Tội nghiệp thay! Những quyền mà tạo nên bền vững, kẻ đào tạo nó khó khăn lắm, làm cho đến mức đó thật là nguy hiểm mà khi đoạt đặng rồi thì không thể nào tiêu diệt đặng. Luận lại "Phú hữu tứ hải" của các ngôi Vua Chúa dùng xương máu thiên hạ lập Đế vị, cả của cải trong nước đều là của mình. Rốt chuyện lại chúng ta coi giòng họ làm Vua Chúa trên mặt địa cầu này giờ phút này các Tông Đường đó. Nếu Bần Đạo làm chứng quả quyết các Tông Đường ấy còn tàn mạt, còn hèn tiện, còn ăn mày, ăn xin hơn các Tông Đường khác nữa mà chớ! Không lưu lại sự giàu sang bền vững cho con cháu của họ.
Có một người ta chỉ sợ, đời không ai biết không ai ngó tới, nếu không nói ra họ gớm ghiết, là Đức Khổng Phu Tử, Đạo của Ngài giờ phút này cái nền văn minh Nho Giáo cũng không tiêu tàn, giờ phút nào quốc dân Trung Hoa không tiêu diệt thì Đạo của Đức Khổng Phu Tử vẫn còn tồn tại mãi thôi.
Hại thay mà may thay!! ... cho nhơn loại, là sắc dân của Trung Hoa tới 450 triệu hay là 500 triệu muốn tiêu diệt không dễ gì, mà hễ sắc dân ấy vẫn còn tồn tại thì Đạo của Đức Khổng Phu Tử cũng vẫn còn mãi mãi.
Còn cái ngôi của các Đế Vương đào tạo trên mặt địa cầu đều tiêu hủy, còn Đạo của Đức Khổng Phủ Tử nó in sâu trong đầu óc trí não của nền văn minh nhà Nho cho tới tận thế nó cũng vẫn còn. Mỗi một sắc dân chịu ảnh hưởng nền văn minh ấy như : Triều Tiên, Nhựt Bổn, Việt Nam. Ngày nào sắc dân Trung Hoa chưa tiêu diệt, thì Đạo của Đức khổng Phu Tử chưa tiêu diệt. Cái Đạo kia là thiệt còn cái Đời kia là giả.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 01-03-Giáp Ngọ nhằm ngày (dl. 03-04-1954).
(*1) Trong bản chánh của Mục Lục không có đề tựa cho bài này.
Q.6/2-07: Vía Đức Cao Thượng Phẩm.
ĐỨC HỘ PHÁP Nhắc Tiểu Sử ngày Vía Đức Cao Thượng Phẩm, ngày 1 tháng 3 năm Giáp Ngọ
Mỗi một năm ngày Vía của Đức Cao Thượng Phẩm Bần Đạo lấy làm vui thấy cả con cái của Đức Chí Tôn Nam cũng vậy, Nữ cũng vậy, trọn tâm yêu ái, nhứt là cái mừng của Bần Đạo hơn hết là ngày Vía của Ngài cả con cái Đức Chí Tôn còn gìn giữ sự thương yêu ấy như buổi sanh tiền vậy.
Sự thật từ cổ chí kim Bần Đạo tưởng không có một nền Tôn Giáo nào mà được hưởng một đặc ân Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn như nền Đạo Cao Đài. Bần Đạo nhắc lại những sứ mạng Thiêng Liêng của Ngài, hầu chia đau sớt khổ, những đặc sứ sai đến thế này đặng thay thế hình ảnh của Ngài, hầu chia đau sớt khổ cùng con cái khổ nảo của Ngài thế nào? Chúng ta có thể nói: Các Đấng Thiêng Liêng đã làm bạn với các sắc dân, nhứt là Huỳnh Tộc của chúng ta, tưởng cả thảy con cái Đức Chí Tôn đều biết danh giá của Bát Tiên là thế nào?
Ngộ nghỉnh thay Đức Chí Tôn làm thế nào mà chư vị Đại Tiên ấy ra đảm nhiệm sứ mạng Thiêng Liêng, đến đặng tạo dựng cái nền Tôn Giáo của Ngài nhứt là Hớn Chung Ly tức nhiên Nguơn Linh của Cao Thượng Phẩm đó vậy.
Nên giờ phút này nhớ đến có mảy may ân hận cơ huyền diệu của Ngài cầm trong tay tạo Đạo, thành thử hôm nay không có cây Cơ thứ nhì nữa, nói thật ra cây Cơ Phong Thánh, Cơ Lập Pháp, Cơ truyền Giáo, đã đem theo Ngài nên ngày giờ thoản có Cơ Phong Thánh thì Ngài cậy mượn Cao Tiếp Đạo nâng Loan có Ngài trợ lực, còn cây Cơ Phong Thánh hiển nhiên giờ phút này không còn tồn tại, cái tiếc của Bần Đạo hay chăng là điều đó.
Các Chiến Sĩ Cao Đài nếu trong sự ân hận sự tiếc ấy thật quả các con đã tiếc cây Cơ ấy chớ phải chi nó còn tồn tại thì nó giữ cho các con chiến sĩ nhiều lắm rồi.
Người thiếu đức tin như Bần Đạo nhờ cây Cơ linh hiển ấy đem đức tin lại cho Bần Đạo và Bần Đạo có thể nói nhờ cây Cơ đó độ rỗi Bần Đạo cho đến hàng phẩm cao trọng này. Các con chiến sĩ ôi! Chớ chi Đức Cao Thượng Phẩm còn thì rất may mắn cho các con lắm vậy, các con đọc mấy câu thi của Ngài nhứt là câu thúc và câu kết nếu các con chú ý cho lắm thì hiểu cái nghĩa lý thâm thuý của nó là dường nào? Lấy đó mà làm gương cho các con đó vậy.
"Bốn mươi hai tuổi sanh chưa phỉ,"
"Để mắt xanh coi nước khải hoàn."
Khao khát có bao nhiêu đó mà thôi. Giờ phút nào các con thượng cây cờ Nhân Nghĩa lên, các con phục quốc đặng, Thầy có thể nói: Trước khi các con ca bài khải hoàn, các con đọc hai câu thi đó; ấy là các con đền ơn cao trọng cho Đức Cao Thượng Phẩm đó vậy.
Thật, Đức Cao Thượng Phẩm hồi qui Tiên, chỉ tiếc có bấy nhiêu mà thôi.
"Bốn mươi hai tuổi sanh chưa phỉ,"
"Để mắt xanh coi nước khải hoàn."
Ngài khao khát giải ách lệ thuộc cho giống nòi của các con đó vậy. Đâu các con cố gắng coi đặng cho giờ phút này Thầy còn sanh tiền đây, đặng thấy thiệt hiện công nghiệp của các con, làm cho Thầy ngó thấy chán chường "Để mắt xanh coi nước khải hoàn".
Các con làm ơn cho Thầy ngó thấy hiển nhiên khải hoàn giải ách nô lệ cho nòi giống Tổ Quốc các con. Thầy trông các con làm tròn sứ mạng và Đức Cao Thượng Phẩm cũng mơ ước có bao nhiêu đó mà thôi.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 01-03-Giáp Ngọ nhằm ngày (dl. 03-04-1954).
Q.6/2-08: Tâm hồn của dân tộc Việt Nam trong giờ buổi này.
ĐỨC HỘ PHÁP Thuyết Đạo (đêm 14-3 Giáp Ngọ)
Đêm nay Bần Đạo thuyết về tâm hồn của dân tộc Việt Nam trong giờ buổi này, cả thảy con cái Đức Chí Tôn Nam, Nữ cũng như Bần Đạo. Chúng ta đã thọ hưởng đặc ân Tổ Phụ lưu truyền một nền văn minh tối cổ là Nho Đạo.
Cả phong hóa văn hiến đều thuộc về Khổng Giáo, từ khi lập quốc thì dân do căn bản tối cổ của nền văn minh Khổng Giáo mà đào tạo nên hình tướng của quốc thể chúng ta. Có lẽ hồi Tổ Phụ Ông Bà lập quốc tưởng cho cái nền văn hiến cổ truyền ấy nó phải còn tồn tại mãi mãi. Do nơi đó mà đào tạo cả tâm hồn của nòi giống, chắc các Đấng ấy chưa biết sự thay đổi trong giờ phút này mà các con cái của họ; máu mủ của họ đã chịu ảnh hưởng; nếu nói phong hóa cổ truyền của Tổ Phụ chúng ta để lại, thì con người của chúng ta về tâm hồn vẫn chơn chất hiền lương đạo đức nếu nói cái tâm hồn chơn thật của họ thì vẫn là hình tướng Đạo Giáo tạo cho họ đó vậy.
Sau 80 năm dưới quyền đô hộ của Pháp, Pháp đã đem cho ta một nền văn hiến mới nữa là: Văn hiến của Đạo Thiên Chúa mà ta gọi là: Gia Tô Giáo từ trước.
Ấy vậy ta thử lấy trí xét đoán coi cái nền văn minh của ta, văn minh tối cổ ấy đương nhiên cùng với một nền văn minh tối tân kia, thử hỏi tâm lý Nho Tông đào tạo phong hóa của ta như thế nào? Phong hóa của Thiên Chúa Giáo đào tạo nền văn minh giờ phút này chúng ta chịu ảnh hưởng gì?
Một đàng thì chỉ lấy Đạo Tam Cang Ngũ Thường làm căn bản, chỉ biết lấy tinh thần tâm lý làm mực thước mà đào tạo tâm hồn của mình.
Còn một đàng thì lấy khoa học, lấy quan sát thiệt tướng của sự sống làm căn bản, chúng ta ngó thấy hiển nhiên trước mắt rằng: Hai cái hình ảnh ấy chẳng khác nào như hai người đàn bà một người thì chơn chất thật thà chỉ lấy tâm lý làm căn bản cử xử thế tình lấy tâm làm mực thước, một hành vi chi chẳng hề khi nào dám đi qua của tiếng gọi tâm hồn.
Một đàng lấy cả phong thể trang nghiêm hình ảnh đẹp đẽ sang giàu, hết thảy cả bóng dáng mỹ thuật ở trong mình đào tạo ra thì chúng ta ngó thấy một đàng lấy Sắc làm căn bản, một đàng lấy Tâm làm căn bản. Bần Đạo dám chắc; thử chúng ta để dấu hỏi (?) nếu như có một người mỹ nhân như thế và một người thô nhơn như thế. Ta để câu hỏi có một vị tình lang đang chọn lựa như vậy. Bần Đạo dám chắc sự chọn lựa ấy không cần nói cả thảy các con cái Đức Chí Tôn đã để trong cái trí và trong mình rồi. "Hữu nhan sắc hữu ác đức" lời cổ nhơn đã để lại quả không sai đó vậy.
Bây giờ chúng ta nghĩ lụng lại, nếu như một người lịch sự kia chúng ta để trong óc não của họ, dạy dỗ họ cho có tâm hồn nhân đức đạo nghĩa biết giữ khuôn khổ của một người đàn bà thì đáng giá là người của thiên hạ đó là vì họ lấy Tam Tùng Tứ Đức làm căn bản.
Người lịch sự ấy làm y theo lời mình đã dạy thì quí hóa thế nào, tôi tưởng cả thảy trên mặt địa cầu này, nếu người đàn ông nào để ý lập đời thì mơ mộng có một điều là: Được người vợ nhân từ đạo nghĩa mà lại đẹp thì còn hạnh phúc nào hơn nữa.
Nếu có tay nào đào tạo được như thế thì dám chắc cả thiên hạ khen tay đó lắm vậy.
Ấy vậy tâm hồn của thiên hạ như thế đó, ta thử hỏi có thể nào đào tạo nhơn loại, đẹp đẽ như sự mơ ước của chúng ta đó hay chăng? Bần Đạo trả lời Đạo Cao Đài sẽ đào tạo họ.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 14-03-Giáp Ngọ nhằm ngày (dl. 16-04-1954).
Q.6/2-09: Lễ kỷ niệm của Thành Thái.
ĐỨC HỘ PHÁP Thuyết Đạo (Ngày 15 tháng 3 Giáp Ngọ - Lễ kỷ niệm của Thành Thái)
Thưa cùng Chư Chức Sắc Thiên Phong Nam, Nữ, Chư viên quan quới chức, Cả con cái Đức Chí Tôn Lưỡng Phái. Ba bài Ai Điếu của Hội Thánh, Quân Đội và Phục Quốc Hội đã toả một đời thống khổ của Cựu Hoàng Thành Thái đã rõ rệt. Bần Đạo không thể nói được nữa, bởi vì đã đầy đủ quá rồi, Bần Đạo nói ra đây để làm chứng về tinh thần của một dân tộc đã bị nạn lệ thuộc 80 năm; thật ra thì Ngài, Đức Hàm Nghi, Đức Duy Tân, ở trong hoàng tộc đều kế vị nhau ngồi trên ngai vàng không muốn thừa hưởng của tổ tiên để lại, mà lại vì dân vì nước vì chủng tộc hy sinh cả ngai vàng của mình làm cách mạng, Bần Đạo xét lụng lại cái dĩ vãng trong 80 năm lệ thuộc thì Bần Đạo lấy làm vui hứng và khoái lạc, nếu không nói là kiêu hảnh mà ngó thấy, một dân tộc từ dân lên trên nữa là chúa, vua chúa nhứt định không chịu án nô lệ, chẳng có buổi nào mà quốc dân Việt Nam không kiếm phương xô ngã cái án lệ thuộc ấy, biết bao nhiêu đoàn anh của chúng ta trong giai đoạn 80 năm chịu đau khổ đủ điều, mà trong đoàn anh ấy Đức Cựu Hoàng Thành Thái là chúa. Ngộ nghỉnh một điều là lo cái năng lực cường quyền áp bức thế nào thì cái tinh thần cứng rắn kia chẳng hề khi nào khuất phục, nếu buổi nọ Pháp chịu đặt Ngài hạ mình một chút thì chắc Ngài còn ở trên ngai vàng, trái lại Ngài đương đầu cùng cường quyền ấy.
Nối chí của Ngài là Đức Duy Tân, con ruột của Ngài, thật đúng như lời tục Việt Nam ta nói, cha nào con nấy, thật đáng làm chúa của nòi giống Việt Nam lắm, vì cớ cho nên dầu cho đương nhiên giờ phút này, nếu Pháp không trả độc lập thì dân tộc Việt Nam cũng đồng tâm tranh đoạt cho được độc lập của nước nhà, họ tranh đấu bằng mọi phương pháp để thâu hoạch cho đặng nền độc lập ấy.
Cốt yếu chỉ biết một điều là Quốc Dân Việt Nam không chịu lệ thuộc, họ chỉ đợi có một việc mà thôi, là họ đợi trọn vẹn độc lập không chịu mãi mãi một điều nào lệ thuộc nữa. Vì cớ cho nên cả toàn dân đồng tranh đấu quật cường; Bần Đạo còn nhớ trong cảnh lưu đày nơi hải ngoại một thân ở nơi xứ lạ quê người, cả nề nếp của Tổ Đường, cả nề nếp phong hóa của nền văn hiến, hai vị Đế Vương chẳng hề khi nào bỏ, chẳng hề khi nào quên. Bần Đạo còn nhớ, khi Bần Đạo bị lưu đày đi trên chiếc tàu Combattant đi đến Đảo Ile de la Réunion cả thảy trên tàu người ta đều được thong thả đi lại, còn Bần Đạo bữa đó bị nhốt dưới tàu, Ngài hay tin Ngài gởi nhắn lời thăm Bần Đạo, một cảm tình năm 1944 ở trong tù vừa ra thì tiếp được bức thơ của Đức Duy Tân gởi thăm, nhờ đó mà các thơ từ qua lại cùng Đức Thành Thái và Đức Duy Tân, Bần Đạo nói thật cả cái mơ vọng của hai Ngài là định vận mạng nước nhà chủng tộc mà thôi.
Vì cớ mà Bần Đạo đã lưu một tình cảm với Đức Duy Tân lắm lắm...
Hại thay! Trời chẳng chìu người cả một chương trình cả một biện pháp đã thương lượng cùng nhau thì cái chết của Ngài làm cho tan rã tiêu hủy hết.
Cuộc tranh đấu của Cao Đài hôm nay chẳng khác nào như áo vá quàng, thật khi Ngài về được nước nhà chính mình Đức Thượng Hoàng Thành Thái và tôi có gặp mặt nhau một phen ở Saigon tôi còn nhớ một cái chí khí già rồi mà vẫn còn mãi mãi, khi đàm đạo với nhau, luận về tương lai của Tổ Quốc nòi giống, khi hai tôi lìa nhau, rồi Ngài đưa ra ngoài cửa đi nửa đường ra cửa Đức Thượng Hoàng day lại nói với tôi một cách quả quyết cứng cỏi rằng: Ngài đừng tưởng tôi già mà Ngài bỏ, Ngài cho tôi con ngựa cây gươm tôi chiến Ngài coi, dẫu cho một vị anh hùng hay anh quân cũng thế, tuổi đã già mà chí khí vẫn còn mãi chẳng hề khi nào thay đổi, có một điều ân hận hơn hết là tại sao đã gọi nước Việt Nam độc lập mà khi Đức Thượng Hoàng Thành Thái trở về, thiên hạ không cho Ngài trở về cũng cho đến nước chính mình Bần Đạo phải làm tờ xin cho Ngài về đặng tạm cầm quyền hành trở lại nhưng nghĩ cũng chưa có một quyền hành gì và cho đến khi Ngài chết mới đem về được.
Bần Đạo nghịch nhất thử hỏi độc lập chúng ta giờ phút này phải bánh vẽ hay chăng? Nội bằng cớ ấy làm chứng quả quyết cái lịch trình tranh đấu của nước Việt Nam vẫn còn tiếp tục không bao giờ chấm dứt được.
LỜI ĐÁP TỪ CỦA HOÀNG TỬ VĨNH CẦU
Thưa Hội Thánh, Thưa các Ngài Chức Sắc Tòa Thánh, Thưa Thiếu Tướng cùng Ban Chấp Hành Trung Ương Phục Quốc Hội. Tôi hân hạnh được mời dự cuộc Lễ Truy Điệu Phụ Thân chúng tôi và sự tế lễ rất nên trang hoàng. Tôi chẳng biết lấy chi để đáp đền ơn trọng. Vậy tôi xin thay mặt cho cả gia đình chúng tôi tri ân nồng hậu cùng các Ngài.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 15-03-Giáp Ngọ nhằm ngày (dl. 17-04-1954).
Q.6/2-10: Đức Hộ Pháp sang Âu Châu.
ĐỨC HỘ PHÁP Thuyết Đạo tại Đền Thánh, đêm 15 tháng 4 năm Giáp Ngọ (dl 17-05-1954)
Ngày thứ ba tới đây, tức nhiên là ngày mốt, Bần Đạo sẽ đi đến Sài Thành đặng sang Âu Châu, vì có lời thỉnh mời của Đức Quốc Trưởng Bảo Đại, lại nữa Bần Đạo có phận sự Cố Vấn của Ngài, đương buổi này Ngài phải lo một điều rất trọng hệ là Ngài làm thế nào thâu hoạch cho nền Độc Lập hoàn toàn thống nhứt hoàng đồ, và phải hội nghị cùng Vạn Quốc tại Genève (tức nhiên Hội Nghị Genève) vì cớ cho nên Ngài mời Bần Đạo đi qua Âu Châu. Tuy vân nói rằng qua Âu Châu mặc dầu, kỳ thật Ngài nói Ngài mời vị Cố Vấn tối cao của Ngài đến hiệp cùng Ngài đặng liệu phương về hạnh phúc cho Tổ Quốc cho giống nòi của Việt Nam đó vậy. Lại nữa đã trót năm nay Chánh Phủ Pháp cũng muốn mời Bần Đạo đến nước Pháp, nhưng vì thời cuộc trong nước nên Bần Đạo không thể đi được. Hôm nay nhơn dịp Đức Quốc Trưởng mời và nước Pháp cũng mời Bần Đạo đến viếng một lượt. Trong buổi này Bần Đạo đến Âu Châu sẽ có nhiều phận sự trọng yếu để đem ra thi thố. Nhứt là ngọn cờ cứu khổ của Đức Chí Tôn đem đến Âu Châu để cho Đức Chí Tôn có đủ năng lực uy quyền đặng cứu vãn tình thế rắc rối loạn ly. Thật ra nếu nói nhơn loại bị một sự khảo đảo nặng nề, bị khủng bố tinh thần vì thời cuộc ấy họ đương lo sợ, e cho trận giặc đại chiến thứ ba không thể tránh khỏi. Họ tìm phương đặng giải quyết, tức nhiên làm một thứ nào bảo vệ hòa bình cho nhơn loại.
Các con trên kia Thánh Thể của Ngài tức nhiên cả Thánh Thể của Đức Chí Tôn giờ phút này đã lo sợ cho đồng bào của nước Việt nam thật ra các phận sự của Đức Chí Tôn đã giao phó từ khi Ngài đến mở Đạo tới giờ, cái Thánh Thể của Ngài tức nhiên nòi giống của nước Việt Nam ta đó vậy.
Ngài đã chỉ bảo cái nền Chơn Giáo cốt yếu là một nền Tôn Giáo của toàn thể nhân loại; nhứt là Ngài giao cho chúng ta một cái sứ mạng đặc biệt là làm thế nào đặng giải ách lệ thuộc cho nòi giống và bảo thủ hoàng đồ Tổ Phụ ở nước Việt Nam. Và toàn cả con cái Đức Chí Tôn đã ngó thấy sứ mạng đó nó rất khó khăn phải hy sinh thế nào đặng thực hiện được nền độc lập thật sự.
Vì cớ cho nên Ngài đã giao cái sứ mạng nặng nề cho chúng ta, Ngài mượn sắc dân Việt Nam là một sắc dân nhỏ nhoi hèn mạt đang ở trong vòng lệ thuộc đặng làm Thánh Thể của Ngài, Ngài cố ý để hiển nhiên trước mắt cho toàn nhơn loại ngó thấy Ngài không muốn cho Thánh Thể của Ngài ở trong vòng lệ thuộc nữa, không lẽ Ông Trời mà chịu làm lệ thuộc cho thiên hạ, nên Ngài mới giao cái sứ mạng cho ta, lại nữa Thánh Thể của Ngài đã trọn trong sắc dân Việt và giòng máu Việt cái phận sự Thiêng Liêng quí trọng ấy là Ngài giao cho dân Việt và dòng máu Việt. Cái phận sự Thiêng Liêng quí trọng ấy là Ngài giao cho dân việt thống nhứt hoàng đồ từ Nam chí Bắc để bảo thủ giang sơn thống nhứt mảy may lại, theo ý tưởng của Bần Đạo như thế ấy vậy, trong Thánh Thể Đức Chí Tôn tức nhiên con cái của Ngài đã chịu biết bao nhiêu khổ hạnh truân chuyên nguy hiểm, biết bao nhiêu Thánh Tử Đạo họ làm tiền phong đặng bảo vệ sanh mạng tài sản cho chúng ta, đương đầu với sự tàn ác giết chóc của loạn ly, vậy mà cả tướng soái của Đạo cả chiến binh của Đạo, họ vẫn hăng hái hy sinh vì nghĩa vụ ấy.
Vì cớ cho nên, họ đã vì phận sự Thiêng Liêng ấy mà bỏ mình, nên Đức Chí Tôn dành để cho họ địa vị Thánh Tử Đạo, là vì lẽ đó thật cái hy sinh cao thượng ấy chúng ta thử nghĩ lại coi từ cổ chí kim chưa hề có ai làm đặng, giờ phút này Bần Đạo phải tiếp tục làm phận sự Cố Vấn tối cao trong nước Việt Nam cho Hoàng Thượng Bảo Đại. Vì lẽ trước kia phân hai dân Việt và Pháp ký hứa trả nền Độc Lập cho nước Việt Nam. Hôm nay Bần Đạo muốn đem qua nước Pháp cầu xin phải ký Hiệp Ước, tức nhiên nước Pháp phải giao trả nền độc lập hoàn toàn cho nước Việt Nam, Bần Đạo sẽ còn làm phận sự của mình nữa, là làm cho hoàng đồ thống nhứt.
Mới đây Bần Đạo vừa nghe hai đảng phái Quốc Gia và Cộng Sản muốn chia hoàng đồ làm hai, lấy vĩ tuyến 16 làm ranh giới. Theo Thánh Ý của Đức Chí Tôn đã định. ...(chữ in đã bị bôi hoặc bỏ bớt)... nên Bần Đạo mới có viết một bức thơ không niêm gởi cho Nguyễn Ái Quốc, tức nhiên là Hồ Chí Minh, cho biết giống nòi Việt Nam không thể chia đôi và toàn thể quốc dân không chịu nhị chúa như: Nguyễn, Trịnh thuở trước.
Từ Hoành Sơn đổ vô là chúa Nguyễn, từ Hoành Sơn đổ ra là chúa Trịnh, hai khối ấy làm cho biết bao nhiêu sanh mạng của nòi giống phải hy sinh vô cớ. Ngày nay Thánh Thể của Đức Chí Tôn không chịu chia đôi như trước nữa, chỉ lấy cái số mạng làm của sang giàu mà thôi, thì mặc cho ai vì quyền vì lợi họ tranh nhau thây kệ họ, dầu cho Quốc Gia hay Cộng Sản cũng vậy, không còn nghĩa lý gì nữa. Bần Đạo sẽ dìu dắt cả Thánh Thể Đức Chí Tôn đến địa vị Trung Lập.
Giờ phút này chúng ta ngó thấy trong một gia đình kia. Một người anh em chơn chất thật thà ta không nên quá thật thà rồi cha dại, Bần Đạo đã dạy về lẽ đó rồi: Vì thấy một người anh thật thà chơn chất bị một đứa em mình xảo quyệt gian dối nó đã ăn qua mặt và hiếp bức nên chúng ta binh đó thôi, ngoài ra ta không vì danh vọng, quyền lợi, mà trái lại ta coi Tổ Quốc là trọng.
Ngày nay Thánh Thể Đức Chí Tôn đến giai đoạn làm một vị Giáo Sư hòa giải đặng đem cái hạnh phúc lụng lại cho nòi giống Việt Nam trước đã, rồi đây ta sẽ chịu khó đặng làm khuôn vàng thước ngọc để nơi mặt địa cầu này đem tương lai hạnh phúc cho chủng tộc thì cơ khổ của Đức Chí Tôn dầu có ân (âu?)(*1) cũng là thường.
Phụ ghi:
(*1) Nơi đoạn thứ 9: Ngày nay Thánh Thể Đức Chí Tôn đến giai đoạn làm một vị Giáo Sư hòa giải đặng đem cái hạnh phúc lụng lại cho nòi giống Việt Nam trước đã, rồi đây ta sẽ chịu khó đặng làm khuôn vàng thước ngọc để nơi mặt địa cầu này đem tương lai hạnh phúc cho chủng tộc thì cơ khổ của Đức Chí Tôn dầu có ân (âu?)(*1) cũng là thường.
Nguyên bản chánh in là: Ngày nay Thánh Thể Đức Chí Tôn đến giai đoạn làm một vị Giáo Sư hòa giải đặng đem cái hạnh phúc lụng lại cho nòi giống Việt Nam trước đã, rồi đây ta sẽ chịu khó đặng làm khuôn vàng thước ngọc để nơi mặt địa cầu này đem tương lai hạnh phúc cho chủng tộc thì cơ khổ của Đức Chí Tôn dầu có ân cũng là thường.
Chúng tôi xin đề nghị cho rõ nghĩa hơn: Ngày nay Thánh Thể Đức Chí Tôn đến giai đoạn làm một vị Giáo Sư hòa giải đặng đem cái hạnh phúc lụng lại cho nòi giống Việt Nam trước đã, rồi đây ta sẽ chịu khó đặng làm khuôn vàng thước ngọc để nơi mặt địa cầu này đem tương lai hạnh phúc cho chủng tộc thì cơ khổ của Thánh Thể Đức Chí Tôn dầu có âu cũng là thường.
Q.6/2-11: Đức Hộ Pháp phủ dụ các Cơ quan tiễn đưa Đức Ngài sang Pháp.
ĐỨC HỘ PHÁP Phủ dụ trong dịp các Cơ Quan tiễn đưa Đức Ngài sang Pháp, ngày 16 tháng 4 năm Giáp Ngọ
Thưa Chức Sắc Thiên Phong Nam, Nữ Lưỡng Phái, mấy Em Nam, Nữ con cái Đức Chí Tôn và các Thanh Niên các con Quân Đội.
Hôm nay Thầy lãnh sứ mạng Thiêng Liêng đem ngọn cờ cứu khổ đến Âu Châu; mong rằng cánh hạc huyền linh của Đức Chí Tôn sẽ đem tình yêu ái vô biên của Ngài đặng an ủi tâm hồn các chủng tộc nơi Âu Châu. May ra nhờ lòng yêu ái vô biên, quyền năng vô tận của Đức Chí Tôn tức nhiên Đại Từ Phụ sẽ làm cho một trường hổn loạn trở nên thái bình và hạnh phúc cho cả nhơn loại trên mặt địa cầu này. Bần Đạo chỉ mong có một điều là tinh thần mấy triệu con cái Chí Tôn cũng như một tinh thần của Bần Đạo.
Buổi Bần Đạo vắng mặt cả toàn thể con cái Đức Chí Tôn cầu nguyện cùng Ngài ban phước lành cho toàn thể nhơn loại là một điều trọng yếu hơn hết, và tha thứ cả tội tình của họ đã gây nên, rồi đem chơn truyền lập Đạo Giáo cho họ, để họ giải cả oan nghiệt đã tạo nên từ trước.
Thật ra chúng ta ngó thấy hai trận đại chiến vừa qua, đã gây nên cũng bởi nơi Âu Châu hết. Trong trường sát khí thấy hiển hiện ra trước mắt; chẳng phải nơi Á Đông này, mà thật ra bên Âu Châu khởi đầu mà chớ ! Giờ phút này nhơn loại đang mơ ước hòa bình, nhơn loại đang khao khát hạnh phúc lắm vậy.
Hại thay! Những kẻ làm đầu nhơn loại, thay vì họ biết phận sự Thiêng Liêng tối yếu, tối trọng ấy đặng làm cho nhơn loại hết khốn khổ, dứt bạo tàn, lấy cả tâm ái của Đức Chí Tôn làm căn bản hiệp chủng. Làm thế nào cho nhơn loại biết mình là con người duy có một mà thôi.
Một về Nòi Giống.
Một về Xã Hội.
Một về Đạo Đức tinh thần.
Hôm nay Đức Chí Tôn đem nền Chơn Giáo của Ngài rải khắp trên mặt địa cầu, và nó đã thiệt hiện ra như thế. Chính Ngài làm đặng Ngài bảo vệ hạnh phúc, bảo tồn mạng sống của nhơn loại cho bền chắc. Còn một điều trọng yếu là Bần Đạo Âu Du thì toàn thể Thánh Thể, cả con cái Đức Chí Tôn, các con Quân Đội, phải lấy tâm hòa ái đối đãi với nhau, cũng như có Bần Đạo trước mặt vậy.
Một điều trọng yếu hơn nữa là cả thảy cầu nguyện thế nào cho ngọn cờ từ bi bao phủ trên mặt địa cầu này. Nếu mơ ước không có diệt vong mà thiệt hiện ra được. Bần Đạo dám chắc không có điều chi vui cho Đại Từ Phụ hơn điều đó.
Bần Đạo xin để lời từ giã và mong ước khi ra đi thế nào, đến khi về thấy cả con cái Chí Tôn cũng như thế ấy.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 16-04-Giáp Ngọ nhằm ngày (dl. 18-05-1954).
Q.6/2-12: Đức Hộ Pháp đi Pháp về.
ĐỨC HỘ PHÁP Phủ dụ trong dịp Lễ tiếp rước Đức Ngài Âu du hồi Cố quốc, ngày 24-6 Giáp Ngọ
Thưa Chư Chức Sắc Thiên Phong Nam, Nữ Lưỡng Phái, các con cái yêu dấu của Đức Chí Tôn, các Binh Sĩ, hàng Sĩ Quan Đạo và Đời.
Bần Đạo lấy làm cảm khích đã hưởng được một cái hạnh phúc của toàn thể con cái Đức Chí Tôn ban cho trong cuộc tiếp rước một cách long trọng nồng nàn đủ đầy tình ái.
May thay! Trên hai tháng đến xứ Pháp, nhờ ân Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn ban bố quyền năng vô đối của Ngài mà Bần Đạo đã đặng thỏa mãn, và có phương kế làm cho đôi bạn đã sống chung cùng nhau trên tám chục năm trường, vì lầm hiểu nhau mà không đem lại hòa bình của hai nước đặng.
Bần Đạo nhờ được thiên hạ hiểu biết, nhứt là Quốc Dân Pháp đã rõ tâm tình của Bần Đạo thế nào, và đã hiểu lời yêu cầu của hai nước cho chóng đặng hòa bình, đem nền tự do hạnh phúc cho hai dân tộc đã chung sống cùng nhau trên tám chục năm dư. Y như lời Bần Đạo khi Hội Nghị Toàn Quốc, Bần Đạo có nói một câu Pháp ngữ như vầy: "Que la France nous aide. Afin que nous puissions réaleser notre indépendance national et édéfier le Temple de l'Union Française".
Nhờ câu ấy mà toàn thể quốc dân đặng hiểu rằng: Cả toàn thể quốc dân có cái nguyện vọng nồng nàn, là làm thế nào cho toàn cả quốc dân thiện hiện đặng nền độc lập, vì lẽ tranh thủ nền độc lập ấy mà nòi giống Việt Nam chia đôi xẻ bảy.
Bần Đạo nói: Nếu không hoàn toàn thâu đặng nền độc lập, thì chúng ta có thể đem tiếng chuông cảnh tỉnh của Đạo làm cho Quốc Dân Việt Nam thống nhứt, và làm cho cả nguyện vọng của toàn quốc được thỏa mãn độc lập tự do hạnh phúc.
Bần Đạo nhờ ân Thiêng Liêng giúp đỡ làm đặng điều ấy.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 24-06-Giáp Ngọ nhằm ngày (dl. 23-07-1954).
Q.6/2-13: Đức Hộ Pháp thuyết Đạo sau 2 tháng đi Âu Châu.
ĐỨC HỘ PHÁP Giảng Đạo, đêm mồng 1-7 Giáp Ngọ
Đêm nay cả con cái Đức Chí Tôn Nam, Nữ đi cúng đông dữ. Bần Đạo biết cái đông là vì cớ nào. Nói mà nghe trong hai tháng vắng mặt Bần Đạo cả thảy đều trông về đặng nghe.
Nhờ ơn Đức Chí Tôn ban đặc ân Thiêng Liêng mà Bần Đạo và Hồ Bảo Đạo trong hai tháng trường đã xuất dương, nếu không nói rằng: Đi hành Đạo nơi Âu Châu mà không có quyền năng Thiêng Liêng ban cho thì cái thân già này chưa chắc mạnh khoẻ trở về đây.
Như con Vụ, vùi vẫn trong hai tháng trường hỏi tại sao không đau. Một điều nên để ý, từ trước Đức Chí Tôn có nói và hứa quả quyết rằng: "Nơi nào con đến là có Thầy" một lời hứa ấy hiển nhiên, nên Bần Đạo có hơi ỷ mình một chút rồi cũng qua khỏi.
Đức Chí Tôn đến dạy Bần Đạo lúc nọ, đức tin của Bần Đạo chưa có gì hết. Không biết Ổng tạo nền Chơn Giáo như thế nào, Ổng biểu đem dâng cả thi hài, trí não, hồn phách cho Ổng lập Đạo. Bần Đạo không tin, không nói, không trả lời một cách nào quá đáng. Bần Đạo trả lời: Thưa Thầy, cảm tưởng của con biết con, và con biết Đạo Thầy biểu con làm phận sự bắt chước làm Phật Thích Ca, Đức Lão Tử, Đức Khổng Phu Tử, hay là Đức Chúa Jésus Christ thì con không làm đặng, con chỉ biết con là Tắc đây thôi, Ổng trả lời: Tắc, thoảng như Thầy lấy tánh đức của con để lập giáo con mới nghĩ sao? Bần Đạo hết đường trả lời.
Từ thử đến giờ Bần Đạo ỷ mỉnh hễ đi đến đâu, hay đứng trên giảng đài nào thuyết đạo, Bần Đạo cứ nói càng không hiểu mình nói trúng hay nói trật, ai ngờ nói trúng, có một điều ngộ nghỉnh mà Bần Đạo đến Miên Triều, Miên Hoàng tuyên bố cho cả Quốc Dân Miên hay: Đấng nầy đi đến đây đem hòa bình lại cho nước nhà Miên, nòi giống Miên đó.
Rồi qua Âu Châu vừa bước chân lên đất Pháp họ cũng nói điều ấy. Đem hòa bình cho thiên hạ đem hòa bình làm sao không biết! Điều đó Bần Đạo chỉ tin nơi Đức Chí Tôn làm sao hay vậy. Có hòa bình thiệt mà nước Việt Nam đoạt đặng hòa bình. Nhưng ôi! Quả kiếp của Việt Nam đã đầy đặng quá. Bần Đạo cầu xin Đức Chí Tôn hai điều: xin đặng hòa bình, nhưng nạn đổ máu của nòi giống không sao tránh khỏi!
Cả con cái Đức Chí Tôn! Cái đau thảm của Bần Đạo hơn hết là nạn máu đổ của nòi giống ta, Bần Đạo vì yêu ái Tổ Quốc, vì thương mến giống nòi đã hy sinh nửa kiếp người phế Đời hành Đạo chịu khổ hạnh mọi điều, chỉ mong có một điều là làm thế nào là giải ách lệ thuộc cho nòi giống, tạo dựng độc lập cho nước nhà, Bần Đạo mơ vọng có bao nhiêu đó nên liều hy sinh một đời mình, Bần Đạo chỉ cầu bao nhiêu đó mà thôi.
Ngoài ra nữa Đức Chí Tôn biểu Bần Đạo làm nô lệ tôi đòi cho nhơn loại với một giá nào Bần Đạo cũng chịu, nhưng mong cầu cho tiêu tan quả kiếp của nòi giống mà không đặng.
Trước mắt toàn thể con cái Đức Chí Tôn Nam cũng vậy, Nữ cũng vậy cái tấn tuồng chia đôi Hoàng Đồ của Tổ Quốc nó đã tái diễn. Nhớ lại tiểu sử của nước Việt Nam hồi đời nhị Chúa, cái loạn ly trong nước chẳng khác nào Tây Sơn buổi nọ. Cái quả kiếp hiển nhiên là chia đôi thiên hạ mà cả con cái Đức Chí Tôn đã ngó thấy trước mắt, vì cớ trả vay ấy chúng ta mới có thể tạo dựng nước nhà đặng.
Khi đến Ba Lê (Paris) Bần Đạo cùng phái đoàn vào Đền Thời Notre Dame quả quyết cầu nguyện cho Hội Nghị Genève thất bại, nếu Hội Nghị Genève kết liễu sẽ chia đôi Hoàng Đồ của chúng ta. Nhưng cả thảy chúng tôi hết tâm cầu nguyện mà không hiệu nghiệm, là vì quả kiếp vẫn vậy phải trả vay mà chúng ta trả bằng một cái giá rất đau đơn, khổ não tâm hồn chúng ta trước cảnh chia đôi Hoàng Đồ Tổ Quốc của chúng ta.
Bần Đạo để dấu hỏi (?) có phải chăng; duy có một phái đoàn năm ba người cầu nguyện tại chỗ đó không đắc thành, lời cầu nguyện không cảm ứng. Vậy Bần Đạo cậy nhờ cả toàn thể con cái Đức Chí Tôn thành tâm cầu nguyện đặng nạn chia đôi Hoàng Đồ của chúng ta thống nhứt lại. Vì Bần Đạo ngó thấy trước mắt cái vụ thống nhứt Hoàng Đồ của chủng tộc vẫn dễ, nhưng chỉ khắc khe có một điều họ coi đảng phái họ, cá nhân họ, đoàn thể họ, họ trọng danh dự quyền lợi của họ hơn là vận mạng Tổ Quốc.
Hoàng Đồ chúng ta bị chia xẻ, nòi giống mình đau khổ. Nước nhà ta bị trên tám mươi năm lệ thuộc, giờ đây thấy trước mắt mà họ còn đương mê muội đang hám vọng.
Một lần nữa Bần Đạo cậy mượn con cái Đức Chí Tôn nhứt là Thánh Thể của Ngài cầu nguyện để phá tan cái hám vọng của họ, đặng thống nhứt tinh thần lại làm một.
Bần Đạo chỉ mong điều ấy.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 01-07-Giáp Ngọ nhằm ngày (dl. 30-07-1954).
Q.6/2-14: Sứ mạng Thiêng Liêng truyền giáo.
ĐỨC HỘ PHÁP Thuyết Đạo tại Đền Thánh, đêm 15-7 Giáp Ngọ
Đêm nay Bần Đạo giảng cho cả Chư Chức Sắc và Thanh Niên có sứ mạng Thiêng Liêng truyền giáo nên để ý. Bần Đạo đã thường giảng nhơn loại trong thế kỷ 20 này đang bị thử thách về tinh thần, trí não mà từ tạo Thiên lập Địa tới giờ chưa có, nhứt là giờ phút này cửu nhị ức nguyên nhân họ đã bị thử thách một cách rất đau đớn khổ não.
Đã lãnh sứ mạng Thiêng Liêng Đức Chí Tôn giao phó, những thân phàm chúng ta phải hoạt bát với khối tinh thần vô đối để giải thoát nhơn loại khỏi cảnh tương tàn. Nhưng rất tiếc cho các vị lãnh sứ mạng đã không giúp ích cho nhơn loại mà lại còn tìm tàng những điều làm cho thiên hạ phải khổ sở, nhứt là tạo các võ khí giết người.
Thời đại nguyên tử này làm cho họ ăn năn hối ngộ, bị thử thách đau đớn hơn hết là hạng thượng lưu trí thức, những hạng ấy Chí Tôn đã cho họ một cái địa vị cao trọng của các nền chơn giáo, họ đoạt tới Bí Pháp huyền vi Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn, rồi họ lại tự xưng mình là Địa Tiên, nên họ sản xuất những triết lý tôn giáo vô thần, xô đẩy họ cho đời là hạng vô tri vô giác.
Hại thay! Không biết họ có thuận tùng hoàn cảnh chịu làm con vật để giúp đời hay chăng? Chắc không thế họ làm đặng. Vì cớ cho nên tội nghiệp thay hạng thượng lưu trí thức trong Cửu nhị ức nguyên nhân đang bị đọa đày nơi bể trần cõi tục, vì hạng ấy lại có lắm kẻ cố tâm hại Đạo, nên phải chịu luật vay trả. Bần Đạo trông lại giờ phút này bao nhiêu người bị đói khát, cũng như kẻ bệnh hoạn kia chờ thuốc. Họ trọng Đạo một cách không thể tưởng tượng được. Vì sự thử thách gian xảo của đời không biết bao nhiêu kể.
Tội nghiệp thay! Nhưng Đấng hữu hạnh ngộ Đạo mà chưa được hưởng hồng ân của Đức Chí Tôn, chỉ được gần gũi các Đẳng ấy mà thôi. Trông xa Đền Thánh là những Đấng được Đức Chí Tôn ban hồng ân vì họ đã từng chịu đau khổ tâm hồn không thể tỏa được, nên họ mới hưởng được địa vị ấy.
Mấy em Nam, Nữ ; đây rồi mấy em sẽ lãnh sứ mạng Thiêng Liêng đem giọt nước Cam Lồ rưới vào tâm hồn đau khổ của nhơn loại. Họ đang trông chờ ở mấy em. Bần Đạo đã hứa chắc rằng giờ phút này họ đang trông đợi mấy em, nếu mấy em cố gắng trong sứ mạng thì họ yêu ái, kính trọng mấy em một cách nồng nàn chơn thật. Bần Đạo đã làm chứng hiển nhiên trước, vì Bần Đạo cùng Hồ Bảo Đạo đã nhận thấy điều ấy.
May thay! Giờ phút này Đức Chí Tôn để mỗi phần thưởng cho con cái của Ngài, cho kiếp sống của mấy em. Vì cớ cho nên mấy em được đứng vào hàng Thánh Thể, Bần Đạo chỉ mong một điều cũng như Đức Chí Tôn đã nói: Mấy em hưởng hạnh phúc, mấy em cũng nên trông ngó lại chín mươi hai ức nguyên nhân, dầu xa, dầu gần, dầu trong thân nhân hay ngoại tộc, mấy em nên tìm tàng những điều hay giúp họ trong đường Đạo, để họ thoát khỏi cảnh khổ đọa đày này. Dầu trong hành vi hay kiếp sống mấy em cũng không bao giờ hiểu đặng Nguyên Nhân hay Hóa Nhân. Mấy em có biết đâu những hạng nghèo hèn kia là những chơn linh trong Cửu nhị nguyên nhân đầu kiếp. Nếu rủi họ đầu kiếp ở chung cùng mấy em với số phận cùng khổ, mấy em thấy họ hèn mạt đần độn rồi mấy em khi rẻ họ, tức nhiên mấy em sẽ đắc tội với họ.
Ấy vậy Bần Đạo để lời căn dặn con cái Nam, Nữ của Đức Chí Tôn nhứt là trong hàng Thánh Thể, rán gìn giữ cho lắm để một ngày kia về nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống gặp họ rồi sẽ ân hận mà không dám nhìn mặt họ mà chớ.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 15-07-Giáp Ngọ nhằm ngày (dl. 13-08-1954).
Q.6/2-15: Đức Hộ Pháp phủ dụ toàn Đạo trước khi sang Trung Hoa.
ĐỨC HỘ PHÁP Phủ dụ trước khi Đức Ngài sang Trung Hoa Ngày 20-7 năm Giáp Ngọ
Thưa cùng Chư Vị cầm quyền các cơ quan Chánh Trị Đạo, con cái Đức Chí Tôn Nam, Nữ; Thượng Hạ Sĩ Quan Quân Đội Cao Đài.
Hôm nay Bần Đạo lãnh một sứ mạng mới do ý muốn của Đức Chí Tôn Bần Đạo vừa được Chánh Phủ Trung Hoa mời đến Đài Loan, chủ định của họ mời Bần Đạo chỉ vì Đạo mà thôi. Cả toàn thể con cái Đức Chí Tôn đã hiểu rõ nền triết lý văn minh tối cổ của Tổ Phụ Việt Nam để lại, nó cũng là một nền văn minh tối cổ của Trung Hoa Dân Quốc. Biết đâu cả con cái Đức Chí Tôn giờ phút này được gần gủi Ngài, làm đường đi cho Ngài mà được hưởng tự do hạnh phúc Thiêng Liêng vô tận. Hôm nay Ngài muốn chia xẻ hạnh phúc ấy cho một nòi giống một chủng tộc, một màu da, một sắc tóc với nhau. Bần Đạo chẳng cần nhắc lại cả thảy quốc dân Việt Nam cũng đã biết rằng: Nòi giống của mình vẫn là một nòi giống của Tàu. Nước Việt Nam của chúng ta đã bị Trung Hoa thâu phục hết rồi. Tổ quán của chúng ta chỉ còn có Đông Kinh, tức nhiên là Bắc Việt. Hôm nay sợ e về tay Trung Hoa mà chớ.
Ấy vậy ta còn danh Việt mà mất Tổ quán. Dân Việt ta bị đau khổ về mặt đời thử thách của Đức Chí Tôn đặng trả kiếp tiền khiên của Tổ Phụ ta đã tạo thành.
Hôm nay Thầy được danh dự của Đại Từ Phụ ban cho cầm cây cờ cứu khổ để giải khổ cho nhơn loại, mình đã đau khổ mà đặng lãnh sứ mạng Thiêng Liêng để an ủi đau khổ của thiên hạ. Điều ấy làm cho chúng ta suy gẫm lung lắm đó vậy.
Thật ra có hai cái đau khổ, cái đau khổ về xác thịt nó còn dễ chịu, khổ về tâm hồn nó thái quá, mà Đức Chí Tôn lại cho tâm hồn là trọng, không coi thể xác là trọng. Bởi vì quyền năng vô đối của Ngài muốn vậy.
Hại thay! Ngài không đến với các chủng tộc nhưng Ngài đã đến với chúng ta. Vì Ngài muốn đem sắc dân hèn mạt thất quốc làm Thánh Thể của Ngài tức nhiên là Hội Thánh đặng đem rải khắp nơi hột giống thương yêu vô đối của Ngài, tức nhiên Đại Từ Bi, Đại Bác Ái đó vậy.
Hôm nay Bần Đạo cầm cờ và ôm khối ấy đặng bủa khắp trong nước Trung Hoa tức nhiên là một chủng tộc của chúng ta.
Ở nhà Bần Đạo cậy cả toàn thể con cái Đức Chí Tôn, các cơ quan Chánh Trị Đạo, cầu nguyện dùm cho Bần Đạo làm sứ mạng cho thành công và đắc lực.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 20-07-Giáp Ngọ nhằm ngày (dl. 18-08-1954).
Q.6/2-16: Lời tuyên bố trong dịp rước di hài Cụ Cường Để tại phi trường T. S. N.
ĐỨC HỘ PHÁP Tuyên bố tại phi trường Tân Sơn Nhứt ngày 12-10-1954
Thưa cùng đồng bào Việt Nam,
Đây là di hài của Đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, quí danh là Nguyễn Phúc Vân, Ngài là đích tôn của Đức Đông Cung Cảnh tức là Tông Chi Hoàng Tộc. Cả toàn thể Quốc Dân đều biết dĩ vãng của Ngài.
Ngài đã hy sinh một đời sống lưu vong nơi đất khách, cốt theo đuổi một mục đích, là làm thế nào phục hồi vận mạng Tổ Quốc, độc lập thiệt hiện.
Ngài cũng như Bần Đạo, tâm hồn của Ngài phù hạp với tâm hồn của Bần Đạo là chẳng lúc nào Ngài phân biệt màu sắc chánh trị, cùng đảng phái, đoàn thể, Tôn Giáo.
Một kiếp sống của Ngài, chỉ có một mục đích là làm thế nào phục sự vận mạng Tổ Quốc và đồng bào Việt Nam.
Đau đớn thay! Trên bốn chục năm lưu vong nơi đất khách. Ngài theo đuổi một mơ vọng mà Ngài không đạt đặng. Công chưa thành, danh chưa toại, Ngài đã thành người thiên cổ nơi đất khách quê người.
Hôm nay, di hài của Ngài đã được đem về nước: Do đó khối anh linh của Ngài cũng cùng về hiệp với khối Quốc hồn của bốn ngàn năm lập quốc.
Thê thảm thay! Trước nửa giờ lâm chung, Ngài còn rán ngồi dậy nhắn cùng tất cả Thanh Niên Việt Nam hãy cương quyết phục cường cứu quốc, rồi Ngài nằm thiêm thiếp.
Trước khi trút hơi thở cuối cùng Ngài còn rán kêu: "Việt Nam Muôn Năm".
Bần Đạo nghe thuật lại điều ấy, Bần Đạo cảm khích vô ngần. Những bạn đã lưu vong cùng Ngài đã khóc hết nước mắt. Khối tâm hồn ái quốc ấy hôm nay ước mong nó sẽ là một ngọn lửa thiêng nung sôi tâm hồn của toàn thể Quốc Dân Việt Nam, bỏ thành kiến, bỏ đảng phái hiệp sức cùng nhau để cứu vãn tình thế nước nhà đang lúc nguy vong tan tác.
Trước khi dứt lời, Bần Đạo xin toàn thể đồng bào nối điệu theo dư âm khốn khổ của Ngài đã kêu cả toàn thể đồng bào của chúng ta. Bần Đạo hô như Ngài đã kêu gào thống thiết trước hơi thở cuối cùng của Ngài.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày dl. 12-10-1954 nhằm ngày (âl. 16-09-Giáp Ngọ).
Q.6/2-17: Đức Hộ Pháp tuyên bố trong dịp rước di hài Cụ Cường Để.
ĐỨC HỘ PHÁP Tuyên bố trong dịp rước Di Hài của Cụ Cường Để tại Tòa Thánh, ngày 20 tháng 9 Giáp Ngọ
Thưa Chư Chức Sắc Thiên Phong Nam, Nữ Lưỡng Phái, Thánh Thể Đức Chí Tôn, Hội Thánh Nam, Nữ, các Cơ Quan Chánh Trị Đạo.
Tiếp theo lời tuyên bố của Bần Đạo khi về đến Sài Thành đã nói về đời sống của Đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để Bần Đạo chẳng cần nhắc đi nhắc lại thì cả toàn thể quốc dân Việt Nam cả toàn Đạo cũng biết rõ sự hy sinh vô đối của Ngài kiếp sống của Ngài chỉ có một mục đích quật cường giải ách lệ thuộc thâu hồi độc lập và phục quốc cho đồng bào. Khi mới đến Tân Sơn Nhất Bần Đạo đã tỏ lời kêu gọi theo yếu thuyết của Đức Kỳ Ngoại Hầu lúc lâm chung. Cả một đời sống hy sinh của Ngài mong tạo hạnh phúc cho Tổ Quốc cho giống nòi mà phải chịu chẳng biết bao nhiêu gian truân khổ não, cũng chỉ vì lòng ái quốc vô đối của Ngài.
Cả Thanh Niên Việt Nam nên ghi nhớ những lời nhắn gởi của Ngài, trước nửa giờ chết, Ngài còn rán ngồi dậy nhắn cho toàn Thanh Niên Việt Nam phải cương quyết quật cường cứu quốc, mặc dầu còn một hơi thở cuối cùng, nhưng Ngài còn rán hô "Việt Nam Muôn Năm" rồi mới tắt thở.
Bần Đạo không thấy mà đã nghe Đồng Bào Việt Kiều ở Đông Kinh thuật điều ấy làm cho Bần Đạo khóc, và chính mình Bần Đạo chỉ biết khóc mà thôi.
Nối theo lời kêu gọi thống thiết của Ngài Bần Đạo về đến đây cũng xin cả toàn thể con cái Đức Chí Tôn Nam, Nữ Lưỡng Phái lập lại lời thống thiết trước giờ chết của Ngài. Bần Đạo hô cả thảy đều hô theo: "VIỆT NAM MUÔN NĂM".
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 20-09-Giáp Ngọ nhằm ngày (dl. 16-10-1954).
Q.6/2-18: Vía Đức Quyền Giáo Tông.
ĐỨC HỘ PHÁP Thuyết Đạo tại Tháp Đức Quyền Giáo Tông ngày 13 tháng 10 năm Giáp Ngọ (1954)
Thưa cùng Chư Chức Sắc Thiên Phong Nam, Nữ; Thánh Thể của Đức Chí Tôn, các cơ quan Hành Chánh Đạo, các em Nam, Nữ, mấy con Nam, Nữ.
Hôm nay là ngày Vía Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt, mỗi năm ngày kỷ niệm của Ngài Bần Đạo đã thuyết nêu không có điều chi lạ, cả con cái Đức Chí Tôn có đặng mới mẽ điều chi chăng?
Trường hợp đã hiển nhiên trong thế sự, giờ phút này là giờ phút quyết định, vận mạng tương lai của Tổ Quốc Việt Nam và vận mạng tương lai của chủng tộc nòi giống, tình trạng thay đổi một điều mới mẽ chúng ta nên để ý suy gẫm, ngộ nghỉnh thay, là chỉ có ba mươi năm xuất hiện mà Đạo Cao Đài, có một năng lực đào tạo thay đổi thế sự nước Việt Nam một cách đáng kể, nhứt là ảnh hưởng đương nhiên nó đã làm cho cả tâm lý của nhơn loại, vạn quốc đều phải để mắt đến nó, hỏi cái quyền hành tối cao tối trọng ấy, chúng ta ngó thấy có phải chúng ta làm nên đặng chăng? Không: Không phải, nếu kẻ thiếu đức tin, hay các nhà triết học thấy cả cái mạng vận đương nhiên của nó rồi quan sát, cả tình thế dĩ vãng của nó thì người ta sẽ nói Đạo Cao Đài có một năng lực, họ tưởng đâu cái năng lực theo thế thường của thiên hạ, lấy cái mạnh, cái oai quyền, lấy năng lực tranh đấu, theo thường tình của nó là thành đặng, không Bần Đạo làm chứng rằng, không phải vậy, quả quyết không phải như vậy, bởi vì chúng ta nên quan sát cả tình thế nước nhà, cái tình thế đương nhiên của nòi giống ta, không phải năng lực chúng ra gầy nên uy tín cao trọng của nó đương nhiên được, quyền năng ấy là quyền năng vô hình trong tay của Đấng Tối Cao tối trọng, quyền năng vô biên kia của Đức Chí Tôn của Đại Từ Phụ đó vậy.
Bần Đạo đã quan sát và suy gẫm khi đã đem thân ra quốc tế, làm con hạc Đạo, đem cái tiếng thanh tao của tâm lý đạo đức tinh thần an ủi cả tâm hồn khổ não đương nhiên của họ Bần Đạo biết rằng, không phải quyền năng của mình mà quyền năng vô đối của Đức Chí Tôn đó vậy.
Trước khi Đạo chưa ra khỏi nước, mà quyền của Đạo toàn cả thiên hạ đều biết cái chơn tướng của Đạo, thiên hạ đã tầm thấy trước, ấy vậy Bần Đạo nói cái giọt Cam Lồ cứu khổ của Chí Tôn, không phải rãi nội trong nước Việt Nam này mà thôi, mà cả toàn con cái Ngài và toàn nhơn loại chúng ta suy đoán như thế rồi chúng ta ngó lụng lại cái dĩ vãng của Đức Quyền Giáo Tông hồi mở Đạo, Đạo mới phôi thai, như trẻ sơ sanh kia vậy, mặc tình cho thiên hạ muốn để sống thì sống, muốn giết chết thì giết, họ đã mưu toan diệt tiêu nó bởi vậy ngày sản xuất nó ra với một huyền linh phi thường, thiên hạ kinh khủng sợ sệt, trước họ gần họ muốn cho nó trở nên một tu sĩ, mà tiếng tục người ta nói, Cụ Thầy Chùa kia mà thôi, và người ta mơ vọng cho nó trở nên như thế, người ta đã áp bức nó, người ta đã sỉ nhục, cái sỉ nhục ấy, người có thể làm chứng chắc chắn là Đức Quyền Giáo Tông và Đức Cao Thượng Phẩm.
Ngộ nghỉnh thay! Cả cái sự sỉ nhục buổi nọ, hôm nay nó đã biến thành một vinh quang vô đối, Bần Đạo tưởng, nếu cả tâm hồn chúng ta đem cái giá trị của hai Đấng mà so sánh, không ai tạo dựng nó, nếu không phải quyền năng Thiêng Liêng vô hình, quyền năng vô đối của Đức Chí Tôn mà làm nó đặng, trước người ta sỉ nhục tới một vị ngồi trên Ngai Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn, người ta vẫn mạt sát chà đạp, hôm nay con cái của Người, đám em út của Người đó có thể có một quyền năng sửa đời cải thế đặng, tạo Đời một cách mới mẻ vậy, cái năng lực chúng tôi tạo dựng riêng biệt không bắt chước ai không xin ai, chính mình chúng tôi tạo thành đó vậy.
Xét lụng lại cái dĩ vãng, ngó cái đương nhiên bây giờ của chúng ta, nếu cả thảy con cái của Đức Chí Tôn thấy thế nó làm chứng quả quyết cho người Anh Cả buổi ban sơ chịu khổ nhục dường nào hôm nay chúng ta hưởng được cái vinh quang phú quí, vinh hiển giờ này, đối với người buổi đó vậy, thật ra Đức Chí Tôn rất công bình và rất mạnh mẽ đó vậy.
Đêm hôm Bần Đạo có làm một bài thi để ghẹo Đức Quyền Giáo Tông:
THI
Nguyện vọng như anh đã thỏa rồi,
Cố tâm kế chí có thằng tôi.
Bầu linh gậy sắt Ông an thế,
Chày Giáng Xử Ma tớ giúp đời.
Vững tiếng xa thơ già gắng đẩy,
Xuôi chèo Bát Nhã trẻ đua bơi.
Khuôn hồng trước thấy trời quang đảng,
Kế nghiệp mai sau vẫn có người.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 13-10-Giáp Ngọ nhằm ngày (dl. 08-11-1954).
Q.6/2-19: Vía Đức Quyền Giáo Tông - Lịch sử thành lập Đạo Cao Đài. (*1)
ĐỨC HỘ PHÁP Thuyết đạo tại bao lơn Đền Thánh, nhân dịp Lễ Vía Đức Quyền Giáo Tông ngày 13 tháng 10 năm Giáp Ngọ (DL. 1954)
Năm nay Đạo đã được 30 năm, có lẽ là năm kỷ niệm xứng đáng nhứt.
Có nhiều người viết Đạo Sử và đã nói cho người ngoại quốc hiểu Đạo, trong ấy có nhiều điều không đúng sự thật, nhứt là trong các bài Cơ. Đạo ban sơ thế nào? Nhiều người đã nói đến, đã giảng lịch sử Đạo, nhưng không đúng sự thật chút nào hết. Sự thật như thế nầy:
Trong năm Ất Sửu, các Thầy, các Ông, từ hàng Thông Phán, Phủ, Huyện, muốn tìm một sự thật mà thiên hạ đã làm đảo lộn trong giới trí thức đương thời là: "Con người có thể thông công cùng các Đấng Thiêng Liêng Vô Hình được". Nhứt là thuyết này đã làm cho cả Âu Châu sôi nổi, nhiều sách vở đã tung ra cả hoàn cầu do các Hội Thần Linh Học và Thông Thiên Học đã khảo cứu một cách rõ rệt: "Loài người có thể sống với cảnh Thiêng Liêng kia như chúng ta đang sống đây vậy". Cái triết lý ấy làm cho nhiều người, nhứt là hạng người học thức muốn tìm tàng thấu đáo.
Nơi hạng học thức ấy có một cố tâm hơn hết là Đức Cao Thượng Phẩm. Ban sơ chưa biết gì, chỉ làm theo phương pháp bên Âu Châu hay bên Pháp là Xây Bàn. Cái duyên ngộ Đạo của chúng tôi lúc đó chưa có quyền năng Thiêng Liêng xúi biểu hay xô đẩy. Chúng tôi muốn tìm hiểu huyền vi bí mật thiêng liêng của Đức Chí Tôn đã tạo ra Càn Khôn Vũ Trụ. Thật ra sách vở để lại cũng nhiều nhưng thật ra lý thuyết ấy làm cho chúng tôi chưa quyết định về tín ngưỡng cách nào mà đức tin đã có thật vậy.
Chúng tôi Xây Bàn, có các Đấng Thiêng Liêng, nhứt là các Đẵng Chơn Hồn cao trọng đến làm bạn với chúng tôi, nhứt là Cung Diêu Trì. Các vị Tiên Nữ đã đến với chúng tôi là: Thất Nương, Bát Nương, Lục Nương, rồi lần lần các vị Nữ Tiên, Nữ Phật nơi Cung Diêu Trì đến làm bạn với chúng tôi, sự làm bạn với tình tôn kính đó, chúng tôi chưa gặp ở thế gian nầy. Có hạnh phúc, được hưởng, chỉ có tình Bạn Đạo thì mới được như thế. Buổi đó làm cho chúng tôi thương yêu một cách lạ lùng, thương yêu dường như họ đã đến với chúng tôi, cùng xác thịt, đồng sanh, đã tới sống với chúng tôi.
Buổi ấy, đức tin chúng tôi khởi đương ra, nhờ người đầu tiên là Thất Nương Diêu Trì Cung. Sau khi Đức Chí Tôn Ngài đến với danh hiệu lạ lùng là AĂÂ, vì khi Ngài đến Ngài gõ có 3 cái, chúng tôi tính theo cách Xây Bàn. Hễ gõ một cái là A, gõ hai cái thì Ă, gõ ba cái thì Â. Đấng AĂÂ nầy chỉ dạy Đạo và vấn nạn mà thôi. Khi xưng tên là AĂÂ, chúng tôi hỏi nữa thì Đức Chí Tôn không nói gì hết. Đức Cao Thượng Phẩm buổi nọ có nói: "À chịu tên Ông là AĂÂ rồi, vậy chớ Ông bao nhiêu tuổi?" Ông viết mãi, không biết bao nhiêu mà nói, trăm rồi ngàn, ngàn rồi muôn mà còn viết nữa. Đức Cao Thượng Phẩm nói: Sao ông cả triệu tuổi vậy?
Chúng tôi thật không biết Ông AĂÂ là Đức Chí Tôn chút nào hết, bây giờ hiểu lại Ngài xưng là Tam, mà Tam là Càn Khôn Vũ Trụ định thể, ba chấm nói rõ là số 3, số thiêng liêng tạo vạn vật vậy.
Tới chừng Đức Chí Tôn xuống Cơ Bút, dạy Đức Cao Thượng Phẩm cầu Diêu Trì Kim Mẫu đến cùng chúng tôi, chính mình Đức Chí Tôn dạy chúng tôi làm lễ rước ngộ nghỉnh lắm. Trong buổi Hội Yến Diêu Trì, Đức Chí Tôn nói Hội Yến Diêu Trì. Chúng tôi tưởng tượng một ngày kia, khi tu đắc Đạo, về cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống, tức nhiên về cảnh Tiên, mới có hạnh phúc, mới có thể Hội Yến Diêu Trì hưởng Tiên Tửu, hưởng Bàn Đào, chớ đâu có ngờ Hội Yến Diêu Trì là hội ngộ các vị Tiên Nương tại mặt thế gian này. Đức Chí Tôn nói tạo lễ rước Diêu Trì Kim Mẫu là lễ Hội Yến Diêu Trì, chúng tôi nghe lời vậy thì hay vậy. Chính Đức Chí Tôn biểu Bà Tư là Nữ Chánh Phối Sư Hương Hiếu lo lễ đó và dạy Bà làm lễ đó.
Thật ra trong Cung Diêu Trì có 10 người, mà ở mặt thế này hết 3 người là Hộ Pháp, Thượng Phẩm và Thượng Sanh. Chúng tôi buổi đó không biết Hội Yến Diêu Trì theo lễ phải làm sao, chúng tôi chỉ ngồi ngó, chính mình Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu phải đi gắp từ món ăn, đi mời các vị Nữ Tiên và Nữ Phật.
Trong năm Ất Sửu hội ngộ cùng Đức Chí Tôn và Đức Diêu Trì Kim Mẫu, khi ấy Đức Diêu Trì Kim Mẫu mới dạy chúng tôi hiểu biết chút đỉnh về đạo đức và lúc đó mới biết Đấng xưng là AĂÂ là Đức Chí Tôn đó vậy.
Khi Đức Chí Tôn đến với chúng tôi, Đức Chí Tôn mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, chớ không phải mở Đạo Cao Đài, tới chừng Ngài biểu chúng tôi cầm một cây Cơ và một ngọn Bút đi các nơi thâu Môn đệ. Trọng yếu của Ngài là thâu mấy vị Tông Đồ có sứ mạng trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ này đã giáng sanh trước, đặng làm môi giới độ Đạo sau nầy. Đức Chí Tôn biểu chúng tôi Phò Loan, đặng Ngài dùng quyền năng Thiêng Liêng kêu gọi mấy vị Tông Đồ đó. Quả nhiên chẳng bao lâu, có đủ Thập Nhị Thời Quân hiển hiện ra, trong số các vị Thời Quân ấy, có Cao Tiếp Đạo ở tại Kiêm Biên chớ không phải ở Saigon. Đi thâu Thập Nhị Thời Quân rồi Đức Chí Tôn mới mở Đạo. Chừng đó Ngài mới chỉ cho chúng tôi biết rằng: Có một người thờ Ngài rồi là Ông Ngô Quang Chiêu, tức nhiên Đức Chí Tôn muốn thâu Ông làm Giáo Tông đầu tiên đó. Có một điều lạ lùng suy nghĩ không ra nguyên cớ là Đức Chí Tôn biểu Bà Nữ Chánh Phối Sư Hương Hiếu may sắc phục Giáo Tông cho Người, kỳ hẹn trong 10 ngày, Người sẽ được tôn làm Giáo Tông, trong thời gian 10 ngày, chỉ có 10 ngày mà thôi. Chúng tôi không hiểu nguyên cớ nào Ông Ngô Quang Chiêu không hưởng được địa vị ấy.
Ông Ngô Quang Chiêu là một vị Phủ, Đốc Phủ Sứ buổi nọ, ở tại Hà Tiên do nơi Cơ Bút, Đức Chí Tôn đến với Người và thâu Người làm Môn Đệ đầu tiên hết, là người được Đức Chí Tôn xưng là Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát. Trong khi đó Đức Chí Tôn đến với chúng tôi mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Đức Chí Tôn chỉ nhà của Ông Ngô Quang Chiêu cho chúng tôi và nói: Ngô Quang Chiêu thờ Thầy lâu rồi, các con đến đó kết bạn cùng nó, vì cớ cho nên chúng tôi mới biết Ông Ngô Quang Chiêu.
Một buổi nọ chúng tôi đang Phò Loan, học hỏi như thường ngày, Đức Chí Tôn kêu chúng tôi và Đức Cao Thượng Phẩm, phải đi vô trong Chợlớn, đến tại nhà của Đức Quyền Giáo Tông của chúng ta bây giờ là Ông Lê Văn Trung, buổi nọ Ông Lê Văn Trung đang làm Thượng Nghị Viện. Hội đồng Thượng Nghị Viện chẳng khác bây giờ là một vị Tổng Trưởng. Đời Pháp thuộc chức Nghị Viên lớn lắm, Ông là người Nam làm đến bực đó thôi, mà nghe ra Ông là người quá sức đời, tôi và Đức Cao Thượng Phẩm không hạp chút nào, chính thật ra buổi nọ tôi nghe tôi kỵ hơn hết, nhứt định không làm điều đó được, nghe danh quá đời, chơi bời phóng túng không thể tưởng tượng. Một Ông Quan mất nước không thể tả hết; buổi chúng tôi ôm cái Cơ đến nhà Ngài đặng Đức Chí Tôn độ Ngài, mục đích chúng tôi là Đức Chí Tôn bảo đâu làm đó vậy thôi, khi vô tới nhà thú thật với Ngài rằng: Chúng tôi được lịnh của Đức Chí Tôn, biểu chúng tôi đến nhà anh Phò Loan cho Đức Chí Tôn dạy Đạo, anh tính sao anh tính. Ngộ quá chừng quá đổi, Ông biết Đấng đó hơn chúng tôi biết. Lo sắp đặt bàn ghế, sửa soạn buổi Phò Loan, rồi thì chúng tôi tiếp rước Ông, độ Ông, bắt Ông nhập môn đủ hết, chúng tôi không hiểu Ông có tin nơi Đức Chí Tôn không? Có khi tưởng Ông không tin nơi Đức Chí Tôn nữa chớ. Trong nhà Ông có nuôi một người con nuôi tên là Thạnh còn nhỏ độ 12, 13 tuổi gì đó, hai cha con kiếm đâu được ra một cây Cơ không biết, vái Đức Chí Tôn rồi cầu Cơ. Khi Phò Loan thằng nhỏ kia cầm đến cây Cơ thì ngủ, Ông thì thức, Cơ thì chạy hoài. Đức Chí Tôn dạy Ông nhiều lắm, không biết dạy những gì. Ông hỏi thì Đức Chí Tôn trả lời, chỉ có hai Người biết với nhau mà thôi. Từ đó Ông mới tin Đức Chí Tôn.
Từ khi Đức Chí Tôn đến độ Đức Quyền Giáo Tông rồi mới xuất hiện ra Hội Thánh. Nếu chúng tôi làm chứng, thì chúng tôi có thể nói rằng: Do nới Đức Quyền Giáo Tông mới xuất hiện ra Hội Thánh Cửu Trùng Đài đó vậy. Ngôi vị của Ông Saint Pière Giáo Hoàng của Thiên Chúa Giáo ở La Mã như thế nào, thì ngôi vị của Đức Quyền Giáo Tông ngày nay cũng thế. Bởi vì chính mình Đức Chí Tôn đến thâu Ngài, biểu Ngài lập thành Hội Thánh. Ngài đi đến đâu, tôi và Đức Cao Thượng Phẩm theo Phò Loan để Đức Chí Tôn thâu môn đệ, thâu được bao nhiêu thì giao cho Đức Quyền Giáo Trung Thượng Trung Nhựt giáo hóa, chính do nơi Ngài cầu khẩn Đức Chí Tôn thâu môn đệ, Ngài luôn luôn đi các nơi để phổ độ chúng sanh, nhứt là trước ngày mở Đạo, Đức Chí Tôn sai hết chúng tôi, tức Thập Nhị Thời Quân đi Phò Loan cùng hết không chỗ nào không có Cơ Bút, người thì xuống Miền Tây, người đi Miền Trung, đi cùng hết. Thâu môn đệ xong, Thầy dạy chúng tôi về Tây Ninh mở Đạo. Với hai bàn tay trắng, không có một miếng đất cắm dùi làm sao mở Đạo?
Khi đó Đức Chí Tôn thâu Ông Nguyễn Ngọc Thơ, tức là Phối Sư Thái Thơ Thanh làm môn đệ, Thái Thơ Thanh là bạn chí thân, tức là chồng của Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh, thành thử mỗi người đều có Thiên Mạng nơi mình mà không ai biết, chính Bà là người cầm đầu Nữ Phái đó vậy.
Đức Chí Tôn thâu rồi mới biểu hai vợ chồng Ông Thái Thơ Thanh vào mượn chùa Từ Lâm Tự ở Gò Kén đặng mở Đạo, chùa Từ Lâm Tự chưa xong gì hết, có Chánh điện, còn Đông Lang, Tây Lang thì chưa có, đàng này mấy Anh Lớn họp nhau xuất tiền ra làm cho xong.
Đến ngày rằm tháng 10 năm Bính Dần thì mở Đạo, chúng tôi gởi đơn lên Chánh Phủ Pháp xin mở Đạo công khai, trong đơn có kể tên những người môn đệ đầu tiên. Sau khi mở Đạo nơi chùa Gò Kén, tức chùa Từ Lâm Tự. Người cầu Đạo càng ngày càng đông, người Pháp buổi nọ sợ chúng tôi làm loạn, nên xúi giục Hòa Thượng Giác Hải đòi chùa ấy lại, đuổi chúng tôi đi cho hết mở Đạo, đồng thời người Pháp bắt đầu làm khó Đạo, hăm he các Chức Sắc, họ lập hồ sơ đen để trừng trị những người theo Đạo.
Riêng phần Bần Đạo là công chức, khi vâng lệnh Đức Chí Tôn đến Chùa Gò Kén mở Đạo, Bần Đạo có xin phép nghỉ sáu tháng, đến chừng trở lại làm việc người ta không cho Bần Đạo ở Nam Việt nữa đổi Bần Đạo lên Kiêm Biên tức là Nam Vang (xứ Cam Bốt bây giờ) nơi đó Bần Đạo vừa làm việc vừa lo mở Đạo, mục đích là làm thế nào cho Đạo chóng thành tựu. Riêng phần mấy Anh Lớn trong hàng Phủ, Huyện đã có chức phận làm quan triều Pháp, bị người ta dọa nạt đủ điều. Nếu theo Đạo Cao Đài người ta sẽ bắt bỏ tù, người ta còn hăm he con cái Đức Chí Tôn sẽ bị Chánh Quyền Pháp triệt để bắt bớ nữa, vì cớ cho nên mấy Anh phải sợ, một cái sợ rất nên phi lý. Nhưng người Pháp buổi nọ cầm quyền sanh sát trong tay, hễ thuận thì còn, nghịch thì chết không còn ai lạ gì việc đó nữa.
Cả toàn con cái Đức Chí Tôn buổi nọ chỉ còn lại có 3 người. Ba người ấy thiên hạ gọi là 3 người lì. Ba người ấy là: Đức Quyền Giáo Tông, Đức Cao Thượng Phẩm và Bần Đạo đây, chúng tôi nhứt tâm nhứt trí quyết làm cho thành Đạo, cho vừa lòng Đức Chí Tôn, bởi vì không biết duyên cớ nào chúng tôi hiểu rằng: Chúng tôi phải báo hiếu cho Đức Chí Tôn và tự nhiên quyền năng Thiêng Liêng giúp chúng tôi biết Đạo Cao Đài nầy, tương lai sẽ cứu quốc, cứu chủng tộc và giống nòi, chúng tôi hiểu rõ rệt như thế, nên 3 anh em chúng tôi nhứt định hy sinh kiếp sống mình, hy sinh cả hạnh phúc để tạo dựng cho nên tướng, nhứt quyết như thế nào, bất kể sống chết, cả 3 chúng tôi nhứt định phải làm cho Đạo Cao Đài thành, thành đặng cứu khổ, cứu chủng tộc chúng tôi. Sự quyết chí về tương lai như thế nên phải bỏ chùa Gò Kén , tức là chùa Từ Lâm Tự, đề về đây, về Làng Long Thành Tây Ninh để lập nên Tòa Thánh bây giờ đây.
Trong lúc chinh nghiêng như vậy, tiếc thay: Đức Quyền Giáo Tông và Đức Cao Thượng Phẩm lại về cảnh Thiêng Liêng trước, còn lại có một mình Bần Đạo, Bần Đạo thấy rằng: Nạn nước nguy vong thân nô lệ, ra với hai bàn tay trắng, bắt gió nắn hình, muôn điều khổ não, lập nghiệp Đạo cho thành, cho con cái Đức Chí Tôn. Hôm nay Đạo là máu, là xương của con cái chí hiếu của Ngài dựng thành đó vậy.
Ba mươi năm khổ não, toàn con cái Đức Chí Tôn lập nghiệp cho Đạo hôm nay đặng thành tựu, ngó dĩ vãng, ngó đương nhiên bây giờ xa cách như trời với vực. Yếu buổi nọ, so sánh mạnh hôm nay. Nhục buổi nọ so sánh vinh hiển hôm nay, giá trị xa nhau thiên lý.
Cả toàn con cái Đức Chí Tôn, từ khi lập Đạo chịu khổ hạnh truân chuyên, chịu nhục nhã, chịu mọi điều thống khổ, thì hôm nay được vinh hiển như thế. Bây giờ Đạo nên hình là cả một khối tâm đức vô biên của con cái Đức Chí Tôn tạo nên tướng.
Thừa dịp hôm nay Bần Đạo để lời, thay thế hình ảnh Đức Chí Tôn, Bần Đạo để lời cám ơn cả toàn con cái Đức Chí Tôn, đã hiểu biết làm vẽ vang cho Đạo, tương lai vững chắc cho nước nhà nòi giống. Bần Đạo xin để lời cám ơn.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 13-10-Giáp Ngọ nhằm ngày (dl. 08-11-1954).
(*1) Có hai bài cùng một tựa đề là Vía Đức Quyền Giáo Tông, nên chúng tôi mạo muội thêm vào phần Lịch sử thành lập Đạo Cao Đài để chư đọc giả tiện phân biệt (trong bản chánh không có).
Q.6/2-20: Phương pháp lập thân danh.
ĐỨC HỘ PHÁP Thuyết Đạo tại Đền Thánh, đêm 14-11 Giáp Ngọ
Đêm nay Bần Đạo giảng cho đám Thanh Niên Nam, Nữ Lưỡng Phái. Có lẽ giảng hơi dài, đừng vì lẽ mệt ngồi ngủ gục hãy cố lắng tai nghe.
Bần Đạo giảng phải lập thân danh thể nào, và căn bản nào? Vả chăng sanh nơi thế kỷ 20 này, Bần Đạo thường nói: Cái phương sống của con người là tranh đấu cố gắng đem cả trí não khôn ngoan đặng bảo vệ sống còn của mình.
Có lạ chi, dầu muốn, dầu không, dầu thuận tùng hay là nghịch. Hỏi kiếp sanh của mình đã rủi sanh làm người rồi, thân của chúng ta ở giữa vạn vật là vật hữu sinh cũng như cả vạn vật kia vậy. Có thân, có phận thì con người của ta phải lập thân phận thế nào? Bởi thế bậc hiền triết thường nói:
"Đã sanh ra đứng trong Trời Đất,
Phải có danh gì với núi sông".
Nếu con người không nên danh phận chi hết, dường như tinh thần của họ thiếu phận làm người. Cái sống buộc ta phải sống chung cùng vạn vật, ta phải khôn ngoan khéo léo, biểu ta sống đặng chi? Đặng làm gì?
Ta đã đồng sinh cùng vạn vật, tức nhiên giữa khối sinh lực của ta đã xuất hiện ra, tức ta là một phần tử trong khối sinh lực của toàn thể chúng sinh. Ta có phận sự phải bảo vệ cái sống ấy. Không có quyền diệt cái sống, hay là nghịch với cái sống. Tỷ như mặt hồ kia đầy nước, mà nếu ta múc nước trong hồ ấy ra thì hồ đầy ấy sẽ vơi một phần.
Ấy vậy, ta sống, ta chịu nợ của cái sống. Sống chung cùng cả bạn đồng sanh, chúng ta phải làm thế nào cho sống ấy tồn tại hiển hách mãi thôi. Ta không có quyền phép nào, quyền hành nào làm mất sống ấy, tức nhiên không quyền diệt sự sống.
Hại thay! Chúng ta phải hiểu rõ rằng: Sống đây không phải thú vị, vui hứng gì mà sống đây buộc chúng ta phải tìm phương giải thoát khỏi sống ấy. Đương nhiên bây giờ ta vẫn sống, ta không thể chối cãi là ta đã chung sống cùng bạn đồng sinh của chúng ta là phải lập thân danh đặng bảo vệ sống ấy.
Vì muốn bảo vệ sống ấy mà Tiên Nho của chúng ta để lại thuyết: "Tu thân, Tề gia, Trị quốc, Bình thiên hạ".
Tu thân là gì? Là trau giồi mình, biết mình, biết người biết vạn vật đặng định phận của mình. Ta không thế ngu muội, ta phải làm sao cho khôn ngoan ấy nhờ tu thân. Tu thân ấy căn bản là gì?
Dầu cho thiên kinh vạn điển đi nữa, cốt yếu một điều là tạo tâm đức của ta và dùng cái tình ái của ta cho có khuôn khổ, có niêm luật, qui định một căn bản chắc chắn là tu thân đó vậy.
Ấy vậy, nó chỉ có bấy nhiêu, chúng ta tầm hiểu rằng: Muốn định phận của mình, muốn tạo công danh của mình phải do căn bản tình đức. Nếu trái lại do nơi thời may, hoặc là hung bạo, hay là xảo trá, gian lận những điều ấy đều giả dối hết.
Quan tiền vũ hậu, ta thử xem xét coi cái sống đương nhiên của bạn đồng sinh, họ đã hành vi và thi thố điều gì? Dầu cho tên Đạo Chích kia nó là kẻ cướp, kẻ hung bạo, mà nó chưa hề dám từ bỏ Tam Cang Ngũ Thường của nó, kẻ hung bạo dối trá chừng nào, càng ép mình trong khuôn khổ tình đức chừng ấy. Họ mượn màu tình ái đặng lợi dụng lường gạt thiên hạ mới đặng. Nếu đi ngược chiều tình đức thì chẳng hề làm lớn với ai được.
Kẻ cướp, kẻ hung bạo, tàn ác, nó muốn làm anh chị thiên hạ nó muốn mượn màu tình đức ấy, nhơn nghĩa ấy cho tới tận cùng, gạt thiên hạ, thiên hạ theo mới đặng.
Trái ngược lại, đối với người đã đoạt được khuôn viên tinh thần tình đức ấy, do nhiên tự nhiên nó có, chẳng cần kiếm nó có sẵn hiển nhiên.
Từ cổ chí kim, chúng ta giở lịch sử của nhơn loại, chúng ta ngó thấy rõ ràng điều ấy: Bất cứ thời buổi nào vị anh hùng nào quán thế, ở thế gian này muốn lập thân danh phải mượn màu tình đức ấy. Bần Đạo chỉ cho ngó thấy, nếu một tướng cướp muốn làm chúa thiên hạ, thâu thiên hạ trong tay, phải lấy tình đức đối đãi với kẻ bộ hạ mới thâu cả xương máu của họ đặng tô điểm địa vị của nó.
Trái lại nương nơi hung bạo lập nghiệp như Sở Bá Vương, như Tần Thủy Hoàng kia thì nó phải tiêu hủy cả cơ nghiệp.
Bần Đạo đã ngó thấy một điều, nếu để tâm quan sát kỹ hơn nữa, hễ có tình đức chắc chắn, thì chẳng cần tìm công danh cũng tự nhiên đến, dầu đến với phương diện nào nó cũng tìm đến.
Tích xưa, một bậc Hiền Triết là: Nguyễn Hiến là học trò yêu của Đức Khổng Tử lại là anh ruột của Đạo Chích. Thầy Nguyễn Hiến, Bần Đạo thuật ra cả thảy con cái Đức Chí Tôn thấy người như thế không có người thứ hai nữa.
Buổi nọ Thầy Tử Cống đi xe bốn ngựa mặc áo lông cừu đi ngang qua nhà Thầy Nguyễn Hiến, Thầy Nguyễn Hiến nghèo đến nổi nhà lợp bằng cỏ tang, vách làm bằng cỏ du. Nghe Thầy Tử Cống đi ngang qua lật đật ra chào đón, lấy áo mặc vô, vải áo rách, xỏ chân vô tới giày, giày thủng gót, đội mão buộc không nhíp, ra đứng giữa đường đợi Thầy Tử Cống. Thầy Tử Cống đi xe ngang thấy Ngài đứng bên đường, Thầy để lời than: "Ôi! Ngài không nghỉ đến công danh ư?" Thầy Nguyễn Hiến trả lời - Thầy xưa có nói: "Kẻ biết Đạo dù nghèo cũng không nghèo tức nhiên không làm quan, ấy là kẻ không mồ. Biết Đạo không giữ Đạo là kẻ bịnh. Tôi chỉ là kẻ không mồ, chớ không phải kẻ bịnh".
Thử coi Thầy Nguyễn Hiến nói ai bịnh, phải chăng Thầy Tử Cống bịnh. Công danh mà chi tới hôm nay nhắc đến công danh, Thầy Nguyễn Hiến là người hi hữu danh cần gì cao trọng như hàng phẩm của vị thủ tướng trong triều đình hay là vua, chúa mới lưu lại danh phận mình. Ông Vua Nghiêu không muốn truyền ngôi cho con mới tìm hiền, lúc chưa gặp Ông Thuấn, nghe Hứa Do là người có tài đức mới cho người dời Hứa Do đến triều. Vua Nghiêu nói: "Trẩm nghe người tài đức lớn, vậy Trẩm muốn nhường ngôi cho người thay Trẩm làm Chúa thiên hạ".
Hứa Do trả lời: "Tiêu liêu sào lâm bất quá nhứt chi, yến thử ẩm hà bất quá mãn phúc". Con chim tiêu liêu ở rừng chỉ làm ổ trên một nhánh cây, con yến thử xuống giòng sông uống nước chẳng qua đầy bụng. Kẻ hạ thần đã quen thú an nhàn cách sống riêng biệt. Bệ hạ muốn nhường ngôi cho kẻ hạ thần cũng vô ích. Nói xong bỏ ra về. Khi đi ngang qua nguồn nước mới lum khum xuống rửa tai cho hết vấn vít vì nghe thiên hạ nói muốn làm vua kỳ quá.
Ông Sào Phủ là người giữ trâu thôi, dắt trâu xuống giòng nước cho uống, thấy Hứa Do lum khum rửa tai, Sào Phủ hỏi: Anh làm chi rửa tai vậy? Hứa Do mới thuật lại: Vì vua Nghiêu muốn truyền ngôi cho làm vua, tôi không muốn vấn vít trong lổ tai nữa. Sào Phủ nói: Anh làm gì cho thiên hạ biết anh là hiền đức muốn truyền ngôi cho anh, nếu người ta biết anh là hiền đức, tức nhiên anh đã muốn làm cho người biết; chắc chắn hơn nữa là tại anh tỏ cho thiên hạ biết anh là hiền đức. Anh đừng tỏ cho thiên hạ biết anh là hiền đức, thì ai biết anh đâu mà nhường ngôi, cần chi phải rửa tai. Sào Phủ nói xong liền dắt trâu đi lên trên dòng nước cho uống. Hứa Do lấy làm lạ hỏi: Bến ở đây sao dắt trâu lên trên kia cho uống? Sào Phủ trả lời: Vì sợ anh rửa tai trôi ra trâu tôi uống nhầm. Đó là công danh của kẻ triết hiền.
Ta thử ngó lại nước Việt Nam ta từ cổ chí kim, kẻ lập thân danh biết bao người mưu kế quỷ quyệt như Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc đã lập ra một cơ quan vĩ đại là khối Tây Sơn. Trịnh kia gian xảo thế nào thì Tây Sơn gian xảo cũng thế. Trịnh phò Lê diệt Nguyễn tức nhiên phò Lê đặng mượn danh nhà Lê đặng diệt Nguyễn, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ cũng thế mượn màu phò Lê đặng diệt Trịnh.
Chúng ta thấy gian xảo bao giờ cũng nương theo tình đức, lợi dụng tình đức đặng lập thân danh. Những mưu kế xảo quyệt chẳng hề khi nào bền bỉ lâu dài đặng. Thân danh dầu lập bao nhiêu cũng không thế tồn tại. Lịch sử của nước Việt Nam để trước mắt cho chúng ta ngó thấy.
Bây giờ nói chuyện nước Tàu, kẻ lập đế vị bền vững được 800 năm là họ Lưu. Lưu Bang bất quá là một anh Đình Trưởng, tức nhiên là anh đưa đò vậy thôi, mà thâu phục được lòng dân, ưu ái dân, binh vực kẻ yếu, đương đầu với kẻ mạnh, tức nhiên lúc yếu của mình mà dám đương đầu cùng Sở Bá Vương cứu trăm họ lê dân trong nước lửa. Lấy tình đức làm căn bản lập Hớn thất giang san của Ngài được 800 năm. Còn như Sở Bá Vương dùng bạo tàn dựng nên cơ nghiệp chỉ một đời thôi. Từ cổ chí kim chưa một Đế Vương nào để di tích cho bằng Tần Thủy Hoàng, nhưng đào tạo nên bởi hung tàn bạo ngược, chỉ ba đời thôi.
Napoléon 1er vẫn là một người thường dân trong hàng lê thứ, đi từ tên lính lên tới Đế vị rồi, biết bao nhiêu vinh diệu cho nước Pháp thọ hưởng. Hại thay! Tới chừng lên Đế vị rồi, phong hầu, phong bá (Công, Hầu, Vương, Bá) cho cả hàng tướng sĩ của Ngài, tới trận Waterloo những kẻ sang trọng trở nên nhát nhúa mất chí khí anh hùng nên Ngài phải thua. Cả tướng sĩ đã lập nên Đế vị cho Ngài sau khi chỉ còn Ông Nai còn biết tình của Ngài còn bao nhiêu đều phản phúc. Lợi dụng tình đức ấy nó chỉ là bóng dáng giả dối. Cả cơ nghiệp dầu đào tạo mạnh mẽ liệt cường cao trọng cũng như giọt sương trên ngọn cỏ chẳng hề khi nào bền vững được.
Cả con cái Đức Chí Tôn, mấy em đã có sẵn tình đức của Đức Chí Tôn đã đến trong ba chục năm nay thôi, chỉ trọng ba chục năm hưởng được đặc ân của Đại Từ Phụ đã đến tạo cả tâm hồn mấy em. Tình đức trong Đạo ấy, mấy em tu thân dễ quá chừng quá đổi. Tu thân mấy em là làm nền móng vững chắc đặng lập công danh, đừng ngó ra ngoài những giả dối đó mà cho là sự thật. Chưa có thật đâu mấy em. Đứng trong cửa Đạo nương tình đức lập thân danh. Qua dám nói chắc cả con cái Đức Chí Tôn Nam, Nữ để ý, do căn bản tình đức ấy chẳng hề khi nào hư, nếu Qua không nói mấy em ngồi trên đầu thiên hạ.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 14-11-Giáp Ngọ nhằm ngày (dl. 09-12-1954).
Q.6/2-21: Lễ Ban Quyền Nữ Đoàn Trưởng Phụ Tá Quân Đội Cao Đài.
ĐỨC HỘ PHÁP Thuyết Đạo Lễ Ban Quyền Nữ Đoàn Trưởng Phụ Tá Quân Đội Cao Đài, ngày 15-11 Giáp Ngọ (09-12-1954)
Thầy thành thật khen ngợi sự sáng suốt của Bộ Tư Lệnh thành lập Đoàn Phụ Tá Quân Sự để định phận cho Phụ Nữ Cao Đài.
Từ xưa đến nay, có biết bao ngọn lửa thiêng của phụ nữ đã làm cho sáng tỏ được quốc hồn: Nước Pháp nhờ Jeanne D'are, nước Việt Nam nhờ Trưng Triệu đã đưa quốc gia, nòi giống mình, thoát khỏi ách ngoại xâm, để tiến đến bờ bến vinh quang. Ngày nay, Bần Đạo ước mong sao các con sẽ tìm lại được ngọn lửa thiêng ấy, ngọn lửa thiêng ái quốc ở nơi lòng các con và khơi tỏ nó lên, để cứu nguy cho quốc vận, giải thoát cho giống nòi.
Nước Pháp chỉ có một Jeanne D'are, nước Việt ta lại có đến Nhị Trưng và Triệu Ẩu, thế là nước Pháp có một mà nước Việt ta lại đến ba. Ta nên lấy đó mà hãnh diện, mà cố gắng hơn lên để khỏi thẹn mang danh là gái Lạc Hồng.
Q.6/2-22: Lễ Khánh Thành Tân Dân Thị "Qui Thiện".
ĐỨC HỘ PHÁP Phủ dụ trong dịp Lễ Khánh Thành Tân Dân Thị (Qui Thiện) ngày 29-11 năm Giáp Ngọ
Thưa cùng Chư Chức Sắc Thiên Phong, Chư Viên Quan quyền Đạo và Đời, các em Nam, Nữ.
Mấy em đã đặng ân Thiêng Liêng ban thưởng do lòng đạo đức của mấy em, nên mấy được hưởng sự vinh dự hôm nay là lập một sự nghiệp hữu hình cho thiên hạ.
Qua nhớ lại khi Đức Chí Tôn vừa đến tức nhiên năm 1925 khi đó trong các Môn Đệ của Ngài, Qua chẳng biết mỗi người đã lãnh sứ mạng đặc biệt riêng nhau làm sao. Đức Chí Tôn đến với họ một cách riêng biệt thế nào Qua không hiểu. Chỉ Qua biết phận sự của Qua là Đại Từ Phụ giao phó với một lời yếu thiết như thế này: Tắc, Đời quá khổ chẳng phải khổ về xác thịt mà thôi, mà lại khổ đến tinh thần nữa, nạn của nhơn loại tương tàn tương sát sắp đến. Thầy giao cho con một cây Cờ Cứu Khổ, chẳng phải cứu khổ tinh thần mà thôi, lại lẫn cả thể xác nữa. Trọng hệ hơn hết là điều ấy Thầy giao phó cho con, nhưng mà con phải hiểu: Có khổ về tinh thần mới biến sanh ra khổ của thể xác. Thầy nói rõ Thầy giao cho một gánh Đạo và Đời. Thật sự ra Bần Đạo xin thú thật, gánh của Đạo chẳng hề khi nào làm cho Bần Đạo khủng khiếp. Duy có gánh của Đời Ngài giao phó nó nặng nề hơn hết.
Mấy em Nam, Nữ nghĩ coi; một lời tiên tri trước kia nó hiện tượng hôm nay ra thể nào, mấy em biết cái quyền linh vô biên của Đấng cầm quyền thưởng phạt vô hình nó mạnh mẽ và chơn thật thế nào? Bởi cớ cho nên khi Đạo mới phôi thai thì các quỷ quyền toan diệt Đạo. Buổi sơ sanh Đạo yếu ớt, bạc nhược, ngu dại, dốt nát thế nào, nên bị nó giục cho thiên hạ dùng cả năng lực quyền hành của mình toan tiêu diệt cho kỳ đặng Đạo. Hồ đồ mưu chia rẽ làm cho trong Thánh Thể của Đức Chí Tôn phải ly tán, Anh nghịch Em, Em bất hòa với Anh, cả nền Đạo chinh nghiêng đảo ngược. Gánh một chức vụ Hộ Pháp cầm cả Luật Pháp của Đạo, không lẻ Qua ngồi ngó đặng chịu tội cùng Đức Chí Tôn. Qua phải tìm phương giải quyết đem chữ Hòa của Đức Chí Tôn muốn ấy đặng làm căn bản. Bởi cớ cho nên mới sản xuất ra Phạm Môn và Qui Thiện.
Thiên hạ nói Qua lấy Tộc Qua là Phạm, tức nhiên lập cái đảng phái cho họ Phạm. Qua hỏi: Thiên hạ đã tuyên truyền dối trá ấy đặng đánh đổ cả uy tín của Qua như thế nào, Qua chưa hề trả lời cho ai hết, dầu cho quyền hành buổi nọ rất mạnh mẽ đòi phen đem đến Luật hình, mà chính mình Qua cũng chưa nói cho họ biết nghĩa lý Phạm Môn là gì?
Hôm nay mấy em biết chưa? Có lẽ phần nhiều mấy em đã biết, Phạm ấy là Phật, Phạm Môn là cửa Phật, nói rõ hơn nữa là cửa Tu Chơn của Đạo, cửa Bảo Thủ Chơn Pháp của Chí Tôn. Còn Qui Thiện thế nào Qua chưa nói ra cho thiệt tướng.
Thiên hạ đều hung bạo, vì lẽ hung bạo làm cho anh nghịch em, em hận anh, trong cửa Đạo không có một vẻ chi là Đạo hết. Lập trường Qui Thiện là cốt yếu đem lòng lành của toàn thể con cái Đức Chí Tôn hiệp nhứt cùng nhau làm một đặng bảo thủ Chơn Truyền của Đạo. Buổi đầu tiên nó sản xuất tại nơi Mỹ Tho, Qua lập "Khổ Hiền Trang" mấy em biết hai chữ Khổ Hiền ý định Qua thế nào không? Trong bảy mươi hai anh em chung sức cùng nhau mà làm đầu trường Qui Thiện ấy là Đinh Công Trứ vẫn là một trong đó vậy. Nhờ cả sự giáo hóa của Qua cái nghĩa lý tối yếu, tối trọng của Chơn Pháp Đức Chí Tôn Qua giao lại cho nó, để làm thế nào cho thiên hạ hết thống khổ về tinh thần lẫn vật chất. Sự biết Đạo của Đinh Công Trứ là vậy.
Tưởng cũng như Qua đã bị các nạn nhân của các lực lượng quyền Đạo luôn quyền Đời.
Buổi nọ thiên hạ tuyên truyền dối trá thì Đinh Công Trứ cũng bị nạn ấy. Qua đã bị thiên hạ chê là lo Đời hơn lo Đạo, thì Đinh Công Trứ cũng vậy, thiên hạ nói nó cũng như Qua lo Đời hơn lo Đạo.
Mấy em ôi! Trong buổi phong ba bão táp, nhơn loại ở trong sông mê bể khổ, một con thuyền Bát Nhã chưa tạo thành đặng độ rổi họ, ít nữa mấy em cùng Qua cố gắng tạo cho thành đặng cứu vớt khổ não của họ đặng bấy nhiêu hay bấy nhiêu.
Thiên hạ thấy mấy em khổ não, cái khổ ấy nó đã làm cho Qua đổ biết bao nhiêu giọt huyết lệ từ khi mới biết Đạo.
Tân Dân Thị chính của mấy em tìm phương chui đụt, tìm phương giải khổ cho mấy em. Mấy em được hạnh phúc hay chăng là do lòng đạo đức của mấy em. Qua còn sống đây thì Qua cũng lo tạo dựng mảy may hạnh phúc cho mấy em. Tạo hạnh phúc ấy chỉ có một đường lối duy nhứt là Qua làm sao cho mấy em giải khổ, phận sự Thiêng Liêng của Qua là vậy.
Trong Bí Pháp Qua viết chữ Hòa, nơi Tân Dân Thị nhờ chữ Hòa mà thêm lòng yêu ái. Qua gởi hai chữ Hòa Ái nơi lòng của mấy em đó vậy. Qua cầu xin mấy em có một điều là chung sức cùng nhau đặng tạo hạnh phúc cho nhau.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 29-11-Giáp Ngọ nhằm ngày (dl. 24-12-1954).
Q.6/2-23: Lễ Chúa Giáng Sinh.
ĐỨC HỘ PHÁP Thuyết Đạo tại Đền Thánh, đêm 1-12 năm Giáp Ngọ
Đêm nay là đêm Lễ Chúa Giáng Sinh. Mỗi năm Bần Đạo đã giảng về Đạo của Chúa Jésus Christ nhiều rồi. Nhưng hôm nay Bần Đạo vẫn nhắc lại Đạo của Đấng Cứu Thế. Trong Sấm Truyền của Thiên Chúa Giáo có nói rằng: Tổ Tông của loài người là Bà Eve và Ông Adam do nơi tay Đức Chí Tôn đào tạo ra, lại còn ban thưởng một đặc ân cho ở nơi Địa Đàng. Nơi ấy Tiên Gia của chúng ta gọi là Tiên Cảnh.
Nhờ Đức Chí Tôn ban cho một điểm linh quang nên con người khôn hơn loài vật hữu sinh đồng chung sống với nhau, không biết chết là gì. Nhưng khi Đức Chí Tôn cho ra ở nơi Địa Đàng, không giữ lời dặn của Đức Ngài, ăn trái Cấm nên bị Đức Chí Tôn phạt đuổi ra khỏi Địa Đàng. Vì lẽ mất nghĩa với Đức Chí Tôn nên phải chịu khổ não. Xét ra cho kỹ giờ phút này nhơn loại khổ não là bị điều phạt của Đức Chí Tôn đuổi ra khỏi Địa Đàng. Vì cớ nên Ông cha ta trở nên phàm tục không còn vẻ Tiên phong Đạo cốt nữa nên phải chịu Luật Luân Hồi là vậy.
Nhưng cả thảy con cái Đức Chí Tôn đều biết lòng từ bi bác ái của Ngài thế nào chăng? Phạt chẳng lẻ phạt mãi, nên Ngài mới liệu phương cứu rỗi. Vì cớ nên Ngài giao cho Chúa Jésus Christ hay Jésus Nazareth lãnh phần cứu thế đặng chuộc tội cho Tổ Tông của loài người đã bất nghĩa đối cùng Đức Chí Tôn.
Vì cớ cho nên Ngài hy sinh tánh mạng chịu chết trên cây Thánh Giá bởi sự hung bạo của dân Do Thái.
Hôm nay cả toàn thể người Công Giáo đều làm Lễ kỷ niệm ngày Chúa Jésus Christ đến cứu thế. Bần Đạo xin nhắc lại gương hy sinh vô đối của Ngài dám chịu chết vì loài người, dám chịu chết đặng chuộc tội lỗi cho loài người, dám chịu chết vì hung bạo của loài người. Bần Đạo ước mong toàn thể nhơn loại trên mặt địa cầu này noi gương của Ngài, là bởi Ngài chịu khổ hình một cách đau đớn khổ não cũng vì loài người.
Nền chơn giáo của Ngài, Ngài chỉ định có một khuôn luật là Thập điều, nên khi ấy các Môn Đệ của Ngài hỏi Ngài trong 10 điều răn ấy phải giữ điều nào hơn hết. Đức Chúa Jésus nói: Ta phải thương yêu Chí Tôn trên hết mọi sự và thương yêu bạn đồng sanh mình cũng như mình.
Ôi! Nếu nhơn loại biết yêu thương bạn đồng sanh của họ như Thánh Giáo đã dạy từ 2.000 năm nay, thì tưởng lại giờ phút này sẽ tránh khỏi nạn tương tàn tương sát, nó làm cho thế giới chẳng hề buổi nào hưởng đặng hòa bình, chỉ cứ ly loạn mãi thôi.
Chúng ta thử giở lịch sử loài người ra xem, thì không có một thế kỷ nào mà không có giặc giã tàn sát lẫn nhau giờ này chúng ta cũng thế. Các bạn đồng đạo Tôn giáo cũng thế. Hôm nay xúm xích nơi Đền Thánh chung vào lòng từ bi bác ái vô tận vô biên của Đức Chí Tôn để cầu nguyện một điều là Đức Chúa Jésus Christ sống lại là mơ ước thế nào nhơn loại hưởng đặng đặc ân ấy, để chia khổ não đừng tàn sát lẫn nhau đem trở lại sự yêu ái lẫn nhau. Nhìn nhau là bạn đồng sanh, lời cầu nguyện quí báu hơn hết, với Đức Chí Tôn là cầu nguyện như thế. Bần Đạo nói Đức Chúa Jésus Christ đối với triết lý của Đức Chúa Trời như thế nào thì hôm nay đường lối của Đức Chí Tôn đến dạy chúng ta như thế ấy. Chúng ta chỉ mong mỏi có một điều là nhơn loại đặng hòa bình mà thôi.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 01-12-Giáp Ngọ nhằm ngày (dl. 25-12-1954).
Q.6/2-24: So sánh nghiệp Đạo và nghiệp Đời.
ĐỨC HỘ PHÁP Giảng Đạo tại Đền Thánh, đêm 15 tháng 12 Giáp Ngọ
Hôm nay Bần Đạo giảng cho các Thanh Niên Nam, Nữ Lưỡng Phái, vì trong mấy tháng nay các em làm ngày làm đêm cực nhọc quá. Mấy con mấy đứa nhỏ nhứt là sự làm việc rất siêng năng. Nên hôm nay Bần Đạo giảng thử so sánh nghiệp Đời với nghiệp Đạo. Nhứt là trong khi làm rồi mệt mỏi, mấy em mấy con có thể hiệp lại với nhau suy nghĩ tính toán, có lẽ đứa này hỏi đứa kia. Tại cớ gì mà chư vị Chức Sắc Thiên Phong Nam, Nữ Lưỡng Phái là đàn anh của mấy em và mấy con chịu cực nhọc khổ não theo Đạo trọn một đời hy sinh cả kiếp sống của mình để chơn theo dõi bước Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn, chắc có lẽ mấy em mấy con có khi nói: Kìa nơi ngoài đời thiên hạ họ lên xe xuống ngựa, sống vinh hiển, giàu sang phú quí đủ hết ăn mặc sung sướng, không hiểu vì cớ gì mà chư vị Chức Sắc Thiên Phong ăn uống khổ hạnh, nhưng cứ mài miệt mãi theo Đạo. Không có một món chi để an ủi sự khổ não của tâm hồn và hình thể.
Mấy em ơi! Cái hột Thánh Cốc của Đức Chí Tôn là đấy. Hột giống tối cổ của Tổ Phụ, của nền văn hiến ông cha ta để lại. Hôm nay nó đã thành ra một cội Đạo. Cội Đạo ấy có thể che chở cho loài người đặng nương cái bóng trong buổi đau khổ tâm hồn lẫn vật chất mà cả chư vị Chức Sắc Thiên Phong Thánh Thể Đức Chí Tôn đã cố gắng biết bao nhiêu. Dầu cho còn sống sót bao nhiêu cũng chịu làm tội (tôi??)(*1) cho mấy em, để làm nên nghiệp cả Thiêng Liêng cho mấy em. Chúng Qua đã từng chịu nhục nhã truân chuyên khổ não, mà hễ còn sống sót bao nhiêu đều cố tâm làm, làm chỉ tìm một con đường một sở vọng làm thế nào cho đám hậu tấn mấy em mấy con khỏi khổ não như chúng Qua đã khổ não vậy.
Thử nghĩ, nếu đem so sánh nghiệp Đạo của chúng Qua với nghiệp Đời của thiên hạ, tưởng khi nghiệp Đạo của chúng Qua không thua mấy đâu. Trái ngược lại chúng Qua sung sướng và hạnh phúc trong cái kiếp sống của chúng Qua đã may duyên làm nên đặng một lẽ đáng sống. Tức nhiên là theo con đường Thiêng Liêng của Đấng yêu ái và công bình. Chúng Qua chỉ rèn tập sao cho đặng như tánh đức của Đấng ấy. Yêu ái và công bình như thế nào? Yêu ái đặng chi? Yêu ái đặng có phương an ủi mấy em mấy con. Công bình đặng chi? Công bình đặng có phương dìu dắt mỗi đứa đi trên con đường Đạo có niêm luật, có chuẩn thằng.
Bần Đạo nghĩ lại, Bần Đạo ngó thấy dầu cho ngôi báu của đế vương kia, qua một kiếp sanh của họ chưa có đặng an ủi tâm hồn như chúng Qua. Mấy em chịu cực buổi này rồi, mấy em mấy con suy nghĩ lại đàn anh của mấy em buổi nọ. Lúc Đạo còn khổ não, nghèo nàn, hèn hạ, thiên hạ đã khinh rẽ thế nào, có lạ chi theo thói tục thường tình của thiên hạ, họ thấy kẻ nghèo, kẻ khổ, kẻ rách rưới bần cùng họ miệt sát khi rẽ. Trước kia chơn tướng của Đạo cũng bị như thế.
Hồi buổi Đạo mới phôi thai còn nghèo nàn thiên hạ có kể nó đâu, lẽ dĩ nhiên vẫn vậy. Nếu đem nó so sánh với các nền Tôn Giáo có căn bản có oai quyền, sang trọng giàu có, thì xem nó như một trời một vực. Cái phận của Đạo buổi nọ chẳng khác chi người nghèo hèn khốn khổ kia bị thiên hạ mạt sát khinh rẽ. Chỉ thương có một điều là trong nền Đạo gần ba triệu con cái Đức Chí Tôn nương nơi bóng Đạo cũng bị chung hoàn cảnh ấy.
Thiên hạ đã mạt sát chúng Qua, nhưng mạt sát cá nhân chúng Qua không nghĩa lý gì hết. Chúng Qua coi nó không có giá trị chi cả.
Tội nghiệp cho cái hèn hạ ấy, thiên hạ đã khi rẽ đã mạt sát con cái Đức Chí Tôn gần ba triệu Tín Đồ thờ phượng Ngài không phân biệt đảng phái. Cái hèn của mình không có hại gì hết. Chúng Qua chỉ sợ một điều là cái hèn của mấy em đem ra đương đầu với thiên hạ.
Kẻ bần cùng nghèo khổ nói ai thèm nghe, như vậy rồi dạy Đời sao đặng. Nhưng sứ mạng Thiêng Liêng đã giao phó biểu phải dạy Đời, tức nhiên chúng Qua phải làm thế nào cho có định luật. Muốn cho Đạo của mấy em có hiệu lực ấy thì hôm nay mấy em phải chịu cực khổ đó vậy.
Những đế nghiệp của các nền Tôn Giáo đã hiện tượng nơi thế này mười phần thì Đạo của mấy em chưa được một, mấy em để ý xem xét suy gẫm coi đặng mảy may gì chăng? Hồi còn chòi tranh vách lá thiên hạ không có bước chân tới, họ có kể mình xứng đáng gì mà họ ngó đến, lời tục có nói: "Có thể mới dễ làm ăn". Đời cũng thế mà Đạo cũng thế. Thể Đạo của mấy em hôm nay không đáng giá bao nhiêu, nhưng có thể đối lập với thiên hạ đặng.
Nghiệp Đạo buổi này mấy em nên suy nghĩ, bước ra một tấc đường thì phải mặc áo mới đẹp thì mới có phương diện đối với người ta. Còn Đạo của mấy em cái đẹp của nó là theo Thánh ý của Đức Chí Tôn, nên sự cực của mấy em cũng như chúng Qua, cái khổ của mấy em cũng như chúng Qua đã khổ.
Mấy em muốn nên hay chăng đều do cả đầu óc tay chân của mấy em tạo mới nên nghiệp Đạo ấy. Mấy em muốn vinh hiển hay chăng cũng do cả đầu óc tay chân của mấy em tạo nên.
Qua xin nhắn nhủ mấy em mấy con một lời: Thân già nầy, cả Chức Sắc Thiên Phong Nam cũng vậy, Nữ cũng vậy đều già yếu thành ra người bạc nhược, làm công chuyện như mấy em mấy con không nổi, không lẽ mấy em mấy con sanh nạnh chúng Qua rồi không tạo nghiệp cho mấy em.
Luân lý: Nếu trong tủ tiền của Đạo có đủ đi nữa cũng do nơi túi của mấy em. Mấy em không biết lo chung Qua phải mượn thì mấy em thấy rõ rằng: Tiền trong túi của mấy em nó chạy qua túi khác. Không có tiền lấy công làm lần, lẽ tự nhiên vẫn vậy. Đạo của mấy em còn nghèo thì mấy em phải chịu cực, chịu nhọc, đừng để con mắt các nhà đạo đức thấy mấy em khó nhọc rồi họ nói chúng Qua không yêu ái mấy em. Qua xin nhắn gởi với mấy em nói lại cho thiên hạ biết điều ấy.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 15-12-Giáp Ngọ nhằm ngày (dl. 08-01-1955).
(*1) Nơi đoạn thứ 2: Mấy em ơi! Cái hột Thánh Cốc của Đức Chí Tôn là đấy... ... .... Dầu cho còn sống sót bao nhiêu cũng chịu làm tội (tôi??)(1*) cho mấy em, để làm nên nghiệp cả Thiêng Liêng cho mấy em... ... ...
Nguyên bản chánh in là: Mấy em ơi! Cái hột Thánh Cốc của Đức Chí Tôn là đấy... ... .... Dầu cho còn sống sót bao nhiêu cũng chịu làm tội cho mấy em, để làm nên nghiệp cả Thiêng Liêng cho mấy em... ... ...
Chúng tôi xin đề nghị cho rõ nghĩa hơn: Mấy em ơi! Cái hột Thánh Cốc của Đức Chí Tôn là đấy... ... .... Dầu cho còn sống sót bao nhiêu cũng chịu làm tôi cho mấy em, để làm nên nghiệp cả Thiêng Liêng cho mấy em... ... ...
Năm Quý Tỵ - Giáp Ngọ - Ất Mùi
(1953 - 1954 - 1955)
Phần 3: Năm Ất Mùi (1955)
Q.6/3-01: Đức Hộ Pháp "Ban Phép Lành" - Thơ Xuân đầu năm Ất Mùi.
ĐỨC HỘ PHÁP Thuyết Đạo tại Đền Thánh, đêm 1 tháng 1 năm Ất Mùi (24-01-1955)
Đêm nay, đêm giao thừa năm Ất Mùi. Cũng như các năm trước, Bần Đạo đã nhớ dường như Đức Chí Tôn khi mở Đạo ngày 15-10 năm Bính Dần tại Chùa Từ Lâm Tự (Gò Kén). Qua đầu năm Đinh Mão cũng giờ này, cũng đêm nay, khi Hầu Đàn rồi phò loan Đức Chí Tôn Ngài biểu cả thảy con cái của Ngài hiện diện nơi đó ra: "Thầy đưa Cơ lên các con chung ngang qua Cơ Thầy ban Phép Lành cho các con". Đức Cao Thượng Phẩm và Bần Đạo bị Đức Chí Tôn xách đứng lên ra ngay giữa Đại Điện đưa cần Cơ lên cho cả thảy con cái của Ngài Nam Nữ chung ngang qua.
Bần Đạo vâng mạng lịnh của Đức Chí Tôn, đêm nay Bần Đạo Ban Phép Lành cho toàn cả con cái của Ngài Nam, Nữ. Cả thảy cầu nguyện Đức Chí Tôn chan rưới "Hồng Ân" Thiêng Liêng, Hồng Ân của Ngài rải khắp cho con cái Nam, Nữ.
ĐỨC HỘ PHÁP BAN "PHÉP LÀNH"
Đêm nay Bần Đạo không giảng Đạo chỉ đọc bức thơ của Bần Đạo gởi cho toàn cả Quốc Dân Việt Nam. Tiếp theo bức thơ Bần Đạo có làm một bảng "Tuyên Ngôn" gởi các "Quốc Trưởng" và các nhà cầm vận mạng của các dân tộc trên thế giới. Lát nữa Bần Đạo sẽ giải nghĩa bức thơ này sơ lược cho nghe.
Bây giờ Bần Đạo đọc bức thơ Bần Đạo gởi cho toàn Quốc Dân Việt Nam.
BỨC THƠ XUÂN GỞI CHO TOÀN THỂ ĐỒNG BÀO VIỆT NAM ĐẦU NĂM ẤT MÙI CỦA ĐỨC HỘ PHÁP GIÁO CHỦ ĐẠO CAO ĐÀI
Cùng toàn cả Quốc Dân đồng bào Việt Nam,
Nhơn dịp ngày xuân năm Ất Mùi, Bần Đạo thành tâm cầu nguyện Đức Chí Tôn chan rưới hồng ân cho toàn dân nước Việt đặng mau thoát khỏi ly loạn tương tàn.
Sau nữa Bần Đạo có mấy lời thống thiết ngỏ cùng toàn thể quốc dân.
Trót mười năm quật cường giải ách lệ thuộc, thâu hoạch độc lập cho tổ quốc giống nòi thì toàn thể đồng bào đã góp vào biết bao nhiêu xương máu và đau khổ. Lập trường tranh đấu thâu hoạch cho kỳ đặng hạnh phúc tự do cơm áo của nòi giống sau 80 năm đô hộ, đã khiến cho lòng ái quốc nồng nàn của mỗi công dân Việt Nam để tâm vào một chí hướng là Độc Lập và Thống Nhứt nong sông.
Hại thay, cơ cấu tranh đấu cho kỳ đặng ấy nó đã chia rẽ dân tộc ra nhiều phương pháp và nhiều chí hướng: Việt Minh là gì và Quốc Gia là gì?
Thì cũng là đồng bào Việt Nam tìm phương tranh đấu. Nhưng các danh từ và nhãn hiệu ấy chẳng lẽ có năng lực đặng chia rẽ con cái của một nước, một chủng tộc và xem lẫn nhau là kẻ tử thù?
Đau đớn thay nạn tương tàn tương sát đã xảy ra cũng do nơi định nghĩa bất đồng của các phương pháp và danh từ tranh đấu.
Từ ngày mùng 9 tháng 3 năm 1945 dương lịch, cuộc giải phóng dân tộc đã khởi đầu. Các biện pháp đem thắng lợi cho nước nhà hôm nay cũng chưa thâu hoạch đặng trọn vẹn, lại còn gây thêm nạn qua phân lãnh thổ: Từ vĩ tuyến 17 đổ vô là của khối Quốc Gia, còn vĩ tuyến 17 đổ ra là của Việt Minh làm chủ. Nạn nhị Chúa phân tranh Nguyễn Trịnh ngày xưa đã biểu diễn lại.
Bần Đạo thử hỏi cuộc tranh đấu giải ách lệ thuộc đặng đem hạnh phúc đó lại cho ai?
Phải chăng cho Tổ Quốc và cho toàn thể đồng bào thì lý ra chẳng lẽ có một nguyên cớ nào làm cho nòi giống Việt nầy chia phân cho đặng. Chủng tộc duy có một thì Hoàng Đồ chỉ có một. Rồi ta lại thử hỏi: Ai đã gây nên nội loạn ly tán giống nòi? Phải chăng vì năng lực ngoại bang đã gây nạn phân chia tộc chủng.
Hai chí hướng đương nhiên của quốc tế và lý thuyết dân chủ xã hội và cộng sản xã hội. Hai lý thuyết ấy đều hứa hẹn rằng nhân loại phải duy tân và cải tổ xã hội, vì tổ chức xã hội đương nhiên đã gây thất vọng cho nhân loại quá nhiều nên đem lại cho họ nhiều đau thảm hơn là hạnh phúc. Đôi bên đều hứa hẹn tìm một phương pháp sửa chữa đặng tìm cái hay trừ cái dở, lời hứa hẹn ấy đã thấm nhuần trong trí não đau khổ của nhân loại nhất là hạng bần dân và các quốc gia lạc hậu đều mong ước chóng được thực hiện điều ấy.
Hai triết lý xã hội mới mẻ kia đương tranh đấu đặng thâu hoạch tín nhiệm của toàn thể nhơn loại trên mặt địa cầu này. Cuộc tranh đấu của họ đã hiển nhiên kịch liệt và hỗn độn nhưng họ cũng đã đủ năng lực phân chia nhân loại làm đôi chí hướng.
Hại nỗi, hạnh phúc đâu chẳng thấy, chỉ gây cho nhân loại một tấm thảm kịch tương sát, tương tàn. Ta nên để đức tin cho thời gian và không gian định nên hư của họ, nhưng hiển nhiên hôm nay ta chịu biết bao nhiêu đau khổ. Ta muốn cho vay đặng hưởng lợi, mà lợi đâu chẳng thấy vì hứa hẹn ấy chỉ với lỗ miệng, không bảo kê, không chứng chắc mà giờ phút nầy ta bị lỗ vốn một cách đau đớn và oan uổng.
Cuộc chạy theo bóng bỏ hình của nòi giống Việt Nam từ xưa đã vậy; nó đã làm nên bịnh chủng tộc. Đồng bào sẽ hỏi Bần Đạo dùng phương pháp nào để trừ hại thì Bần Đạo chỉ trả lời một cách đơn giản như thế này.
- Ngày nào cả chủng tộc Việt Nam đặng định tỉnh trong Quốc hồn của họ thì họ mới có thể cố thủ và bảo vệ sanh tồn của họ.
- Ngày nào lòng ái quốc nồng nàn của nước Việt Nam thoát khỏi lợi dụng đặng biến thành một ngọn lửa thiêng dâng lên bàn thờ Tổ Quốc của họ thì họ mới bảo thủ được trọn vẹn Hoàng Đồ cùng tộc chủng.
- Ngày nào đầu óc của cả khối Quốc Dân biết trọng dĩ vãng lịch sử của mình rồi định phận cho mình xứng đáng làm một nước đủ liệt cường, đủ uy tín hầu đối diện cùng Quốc Tế rồi chủ định số phận của mình do năng lực của mình, không ỷ lại nơi một ngoại bang nào thì ngày ấy mới giải ách lệ thuộc về tinh thần lẫn vật chất của mình mới đặng.
Tình thế đương nhiên là Bắc Việt đã bị lệ thuộc của Trung Cộng, còn Nam thì bị sống gởi nơi tay người, thì kiếp số tương lai của ta chưa biết nương nơi đâu mà an đặng. Nếu tình thế này mà kéo dài tới mãi thì hòa bình của họ đã hứa hẹn cùng ta thì là mộng ảo.
Bần Đạo ước mong và cầu xin cho toàn thể đồng bào sáng suốt hơn đặng tự định số mạng và tương lai của mình.
Bần Đạo để lời chào mừng toàn thể đồng bào và cầu chúc cho các gia đình đều hạnh phúc.
Bức thơ Bần Đạo có gởi cho đài phát thanh Sài Gòn, đêm nay có lẽ giờ này đã đọc rồi.
Cái nạn qua phân lãnh thổ, Bần Đạo nói sẽ làm cho nhơn loại đau khổ và nguy hiểm không thể tưởng tượng vì năng lực tàn phá của võ khí tối tân nhứt là bom nguyên tử. Nếu nhơn loại không rán sức đem hòa bình hạnh phúc do con đường thiêng liêng của Đức Chí Tôn đã đến thì nhơn loại sẽ bị tiêu diệt. Nhơn loại mắc nạn tiêu diệt ấy là do tội tình của họ. Một điều Bần Đạo nói cho nước Pháp biết rằng: "Sắc dân này không quen chịu lệ thuộc, cả sự tranh đấu đặng giải ách lệ thuộc của họ đối với nòi giống Trung Quốc buổi nọ không ai cản họ được. Hốt Tất Liệt thâu cả Hoàng đồ bên Âu Châu, đặt gót tới Việt Nam bị thảm bại".
Bần Đạo xin hai chánh phủ phải hiệp với nhau làm một và toàn thể quốc dân Việt Nam không phân biệt đảng phái, Tôn Giáo phải hiệp nhau làm một đừng chia đôi ra.
Bần Đạo cầu xin họ sáng suốt đặng định tương lai mình, do mình vi chủ không muốn cầu ai. Nhứt là nước Việt Nam nhờ Pháp nói với Mỹ - nước Việt Nam đã đánh đổ quyền hành của Pháp, không muốn quyền hành nào thay thế là vậy.
Q.6/3-02: Phủ dụ của Đức Hộ Pháp đầu năm Ất Mùi.
Lời phủ dụ của ĐỨC HỘ PHÁP
Trong dịp các Cơ quan chúc xuân Đức Ngài
Ngày 1 tháng Giêng Ất Mùi
Thưa cùng Thánh Thể Đức Chí Tôn, các Chức sắc Thiên Phong Nam, Nữ Lưỡng Phái, con cái yêu dấu của Đại Từ Phụ, hôm nay Bần Đạo lấy làm hân hạnh nhờ hồng ân của Đức Chí Tôn ban bố một kiếp sống hữu hạnh, hữu phước được ngộ Đạo, và Qua có một điều cần nói cho toàn con cái Đức Chí Tôn hiểu rõ.
Trước khi mở Đạo Đức Chí Tôn có nói: Nếu ngày nào có mở một nền Tôn Giáo nào mà cái hạnh phúc ấy ta hưởng đặng bao nhiêu đi nữa cũng chưa có thú vị, vì cớ cho nên Đức Chí Tôn mới lấy Đạo nhà của chúng ta, Đạo Tổ Phụ của chúng ta, đặng lập nên nền Tôn Giáo Quốc Tế, cái vui sướng của Bần Đạo hơn hết là chỗ đó, dầu cho làm một vị Giáo chủ cho nền Đạo Quốc Tế đi nữa thì xương thịt máu mủ tâm hồn, khí phách, chí hướng của Bần Đạo đều là diệt hết hỏi chẳng nhờ cả ân đức của Tổ Tiên ta để lại thì làm sao hôm nay cả toàn một sắc dân nhỏ yếu nơi cõi Đông Á nầy hưởng được một đặc ân vô đối? Nội bao nhiêu đó cũng thấy cả nòi giống ta phải can đảm hy sinh trọn kiếp sanh của mình đặng đền ơn tri ngộ của Đấng tối cao tối trọng ấy.
Các bạn Hiệp Thiên Đài, các bạn đã có từ buổi ban sơ đến giờ, Đạo vừa mở là có các bạn, các bạn đã chia sớt mọi điều từ trong cảnh khổ cho đến cảnh vinh quang. Hôm nay không ai biết định hướng của Đạo hơn các bạn, khi nảy Tiếp Đạo có nhắc lại Bần Đạo đã hai phen xuất dương sang Âu và Á làm cho uy tín của Đạo càng thêm cao trọng.
Các bạn ôi! Chúng ta chỉ có hy sinh một kiếp sống đặng làm con hạc vô tội, con hạc hòa bình, biết đâu Đức Chí Tôn cũng đem con hạc của Ngài để thế cho con bồ câu trắng mà thiên hạ gọi là con bồ câu hòa bình, nhưng không hòa bình gì hết, thân làm con hạc thiêng liêng ấy buộc ta phải chở Đạo đi toàn khắp mặt địa cầu. Nếu một chủng tộc nào, một sắc dân nào ở nơi mặt địa cầu nầy chưa biết Đạo là cái lỗi do nơi ta đó vậy.
Ấy vậy cái phận sự của ta tuy đã khổ não cực nhọc mà Bần Đạo vẫn chưa thỏa nguyện về tinh thần, sự cứu khổ an ủi thiên hạ đương nhiên bây giờ các bạn đã thấy nhơn loại đau khổ một cách quá quắt không thể tỏa đặng. Đau khổ về xác thân, đau khổ về tinh thần, các bạn đã nhờ Đức Chí Tôn giao cơ Cứu khổ ấy thì cần phải tìm phương giải khổ cho nhơn loại, thoản như buổi ban sơ Bần Đạo không có lãnh trách vụ đặc biệt của Đạo thì các bạn chắc cũng không để tâm cho lắm.
Đến hôm nay dầu cho thân già nầy không còn năng lực hoạt động chịu cả khổ cực như trước nhưng vẫn cố gắng, thì Bần Đạo thấy hiển nhiên rằng: trong Cửu nhị ức Nguyên nhân họ không phải ở trong nước Việt Nam mà thôi, ở khắp nơi trong các chủng tộc đều có họ.
Tội nghiệp thay bóng Đạo vừa đi tới đâu, mặc dầu Thánh Thể Đức Chí Tôn chưa có làm phận sự mà cả tinh thần lẫn hình thể của họ đều sáng suốt chói lọi vậy.
Họ trông đợi bóng cơ cứu khổ của các bạn lắm. Cố gắng thêm các bạn, vì trong đạo binh thiêng liêng theo hộ giá Đức Chí Tôn từ khai Thiên lập Địa tới giờ, do theo Thánh Giáo Đức Chí Tôn có nói: Bần Đạo là Ngự Mã Thiên Quân, phẩm tước quyền hành cao trọng ấy phải làm thế nào để dấu hỏi?
Ta có đền đáp, có thể thay thế hình ảnh Đức Chí Tôn đặng làm phận sự của Ngài hay không? Hay một ngày kia trở về Thiêng Liêng phải thẹn khi ngó mặt Ngài. Bần Đạo nhứt định một hơi thở cuối cùng dầu cho thế nào Bần Đạo cũng quyết tùng mạng lịnh của Đại Từ Phụ làm cho con cái của Ngài đặng giảm bớt khổ não. Tưởng khi các bạn cũng đồng chí hướng với Bần Đạo đó vậy.
Thưa Chư Chức Sắc Thiên Phong Nam, Nữ Lưỡng Phái đang làm việc thay thế hình ảnh của Đức Chí Tôn, Bần Đạo xin cả Thánh Thể hãy ngó đến con cái của Ngài đang đau khổ, dốt nát về tinh thần đạo đức, họ thiếu cả tinh thần định phận cho họ, không phải định phận mà thôi, lại thiếu cả tinh thần bảo vệ cái sống của họ nữa, chúng ta ngó thấy cần phải dạy dỗ dìu dắt và an ủi họ.
Ấy vậy cả thảy Thánh Thể Đức Chí Tôn thay thế hình ảnh của Ngài đang lo lập vị cho con cái của Ngài, hình ảnh bóng dáng của Chức Sắc Thiên Phong thay thế hình ảnh Đức Chí Tôn không có nghĩa lý gì hết. Trọng hệ hay chăng là cái giá trị đối phẩm Thiêng Liêng cùng Chư, Thần, Thánh, Tiên, Phật mà thôi, Bần Đạo ước mong một đứa em của chúng ta lập nên phẩm vị cho thoát khỏi cái kiếp luân hồi, nếu được như vậy thì công nghiệp của chúng ta rất vĩ đại đó vậy. Huống chi giờ phút nầy cả Thánh Thể Đức Chí Tôn đem đường cho nó, nâng đỡ nó đưa vào phẩm vị Thiêng Liêng Thần, Thánh, Tiên, Phật thì Bần Đạo tưởng không có danh dự nào bằng, không có phận sự cao trọng nào hơn.
Giờ phút nầy nó đã chịu khổ não nhiều rồi, đau khổ Đời, lại kế tiếp đau khổ Đạo, hôm nay Thánh Thể của Đức Chí Tôn yêu ái và gởi gấm cho ta lãnh sứ mạng dìu dắt đoàn em đó vậy. Có một phương thế hay ho hơn hết mới có thể bảo vệ ta khỏi lạc lầm, phận sự ta đối đãi cùng đoàn em có một phương pháp duy nhứt là chỉ thương yêu mà thôi. Dầu cho sự thương yêu ấy có ra vẻ dại dột, ngu khờ nhục nhã thế nào đi nữa chúng ta cũng chỉ biết thương yêu mà thôi, sự thương yêu đủ với chúng ta làm, mỗi đều không cần tìm phương pháp nào khác, các con Phước Thiện, Hội Thánh Phước Thiện của mấy con tức nhiên Hội Thánh Hiệp Thiên Đài. Chúng Qua có mười mấy người, Chúng Qua không có thế gì an ủi sự thống khổ của toàn thể con cái Đức Chí Tôn cho đặng.
Chúng Qua có mười mấy người, biến thân ra mấy con, mấy con là hiện thân của chúng Qua thay thế cho chúng Qua đặng tìm phương giải khổ cho thiên hạ làm cho ngọn Cờ Cứu Khổ của Đức Chí Tôn giao cho chúng Qua đặng thiệt hiện ra mãi mãi.
Năm nay là năm bí yếu hơn hết mà gọi là năm hòa bình, mấy em thôi cũng tin bướng như vậy, tin hòa bình đi, hòa bình với đầu óc của mấy em, hòa bình là buổi nào mấy em an ủi cả thiên hạ đau khổ đương nhiên bây giờ đó là hòa bình của mấy em.
Thay thế hình ảnh của chúng Qua giải khổ cho thiên hạ, mấy em ngó lụng lại qua khỏi cơn thử thách của nước nhà chủng tộc rồi trước chúng em sẽ thấy một trường thảm khổ không thể tỏa đặng. Nào là tật nguyền và bịnh hoạn, nào khổ não, nào truân chuyên đủ mọi điều.
Tình thế đương nhiên bây giờ, mấy em thấy trước mắt là đồng bào Bắc Việt, tội nghiệp thay! Họ bỏ cả gia nghiệp vào Nam, Qua chỉ sợ một điều trong cơn buồn tủi của họ, rồi họ sanh ra chán nản, mấy em thấy vì thiên hạ nâng đỡ binh vực giúp sức cho sự sống còn của họ, Qua sợ không biết thương rồi bạc đãi khi thị, thì nòi giống ta tủi nhục biết bao nhiêu, Qua gởi cho mấy em cái phận sự biến thân ra chúng Qua đi an ủi họ từ nhà, từ người trong cơn khổ não.
Mấy con trong Phục Quốc Hội, những điều Thầy làm không được. Mấy con thay Thầy làm, Quân Đội cũng vậy, Phục Quốc Hội mấy con, không lẽ giờ phút nầy mấy em biểu Thầy đi ra cởi ngựa cầm cương đặng làm thế các con, phận sự tối yếu, tối trọng cứu dân, cứu nước, mười mấy năm các con đã hy sinh biết bao xương máu cho Tổ quốc giống nòi. Hôm nay có thể mong ước như Thầy đã mong ước từ vĩ tuyến 17 đổ vô hay đổ ra đối với tinh thần của ai đã chia rẽ chớ tinh thần của mấy con không chia rẽ buổi nào hết, bởi ngọn cờ Cứu khổ của mấy con, ngọn cờ Bảo Sanh Nhơn Nghĩa của mấy con đã đến nơi nào thì nơi đó gia nghiệp Thiêng Liêng của mấy con. Thầy chỉ sợ mấy con không đến nơi nào thì nơi ấy còn khổ não, thầy chỉ sợ bao nhiêu đó mà thôi, còn sự thắng lợi của cơ quan Phục Quốc Hội không lẽ Thầy đi ra làm chánh trị đương đầu với thiên hạ. Thầy là nòi giống Việt Nam, tranh đấu đặng đem tương lai cho đất Việt, có nhiều điều các con làm đặng mà Thầy không làm đặng, các con có nhiều phương làm mà Thầy không có phương làm, thành thử thật ra từ trước đến giờ sự thâu hoạch thắng lợi đều do công nghiệp của các con chớ chẳng phải của Thầy.
Thầy bất quá chỉ có lời nói mà thôi. Đường lối của các con đi được như hôm nay là dài lắm rồi, đã được hai phần đường. Các con cố gắng thêm và sáng suốt làm thế nào cho phận sự Thiêng Liêng của các con tượng trưng hình ảnh nòi giống của các con. Các con đã tránh đặng một điều là thiên hạ cám dỗ mua chuộc các con, nên Thầy đã yên tâm, thấy Phục Quốc Hội không có cái năng lực nào mua chuộc được, nên Thầy gởi gấm cơ quan chuyển thế một phần cho tay mấy con, Thầy để lời ban khen đã mấy năm qua mọi sự đã đem thắng lợi rất nhiều, nhứt là có một điều làm cho Thầy vui hứng là cơ quan dân vụ của các con nó phù hạp thích ứng với Thầy hơn hết, các con cố gắng với đường lối dân vụ.
Đồng bào Bắc Việt, Bần Đạo đã thường nói: Mảnh đất gấm vóc của Tổ Tiên ta để lại từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau Tổ Phụ ta mua chuộc biết bao nhiêu xương máu, dành để cho nòi giống. Không có mảnh đất nào là không phải của chúng ta, nên nhớ điều đó, đừng vì di cư ngoài Bắc vô rồi buồn rầu, không lo rồi sống đặng lo làm nghề nghiệp, phải cố gắng thêm nhiều hơn nữa, từ trước đến giờ lịch sử đã để lại để chúng ta đã ngó thấy bằng cớ hiển nhiên, hễ mỗi khi có quốc nạn là mỗi khi chúng ta hiệp chủng đó vậy, để người Bắc kẻ trong Nam không biết nhau là gì, nghe giọng khác nhau, những người dốt nát tưởng đâu là người ngoại quốc, cái đó lấy làm nguy hiểm hơn hết.
Hôm nay tình cờ chúng ta được một phương pháp hiệp chủng, cả thảy đồng bào Nam cũng thế, Bắc cũng thế cố tâm một điều cần yếu hơn hết là gây tình thân ái vô biên của nòi giống Tổ Phụ để lại trong đầu óc ta hôm nay có phương thế hiệp chủng cho mạnh mẽ khắn khích, dầu cho có cực nhọc cũng cố làm, sự làm kia nó sẽ lập lại như hồi nhị Chúa Tây Sơn buổi nọ, nó đi theo tấn tuồng thống nhứt Hoàng Đồ của Chúa Nguyễn khi xưa muốn thiệt hiện thống nhứt Hoàng Đồ thì nòi giống chúng ta phải hiệp chủng thống nhứt năng lực lại.
Hại thay! Có một điều khổ não hơn hết là từ ngày nền văn minh của Tổ Phụ ta, của Quốc Đạo ta bị thiên hạ chi phối muốn có sự phân tâm của nước, của chủng tộc, vì lẽ phân tâm ấy hôm nay mới có tình trạng nầy. Nếu không có Việt Minh thì vinh diệu cho quốc sử của chúng ta biết bao nhiêu.
Đồng bào Bắc Việt hãy nhớ nơi đây là đất địa của mấy người không phải mấy người ăn tạm ở nhờ, mà là ở trong gia đình Tổ Quốc. Vậy mấy người đừng buồn thảm, cố gắng hiệp chủng với nhau thì mới mong thống nhứt Hoàng Đồ trở lại.
Bần Đạo xin để lời cầu chúc toàn thể các con của Đức Chí Tôn đó vậy.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 01-01-Ất Mùi nhằm ngày (dl. 24-01-1955).
Q.6/3-03: Dân chủ Xã Hội và Cộng sản Xã Hội.
THUYẾT ĐẠO CỦA ĐỨC HỘ PHÁP
Ngày 8 tháng 1 Ất Mùi
Buổi mai Bần Đạo đã lên Thiên Hỉ Đài giảng lý do của Đức Chí Tôn đã đợi đến 30 năm khai mở Đền Thờ của Ngài, tưởng phần nhiều cả con cái Đức Chí Tôn Nam, Nữ Lưỡng Phái đều biết rõ.
Ấy vậy hôm nay là ngày Lễ Kỷ Niệm của Đạo Cao Đài đã ra mặt Quốc Tế. Nếu luận rằng: Nó đã ra mặt Quốc Tế rồi thì ta cũng nên luận về tình hình đương nhiên của toàn cả các liệt cường của các quốc gia trên mặt địa cầu. Nhứt là tình trạng hiện tại của nhơn loại thế nào cả con cái Đức Chí Tôn đều rõ về hai lý thuyết đương đầu với nhau, đương đua tranh cùng nhau đặng đọat tinh nhuệ của toàn nhơn loại trên mặt địa cầu nầy.
Bần Đạo không cần luận e mích lòng thiên hạ, chỉ nói rằng: Không phải họ đang mong mỏi điều ấy. Với một tâm tình không vụ tất danh lợi, Bần Đạo nói quả quyết rằng: Hai kẻ muốn thâu hoạch cả tinh nhuệ của nhơn loại đặng làm bá chủ toàn cầu nầy là hai lý thuyết Dân Chủ Xã Hội và thuyết Cộng Sản Xã Hội.
Chúng ta đã ngó thấy lập trường tranh đấu, hôm nay đã kịch liệt, bởi sự hơn thua của hai khối ấy. Tương lai họ sẽ đương đầu cùng nhau thế nào rồi Bần Đạo không đoán được. Chỉ có một điều nên để ý hơn hết là giờ phút nào mà người ta đã lấy lý trí xử với nhau không đặng, phải mượn cường lực của võ khí đặng làm sức mạnh của mình thì ngày giờ ấy tưởng cả sự tranh đấu của họ chưa có một phương pháp nào giải quyết đặng.
Một đàng thì chỉ có hổn ẩu, gian xảo, dối trá nhứt là côn đồ theo tánh chất hổn ẩu quyết hơn thiên hạ bất cứ một hành vi nào, không kể gì tâm tình quân tử ấy là khối Cộng Sản ỷ năng lực mình vô đối tự kiêu, tự đại.
Lấy việc nhỏ luận việc lớn khi ta ở cùng chung trong một xã hội nếu cả thảy con cái Đức Chí Tôn để ý điều ấy là ngó thấy, nếu rủi như ta gần gủi đừng nói rằng mình kết bạn hay chung sống gần gủi với những kẻ côn đồ thì chỉ biết "rìu búa" là mạnh, lấy hổn ẩu gian xảo của họ, họ làm khí cụ.
Lời tục có nói: Một kẻ nói ngang ba làng nói không lại, mà hễ ai nói ngược lại thì rút rìu búa ra dọa nạt thiên hạ. Đó là một điều người quân tử gớm ghiết hơn hết. Cho nên không có phương pháp chi mà trị đặng họ, trị đặng định phương pháp nghĩa là làm thế nào trị kẻ võ phu đó với phương pháp đặc sắc hơn định luật của nó, và nó lấy sức mạnh của thuyết Cộng Sản Xã Hội, quyết thắng không kể gì là nhân từ, không kể gì là đạo đức chỉ biết thắng thôi. Tranh sống đặng tạo hạnh phúc dầu cho có hèn hạ, nhỏ mọn tới mức nào thì họ chỉ biết có hưởng hạnh phúc mà thôi.
Còn bên Dân Chủ Xã Hội là thực dân ăn cả của cải đồng bào, thâu lấy cả của cải phú hữu của thiên hạ làm năng lực mạnh mẽ của mình.
Hai cái đó Bần Đạo tưởng đem để lên mặt cân Công Lý thì ta thấy "lịch cũng như lương, mà lương cũng như lịch" có chi lạ. Ngày giờ nào toàn cả nhơn loại tỉnh mộng lại, thấy mình làm khí cụ cho thiên hạ tranh đấu với một tấn tuồng làm cho mình đau khổ, thiên hạ sẽ tỉnh mộng lại không cho họ lợi dụng, cả tín ngưỡng đó, tấn tuồng hèn hạ đó dầu cho các nhà Đạo cũng như hạng côn đồ cướp đảng kia đều cũng vậy. Nếu cả thảy thiên hạ không ngó tới mặt nó, đừng gần gủi nó, thì nó hết sống cùng ta chớ gì. Nó cho nó là mạnh, thiên hạ sợ nó, nó còn nhuệ khí, nó còn nắm cả uy tín của nó. Ngày giờ nào cả thiên hạ đều gớm ghiết không còn ngó tới nó nữa thì nó phải tiêu hủy chớ có gì đâu.
Giờ phút nào cả quốc gia nhược tiểu không để cho họ lợi dụng mình nữa bất kỳ trong hai khối đó. Tự chủ lấy mình, tự quyền lấy mình, một người làm không được, năm bảy người làm, một nước yếu hèn, năm bảy nước hiệp lại đương đầu với họ, vạt bỏ hai khối đó ra, thiên hạ mới hòa bình, duy có lẽ đó thiên hạ mới hòa bình mà thôi.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 08-01-Ất Mùi nhằm ngày (dl. 31-01-1955).
Q.6/3-04: Lễ Xuất Quân - Vai trò và nhiệm vụ Quân Đội Cao Đài.
Đức Hộ Pháp để lời cám ơn các quan khách và để lời phủ dụ chiến sĩ Cao Đài trong dịp Lễ Xuất Quân của Quân Đội Cao Đài ngày 9 tháng Giêng năm Ất Mùi
Thưa cùng Chư Viên Quan Chức Sắc Đời và Đạo. Trước khi Bần Đạo để lời, Bần Đạo xin nghiêng mình cám ơn toàn cả thảy đồng bào đôi bên niệm tình của Quân Đội và của Đạo đến dự lễ đông đảo và long trọng làm cho rỡ ràng thêm vẻ Đạo, Bần Đạo xin cúi mình cám ơn toàn thể.
Thưa cùng toàn thể đồng bào Bần Đạo xin để lời cùng các Ngài trước vận mạng đương nhiên của Tổ Quốc nòi giống tới một giai đoạn yếu trọng, nếu không nói đã đến một giai đoạn khó khăn đặng định vận mạng tương lai của nó, nhứt là Bần Đạo xin để lời riêng biệt cùng các nhà văn sĩ cùng các sử gia, trên chín năm tranh đấu hôm nay cái phận sự ấy yếu trọng cho các Ngài hơn hết, bởi nó đến giai đoạn chúng ta phải tranh đấu về trí thức tinh thần, nếu không nói ra rằng: Ta vẫn tiếp tục đương tranh đấu về tâm lý. Tưởng khi trên chín năm quốc cường thâu hồi độc lập cho Tổ quốc giang san các Ngài có sẵn trong tay một sử liệu có thế một ngày kia ngòi bút quí báu của các Ngài lưu lại cho hậu tấn một kiểu vở, một khuôn mẫu y theo tinh thần cố hữu của Tổ Phụ đã để lại, cái chí quật cường 80 năm đô hộ khiến cho đồng bào chúng ta muốn giải thoát thâu hồi độc lập và Hoàng đồ của Tổ Phụ lại; một giang san gấm vóc như thế, nên buộc chúng ta hy sinh xương máu, từ cổ kim vẫn vậy, luật Thiên Điều dưới thế nầy chẳng đều chi mà ta xin đặng, ta chỉ phải mua phải chuộc với một giá cho đồng giá trị với vật mà ta muốn thâu hoạch. Nhưng ôi thôi! Vật của toàn quốc dân đồng bào muốn thâu hoạch ấy, vật đó quí giá không tưởng tượng cho nên phải trả một giá rất mắc là cái giá xương máu trên chín năm tranh đấu.
Thưa cùng đồng bào, các nhà văn sĩ, các vị cầm bút đang dìu dẫn cả tinh thần trí não của chủng tộc ta buổi hôm nay. Có lẽ khi trong lúc rời rảnh các Ngài có thể để một dấu hỏi? Cái đường lối của Đạo đã tự xưng là Quốc Đạo hỏi lấy cả tánh chất của nó đã hiển nhiên trở nên một nền Đạo cho Quốc tế mà cái nạn nước của họ như thế này thì phương pháp giải quyết của họ như thế nào mà chớ?
Có lẽ trong khi rảnh ấy các Ngài cũng để dấu hỏi ấy (?) Trường hợp đó thử nghĩ những kẻ trí thức tinh thần phải đi đường lối nào? Phải dùng giải pháp nào? Nhứt là của Bần Đạo sau 5 năm đồ lưu trở về nước năm 1946 cả cái tình trạng của nước nhà các Ngài cũng hiểu thấu. Bần Đạo xin thành thật buổi nọ Bần Đạo đã bí lối không ngõ thoát, một đàng thì Việt Minh lợi dụng tinh thần ái quốc của toàn thể quốc dân đồng bào chỉ hướng vô một điều là lập trường cứu quốc, nhờ cái năng lực mạnh mẽ và quyền năng ấy họ đã nắm trọn sứ mạng của nòi giống và Tổ quốc trong tay từ Nam chí Bắc, nếu như cơ cấu tranh đấu của họ quả là một cơ cấu quốc gia chơn chánh, thì sự thâu hoạch và thống nhứt Hoàng đồ đã làm rồi, đã thành tựu rồi.
Hại nổi! Họ phải xu hướng theo hai chí hướng của hai khối nhứt là họ vẫn thấy khối Cộng Sản lầm lạc, là nương nơi khối ấy mà họ định mạng tương lai nước nhà chủng tộc là cái lầm nhứt hết.
Nếu quả nhiên cái định hướng của họ đem lại thắng lợi cho nước nhà, cho chủng tộc thì Bần Đạo tưởng không nói rõ ra cả thảy đồng bào đều biết, cũng như những kẻ tôi đòi đổi chủ mà thôi chớ không chi khác. Ngó ngọn cờ độc lập mà vẫn lệ thuộc như xưa, thì làm thế nào tạo hạnh phúc giống nòi đặng! Hại nổi! Khi về nước bên nầy gành giựt cả quần chúng, thì bên kia cũng giành giựt cả quần chúng, bên nầy Việt Minh, bên kia Pháp, khối Quốc Gia hai tình thế rất nguy hiểm với hai lằng tên mũi đạn.
Thưa cùng cả thảy đồng bào, thử như thế đồng bào mới chỉ con đường nào cho Bần Đạo đi mà chớ, có một con đường duy nhứt là con đường có của chúng ta mà Tổ phụ chúng ta để lại. Con đường đã có trên 4.000 năm lập quốc và 4.000 năm văn hiến. Là con đường duy nhất là Bần Đạo phải đi, mà đi con đường ấy, ôi! không biết bao nhiêu đau khổ, đã hy sinh cái khối xương máu của chiến sĩ Cao Đài làm thành, làm lũy đặng bảo vệ sự sống của nòi giống dưới ngọn cờ "Bảo Sanh Nhơn Nghĩa Đại Đồng" nếu toàn thể đồng bào hiểu cái tâm lý của nó sẽ ứa lụy cùng Bần Đạo mà chớ!...
Có một phen Bần Đạo tuyên bố Quân Đội Cao Đài xuất hiện ra đặng làm tấm bình phong chịu chết cho giống nòi khỏi chết, bảo vệ sống còn cho nòi giống bảo thủ cái nhơn nghĩa của Tổ phụ để lại. Có nhiều khi Bần Đạo cũng lấy làm đau đớn lắm vậy.
Nhưng nghĩ đến cái sứ mạng Thiêng Liêng cao cả ấy có chút an ủi mảy may trong tâm não.
Các con Chiến Sĩ Cao Đài từ Thượng Hạ Sĩ Quan dĩ chí đến Binh sĩ, một phen nữa Thầy xô các con ra hy sinh cứu nòi giống và Tổ Quốc các con. Tương lai vận mạng như vầy các con tiếp tục tranh đấu cho kỳ được đặng thâu độc lập cho giống nòi cho Tổ Quốc các con.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 09-01-Ất Mùi nhằm ngày (dl. 01-02-1955).
Q.6/3-05: Lịch sử thành lập Hội Thánh Phước Thiện Hiệp Thiên Đài.
ĐỨC HỘ PHÁP THUYẾT ĐẠO
Ngày 12 tháng 1 năm Ất Mùi tại Văn Phòng Hội Thánh Phước Thiện kỳ lễ Khánh Thành Dinh Thự
Ngày nay là ngày Lễ Khánh Thành các Dinh Thự cùng trong cuộc Lễ Khánh Thành Đền Thánh.
Khởi đầu Bần Đạo đi viếng các Dinh Thự nơi Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài, Bần Đạo chỉ đến viếng chớ không thuyết Đạo, đến đây là Văn Phòng Hội Thánh Phước Thiện, Bần Đạo cho toàn Chức Sắc đương quyền Hành Chánh Đạo được rõ mục đích của Hội Thánh Phước Thiện do đâu mà sản xuất, bởi trong Pháp Chánh Truyền Chí Tôn lập Hội Thánh Hiệp Thiên Đài, Hội Thánh Cửu Trùng Đài mà trước khi Chí Tôn đến giao truyền mối Đạo là Thiên Điều đã định mở cửa Thập Nhị Khai Thiên đặng đem cờ cứu khổ để tại mặt thế nầy mà cứu vớt toàn cả Cửu nhị ức nguyên nhân con cái của Ngài. Chí Tôn giao phó cho Hiệp Thiên Đài mà trong Chức Sắc Hiệp Thiên Đài chỉ có 15 Ngài Thập Nhị Thời Quân với Thượng Phẩm, Thượng Sanh và Bần Đạo; trong 15 thì có 4 - 5 ngoe lãnh lịnh mà thôi. Đức Chí Tôn kêu anh Cao Thượng Phẩm lãnh trách nhậm lo cứu thế kế anh qui thiên để lại cái gánh nặng nề cho Bần Đạo, Bần Đạo đã thường nói hôm ngày chúc xuân và nơi Đại Đồng Xã, Hội Thánh Cửu Trùng Đài của Giáo Tông, Hội Thánh Phước Thiện của Hộ Pháp tức là Hiệp Thiên Đài đó vậy. Hội Thánh Phước Thiện là thay thế cho Hiệp Thiên Đài lo cứu khổ để giải khổ cho toàn cả nhơn loại, mà Hiệp Thiên Đài chỉ có lãnh lịnh 4 - 5 vị làm sao lập thành cơ cứu khổ được cái Bí Pháp, chi Pháp Chí Tôn đưa ra biểu phải làm mà trong Pháp Chánh Truyền không có định, Bần Đạo chỉ lấy bài Thi văn của Đức Chí Tôn dạy mà lập thành dầu cho cả chơn hồn đã siêu lạc nơi nào sau nầy cũng phải nơi cửa Phạm về cùng Ngài.
Bài thi văn như vầy:
Tỉnh ngộ xá thân tại Phạm Môn,
Khuyến tu hậu nhựt độ sanh hồn,
Vô lao bất phục hồi Chơn mạng,
Tỉnh thế kỳ thân đắc Chánh tôn.
Vì bài Thi văn của Đức Chí Tôn dạy đó mà Bần Đạo mới lập ra Phạm Môn có Phạm Môn rồi mới có sản xuất Thập Nhị Đẳng Cấp Thiêng Liêng (*1) thì không thế nào lập thành Hội Thánh Phước Thiện được, bởi chữ Phạm Môn là Phật, Phạm Môn là cửa Phật chớ không phải Phạm là họ Phạm; buổi đó cũng có nhiều tiếng phân vân nói Bần Đạo lập Phạm Môn tức là lập theo họ Phạm của Bần Đạo, Bần Đạo cũng như tấm bình phong đứng giữa hứng chịu. Sao Bần Đạo không đầu kiếp các nơi họ Nguyễn, họ Trần mà đến ngay nhà họ Phạm mà để khiến cho Bần Đạo phải chịu oan ức. Những tiếng phân vân ấy, Bần Đạo cũng chẳng màng, cứ lo cho kỳ được, bởi vì sự công chánh Bần Đạo đứng giữa đây Bần Đạo phải nói Bần Đạo nói thiệt cả sự nghiệp của Đạo còn tồn tại đây là do nơi tay của Phạm Môn nếu không có Phạm Môn thì Bần Đạo không đứng vững, Đức Chí Tôn đã định cho Bần Đạo thâu 72 vị Môn Đệ mà chia ra hành sự 36 - 37 vì, buổi đó Thầy trò chịu cực khổ tầm phương để tạo nghiệp mà bị chúng sanh đánh đổ đến đổi vận lương thực lục tỉnh đem về Tòa Thánh mà cũng bị ngăn cản quyết bỏ đói cho chết, mà tội nghiệp thay họ không thối chí ngã lòng, cứ cương quyết theo Bần Đạo cho đến ngày lập thành Hội Thánh Phước Thiện. Thật nổi khổ tâm của anh em Phạm Môn chỉ lấy hai bàn tay trắng mà tạo nên sự nghiệp cho Đạo, họ chỉ bắt gió nắn hình, lấy không làm có ngày nay Cơ Quan Cứu Khổ đã thành tướng nơi Hội Thánh Phước Thiện các trách nhậm trọng yếu phải lo hiện trước mặt gần đây là Bảo Cô Nhi bên kia là Khách Đình về mặt Tang Tế đều phải lo mọi hình thức nên Bần Đạo nói mấy người mà về ở nơi Tòa Thánh liệu lo bề uống thuốc mạnh thì thôi, coi bộ nhắm bề không mạnh liệu bề không kham họ sẽ đem bỏ đại tại Khách Đình cho Hội Thánh chôn cất làm sao thì làm, đã vậy mà còn phải lo tạo hình tướng vĩ đại Bần Đạo nói cái vĩ đại của nó chớ không có nói cái nhỏ với kia là Trí Huệ Cung cũng bảo giá phụ giành cho người giá phụ cũng là Nữ Phái chơn tu tức là nhà Tu của Nữ Phái.
Trên một hình tướng đang khởi tạo là Vạn Pháp Cung trên núi nhà Dưỡng Lão tức là nhà Tu của Nam Phái. Cả hình tướng ngày nay đã biểu lộ trước mặt toàn cả nhơn sanh ai ai họ cũng đều cảm khích hồi trước kia có tướng mà không có hình, ngày nay hình tướng nên được thì sự tiến hóa của Hội Thánh Phước Thiện từ đây sẽ vững chắc không còn lại một trở lực nào mà làm cho cơ cứu khổ của Chí Tôn phải ngưng bước và Bần Đạo sẽ cho Hội Thánh Phước Thiện hay rằng: Từ đây Hội Thánh Phước Thiện sẽ được bảo đảm.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 12-01-Ất Mùi nhằm ngày (dl. 04-02-1955).
(*1) Nơi đoạn thứ 5: Vì bài Thi văn của Đức Chí Tôn dạy đó mà Bần Đạo mới lập ra Phạm Môn có Phạm Môn rồi mới có sản xuất Thập Nhị Đẳng Cấp Thiêng Liêng thì không thế nào lập thành Hội Thánh Phước Thiện được,... ... ...
Chúng tôi nghĩ đoạn trên có thể là: Vì bài Thi văn của Đức Chí Tôn dạy đó mà Bần Đạo mới lập ra Phạm Môn có Phạm Môn rồi mới có sản xuất Thập Nhị Đẳng Cấp Thiêng Liêng. Nếu không có Phạm Môn thì không thế nào lập thành Hội Thánh Phước Thiện được,... ... ...
Q.6/3-06: Công trạng các Thánh Tông Đồ Đạo Cao Đài.
ĐỨC HỘ PHÁP THUYẾT MINH CÔNG TRẠNG CÁC THÁNH TÔNG ĐỒ trong khi làm lễ thiêu xác ngày 15 tháng 1 Ất Mùi
Thưa cùng Chư Chức Sắc Thiên Phong Nam Nữ Lưỡng Phái, các em toàn cả con cái Đức Chí Tôn Nam Nữ, thanh niên của Đạo.
Chắc có lẽ cả thảy con cái của Đức Chí Tôn đều để dấu hỏi? Cái nghĩa lý của cuộc Lễ Khánh Thánh Tòa Thánh và Lễ Thiêu Xác của các Thánh Tông Đồ.
Có lạ chi, không cần kiếm đâu sâu xa hơn nữa ở nơi mặt thế nầy dầu cho Đạo nào họ cũng thường để một cái mơ vọng là kiếp sanh của mình làm thế nào cho ngộ Đạo.
Một cái câu Sấm Truyền từ xưa để lại có nói rằng:
"Hữu duyên mới gặp Tam Kỳ Phổ Độ,
Muôn đời còn tử phủ nêu danh"
Ngộ nghỉnh cho chúng ta nên để ý là cái khéo lựa chọn và biết tìm đường và ngộ Đạo ấy.
Cả toàn thể quốc dân của chúng ta hạng Đại Đức cũng nhiều, hạng học thức cũng nhiều, nam cũng thế, nữ cũng thế. Vì sao họ không giành chỗ của ông Lê Văn Trung, ông Cao Quỳnh Cư, bà Lâm Hương Thanh, ông Lê Bá Trang, không lẽ trong thế gian nầy có người đó, mà còn nữa.
Ôi! Tưởng cả công nghiệp của cả kiếp sanh dành để như họ, nếu có kẻ thiệt biết tìm cái đại nghiệp Thiêng Liêng của mình, biết bao nhiêu sự thèm thuồng của thiên hạ, danh giá họ đặng như thế, Đạo của ta và phận sự của ta dầu chi ta cũng là hiện thân của họ, phải chăng chúng ta đã làm giá trị Thiêng Liêng của họ thêm quí báu thêm tối trọng, thêm cao thượng hơn nữa.
Cả con cái của Đức Chí Tôn đều hiểu nơi Bát Quái Đài là hồn của Đạo tức nhiên là Tòa Ngự của Đại Từ Phụ và là nơi Đức Chí Tôn và các Đấng Thiêng Liêng ngự. Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật họ đã tìm họ đã đoạt đặng một chỗ nơi đó đặng họ ngự. Không phải dễ gì trong kiếp sanh hữu duyên đặng đọat được như thế.
Đám thanh niên Nam Nữ lưỡng phái suy nghĩ coi, tìm một công nghiệp tương lai, cái trọng, cái khinh, cái bền, cái bở, cái giá trị, cái vô giá, tưởng khi cả tinh thần toàn thể con cái Đức Chí Tôn đều đã quyết định rồi mà chớ.
Ngọn lửa sẽ thiêu các các Thánh ấy, nó sẽ biến thành ngọn lửa thiêng nó sẽ làm sáng chói Đạo Cao Đài đặng kêu gọi cả tinh thần nhơn loại tìm một con đường giải thoát của họ, con đường cứu khổ của họ mà nó cũng sẽ là ngọn lửa thiêng liêng dìu dẫn cả tâm hồn con cái Đức Chí Tôn luôn cả Thánh Thể của Ngài nữa.
Cái danh giá của họ Bần Đạo không luận tới công nghiệp của họ cũng thế, Bần Đạo cũng không muốn nói tới. Chỉ thấy một điều là tiếng gọi thiêng liêng của Đại Từ Phụ buổi ban xưa trong thời nòi giống Việt Nam ta còn đương bị trong ách lệ thuộc. Danh giá của họ, sự nghiệp của họ, có thể bị quyền lực áp bức làm cho nó tiêu hủy họ có thể khổ não cả sanh mạng của họ khổ não luôn về tương lai danh phận của họ mà họ vẫn coi cái đó là thường. Duy có tiếng gọi thiêng liêng của Đức Chí Tôn là trọng hệ. Nhứt là phế Đời hành Đạo. Cả con cái Đức Chí Tôn sẽ để dấu hỏi. Ông nầy thế nầy, ông kia thế khác và sẽ để dấu hỏi (? ) Ủa ... làm sao Hộ Pháp để trọn vẹn công nghiệp có hơn tất có định hạng sao Hộ Pháp để cho họ đồng phẩm với nhau như thế?
Bần Đạo chỉ nói dứt một điều là về Pháp Luật, Bần Đạo làm Hộ Pháp dầu cho buổi nọ họ loạn bao nhiêu chỉ dùng cả quyền lực đặng bảo thủ nền Chơn Giáo của Đức Chí Tôn mà thôi. Ngoài ra họ là bạn, họ là đoàn anh, tình đó cao trọng hơn hết. Thứ nhì nữa là cả tội tình cái kẻ nghịch Đạo trước mắt Bần Đạo vô giá trị. Giá trị thiệt hay không là ngọn lửa thiêng ấy làm cho bùng dậy Quốc hồn nước Việt Nam, tinh thần tối cổ và văn minh tối cổ của nòi giống, cái đó là trọng hệ hơn hết.
Cả con cái của Đức Chí Tôn nên nhớ điều đó.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 15-01-Ất Mùi nhằm ngày (dl. 07-02-1955).
Q.6/3-07: Đại Hội Long Hoa.
BÀI THUYẾT ĐẠO CỦA ĐỨC HỘ PHÁP tại Đền Thánh đêm 30 tháng 2 năm Ất Mùi
Mấy em Nam Nữ lưỡng phái, đêm nay Qua không giảng Đạo mà chỉ nói cùng mấy em, xin kiếu lỗi cùng chư Chức sắc Thiên Phong Thánh Thể của Đức Chí Tôn.
Hôm trước qua có mời Khâm Thành, các Đầu Phận Đạo vào Hộ Pháp Đường, Qua có thuyết minh cho họ nghe, vì Đại Hội Long Hoa nó sẽ có tại Tòa Thánh nầy đầu năm Tý. Mấy em cũng chán biết cái đại nghiệp của Đạo đều do tay của mấy em tạo dựng Nam cũng vậy, Nữ cũng vậy. Đức Chí Tôn đã đến 30 mươi năm nay, Ngài đến Ngài nói thật thà chơn chất rằng: Đại Từ Phụ là ông già nghèo, ổng nói trong hai câu thi:
"Tròi trọi mình không mới thiệt bần,
Một nhành sen trắng náu nương chân".
Ổng đã nói ổng là ông già nghèo, ổng đến ổng dùng có một cái Cơ đặng lập Thánh Thể của ổng mà ổng giao phó cho một trách nhiệm tối ư quá quan trọng là phải lập nghiệp cho cả toàn con cái đau khổ của ổng. Mấy em mới nghĩ lại đó coi, chúng Qua không phải là làm chúa ở toàn cầu nầy, hay làm chúa một nước, cũng hai tay trắng mà thôi, hiển nhiên hôm nay chúng Qua đi được một đổi đường nhờ Đại Từ Phụ dìu dắt và nhờ tay của mấy em đã hy sinh từ giọt mồ hôi, giọt nước mắt mới tạo dựng nên nghiệp Đạo như thế nầy. Nếu chúng Qua nhìn rằng sự thật thì ta nói nó không phải đủ sang giàu mà ngày hôm nay có thể làm một bóng mát, một cái Nhà Thờ chung cho con cái khổ não của Ngài, để nương bóng Từ bi của Ngài đặng.
Mấy em cũng đủ biết giá trị hy sinh của cả mỗi người mấy em như thế nào, Qua chẳng cần phải dài luận cho lắm, thì đáng lẽ ra thời buổi ly loạn nầy, nhứt là Qua và Thánh Thể Đức Chí Tôn đã biết cái thân phải truân chuyên của mấy em là thế nào, cái phương sanh sống của mấy em đã bị phá hoại là thế nào, cái khó khăn của mấy em phải bảo vệ cả sắp nhỏ tức nhiên tương lai hương hỏa của Đạo là thế nào. Lý ra chúng Qua không làm mấy em khổ trí nhọc tâm nữa để từ từ bước đến nhờ ân Đức Chí Tôn dìu dẫn đi, xin miễn đi từ từ nhi tấn mà thôi, đừng đứng chựng lại đó.
Trót 30 năm Qua sống chung với mấy em cũng như Thánh Thể của Ngài, mấy em dòm lại coi, đoàn anh của mấy em già nua, chính mình Qua đây đã 66 tuổi rồi, chẳng lẽ tuổi Qua lột da sống đời đặng vùa giúp tay chơn đầu óc với mấy em mãi mãi. Cái đại nghiệp nầy lưu lại cho mấy em hay chăng là do nơi kế chí của mấy em, mấy em cố gắng đặng lưu lại cho máu mủ không biết chừng nào đường lối Tổ Tiên mấy em đã trở bước lại đây họ được hưởng một cái hạnh phúc, công nghiệp của mấy em chút nào hay chút nấy, ngặt một nỗi là cả cái phận sự thiêng liêng của Đức Chí Tôn giao phó trong đấy có nhiều điều buộc ta phải cố gắng làm cấp cấp ngày giờ Đức Chí Tôn đã định mới đặng. Mấy em cũng đã biết trong Kinh Đại Tường Đức Chí Tôn đã nói rõ:
"Hổn Nguơn Thiên dưới quyền Giáo Chủ,
Di Lạc Vương thâu thủ phổ duyên.
Tái sanh sửa đổi chơn truyền,
Khai cơ tận độ cửu tuyền diệt vong".
Mấy câu trên Qua không cần giải nghĩa, duy có câu: "Khai cơ tận độ cửu tuyền diệt vong" mấy em biết là thế nào? Đối với nhơn loại kể từ ngày hôm nay tức nhiên từ ngày mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ cho mãi mãi tới tận thế cái địa ngục dưới kia đã bị tiêu diệt rồi, Thập Điện Diêm Cung đến rước mấy em nó đã vong phế rồi, mấy em không còn sa xuống cửa Địa ngục, mấy em không còn chịu dưới quyền của Thập Điện Diêm Cung, cái đó là hệ trọng hơn hết.
"Hội Long Hoa tuyển phong Phật vị"
Mở Hội Long Hoa để tuyển phong một vị Phật hay nhiều vị Phật.
"Cõi Tây Phương khử quỉ trừ ma"
Nơi Tây phương Cực Lạc cũng vậy, tảo thanh không còn ma hồn quỷ xác đến đây nữa.
"Giáng Linh Hộ Pháp Di Đà,
Chuyển cây Ma Xử đuổi tà trục tinh"
Câu nầy rất rẻ mấy em điều biết.
"Thâu các Đạo hữu hình làm một,
Trường thi Tiên Phật dượt kiếp khiên"
Cái trường thi Tiên của bậc Tiên đoạt vị Phật.
"Tạo đời cải dữ ra hiền"
Câu đó Qua không cần giải nghĩa.
"Bảo sanh nắm giữ diệu huyền Chí Tôn".
Tới năm Tý sẽ mở Hội Long Hoa tuyển phong Phật vị tại Tòa Thánh nầy. Mấy em làm cho kịp, Qua nói quả quyết mấy em làm không kịp, mà Qua có qui liễu trước đi nữa thì cái tội ấy về mấy em chớ không phải về Qua, nhớ điều đó, Qua cố gắng, Qua tận trung cùng Đạo, tận hiếu cùng Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu, Qua chỉ ước cho giòng máu Thiêng Liêng của mấy em đây nó hưởng một điều trọng yếu không biết bao giờ, ngày giờ Qua không có thể định trước, không có quyền gì định trước. Qua hứa hẹn điều đó đặng; Qua ước làm thế nào cho giòng máu Thiêng Liêng của mấy em đây nó gặp mặt Đức Chí Tôn đến tại thế nầy, lấy một quyền năng Thiêng Liêng của ổng như ổng đã đến Đền thờ Tây Tạng kia vậy. Hễ nói đến Đền thờ Tây Tạng Đức Chí Tôn đã đến Qua cũng nên tường thuật điều đó cho cả thảy con cái Đức Chí Tôn đều nghe hiểu.
Năm 1917 khi Cộng sản đã đánh đổ Đế quyền của Nga, các bậc công hầu đời phong kiến của Tô Nga buổi nọ đều phải đào tẩu, nhứt là Bạch Nga, Xích Nga không nói gì, còn Bạch Nga thì phải trốn không thôi bị chúng tàn sát. Trong đó có một vị Bá tước cũng chạy giặc qua Tây Tạng, khi qua đây với một số người bạn, cũng được hai mươi mấy người nương thân nơi Tây Tạng. Dalai Lama ổng nghe cả cái khổ não của họ, cả cái hoạn nạn của họ, ổng thương quá chừng quá đổi, ổng bảo vệ, ổng nuôi nấng.
Ông Dalai Lama là Phật vương của xứ Tây tạng, mấy em dễ biết chẳng phải ổng ở xứ Tây Tạng đặng ẩn thân mà thôi, mà ổng còn bảo vệ nuôi dưỡng nữa. Ngày nọ vị Bá Tước buồn rầu nhớ quê hương, nhớ vợ con, nhứt là đi một thân mình, còn cả thảy các tướng quan phần nhiều là võ theo cùng Ngài cũng có vợ con để lại bên Tô Nga hết, chạy giặc qua bên Tây Tạng nương náu đó vậy thôi? Đức Dalai Lama ổng hiểu thâm tình của vị BáTước đó, ổng hiểu sao không biết, ổng dạy Đạo cho ông kia nghe, một khi đó thì ổng sửa soạn, ổng đi vô Đền Thờ, ổng ăn mặc sắc diện khác hơn buổi trước làm cho nhiều hàng các quan theo Bá Tước hỏi, không lẽ giấu họ. ổng mới nói thiệt rằng: Đêm nay là đêm Đức Chí Tôn ngự tại Đền Thờ, mấy vị trong buổi khổ não nghe tới danh Đức Chí Tôn đến, mừng quá hỏi, vậy chớ chúng tôi có thể vô chầu trong đó được không? Thì Ông Dalai Dama nói: Mấy người cứ đi theo tôi, ông dắt vô trong Đền Thờ họ theo họ tọc mạch hỏi, làm sao mà biết Đức Chí Tôn đến, mà Chí Tôn đến thế nào? Tôi dặn mấy Ngài nghe các cái chuông chung quanh Đền Thờ reo một lượt và ở ngoài nghe tiếng ngựa chạy rần rần đó là Ngài đến, là Đức Chí Tôn đến, vô đó rồi ông Dalai Lama ổng dắt vô trong một cái phòng thắp đèn lờ mờ vậy thôi. Ổng đem vị Bá Tước với mấy người bạn khi vô trong đó ổng để ngồi, ổng biểu cầu nguyện , ông Bá Tước ổng đương rầu khổ não tâm hồn quá lẽ đi, ổng cầu nguyện hay không biết phép của ông Dalai Lama hay phép Thiêng Liêng của Đại Từ Phụ làm nên không hiểu, thì trong phòng đó ở đằng sau có một tấm như nỉ đen hay là vải mà trải nguyên cả một phòng to lớn vậy.
Ông Dalai Dama biểu ông Bá Tước chú ý dòm vô đó, cả thảy cầu nguyện rồi dòm vô, ban đầu thấy như một ngọn khói, mà ở ngoài bay vô trong phòng đó ngay chỗ ông vẽ rồi nó tràn vô cả cái khói đằng sau đen rồi cái khói trắng nó hiện hình ra một cái phòng nhà của ông Bá Tước ở trong đó, bà Bá Tước với đứa con đương nhớ chồng ôm mặt sầu thảm một cách. Ông nọ thấy rầu, ông cúi mặt xuống, ông khóc lớn lên, mấy người kia cũng đổ lụy hết thảy, rồi cái khói đó tan đi, khói đó tan miếng màn đen như củ. Thấy cái đó rồi ông Dalai Dama ổng mới dắt mấy người đó vô Đền Thờ thì ngay đúng giờ Tý cũng như giờ mình cúng đây. Quả nhiên nghe các chuông treo chung quanh Đền Thờ đều reo lên một lượt và ở ngoài nghe tiếng ngựa thì hết thảy các vị Đại đức đều cúi mọp đầu xuống, tới chừng đó có một mình ông Bá Tước với mấy người Nga tọc mạch họ ngước lên dòm thì vừa ở trong Đền u u ám ám vậy thôi, chớ không có sáng sủa như đèn điện mình đây, thì đó nó làm sáng rỡ chiếu diệu như ban ngày, ánh hào quang chiếu toàn trong Đền Thờ đều sáng hết, ở ngoài dường như một bóng sáng đi tuốt vô trong, chừng đó họ sợ, họ cúi đầu xuống, tới chừng Đại Từ Phụ phát thinh lên giảng đạo rồi họ ngó lên họ tỏa cái thể Đức Chí Tôn không rõ ràng lắm, họ thấy cái trạng đẹp đẻ hào quang chiếu diệu sáng ngời đẹp lắm, họ chỉ nói có bao nhiêu đó mà thôi.
Khi giảng đạo rồi Đức Chí Tôn nói:" Trong 40 năm kể từ 40 năm thì nhơn loại đau khổ luôn luôn, Mỗi lần Đại Từ Phụ đến 50 năm, Ngài trở đến tại Đền thờ Tây Tạng, thành thử mình tính lụng lại năm 1917, năm nay là năm 1955 nó là 38 năm hả ? 38 năm rồi còn hai năm nữa thiên hạ mới yên, mới thái bình, thành thử Qua ngó thấy dường như trúng quá chừng quá đổi, để mà coi số nó có quả quyết vậy không đó, tại Đền thờ Tây Tạng Qua thấy họ hưởng được hồng ân của Đức Chí Tôn vô đối là Đức Chí Tôn đến với họ không biết đạo đức uyên thâm của xứ Tây Tạng, Đạo của họ sản xuất ra ngày nào mà họ được hưởng hồng ân vĩ đại như thế.
Đền thờ Jérusalem ở Palestine bên Cận Đông thì Đại Từ Phụ có đến một lần, đến một cách oai nghiêm quá chừng, quá đổi, thiên hạ nhắc lụng lại giờ làm cho Qua sợ sệt lắm. Trong Đền Thờ Jérusalem như các thầy Sải ở nơi đó phụng sự hương khói cũng như làm Từ nơi đó là giòng dõi Lévi, Lévi là con út ông Abraham.
Có lẽ Đền Thánh nầy Qua dám chắc thế nào Đức Chí Tôn cũng đến tại chưa đến là vì lẽ gì? Lý do gì chưa có trọn vẹn đây.
Mấy em cố gắng đi, từ đây tới sau cho tới ngày Long Hoa Đại hội nên hư, đặng thất, điều gì Qua lập Đại hội Long Hoa được hay chăng Qua phú thác nơi tay mấy em đó vậy.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 30-02-Ất Mùi nhằm ngày (dl. 23-03-1955).
Q.6/3-08: Vì sao Đức Chí Tôn đến và Ngài đến đặng làm gì?
LỜI THUYẾT ĐẠO CỦA ĐỨC HỘ PHÁP
Đêm 15 tháng 3 nh- Ất Mùi
Đêm nay có lẻ giảng Đạo hơi dài một chút, Đại Đàn giờ không đủ đặng giảng, chớ Tiểu Đàn có thể ít mệt hơn, dầu có nghe nhiều một chút cũng không đến nước.
Đêm nay Bần Đạo giảng vì lẽ gì Đức Chí Tôn đến và đến đặng làm gì? Và cái nền Chơn Giáo của Ngài là sao? Bần Đạo đã đặng nhiều lời của mấy em nhứt là trong Bàn Trị Sự tức nhiên là hàng Em của Hội Thánh hay Thánh Thể út của Đức Chí Tôn, nghĩa là con cái yêu dấu của Ngài hơn hết đã phàn nàn thấu tới tai Bần Đạo.
Thời cuộc biến thiên thể nào không biết mà cả toàn thể con cái Đức Chí Tôn dầu Nam cũng vậy, Nữ cũng vậy đã bị thiên hạ lợi dụng quá lẽ, lợi dụng về xương máu, lợi dụng về tài sản cho tới nước, lợi dụng tâm đức hiền lương của họ rồi lại còn kêu vói lên chẳng biết Thánh Thể của Đức Chí Tôn kia họ có mở con mắt Thánh đặng họ thấy hay chăng hay họ đã mù quáng.
Vì lẽ cho nên đêm nay Bần Đạo mới giảng ba đề thiết yếu ấy mà cả thảy con cái Đức Chí Tôn đều hiểu, chẳng phải ngoài Đời kia mà thôi, tới trong cửa Thiêng Liêng của Đạo, các em Nam, Nữ đều ngó thấy tinh thần của toàn thể nhơn loại đã bị khảo đảo một cách quá lẽ, từ cổ chí kim tới giờ chưa có cái khủng hoảng tinh thần của nhơn loại trên mặt địa cầu. Hôm nay nó làm cho toàn thể hễ nước nào mạnh giàu liệt cường chừng nào thì cái khủng hoảng tinh thần của họ lại càng quá lẽ vô độ không thế gì luận được, không thế tỏa được, họ sống lợi với cái tinh thần hồi hộp sợ hải, cái quái dị hơn hết là họ càng mạnh thì Đức Chí Tôn tức nhiên Đại Từ Phụ lại cho họ thấy cái mạnh của họ là cái chết của họ, ngộ nghỉnh là có bấy nhiêu đó. Ai đời móc cả cái óc não, cả cái khôn ngoan, cái hay biết ra đặng tìm cái năng lực vô đối tức là nguyên tử lực, rồi còn tò mò kiếm một cái mạnh hơn nguyên tử lực ấy nữa, mấy thứ bom đương nhiên bây giờ nó giết hại nhơn mạng coi như con muỗi, con kiến.
Cái mạnh của họ nó trở lại dọa nạt họ phải sợ nó, ngay đến đổi như ông Thủ Tướng của nước Anh là ông Churchill ông là người hai lần hai cái đại chiến, ông cố chịu hết, ông là một đại tướng phi thường của nước Anh, nếu ta có thể nói sự công bằng thì từ thử tới giờ nước Anh chưa có vị Thủ Tướng nào phi phàm như thế đó, khi nọ ông than, ông nói kể từ ngày đã xuất hiện bom nguyên tử, tôi thú thật với các Ngài, tôi ngủ không yên giấc. Ông thường có nói rằng: Ông ăn không ngon, nằm không ngủ, như nước Nam ta mà ổng nói ổng ngủ không yên giấc, chẳng phải một mình ông Churchill mà thôi, tôi tưởng các nhà bác học, các nhà chánh trị gia đại tài, cả toàn nhơn loại, toàn vạn quốc, giờ phút nầy sống với sự hồi hộp sợ hãi mãi, thiên hạ họ nói một cách kiêu ngạo, mà kiêu ngạo một cách khôi hài nghe ngộ nghỉnh làm sao, họ nói cả liệt cường mà sợ bom nguyên tử bây giờ chẳng khác nào thầy pháp sợ Cô Hồn với ông Tướng, họ đã sản xuất nó ra, họ tạo dựng ra oai quyền của nó họ đối thủ, họ địch thủ, họ sợ nó một cách đáo để, sợ thiệt tình chớ không phải sợ dối trá, hay làm bộ, sợ ngay vậy.
Cái khủng hoảng tinh thần ấy nếu như ta đã theo chơn Đại Từ Phụ từ 30 năm nay chúng ta biết tánh đức của Ngài, của ông Cha lành vô đối chưa có ông Cha phàm nào của ta mà có tâm đức như ổng, thương yêu con cái của ổng một cách phi thường, một cách lạ lùng, mà cái khủng hoảng tinh thần nhơn loại đương nhiên bây giờ tôi dám chắc nếu ổng không muốn đến là cái lẽ gì mà chớ. Chỉ còn cái đau khổ tâm hồn nhơn loại như thế đó buộc ổng phải đến mà thôi.
Vì cớ cho nên ổng đến, ổng đến đặng chi, cũng như câu hỏi thứ nhì, ổng đến đặng chia khổ cho con cái của ổng, nên ban sơ ổng đã nói một cách chơn thật và đơn giản, ổng nói: "Thầy đến Thầy hiệp lương sanh đặng Thầy làm cơ thể để cứu vớt chúng sanh" tuy nhiên ổng đến ổng lựa chọn các con hiền lương đạo đức, ổng đem vô cửa Thiêng Liêng của ổng tức nhiên cửa Đạo đặng ổng làm cái thi hài hữu hình của ổng, xác thịt hữu tướng của ổng tại thế gian nầy gọi là Thánh Thể hay là Hội Thánh, ổng lập Hội Thánh ra đặng làm Thánh Thể đặng ổng làm gì? Không có gì khác hơn đặng ổng làm hình ảnh của ổng, đặng ổng chia khổ não của con cái của ổng mà đầu tiên hết, nếu ổng không có phương kế chia khổ não ấy ổng đến đặng mà ổng an ủi, ổng dỗ lấy cái đau thảm của con ổng đã chịu.
Ấy vậy cái Chơn Giáo của ổng, ổng đem Thánh Thể ra cốt yếu đặng ổng làm xác thịt của ổng đặng ổng sang sớt con cái của ổng tức nhiên sang sớt cả cái đau khổ của nhơn loại Bần Đạo nhắc lụng lại một lần nữa, chẳng phải như các Giáo phái kia gọi mình là chúa của thiên hạ, hay mình là thầy của thiên hạ, mà Hội Thánh của Đại Từ Phụ lập đây cốt yếu để làm hình thể của Ngài đặng làm tôi cho con cái của Ngài, làm đầy tớ cho con cái của Ngài, nhớ điều đó là trọng hệ hơn hết.
Thì đó chúng ta ngó thấy sự thảm khổ ấy, lượn sóng đời nó không phải lan tràn ngoài đời kia mà thôi, Qua có dịp giảng Qua nói: Cái lượng thủy triều của đời nó dâng lên như thể lụt bão kia, nó tràn ngập hết, chính mình trong cửa Đại Từ Bi của Đức Chí Tôn, Chí Tôn đây nó cũng không từ, nó tràn vô tới cửa Đại Từ Bi đặng nó lôi cuốn cả con cái của Ngài trôi theo nó, chìm đắm theo nó ra cho tới khổ hải. Mấy em đã ngó thấy dầu cho cả Thánh Thể hay chúng Qua bất lực không đở vớt khổ não của mấy em toàn hết, nhưng mấy em đã thấy thừa rằng: Chính mình cái khổ não của mấy em bị lượn sóng đời lôi cuốn, mấy em chìm đắm trong đó mà cả chúng Qua tức nhiên Thánh Thể của Đức Chí Tôn phải nhào theo lưng mấy em đặng lặn hụp trong đó đặng cứu vớt mấy em, những kẻ đã lợi dụng mấy em đó, làm cho mấy em làm hình ảnh của lượn sóng đời đó vậy, mấy em muốn tránh chăng chúng Qua cũng muốn tránh lắm vậy, mà tránh đặng thì có chi may mắn hạnh phúc hơn, cái nầy tránh không đặng, ta phải chịu vậy, nếu tránh đặng thì mấy em đã tránh, chúng Qua khỏi lặn hụp trong đó, cái nầy mấy em tránh không đặng, chính mình mấy em bị lôi cuốn toàn thể hết, rồi biểu Thánh Thể của Ngài tức nhiên là Hội Thánh không bị khổ não với mấy em sao đặng. Cả cái khổ não trong đó nó có trách nhiệm của mấy em tự đào tạo, mấy em cố gắng gượng đi, đừng cho ngọn thủy triều lôi cuốn mấy em thì chính mình chúng Qua cũng có thể tránh khỏi, vì bởi thấy mấy em chìm đắm trong đó chúng Qua mới lội lặn theo, nếu mấy em không chìm đắm ai biểu mấy Qua lội lặn theo mấy em cho được, quyền nào mà biểu đặng.
Ngày hôm nay mấy em than thở với Hội Thánh không ngó thấy, thấy lắm chớ, thấy rõ ràng hơn mấy em lắm, thấy mà không biết làm sao cứu được mà chớ.
Ấy vậy, ta có một tinh thần, một phương pháp duy nhất của Đức Chí Tôn đã để trong mình ta, nó là bộ Thiết giáp đang bao phủ lấy ta, ta mang bộ Thiết giáp ấy vô, mấy em cố gắng mỗi em đều sắm bộ Thiết giáp ấy tức nhiên là đạo đức của mấy em đó vậy.
Nếu đạo đức của mấy em, Đức tin của mấy em đã mạnh, đạo đức của mấy em được kiên cố. Qua dám chắc mấy em sẽ thắng mà mấy em giúp chúng Qua thắng luôn đó, mấy em chiến đấu đi, lấy Đạo Đức đặng chiến đấu cả mưu chước quỉ quyền đó đi thì chúng ra sẽ tạo hạnh phúc chung cho nhau. Qua thấy có một điều lượn sóng đời lôi cuốn mấy em, mấy em không cần ngó lụng lại đặng mấy em tự nhủ lấy mình, yêu ái nhau kia, mấy em cứ giựt giành từ món ăn chỗ ở, mấy em giựt giành từ mảnh quyền, mảnh thế, cái hổ nhục trong cửa Đạo nầy không có chi khác hơn là làm cho Qua hổ nhục hơn cái đó. Mấy em chưa biết nhượng với nhau món ăn chỗ ở, mấy em còn giành giựt với nhau phương thế sống, chưa biết nhịn nhau đặng bảo vệ cho nhau, thì cái tình trạng đó nó trả với cái giá đó cũng vừa.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 15-03nh-Ất Mùi nhằm ngày (dl. 06-05-1955).
Q.6/3-09: So sánh quyền Đời và quyền Đạo.
BÀI THUYẾT ĐẠO CỦA ĐỨC HỘ PHÁP
Đêm 30-3 nh. Ất Mùi
Đêm nay Bần Đạo giảng cái đề so sánh quyền Đời và quyền Đạo, cả con cái Đức Chí Tôn Nam, Nữ Lưỡng Phái, nhứt là đám Thanh Niên Nam, Nữ, phải rán để ý cho lắm để tâm nghe sẽ phân biệt cảnh Đạo với đường Đời xa cách với nhau một trời một vực, chỉ có ngộ nghỉnh một điều:
Tuy vẫn phân biệt nhau như thế mà nó lại có cái liên hệ mật thiết với nhau mới là lạ lùng cho. Trước khi giảng quyền Đời và quyền Đạo, Bần Đạo phải tỏa cái hình trạng của Đạo thế nào, hình trạng của Đời thế nào rồi mới tỏa cái quyền của nó ra sao; quyền Đạo cả thảy con cái Đức Chí Tôn đều thường nghe giảng và đều hiểu mà chớ, vì Đức Chí Tôn không có tái kiếp làm người, Ngài đến cả con cái của Ngài với một huyền diệu lạ thường là huyền diệu Cơ Bút, thành thử Ngài không nói mà chúng ta nghe, Ngài không hình mà chúng ta thấy, Bần Đạo đã giải rõ thường tình tại sao Ngài đến? Đại Từ Phụ đến, Ngài đã nói quả quyết Ngài đến để Ngài chia khổ cùng con cái của Ngài, vậy nếu Ngài không có hình trạng thế nào Ngài chia khổ ấy được; tức nhiên Ngài phải làm thế nào Ngài có hình mà chớ, muốn cho ra cái Thánh hình của Ngài không phương chi hay hơn là Ngài tụ họp con cái hiền lương của Ngài đặng lập thành Thánh Thể tức nhiên cái hình Thánh của Ngài, chúng ta thường gọi là Hội Thánh. Ấy vậy Ngài đến Ngài chia khổ, Ngài lập Hội Thánh tức nhiên Ngài lập hình ảnh của Ngài. Hình ảnh của Ngài nó có đẳng cấp trật tự cả Thiên Phong Chức Sắc của Hội Thánh từ Giáo Hữu đổ lên là Thánh Hình của Ngài; chẳng khác nào như cái đầu, còn cả toàn thể con cái của Ngài từ bực Lễ Sanh đổ xuống, tỷ như tay chân thân thể của Ngài, Ngài lấy cái đại thể Chơn Giáo của Ngài đã lập giáo thành tướng của nó tức là cái gia đình Đạo giáo.
Ấy vậy Chơn Truyền của Ngài đã đặt trên thế gian này là gia đình Đạo giáo của Ngài tức nhiên gia đình tinh thần. Bây giờ ta lại luận hình thể của đời, bất kỳ xã hội nhơn quần nào. Bần Đạo đã có dịp thuyết minh rằng, con người bao giờ cũng phải sống tập đoàn đặng bảo vệ cái sống cho nhau mới gầy nên quốc gia xã hội, cái đại thể đó nó thành ra toàn thể nhơn loại, Bần Đạo nói giờ phút nầy cả toàn thể nhơn loại lại còn mong rằng họ sống tập đoàn với nhau trong đại thể của nhơn loại mà chớ.
Ấy vậy, mỗi xã hội có Vua, có Chúa, không thì có vị Quốc Trưởng, dưới quyền của vị Quốc Trưởng ấy, hoặc có Triều đình hoặc có Chánh phủ, cả nhơn viên Chánh phủ hiệp lụng lại với Quốc Trưởng là cái đầu, còn dưới là dân chúng tức nhiên là các năng lực của toàn thể Quốc dân; Sĩ, Nông, Công, Thương, tứ dân, tứ thứ là tay chân, và thân thể. Rồi trong xã hội ấy định phương pháp đặng lập cái Đại thể gia đình của toàn một sắc dân Đại gia đình của một sắc dân gọi là gia đình xã hội, tướng diện của hai bên đó vậy.
Bây giờ Bần Đạo luận về cái quyền, cái quyền đôi bên bao giờ cũng phải quyết định với một cái pháp luật của Hội Thánh. Luật của Hội Thánh để định quyền cho Đạo cho Đại gia đình của tinh thần nhơn loại, ngó thấy Tân Luật, Pháp Chánh Truyền là một chơn tướng lập Thánh Thể của Ngài không cần luận đến, chỉ luận về Tân Luật mà Đức Chí Tôn và Đức Lý Giáo Tông đã dạy Hội Thánh khi mới khai Đạo, lập trong ba tháng phải thành tựu, trong Tân Luật con cái của Đức Chí Tôn đều ngó thấy, Bần Đạo không cần lập đi lập lại vô ích chỉ lấy cái tinh túy của nó là trong Tân Luật ấy Đức Chí Tôn định cho Ngũ Giới Cấm và Tứ Đại Điều Qui và trong ấy cốt yếu bảo vệ Tam Cang Ngũ Thường của toàn thể con cái của Ngài, thật ra cái Thiên Luật của Ngài mà Ngài đã để trong tâm não con cái của Ngài. Luật chỉ có một là Thương Yêu, Quyền chỉ có một là Công Chánh.
Thiên hạ đã lập luật nhiều quá, mà cái luật của thiên hạ lập ấy tưởng khi cả thảy đều ngó thấy, dầu cho họ có thay đổi cho tới tận thế họ chưa có phương nào làm cho nó phù hạp với cả nhơn tâm bao giờ. Còn Đức Chí Tôn đến lập Luật có một điều mà thôi là Thương Yêu, cả thảy điều hiểu cái Luật ấy, nghĩ coi có ai tránh khỏi đặng không, người nào không có dính trong cái Luật Thương Yêu ấy thì chẳng hề họ sống được bao giờ, nhứt là sống chung của đồng loại, hoặc họ phải tự họ ly dị cả nhơn loại hay là cả nhơn loại buộc phải đào thải họ nếu họ không tuân cái luật ấy, còn cái quyền công chánh công bình chánh trực dầu một kẻ không học kia dốt nát thế nào mà học được hai cái đặc tánh quí báu ấy, tôi tưởng cả thảy thiên hạ đều cúi đầu tôn trọng kính nhường và nhứt là họ thương yêu, Thiên Luật của Đức Chí Tôn là vậy, Tân Luật Đức Chí Tôn cốt yếu muốn cho ta làm đặng, ta bảo vệ cái Tam Cang Ngũ Thường của nhơn loại. Nói về phương Đông nầy dầu cho luận tới các Quốc gia xã hội đến đâu đi nữa họ tự trọng họ văn minh thế nào, họ chưa ra khỏi đường lối ấy, niêm luật ấy bao giờ, nếu họ ra khỏi là muốn tự bỏ cả xã hội của họ thì nó sẽ thành cái gì chớ không thành xã hội.
Giờ đây luận tới Luật Hội Thánh. Luật của Hội Thánh chỉ lập ra trong buổi con cái Đức Chí Tôn bị cái óc ngoại hình ngoài đời kia xâm phạm tinh thần và hình chất của nó, Hội Thánh buộc phải lập Luật chẳng khác nào như thể một phương che chở như ta đã ngó thấy một người kia đi tới miệng giếng họ muốn sa vào đó ta kêu trở lộn lại. Luật của Hội Thánh phải chuyển luân theo thời thế của xã hội, nhứt là trong con cái của Ngài chớ thật ra không có giá trị gì hết. Bởi hình không có. Bây giờ nói tới hình của Luật Đạo. Cái quyền của Đạo, quì hương, tụng Kinh Sám Hối, đáo để trục xuất Nội Thành nơi Thánh Địa, rồi còn dữ hơn nữa trục xuất ra khỏi Đạo chớ chưa có giết ai, chưa có tù tội ngục hình, cũng chưa có đem ai mà bắn, mà giết bao giờ, ấy là Luật của Đạo. Vậy cốt yếu cái khuôn khổ Đại gia đình tinh thần nầy để tạo con cái của Đức Chí Tôn thành Thánh, nong nã dạy dỗ dìu dắt thế nào cho họ thành Thánh đặng họ mới cầm cái Cờ Cứu Khổ của Đức Chí Tôn vững vàng và mạnh mẽ, họ mới thay thế hình ảnh của Đức Chí Tôn đặng.
Vì cớ cho nên cả khuôn khổ quyền lực của Đạo cốt yếu để tạo Thánh, bây giờ ta mới luận về quyền Đời, cả quyền Đời thật quyền của họ thiệt lực của họ là Nhơn Đạo. Muốn thành tựu Nhơn Đạo ấy họ phải thông minh trí thức lịch duyệt thế tình, thông minh trí thức phải học, lịch duyệt thế tình họ phải chuyên nghiệp lấy họ, nghiệp làm quan ấy, vì cớ cho nên một ông quan mới đầu tiên thủng thỉnh bực nhỏ lên cao, học đặng chuyên chú nghệ nghiệp của họ, cốt yếu họ cầm quyền trị dân ấy đặng chi, họ mong mỏi gì, họ mong mỏi cho cả toàn dân được hạnh phúc cả cái sống còn của dân được bảo thủ, cái sanh họat của dân được hòa ái tương thân, thật ra họ không có đi ngoài khuôn khổ Tam Cang Ngũ Thường của văn minh ta lưu lại từ thử đến giờ. Muốn bảo vệ cho họ đặng hòa bình thân ái với nhau phải dĩ Đạo vi trị, họ phải mượn văn minh Đạo giáo của Tổ Phụ ta để Tam Cang Ngũ Thường làm căn bản, trong gia đình xã hội phải nương theo bóng của Đạo bên kia họ mới có căn bản, có căn bản ấy thì mới ích nước lợi dân trừ gian diệt nịnh.
Hại có một nỗi là họ tạo luật ra quá quắt có nhiều điều họ lập ra khuôn luật mình thấy thất đức bất nhơn tàn ác, họ dùng cả cái cường lực trị dân, vì cớ cho nên các xã hội nhơn quần hiện tại bây giờ đây loạn là vì họ không lấy đạo đức nhi trị, họ không tùng theo tâm lý mà họ chỉ tùng theo quyền lực mà thôi, nào là khám lớn, nào súng, nào gươm máy, hễ tuân theo khuôn luật của ho trị thì họ để còn sống, nếu không tuân theo khuôn luật thì họ giết, mà kỳ trung thật ra Bần Đạo tổng luận gia đình tinh thần tức nhiên Đạo là tu thân, còn gia đình xã hội là trị quốc, còn thiếu tề gia, tề gia không phải là tề gia đình, tối thiểu của mọi gia đình mà tề gia đình thiêng liêng gia đình tinh thần về xã hội, duy có tề gia ấy nếu mà đôi bên, bên Đạo và bên Đời hiệp phương chước lại với nhau dùng cái phương tề gia ấy mà tương liên mật thiết với nhau nó phù hạp lấy nhau đời mới hưởng được hạnh phúc thái bình, ngoài ra nữa dầu phương chước nào hay hơn bao nhiêu mà không có đặng cái tề ấy, chữ tề ấy không quyết định đặng thì nước vẫn loạn mãi thôi, nhơn sanh phải thống khổ mãi thôi, vì cớ cho nên Bần Đạo mới nói: "Đạo không Đời không sức, Đời không Đạo không quyền"; hễ họ tương liên với nhau không được tề gia nhứt thống về gia đình tinh thần và gia đình xã hội của họ thì bao giờ họ cũng bất lực hết thảy.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 30-03nh-Ất Mùi nhằm ngày (dl. 21-05-1955).
Q.6/3-10: Vía Đức Phật Thích Ca và Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh.
LỜI THUYẾT ĐẠO CỦA ĐỨC HỘ PHÁP
Đêm 8 tháng 4 Ất Mùi
Đêm nay là ngày vía Đức Phật Thích Ca luôn ngày vía Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh, có phải chăng là một việc tình cờ hay là quyền Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn đã định, chị Nữ Đầu Sư vẫn thương yêu Đức Phật Thích Ca lắm. Tuy vân Đức Chí Tôn đến kêu người phải về cùng Thầy mà sự thật ra tâm Đạo của chị từ bé tới lớn chỉ theo chơn Đức Phật Thích Ca mà thôi, nếu xét đoán ra đã biết Đạo thì sự ấy không chi là lạ.
Nguơn linh của Long Nữ đã theo hầu Đức Quan Âm Bồ Tát mấy kiếp đã đến trần thì căn Phật của Người vẫn thế, Bần Đạo xin thuyết Triết Lý Đạo Phật của Đức Phật Thích Ca, Ngài đã đoạt Đạo đặng rồi tức nhiên chị hiểu cái huyền vi bí mật của kiếp sanh con người, Ngài tầm ra căn nguyên bí yếu hơn hết là Luật Nhơn Quả pháp định (Loi Karmique) cái Luật Nhơn Quả của Ngài nó trúng trong chơn lý lạ thường, thử ta chối con người không có quả kiếp chi hết cũng như thuyết duy vật đã nói, con người đã sinh ra ở mặt thế nầy là tình cờ mà thôi, sống như vạn vật kia vậy, nếu cái thuyết ấy quả nhiên là chơn lý thì ta thử hỏi vậy chớ duyên cớ nào kẻ sanh ra vừa khỏi lòng mẹ đã nằm trên đống vàng hay là ngự trên ngai vàng. Còn những kẻ sanh ra đã bị tật nguyền, đui mù, ngu dại, nếu không có định luật thiên nhiên công bình vô đối của Đại Từ Phụ tức nhiên của Đức Chí Tôn thì lẽ bất công ấy chúng ta phải giải nghĩa ra thế nào mà chớ? Cái triết lý bí yếu ấy, Đức Thích Ca đã tìm đặng tức là nhơn quả của ta." Nhơn" nghĩa là ta đã có làm điều chi thì "quả" của nó trả lụng lại.
Cái Luật Nhơn Quả ấy nó là căn kiếp sống của ta. Có nhiều kẻ cả đời làm lụng nhọc nhằn vợ con đông đúc, cả mọi điều gì muốn thi thố ra đều thất bại, mà cái thất bại ấy chẳng phải dỡ, cái miệng thường những kẻ ấy trong cơn đau khổ nói số kiếp của tôi nó thế nào, tội tình gì mà làm cho tôi như thế đó, là kẻ bên Đạo Phật. Các Tôn giáo khác không cần luận, ta thấy họ đã quyết định cái quả kiếp là gì, Phật đã nói: Cái kiếp sống đương nhiên của ta, định số phận của ta đương kiếp sống hiện thời là do căn quả của ta đã tạo kiếp trước, bây giờ cái triết lý ấy biểu ta muốn cho nên kiếp tới kiếp nầy ta chẳng nên gây nhơn quả nhiều hay nặng nề, vì cớ cho nên những bổn Đạo cùng những người tín ngưỡng theo triết lý của nhà Phật, khi họ thấy căn kiếp của họ đã nhiều bằng cớ không may, hoặc về tình ái, hoặc về sanh kế, hoặc về công danh, hoặc về nghèo giàu, bất kỳ quả kiếp của con người ta thường nương lấy đó mà sống, làm cho cái khổ của con người đã sanh ra chịu khổ rồi quả kiếp nặng nề ấy lại tăng thêm khổ nữa.
Bây giờ quá sức chịu của trí não con người phải làm sao hễ khi nào bị khổ não quá chừng thì tìm phương pháp an ủi, bởi cớ cho nên nhà Phật là nhà hay an ủi tâm hồn của những kẻ đau khổ hơn hết đặng tự giác lấy mình, hiểu cái quả kiếp mà mình đã đào tạo, vì tại mình vi chủ tạo thành nó ra, bây giờ tìm phương giải nó đi, tức nhiên tránh kiếp tới, nếu ta đã biết kiếp nầy không may ta để trả nó mà thôi, ta đừng gây thêm quả kiếp nữa.
Bởi cớ cho nên Nam cũng vậy, Nữ cũng vậy, cạo đầu phế cả cái sống của mình gọi là qui y thọ phái vô chùa gởi thân trong cửa Phạm cửa Đức Phật Thích Ca đặng tìm phương an ủi hay là hay hơn nữa đủ trí thức, đủ tự giác để đào tạo cái quả kiếp tương lai của mình, thật ra chơn lý ấy của nhà Phật an ủi một cách mạnh mẽ các tâm hồn bị đau khổ. Chính Phật cũng phải nhờ triết lý ấy mà nhiều phen đã tự an ủi mình làm một Phật vị, bởi chính mình Ngài muốn tạo một lớp Liên Hoa của Ngài, Ngài phải đầu kiếp làm Thảo Mộc lên Thú Cầm tới Nhơn Loại rồi đến Phật vị, thì tức nhiên trọn cái vòng siêu thoát của Ngài, Ngài đã biết nhơn loại biết kiếp sống của con người đau khổ như thế nào, thật có sống với đời mới biết cái khổ của đời, những tay thầy thuốc giỏi hay biết được bịnh con người một cách đúng đắn mực thước thì chính mình ông phải có bịnh đó, ổng tự thí nghiệm bào chữa chứng bịnh của ổng rồi ổng mới đoạt được lịch thi của ổng không thế tưởng tượng.
Đức Phật Thích Ca cũng thế, Ngài cũng sống Ngài đã chịu trong cái Luật quả kiếp ấy luân chuyển từ vật hình dĩ chí cho tới Phật vị, cái quả kiếp của Ngài nó phải chơn thật không thể tưởng tượng được, thể bỏ nó ra không có cái triết lý nào giải nghĩa kiếp sanh con người cho nó mực thước hết.
Bây giờ xin luận về duy vật nó nói loài người là một giống khỉ tiến hóa lên chớ không phải Trời sanh ra, Bần Đạo dòm lụng lại sắc dân của Ấn Độ chính mình Phật Thích Ca là dân của Ấn Độ, dân da đen gọi Hắc Chủng, Ngài sanh ra ở đó, da thay vì đen nó hơi hồng hồng, rồi người Đời tặng Ngài màu hồng, họ gọi Ngài là Kim Thân, vì cớ cho nên các tượng hình của Ngài đều phết vàng, bởi tại hai chữ Kim Thân ấy, chính Ngài là sắc dân da đen mà sắc dân da đen là một Chủng tộc đến mặt địa cầu nầy sớm hơn hết.
Chúng ta thử xét đoán nếu quả nhiên là loài khỉ tấn hóa lên cho tới sắc dân hắc chủng ấy có đâu đầu óc của họ đâu có quá chừng quá đổi, tâm thần quán thế như thế đó, nhứt là đặc biệt hơn hết các triết lý cao siêu về mặt vô hình dân Ấn Độ đứng đầu hơn hết các chủng tộc. Nó trái ngược lụng lại những tộc chủng đã noi theo luật tiến hóa, nhứt là chót hết bây giờ là Bạch chủng tôi thấy họ đã tiến hóa nhiều từ Hắc chủng lên Thanh chủng tới Xích chủng đến Huỳnh chủng rồi tới Bạch chủng đường tiến hóa của nhơn loại nhiều quá, sâu xa lắm, tời chừng dòm lụng lại sắc dân Bạch chủng kia cũng không phải hơn gì sắc dân Hắc chủng, vì Hắc chủng người đã đến mặt địa cầu nầy hồi ban sơ hết, hay nói là Mẹ của các giống người hết thảy nơi thế gian nầy mà người ta cao siêu như thế đó thì chính mình Bần Đạo không tin loài khỉ tiến hóa lên được, cái lý thuyết ấy vô lối, nếu không nói là quái dị, hay đặt cho nó cái tiếng là quái gỡ. Cái triết lý của nhà Phật từ thử tới giờ chưa có một vị Giáo chủ nào đã đọat Pháp mà biết cái bí ẩn Thiêng Liêng của luật Thiên nhiên kia một cách chánh đáng như thế, chơn thật như thế, có một điều chính mình trong sự luân hồi quả kiếp ấy, Đại Từ Phụ đã làm chứng trong Bài Thơ của Ngài:
Đài Vân Quan Võ để Phong Thần,
Còn của Thầy đây để nhắc cân.
Muôn phước ngàn lần không sót một,
Bao nhiêu công quả bấy nhiêu phần.
Nói như thế đó, chính mình Đại Từ Phụ đã nói rằng: Quả kiếp nhơn quả của con người luật ấy hiển nhiên vẫn có thiệt đó vậy.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 08-04-Ất Mùi nhằm ngày (dl. 29-05-1955).
Q.6/3-11: Chữ Hiếu trong Nho Giáo.
LỜI THUYẾT ĐẠO CỦA ĐỨC HỘ PHÁP
Đêm 15-4 Ất Mùi
Đêm nay Bần Đạo giảng cho đám thanh niên Nam Nữ để ý nghe cho lắm. Đêm nay Bần Đạo giảng chữ Hiếu, đương nửa thế kỷ 20 nầy, đạo đức suy vi, nhơn luân điên đảo, phong hóa cổ truyền do nơi tinh thần chơn chất hiền lương của cổ nhân đã để lại bị văn minh khoa học nó làm cho cả tinh thần đạo đức đều mất quyền nghĩ cả khoa học từ thế kỷ 20 nầy, nó đã đem lụng lại cho nhơn loại những gì? Thật ra cái sanh sống của nhơn loại nó có thay đổi, nó có hướng về duy vật nhiều hơn là tinh thần khoa học, nếu để tâm suy gẫm thì ta ngó thấy, nó có thể tạo hạnh phúc cho xác thịt nhơn loại mà nó làm cho tiêu hủy cả tinh thần loài người cũng có.
Những nhà triết học Âu Châu nhứt là Pháp, đã nói một câu rất chánh đáng, chánh đáng mà có khuyết điểm khoa học lắm lắm đó vậy. Họ nói rằng: "La science sans conscience est le plus grave danger de l'existence humaine" khoa học không có thiên lương là một đều nguy hiểm cho sự sanh tồn của nhơn loại, thật quả vậy, nếu như nhơn luân của cả toàn nhơn loại mà không có phương pháp cố thủ nó lụng lại đặng, nó đã điên đảo rồi, cái nhơn luân ấy làm sao nó làm căn bản cho nhơn loại.
Nay vì thiếu nhơn đạo, nhơn loại không biết yêu ái với nhau, chỉ tranh sống, chỉ tranh mạnh, mong làm bá chủ của toàn cầu, gây biết bao chiến tranh khổ não; chẳng phải hao về sanh mạng mà thôi, mà hao cả phú hữu nơi mặt đất nầy mà chớ, biểu làm sao nhơn loại không thống khổ cho đặng. Ai đời họ đã làm một điều trái hẳn luật Thiên nhiên của Tạo Đoan mà chính mình Đức Thánh Nava ở tại Đền Thánh La Mã đã buộc phải lên tiếng, sanh dục không cần nam, nghĩa là người đàn bà không cần có chồng mà muốn có con khoa học có thể cho có con đặng, nếu như cái tình trạng ấy quả nhiên xô đẩy nhơn loại đi tới một cái địa điểm chúng ta sẽ ngó thấy gì? Chúng ta ngó thấy Đạo luân thường của nhơn loại sẽ bị hủy đi mà chớ. Đi tới mục đích đó biểu sao cả tinh thần con người không hướng về vật hình rồi cái Đạo nhơn luân không đếm xỉa đến, thử hỏi nếu một trẻ thơ kia sanh ra không có cha, cha nó là một cái ống bơm kia mà thôi, thử cái Đạo nhơn luân của nhơn loại đã ra sao mà chớ.
Bởi cớ cho nên mới sản xuất ra cái thuyết duy vật của Cộng sản đáng lý lắm vậy. Trót đã xô đẩy tới cảnh tượng đó, không cần biết Tổ phụ Tông đường cha mẹ là chi nữa hết? Ông nội cũng đồng chí, bà nội cũng đồng chí, ông ngoại cũng đồng chí, bà ngoại cũng đồng chí, đồng chí cha, đồng chí mẹ, đồng chí anh, đồng chí em, cả thảy đều là đồng chí. Cái thuyết duy vật ấy do nơi thất Đạo nhơn luân mà sanh ra đó vậy.
Bây giờ nói tiếp qua cái giá trị chữ Hiếu, văn minh Nho Tông của chúng ta là gì? Tưởng cũng không cần gì nói cho mấy người lớn nghe, Bần Đạo chỉ giảng cho đám thanh niên Nam, Nữ mà thôi.
Mấy đứa nhỏ có biết cha mẹ đã sanh ra nuôi nấng được cho nên hình, nên vóc, cái cam khổ của cha mẹ như thế nào mà chớ.
Hễ có rầy la có dạy dỗ, có nhiều đứa cường ngạnh lén lút ra ngoài nói: Ổng vầy, bả khác, gắt gao, ăn hiếp, rủa xả, có nhiều khi ra sau lén lén ngồi rủa đủ thứ. Tới chừng biết khôn ngoan đến tuổi già, cả tâm não và lương tâm của mình sẽ cắn rứt và sẽ hình phạt một cách chừng đó mới khôn ngoan.
Hại thay! Ôm một đứa con đỏ từ vú sữa mớm cơm, nuôi cho nên hình, nên vóc, thật ra không biết bao nhiêu khổ não truân chuyên của cha mẹ, có nhiều khi phải hy sinh cả hạnh phúc của mình, để cả trí não, cả tâm hồn, cả giọt mồ hôi nước mắt để nuôi con, biết bao nhiêu gia đình không phải dở, mà nghèo vì con nên khổ, mấy đứa nhỏ có biết điều đó đâu. À mà có biết chăng là khi nào mấy đứa bây có chồng có vợ, tới chừng bây có con đó mới biết cam khổ nuôi con bây như thế nào, bây mới biết ơn cha mẹ là nặng. Tiên Nho có nói: "Dưỡng tử phương tri phụ mẫu ân" có nuôi con là thế nào mới biết ân trọng của cha mẹ, những nhà Đạo đức xưa kia trong cửa Đạo Nho Tổ Phụ ta hay để lời than, hễ đọc đến làm cho ta khổ não cả tâm hồn: "Ai ai phụ mẫu sanh ngã cù lao, dục báo thâm ân hiệu thiên võng cực", không có thế gì mà tưởng tượng được, tỏa ra cả, tâm hồn chí hiếu gặp một cái nước cũng như nước Việt Nam cả thảy đều có hạnh phúc là ăn no mặc ấm, dầu cho miệng lưỡi đã nói một tiếng khổ chớ một sắc dân hạnh phúc hơn các sắc dân toàn cầu đa số vậy.
Bần Đạo còn nhớ cái năm 9 tuổi, không biết thất mùa ra sao, mà cả thảy thiên hạ đều đói, Bần Đạo nghe được một cái tình trạng rất khổ não lương tâm là có một gia đình con nhiều lắm không đủ nuôi con, bị lúa cao gạo kém, buổi nọ con nó đã nhịn đói đôi ba bữa, mà thứ con nít nhịn đói thử như thế đó không la làng la xóm sao được, la rầy um xùm nên cha mẹ chịu không nỗi, bây giờ kiếm cơm cho con ăn mà không ra, rồi gạt nó cũng chụm lửa lên ở trong bếp lấy trấu bỏ trong nồi cơm vậy, bắt lên rồi mấy đứa nhỏ ngồi xung quanh giữ nồi cơm rồi lén ra sau hè thắt cổ tự vận. Mấy em có biết điều đó đâu, cái hiếu nếu mấy em không trả cả một đời mấy em chưa hề khi nào nên người bao giờ "Nhơn sanh hiếu nghĩa vi tiên" không hiếu nghĩa không làm gì nên người được.
Bần Đạo thuật một cái bài học hồi còn học trong trường Nho, Thầy của Bần Đạo dạy: "Tâm đạo cảm Thiên, Hiếu đạo cảm Thiên", ở trong cổ nhơn vị sư ổng dạy một tích làm từ đó cho tới lớn không buổi nào quên hết.
Nhà Đại Minh Hùng Võ có một người học trò khó mẹ góa con côi học giỏi lắm, duy có nghèo, lớp nào lo học, lớp nào lo làm mướn nuôi mẹ với nuôi thân. Khi nọ người mẹ đau bịnh quá vãng. Cái tục lệ nhà Minh buổi nọ, ở ngoại thành không được phép vô nội thành, chỉ cách có một dãy trường thành mà thôi. Hễ ai vô nội thành mà rách rưới xin ăn đều bị đuổi tống ra, ai mặc đồ tang phục mà vô nội thành cũng bị đuổi ra. Người học trò khó ấy tính vô nội thành đặng hành khất về chôn mẹ, mà hễ bận đồ tang phục vô thì bị đuổi. Bây giờ anh ta mới gọi là "Tâm tang" anh ta xé một miếng khăn tang bằng ngón tay, rồi mới xẻ cái vú ra một đường nhét vô trổng, ngoài mặc áo học trò như thường để vô nội thành, gọi là Tâm tang, đi vô nội thành đặng đi xin về chôn mẹ.
Nhơn khi đó nhóm ngoại ô ngay chỗ đó lửa phát cháy, cháy một cách dữ dội lắm, làm cho ông Đại Minh Hùng Võ lên Hoàng cung hoảng hốt. Thấy dân chúng khổ não ổng cầu nguyện với Trời đặng cho ngọn lửa tiêu xuống đi, ổng vừa ngó trên ngọn lửa ổng thấy Quan Thánh Đế Quân, Quan Bình và Châu Xương hiện hình đứng trên ngọn lửa đặng làm cho ngọn lửa ấy tắt, thì khi đó đã cháy hết xung quanh rồi, chỉ còn có một nhà mà thôi, cái nhà ông học trò khó có thây chết của mẹ. Ông Đại Minh Hùng Võ đứng trên cái Dịch đài Hoàng cung dòm thấy Quan Thánh, Quan Bình và Châu Xương đứng trên ngọn lửa, ổng bái, ổng lạy đặng cám ơn, nhưng mà ổng vừa lạy ổng vừa ngoắc thì Đấng ấy đến ngay trước mặt của ông Hùng Võ, rồi Quan Thánh bái ông Hùng Võ nói: Em chào Đại Ca, rồi ông Đại Minh Hùng Võ liền biết mình là Lưu Bị tái kiếp, mới hỏi lụng lại Quan Thánh: Tam Đệ hà tại? Hỏi vậy Tam Đệ là Trương Phi bây giờ ở đâu? Trấn Bắc Tướng Quân tên ... gì đó (lâu quá Bần Đạo quên) nói rồi ba hình liền biến mất. Ông Đại Minh Hùng Võ nghe tin đó cấp thời gởi ra ngoài biên thùy đòi Trấn Bắc Tướng Quân về, rồi bị tụi nó xàm tấu không biết chừng đòi cấp thời đây, đòi về đêm ngày sợ gian thần sủng nịnh nó tâu vô tâu ra sợ về mang hại nó mới đồ mưu làm để ổng nằm trong cái hòm rồi đệ tờ sớ nói ổng chết, nó dặn ổng nếu nhược bằng như yên thì Ngài sống lại, không yên chúng tôi chở Ngài về biên thùy.
Vì cớ cho nên hòm hồi xưa họ có soi lỗ dưới đáy đặng cho có lỗ hơi, cái tục lệ đó như vậy? Khi ông nọ về triều đình ông Đại Minh Hùng Võ mừng rồi ổng khóc lóc là nghe tin bạn chết, mừng là thấy Trấn Bắc Tướng Quân đã về tới, dầu chết đi nữa còn thấy thi hài của em, tưởng đâu là mưu như vậy ai ngờ khi vở nấp hòm thì đi dọc đường để lên để xuống bị nghẹt hồi nào ông kia chết thiệt. Một mặt ổng đòi ông nọ, một mặt ổng sai đi ra đặng tra gạn coi tại sao hết thảy nhà cháy mà nhà đó còn. Tới chừng tra ra thì lòi ra người học trò khó vì hiếu. Ông vội đòi rồi tức thì phong quan hàng Văn Minh Điện Đại Học Sĩ, sau lên tới Giáng Nghị Đại Phu, vậy thấy cái hiếu, cái hiếu động Trời, động đất như thế đó mấy em bất hiếu, cả thảy bất hiếu Trời đất xử định mấy em ra sao?
Từ đây tới sau dặn đừng có kỳ kèo đối với cha mẹ. Hễ còn thanh xuân chưa lịch lãm thế tình, hãy nương nơi cái hay cái biết của cha mẹ. Cường ngạnh tới chừng sau rồi có một trăm tuổi già ngồi khóc lên khóc xuống cũng không ích, ăn năn tự hối như Bần Đạo đây có nhiều khi ngồi nơi nào nhớ, moi óc nhớ coi cha nói gì, mẹ nói gì, tìm gần trối chết, tìm đặng nhớ.
Còn bây giờ đã có dạy dỗ khuyên lơn, rầy la thì kỳ cào, quạo quọ, ở trong cửa Đạo nầy Bần Đạo xin đứt cả thảy mấy em thanh niên rán giữ chữ Hiếu làm gương mẫu.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 15-04-Ất Mùi nhằm ngày (dl. 05-06-1955).
Q.6/3-12: Thập Nhị Đẳng Cấp Thiêng Liêng - Trách nhiệm của Hành Thiện.
LỜI PHỦ GIÁO CỦA ĐỨC SƯ PHỤ TẠI BÁO ÂN TỪ
Lúc 4 giờ chiều ngày 17-4 Ất Mùi (1955)
Sau khi kiểm soát phận sự của Hành Thiện lãnh ủng hộ đồng bào Bắc Việt và Hành Thiện lãnh Thập Nhị Gia Liên Bảo.
Mấy em ngồi im lặng để Qua nhắc thêm trách nhậm của mấy em, mấy em đã biết rằng, Hội Thánh Phước Thiện tức nhiên là Hội Thánh của Hiệp Thiên Đài. Trước chưa xuất hiện Hội Thánh Phước Thiện mà Hiệp Thiên Đài vẫn có ít người làm, sau lập thành Hội Thánh được Chí Tôn định đâu sẵn rồi nên giao phó trách nhậm ấy cho Qua, tức là chính mình Hộ Pháp là người làm đầu trong Hiệp Thiên Đài, trách nhậm đó nặng nề làm sao đâu. Khi ấy chỉ có ba người Hiệp Thiên Đài lãnh phận sự, Thầy, Chí Tôn nói : "Thầy muốn nơi nào có dấu chơn của ba con đến thì nơi đó hết khổ" và Chí Tôn cho biết rằng: "Cái khổ ách của nhơn loại là cùng khắp thế gian, nên Thánh ý Thầy muốn giao cơ cứu khổ cho con phải làm thế nào nêu ngọn cờ cứu khổ để giải khổ cho nhơn sanh cùng khắp mặt địa cầu nầy".
Qua không hiểu Qua là thế nào mà khi Thầy biểu Qua phải lãnh làm rồi Thầy sẽ dạy Pháp biến thân con ra vạn ức ... Buổi nọ Chí Tôn dạy phải vưng, chớ chưa hiểu Pháp biến thân của Chí Tôn đã ban cho ra thể nào. Khi chưa có Hội Thánh Phước Thiện Qua rất ngại, đến chừng Chí Tôn dạy muốn lập Hội Thánh phải lập Thập Nhị Đẳng Cấp Thiêng Liêng trước, thật là quyền năng Chí Tôn vô đối, khi ban cho Qua không bao lâu mà lập thành được Hội Thánh Phước Thiện, tức nhiên là Hội Thánh Hiệp Thiên Đài, thì bây giờ đây đã có mấy em sẽ nối gót phụng sự Hội Thánh Phước Thiện chung lo gánh vác cơ cứu khổ để thay thế cho Qua gần gủi chúng sanh để phụng sự, gánh sự khổ não của con người thì thấy rằng: Chí Tôn đã giúp cho Qua thêm được nhiều tay chơn để lo cứu khổ cho mau ra chơn tướng.
Ở bên kia Hội Thánh Cửu Trùng Đài đi từ phẩm Lễ Sanh đến Giáo Tông, bên nây Hội Thánh Phước Thiện đi từ Minh Đức đến Phật Tử mà mấy em cố gắng với trách nhậm của Qua đã định cho mấy em, mấy em rán làm xong thì là ông Tiên tại thế, không riêng cho mấy em, dầu cho các sắc dân trên địa cầu nầy mà biết chen vai gánh vác sự khổ của đời thì họ cũng đọat Tiên Tử được. Vậy mấy em thật hành được thì cơ quan cứu khổ sẽ thành lập đó vậy. Cái trách nhậm rất nặng nề mà mấy em rất hữu phước nên Chí Tôn ban cho mấy em được đứng vào trong Thập Nhị Đẳng Cấp Thiêng Liêng. Qua muốn sau khi Qua về Thiêng Liêng mà được thấy mấy em nối nghiệp cho Qua thì Qua rất vui mừng lắm vậy, huyền bí Thiêng Liêng đã định, chỉ có một mình vị Phật Tử, nên sự vui hứng của Qua là muốn thấy có một đứa em làm xong phận sự đoạt vị Tiên Tử sống tại thế gian nầy.
Mấy em rán nhớ đừng bắt chước làm quyền theo quan lại, mấy em phải yểm tình dục quyền tước lại, cũng như Qua yểm trên Thất Đầu Xà, chỉ mình tập tánh thương yêu mà thôi, đừng hờn giận ai, cứ bình tĩnh chịu những sự khó của ai đã làm mà mấy em phải gánh.
Trước kia Qua ôm lấy trách vụ Đức Lý Giáo Tông cho Qua phải làm mà Qua chưa hề đem ra thi hành, Qua muốn mỗi việc khó của mấy em đều có Qua ngồi chung với mấy em, nếu có thể ngồi dưới đất cùng mấy em, ăn muối cũng vui với mấy em được vậy, ngày nay mấy em đã đem trọn thân thay thế cho Qua lo cơ cứu khổ, đã hạ mình nơi chỗ thấp mà mấy em chung lại ngồi bốc cơm nguội ăn cũng cứ vui, nên nhớ đã nghe những cái cực khổ gánh vác nặng nề nầy là chúng tôi chung sức gánh cho Thầy tôi, dầu cảnh khổ nào mấy em cứ đổ trút cho Qua đi cho nhẹ bớt, ấy là quyền Thiêng Liêng định vậy, hiểu chưa? Nếu mấy em tính có các Đấng Vô Hình ám trợ dầu gặp việc khổ cũng bớt khổ.
Mấy em hỏi lại mấy anh của mấy em coi sự khổ của mấy anh rất đáo để từ hồi tạo Đạo đến giờ, hỏi Hiền Nhơn Cương coi tụi nó chỉ bắt gió nắn nên hình, nhớ chưa? Phận sự của mấy em đang lo cơ cứu khổ cho Hội Thánh Phước Thiện thì mấy em phải làm, Hội Thánh Phước Thiện cũng nên giúp đỡ, mấy em nghĩ coi, từ thử đến giờ mấy em có vợ chồng lo cặm cụi sự làm lụng, cực nhọc lo một gia đình mà không rồi, nay lãnh thêm 12 gia đình nầy sao đặng.
Qua thấy mấy em vượt qua Giáo Thiện không nổi thì Qua tạo 12 gia nghiệp cho mấy em, tức là tạo thuyền từ cho mấy em nương qua, bên nây bực Hành Thiện muốn thăng Giáo Thiện cũng như bên Cửu Trùng Đài phẩm Lễ Sanh lên Giáo Hữu rất khó. Vậy nên Qua không tạo thuyền từ cho mấy em làm sao qua ải được.
Hội Thánh Phước Thiện không có định số, hễ phẩm Giáo Thiện, thì cứ đi mãi cho đến Phật Tử, bên Hội Thánh Cửu Trùng Đài đã có số định, hễ nhập môn rồi đoạt đến Lễ Sanh thì ở đó cứ ngồi đó mãi, vì đã đủ 3.000 Giáo Hữu chờ có khuyết mới qua được, Giáo Sư 72 vị, Phối Sư 36 vị, Đầu Sư 3 vị, Chưởng Pháp 3 vị mà ngôi Giáo Tông chỉ có một vị mà thôi.
Phận sự mấy em không lạ, mấy em chỉ có bổn phận làm cha tạo nghiệp cho 12 gia đình, bảo thủ tài sản, chỉ dẫn công ăn việc làm cũng như lo cho gia đình mình đó vậy, dầu việc chưa từng làm rán cố gắng thì nên việc. Qua căn dặn một điều nên nhớ, thoản như có một trong 12 gia đình mà thưa gởi mấy em là thiếu phận, thiếu tình thương đạo đức, thì mấy em phải lỗi ước với Qua. Trong gia đình gặp cơn hoạn nạn, đau khổ, mấy em không ngó đến, rồi đây họ kiện mấy em đến Pháp Chánh thì mấy em thất phận, mấy em nhớ bổn phận làm cha, nên vẹn giữ cho trọn phận, chớ đừng biếng nhác thì phải mang tiếng "Tử bất giáo, Phụ chi quá" cứ biết với bổn phận mình là người lớn, phải lo cũng như lo nuôi dưỡng con cháu của nhà mình, đã chịu cực khổ đủ điều với gia đình mình rồi.
Thôi mấy em nên thành tâm cầu nguyện rồi bãi Hội.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 17-04-Ất Mùi nhằm ngày (dl. 07-06-1955).
Q.6/3-13: Huấn dụ Ban Giáo Chức Đạo Đức Học Đường.
ĐỨC HỘ PHÁP ĐỂ LỜI HUẤN DỤ BAN GIÁO CHỨC ĐẠO ĐỨC HỌC ĐƯỜNG, ngày 3-5 Ất Mùi
Thưa cùng Viên Quan Chức Sắc quyền Đời, nhứt là Bần Đạo để lời cám ơn Tỉnh Trưởng đã đến dự cuộc Lễ Phát Phần Thưởng các học sinh.
Thưa cùng Hội Thánh Nam Nữ Lưỡng Phái, Hiệp Thiên và Cửu Trùng, Bần Đạo xin kiếu lỗi cùng các Ngài, Bần Đạo để lời cùng Ty Giáo Huấn và học sinh Nam Nữ.
Hôm nay các em, các con trong Ty Giáo Huấn hơn ai hết, Thầy đã biết rõ cái chí hy sinh của mấy con Nam, Nữ, các giáo viên, Thầy hiểu rõ hơn ai hết, các con đã t thiếu thốn mọi điều đối cùng sự cực nhọc của các con thì không giá nào mà so sánh đặng. Trọng yếu của tương lai Đạo là tức nhiên tạo tâm hồn của sắp nhỏ mà chính mình các con là tay thợ đào tạo tương lai của chúng đó vậy.
Các con học sinh Nam Nữ, các con sẽ lớn, đời tương lai nòi giống và vận mạng Tổ Quốc của mấy con hàng niên kỷ như Thầy, như Hội Thánh đều để cả sở vọng của mình trong trí não tâm hồn các con đó vậy. Lẽ dĩ nhiên bất kỳ một xã hội nhơn quần chủng tộc nào cũng thế, mỗi sắc dân đều có văn hóa phong tục khác nhau cả thảy. Ta có thể so sánh một phong hóa của một nước nào nó có thể cao thượng hơn của ta mà ta không có thể gì nhìn nó rằng giống hệt của ta. Bởi mỗi tinh thần của một chủng tộc nào, sắc dân nào, nó cũng có cái đặc điểm của nó hết, nhứt là chủng tộc Việt Nam đã thọ ảnh hưởng tối cổ của Nho Tông chúng ta, cả thuần phong mỹ tục làm cái ảnh tượng tâm hồn nòi giống Việt Nam, đều là khuôn khổ của nền văn minh tối cổ Nho Tông của ta đó vậy.
Lẽ dĩ nhiên là mỗi Tôn giáo đều đào tạo một nền văn minh khác nhau, ta có thể so sánh cả phong hóa văn hiến của mỗi chủng tộc, hay mỗi nền văn minh ta có thể chia ra hai đặc điểm, có nền văn minh xuất hiện ra một Tôn giáo, có nền văn minh xu hướng theo xã hội, hơn là xu hướng theo đạo đức tinh thần. Nòi giống và xã hội của cả mấy con có phải lạc hậu chăng? Chưa chắc, nếu quan sát cho tận tường thì ta ngó thấy cái khuôn khổ xã hội của Nho Tông chúng ta, nó có thể nó làm một nền tảng cho tương lai cả xã hội nhơn quần kia nữa mà chớ. Chỉ ta có chịu thiệt thòi một điều là nền văn minh cao thượng ấy, ta chưa biết đem nó ra đặng cho cả thiên hạ điều biết cái giá trị của nó, chỗ khuyết điểm là do nơi đó mà thôi? Đương nhiên hôm nay ở trước mắt các con đã ngó thấy trong nước các con. Nếu Thầy nói nó ở trong tâm hồn các con giờ nầy có hai cái ảnh hưởng Thiêng Liêng về hai nền văn minh Âu Á, Âu là nền văn minh của Công giáo. Á là nền văn minh sở hữu của mấy con là Nho.
Buổi giao thời cả phương pháp giáo huấn nó chưa thiệt hiện tướng diện nó ra cho thiệt chắc đặng làm con đường, con đường tinh thần thiên nhiên phù hạp với cả trí não tâm hồn của nòi giống chủng tộc các con, Bần Đạo ngó thấy rằng, cái pha lộn của phương pháp giáo huấn, Pháp còn tồn tại, Bần Đạo cũng nhìn nó đã ăn sâu vào tâm hồn của nòi giống ta. Sau 80 năm đã chung sống cùng Pháp, nhưng nó chưa hề chắc rằng, nó làm cho tâm hồn của ta phải xu hướng trọn vẹn theo nó, bởi vì cả phong hóa văn hiến đều khác hẳn với ngôn ngữ với trí thức của chúng ta.
Ấy vậy phương pháp hay ho hơn hết, là nơi các con làm thế nào dung hòa hai nền văn minh ấy tức nhiên hai cái phương học thức ấy.
Bần Đạo đã quan sát ở Đài Loan, ở Nhựt, ở Triều Tiên rồi mới cân coi phương pháp họ đã cải tổ cả nền văn minh của họ thế nào, và họ đã dìu đường cho hạng thanh niên của họ về phương học thức thế nào. Bần Đạo ngó thấy một cái hay của họ hơn hết là những điều chi ngoài họ chỉ để ngoài, lại với cái hàng rào kín đáo, cái chi ở trong họ giữ một cách đáo để kỷ lưỡng ở trong.
Cả cái duy tân của họ bề ngoài nếu bất kỳ nước nào, để bước chân tới xứ sở của họ, thì ngó thấy hoàn toàn là duy tân, từ cách ăn mặc, tánh tình cho tới cử chỉ đều là duy tân hết. Duy có một điều quí hóa hơn hết thảy mà Bần Đạo lấy làm sung sướng thấy đặng là cả phong hóa văn hiến cổ truyền của họ, họ vẫn giữ, họ bảo thủ nó còn tồn tại hiển nhiên, không cho cái ngoài kia xâm phạm.
Ấy vậy cái học thức của nòi giống các con đã 2.500 năm văn hiến, phong tục cổ truyền Nho Tông, cái đẹp đẽ của nó, nếu các con khéo giữ cũng như các nước đã chịu ảnh hưởng của văn minh Nho Tông của chúng ta, cái chi mà nó ngoài kia thì để nó ngoài, cái chi mà của ở trong của mình mà nó quí hóa đó của sỡ hữu mấy con thì mấy con giữ.
Cái học thức của Tổ Phụ các con để lại, nhứt là do nới Tiên Nho, họ chỉ mong có một điều, các con học đặng hành, chớ không phải học rồi làm ông Thầy Nho đó vậy, hay học đặng làm các nhà triết học vậy thôi. Tổ Phụ các con buộc các con học đặng phải hành, học lấy cái thuyết ấy, đặng cho các con thực hiện.
Bởi cớ cho nên, những phương pháp giáo huấn của Tổ Phụ các con để lại, họ chỉ mơ ước có một điều là các con học đặng hành, mà các con thiệt hiện được cái hành đó, hay, hay dở là do sự phục vụ Tổ quốc nòi giống các con đó. Nếu nói rằng: Phục vụ cả thiên hạ là quá đáng, phục vụ nội gia đình và chủng tộc của mấy con là khuôn khổ học thức cổ truyền Tổ Phụ của các con để lại đó vậy.
Thầy rút ra trong Tam Tự Kinh, Thầy chỉ rõ rằng: Không phải học thức để đặng làm nhà triết học, mà cốt yếu học thức đặng phục vụ cho Tổ quốc và giống nòi "Khuyển thủ dạ, kê tư thần, tầm thổ tư, phong nhưỡng mật, nhơn bất học bất như vật".
Lấy theo một khuôn khổ mà nói, con chó giữ nhà, con gà nó canh giờ, con tằm nó kéo tơ, con ong nó mửa mật, rồi còn kết luận, nhơn bất học bất như vật, nghĩa là người không học không bằng vật, nếu đem ra 4 cái thí dụ ấy, là chỉ nghĩa 4 thí dụ là phục vụ mà thôi, dĩ cái sở hành di thượng, lấy cái sở hành ấy làm đầu hết, các con đã hấp thụ được cái sự giáo hóa của các Thầy, Cô các con về đạo đức tinh thần, Bần Đạo chỉ mong các con học, học đặng lấy cái thuyết, rồi cố gắng thật hành cái lý thuyết ấy ra mới đáng cái học của mình.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 03-05-Ất Mùi nhằm ngày (dl. 22-06-1955).
Q.6/3-14: Đáp từ của Đức Hộ Pháp trong dịp Lễ Sinh Nhựt năm Ất Mùi.
ĐÁP TỪ CỦA ĐỨC HỘ PHÁP VỚI CÁC CƠ QUAN CHÁNH TRỊ ĐẠO TRONG DỊP LỄ SANH NHỰT tại HỘ PHÁP ĐƯỜNG (5-5 Ất Mùi)
Có lẽ Bần Đạo hôm nay nói nhiều một chút, nhưng cũng nhờ Trời không có nắng. Nếu Trời không có nắng có lẽ cả toàn con cái Đức Chí Tôn và Thánh Thể của Ngài có thể cố tâm nghe đặng.
Bần Đạo xin không trả lời cho các cơ quan khác nhau như ngày Tết Nguyên Đán, những lời của Bần Đạo sẽ nói ra đây xin cả toàn con cái Đức Chí Tôn và Thánh Thể của Ngài để ý hiểu cho sâu xa một chút. Bần đạo có dành để riêng biệt một chỗ tư tưởng của mỗi người đặng suy gẫm. Xin cả thảy đều nhớ mỗi phen tới ngày sanh nhựt của Bần Đạo con cái Đức Chí Tôn đến chúc thọ, nhứt là Bần Đạo biết mình năm nay đã 66 tuổi, hiểu cả thâm tâm của toàn con cái Đức Chí Tôn đã e ngại điều gì? Biết lắm, Bần Đạo niên cao, kỷ trưởng bao nhiêu, tình ái của cả toàn con cái Đức Chí Tôn đã để trong thân hình nầy trọn 30 năm, lẽ dĩ nhiên họ sợ khối tình ái đó phải tiêu hủy, lẽ dĩ nhiên vẫn vậy.
Cả thanh niên con cái của Đạo dòm đó mà coi, hỏi thử ở nơi một thế gian nầy, trong một kiếp sanh của mình có phần thưởng nào mà có hưởng đặng xứng đáng như thế chăng? Các cơ quan khi nãy kể lể công nghiệp của Bần Đạo mà các Ngài có biết thiệt tướng nó là gì chăng. Cả cơ nghiệp hữu hình ngày hôm nay tượng hình của khối thương yêu vô đối đó, chớ Bần Đạo không có chi trong đó hết, cái thiệt tướng nó là vậy.
Thưa cùng Chư Chức Sắc Thiên Phong Lưỡng Đài và Phước Thiện, các con Chiến Binh, Phục Quốc Hội, Hội Đồng Thánh Địa và Đại Diện Bắc Tông Đạo, Bần Đạo xin kiếu lỗi.
Nhơn dịp hôm nay Bần Đạo có nhiều điều tỏ cùng Chư Thánh tức nhiên là Hội Thánh Cửu Trùng Đài, Hiệp Thiên Đài và Phước Thiện là bạn đồng khổ của Bần Đạo, từ 30 năm chúng ta đã chung khổ, cùng nhau dựng nghiệp Đạo bảo vệ hạnh phúc tương lai cho toàn con cái Đức Chí Tôn, và hiện tại ta nên để tâm quan sát coi hành vi của ta có xứng đáng làm Thánh Thể của Đức Chí Tôn hay chăng cái đã. Cả hành vi 30 năm coi ta có xứng đáng phận sự Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn giao phó cho ta hay chăng?
Bên Quân Đội các con và bên Phục Quốc Hội nên để ý khoảng nầy cho lắm, đã mang danh rằng Hội Thánh tức nhiên mạo hiểm mạng danh Thánh Thể Đức Chí Tôn, thử hỏi cử chỉ hành tàng của chúng ta phải làm gì cho nên danh Hội Thánh ấy, và xứng đáng Thánh Thể Đức Chí Tôn ấy. Cả thảy đều biết Đức Chí Tôn là khác mà đời là khác, hai tinh thần hai hình chất nó không tương hiệp lại với nhau, dầu rằng lẽ dĩ nhiên luật Thiên nhiên kia buộc phải tiêu diệt, nhưng mà cả thảy đều biết thế tình với Thiên ý làm thế nào cho phù hạp đặng.
Cả thảy đều ngó thấy từ 30 năm, Hội Thánh đã đối cùng đời thế nào, họ còn nghi hoặc chăng? Họ còn nghi hoặc phi thường cho Thánh Thể Đức Chí Tôn hay chăng?
Thì đây Bần Đạo nói ở mặt thế gian nầy, chưa có một nhân cách nào đã thiệt hiện đặng "Dĩ ân báo oán" mà Hội Thánh đã làm đặng, dầu rằng Thánh Thể Đức Chí Tôn không có quyền khen ai, không có quyền chỉ trích ai, hay bày tội của ai, nếu như thế chúng ta có đặng phép phẩm cách phê bình bài trích ta, thì ta nên bày trích ta mà thôi, quyền năng ấy có thể dạy cho cơ đời bớt khổ não và giúp ích cho Thánh Thể Đức Chí Tôn lắm đó vậy, nhưng mà chính mình ta buộc phải cấm ta không đặng làm như vậy thiên hạ có nhiều điều khen mà chê cũng ngậm miệng, vẫn có nhiều điều chê chỉ có nuốt buồn ngồi mà chịu.
Cả trường hợp đương nhiên Bần Đạo để dấu hỏi, có ai biết chỗ khen chỗ chê của Hội Thánh thế nào chăng? Chưa ai biết hết đừng ngó thấy sự lãnh đạm hay sự dè dặt của Hội Thánh mà tự định mình, vì việc khen của Hội Thánh có thể là một điều lầm lỗi quá đáng.
Dĩ ân báo oán, có một người nào ở thế gian nầy mà dám dang tay đưa bàn tay mình, đưa bàn tay nhân từ vô đối đó, tha thứ cả tội tình của kẻ nghịch, rồi còn có thể hiệp tác với họ đặng, có ai làm được chưa? Mà trong cửa Đạo Thiêng Liêng của Đạo con cái của Đạo sẽ làm đặng, có ai biết kẻ nghịch phá Đạo, giết Đạo và hại Đạo vì cái tôn chỉ bất công của họ, họ đồ mưu hàng ngày tận diệt cho được Đạo Cao Đài mà Hội Thánh dám cho con cái của Đạo Cao Đài hiệp tác cùng họ, không nói rằng cứu vãn cả lập trường nguy hiểm của họ, chưa có ai làm đặng những điều làm đó, chẳng hề bao giờ Thánh Thể Đức Chí Tôn nói trong miệng mà cũng không bao giờ từ của Thánh Thể Đức Chí Tôn thốt ra, chỉ để ngầm cho toàn cả thiên hạ hiểu lấy mà thôi.
À bây giờ hỏi ra cái hành tàng của Đạo đương nhiên bây giờ, đối phó cùng tình trạng của đời thế nào, dám chắc Thánh Thể Đức Chí Tôn định cho một đường lối nào khác thử coi, trong khi mình không khen đặng mà cũng không chê đặng, chỉ để mình đứng trong cái lập trường dung hòa mà thôi, lập trường dung hòa ấy sẽ bị bao biếm nhẻ, sẽ bị trích điểm, bởi vì cái sống của Thánh Thể Đức Chí Tôn hành vi của Đức Chí Tôn nó ở trong thời gian và không gian, nó ở trong lịch sử nhơn loại, chớ không phải ở ngoài cá nhân hay là cá quốc, chỉ để trong không gian và thời gian sẽ giải nghĩa cho họ biết rõ ràng hơn mà thôi.
Ta nói cả đồng bào Miền Bắc hơn ai hết ở mặt thế gian nầy, cái đau khổ của Hội Thánh, nhứt là Hội Thánh đương giờ phút nầy, là máu mủ, là cốt nhục của các người, các người đau đớn lắm, chớ tình thế của đời biến thiên nó đưa đẩy cái mạng số của nòi giống Việt, Tổ quốc Việt Nam đến nơi nguy hiểm, như thể giờ phút nầy vậy. Mỗi đêm Bần Đạo chỉ cầu nguyện, cầu nguyện một điều mà thôi, cái tấn tuồng nguy kịch nầy, khổ não cả toàn dân nước Việt đây, Bần Đạo cầu xin cả cái tai nạn tương lai kia nó sẽ làm cho cả nòi giống Tổ quốc Việt Nam khỏi bị lệ thuộc một cách đau đớn, Đức Chí Tôn có thể cho Bần Đạo được 6 tháng mà thôi, trước cùng chẳng đã 6 tháng cho Bần Đạo được có 3 tháng trước để cứu vãn tình thế, thế nào, nếu chẳng may mà cái tình trạng đương nhiên bây giờ, Bần Đạo e cho cái ách lệ thuộc sẽ trồng trở lại trên cổ cả dòng giống Việt Nam hết, không phương giải thoát.
Cả Thánh Thể Đức Chí Tôn và con cái của Ngài đã cầu chúc cho Bần Đạo sống, sống nhiều chăng là do cả toàn thể con cái của Ngài muốn, còn giờ phút nầy cái sống chết của Bần Đạo không có nghĩa lý gì hết, giấc chết của Bần Đạo thật ra là một giấc an ổn, an nhàn của Bần Đạo đó vậy.
Bần Đạo xin để lời cám ơn toàn cả con cái Đức Chí Tôn từ dưới lên trên, nhứt là trong Thánh Thể của Ngài.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 05-05-Ất Mùi nhằm ngày (dl. 24-06-1955).
Q.6/3-15: Hồng oai và Hồng từ.
LỜI GIẢNG ĐẠO của ĐỨC HỘ PHÁP tại Đền Thánh đêm 15-5 Ất Mùi
Đêm nay Bần Đạo giảng đặc biệt cho Hội Thánh Nam Nữ Lưỡng Phái và Hiệp Thiên Đài. Đêm nay Bần Đạo giảng về Hồng Oai và Hồng Từ, hai tiếng Hồng Oai, Hồng Từ ấy là đặc quyền của Đại Từ Phụ đã Tạo đoan Càn Khôn Vũ Trụ mà lại vì hai tánh đức ấy. Ngài trị cả Vạn Linh. Nếu ta luận Hồng Oai và Hồng Từ, thì ta có thể nói luận ác và thiện, rồi ta có thể đem ra hai kiểu mẫu, xã hội tức nhiên đời, cũng như Đức Khổng Phu Tử và Đạo Chích, nói về Đạo chẳng khác nào ta luận Đức Chúa Jésus Christ, Juda đã nói tới Đạo Phật, ta thử luận Đức Thích Ca Mâu Ni và Dévadata, cái luận thuyết về nghĩa lý ấy vẫn không cùng, ta chỉ nương nơi nghĩa lý và quyền hành ấy, đặng để cho Thánh Thể Đức Chí Tôn đi cho trúng đường lối.
Hại thay! Chớ phải chi, hai lẽ thiện và ác ấy cả Thánh Thể của Ngài đi một lối mà thôi, nói đơn giản, thà là làm Thầy Chùa thì Thầy Chùa, Thầy Pháp là Thầy Pháp, Đạo thời Đạo đi cho triệt để hay Đời cho triệt để đi. Khổ não thay Thánh Thể Đức Chí Tôn vì lãnh nơi mạng lịnh của Ngài, đến làm tôi con của Ngài cho toàn vẹn, thế gian của Ngài hỏi vậy chớ Đại Từ Phụ đã giao cho ta có phải giao Thánh hay là giao Phàm, nếu ta lấy theo sự suy gẫm của ta, ta phải nhìn rằng Đại Từ Phụ đã giao cho ta Phàm nhiều hơn Thánh, lẽ dĩ nhiên trước mắt ta đã ngó thấy.
Tự thuở nay, con người dầu sức lực mạnh mẽ thế nào gánh một vai mà thôi. Đại Từ Phụ lại buộc cả Thánh Thể của Ngài phải gánh hai vai Đời và Đạo. Cái kiểu vở hai Tôn Giáo trước mắt ta, ta ngó thấy Phật Giáo thì nghiêng cái gánh bên Đạo, Công Giáo lại nghiêng cái gánh bên Đời, Đời Đạo Phàm Thánh. Đức Chí Tôn đến lập Thánh Thể của Ngài, Ngài biểu phải đứng ngay chính giữa của nó. Luận ra cho cùng lý, thì Hội Thánh của Ngài, buộc không Đời mà cũng không Đạo ở giữa cái mức trung tim của Đời và Đạo.
Cái khó khăn cho phận sự Thiêng Liêng ấy là vì lẽ đó Hồng Từ ta thử kiếm hiểu, phải có cái tinh thần, Đại Từ Bi, Đại Bác Ái, nghĩa là mọi điều, nó phải do nơi luật tương đối hiện tượng bây giờ, là cái tình đời, thì ta phải khoan hồng dung thứ. Muốn làm cho không lầm phải có tinh thần lịch lãm và khoan dung. Nắm được tính Đức Hồng Từ của Đức Chí Tôn. Lịch lãm ta phải biết mình, biết người một cái gương lịch lãm từ cổ tới kim chưa hề có một lần thứ nhì nữa. Là Vua Nghiêu có 9 người con 7 trai, 2 gái mà đi tìm ông Thuấn, đặng truyền ngôi vua lại, còn 7 người con trai kia, ta thử nghĩ thế nào đã. Khi tìm đặng ông Thuấn đem 2 người con gái gã hết, Nga Hoàng, Nữ Anh, mà ta thử nghĩ ông Thuấn ổng là gì, tên ít học, cày ruộng, cha là Cổ Tẩu, em là Tượng ghét đáo để, nhứt là Bà Kế Mẫu của Ngài. Bị hiếp bức, ít học bất quá là một người cày ruộng vậy thôi. Ta thử nghĩ vì lẽ gì Vua Nghiêu chọn ông Thuấn làm Vua kế nghiệp cho Ngài, chỉ vì ông Thuấn là hiếu mà thôi, với cái lịch lãm Vua Nghiêu Ngài cho tính đức hiếu nghĩa đó là đủ hết rồi. Hễ hiếu cùng Cha, Mẹ nghĩa cùng anh em, hai đức tính đó đủ cả tinh thần đặng trị thiên hạ, Ngài đoán rồi chọn ông Thuấn, Ngài không lầm, quả nhiên ông Thuấn đã thành một vị Hoàng Đế, từ cổ tới kim chưa hề có một người thứ nhì nữa.
Ấy là lịch lãm, nhờ cái tâm thần lịch lãm của Vua Nghiêu mà cả cái sự hèn hạ của ông Thuấn kia nó mất hết. Ông chỉ lấy có Hiếu với Nghĩa mà thôi. Ấy là cái gương lịch lãm khoan dung mà cái cử chỉ của ông Nghiêu đã truyền ngôi cho ông Thuấn, là một cái Hồng Từ mà từ thử tới giờ chưa có ai làm một lần thứ nhì nữa.
Bây giờ luận về Hồng Oai, Hồng Oai nhiều cái khúc chiết, phải có tâm thần suy đoán và tha thứ cả tội tình thiên hạ. Ta chỉ chọn một cái Hồng Oai của ta, khi ta trị ta, ta phải làm sự trị ấy của ta lại vì cho kẻ bị trị, cái trị đó, ta toan tính liệu lượng thế nào, cái Hồng Oai của ta đây nó là một món thuốc trị bịnh cho kẻ đã bị bịnh.
Cái tính đức suy đoán có nhiều khi nó không cùng luận, một điều nên nói, Bần Đạo đem ra hai cái thí dụ mới đây có hai vợ chồng ông đó (người Pháp), bà vợ đau bịnh lao không thể trị được, thấy chết trước mắt đó vậy. Bà vợ biết mình không thể sống, chỉ có sống đi thì chỉ làm khổ não chồng và con mà thôi. Cái tình thương vợ chồng nồng nàn mà thân hình của bà hôm nay như thế đó, chỉ có trong cái chết mà không chết đặng bà mới cậy ông chồng giết mình dùm, tội nghiệp bà đã khóc cầu khẩn không biết bao lần, ông chồng chỉ có khóc mà chịu thôi, chừng đáo để ông chồng ngó thấy sự đau đớn của bà vợ không thể gì mà hết được, không thế gì mà thoát khỏi bịnh ngặt đó được, nghe lời yêu cầu của bà vợ, bắn vợ. Tòa đem ra Đại hình và buộc án sát nhơn, nhưng may thay cả thảy thiên hạ đều biết tính đức hiền của ông, nên họ làm chứng và quả quyết rằng: Bà kia cầu xin ông nọ giết mình dùm, nên được tha, là một gương thứ nhì.
Bần Đạo đã đọc sự tích đó hồi còn đi học, có hai anh em học ở chung một trường với nhau, tới kỳ thi Tú Tài, thi Bachot kêu Bachelier của Pháp, thì người bạn thi rớt về thất chí đến nước muốn hủy mình, mà may có một điều được người bạn tâm tình kia, đem cả sự đau khổ tâm hồn của mình tỏ cho bạn mình, người bạn an ủi, khuyên lơn chi cũng không đặng hết.
Hôm nọ người thất chí đó nhứt định đi ra đón xe lửa đặng nhào đầu vô xe lửa đặng chết, đặng tự tử, mà không dè là người bạn của mình đi theo bén gót, đi theo xa xa giữ gìn mà không cho hay. Ông ta mới vừa đi lại gần xe lửa, người bạn chạy theo níu, năn nỉ giữ lại đó, người kia vùng vẩy đổ quạo lên nói: Mầy tưởng đâu mầy thương tao mà mầy kéo dài sự đau khổ của tao chớ không phải mầy thương tao. Bây giờ không thế gì can gián được, phải dùng chiến lược khác, phát gây lộn nói: Cái thân thể mày đã dở, mầy ngu, rồi mày thi rớt, rồi mầy muốn hủy mình mầy, mầy mà có chết đi nữa, linh hồn mày xuống Địa ngục là thằng tù ngu, dầu mày có được Đức Chí Tôn tức nhiên Đức Chúa Trời ban cho mày thành ông Thánh đi chăng nữa, mày cũng là ông Thánh ngu, mắng, hai đàng đánh lộn ôm vật với nhau, đánh thẳng tay mà cái ông kia mình làm mưu không nở đánh lắm, đánh sợ đau bạn. Còn ông kia, ông bạn kia đổ quạo thật, đánh thôi mình mẩy sưng tùm lum túa lua, rồi đem vô nhà thương nằm. Vô đó, người bạn đó mới nói: Mầy ơi, tao cốt yếu, cố tâm đặng cứu mầy, mà mầy làm tao thân thể như vầy, thôi hết sức nói, tới chừng người kia nằm kế gần bên, mới động lòng khóc mướt, rồi ôm người bạn khóc mướt đó vậy. Cứu được, từ đó anh kia theo mãi, tới thi đậu ra trường thôi. Đó Hồng Oai đó, hai cái Hồng Oai đó. Bây giờ mình mới nghĩ coi Hồng Oai mà làm được như vậy cũng nên làm chớ.
Bây giờ luận trong Hội Thánh, em thì đông, Nam, Nữ gần đôi ba triệu, được cái phải của đứa nầy, nó có cái quấy của đứa khác không đồng nhau, vì lẽ đó. Đức Chí Tôn mới lập Pháp Chánh thử cái cân công bình của Hội Thánh nghĩ làm sao mà chớ? Chỉ có mong một điều là đoàn em nó đặng đắc giáo, được dạy dỗ cho hiểu Đạo, đặng nó sống dùm cho bạn của nó.
Đại gia đình Thiêng Liêng nầy nó phải tương liên sống chung, chết chung với nhau đó. Nếu cả Thánh Thể Đức Chí Tôn không có giáo hóa cho họ hiểu thấu đáo nghĩa lý cái sống trong cửa Thiêng Liêng nầy, trong đại gia đình Thiêng Liêng nầy là gì? Thì bao giờ cũng vậy. Đứa phải trở lại đả đảo đứa quấy, đứa quấy cũng không nhịn đả đảo trở lại đứa phải. Tấn tuồng đời chuyển luân ngay giữa cửa Thiêng Liêng cửa Đạo đây, Nam, Nữ em cũng đồng em hết, mình coi quyền lợi cả thảy của nó, mình tính cái nào nhiều theo đa số, giờ bắt chước theo kiểu vở chánh trị thiên hạ bên Âu Châu, hễ đầu phiếu nhiều là được, bây giờ hễ đoàn em của mình, hễ đa số chịu cái gì, nếu phải mình làm theo nó, giúp đỡ cho nó làm. Đa số nó không bằng lòng cái gì thì mình từ từ, rán cố gắng mà tránh. Có một điều nên để ý hơn hết, trước mặt Đức Đại Từ Phụ, Đại Từ Phụ coi cả con cái của Ngài ở dưới thế gian nầy là đám mồ côi, Nam cũng vậy, Nữ cũng vậy, vì lý do đó mồ côi nên Ổng chống gậy đến, Ổng nói con Ổng mồ côi, bây giờ ta cũng kể em ta là đám mồ côi nương lấy anh, muốn nuôi nấng dạy dỗ nó, nhứt là phải dạy dỗ chẳng phải bằng lỗ miệng mà thôi, mà dạy dỗ sự hành vi của nó. Có nhiều đứa nhứt là đám mồ côi của Phái Nữ, tâm thần thì hay thương yêu, có nhiều đứa mồ côi chưa được lỗ mũi mẹ hun hít, một cái nó thèm thuồng tìm kiếm trong cửa Đạo mẹ của nó, trông kiếm nơi cửa Đạo cha của nó Nam cũng vậy, Nữ cũng vậy. Cả Thánh Thể Đức Chí Tôn cố gắng làm cha làm mẹ nó dùm, cố gắng mỗi người đều dạy dỗ.
Bần Đạo chỉ có buồn một điều thay vì dạy nó đặng dìu dắt cho nó đi vào Thánh Đức, có nhiều người dạy nó đi theo cái gì, Bần Đạo không nên nói rõ ra đây.
Từ đây tới sau, xin cả Thánh Thể Đức Chí Tôn đã gọi là Thánh Thể của Ngài, thì bắt chước mảy may theo Ngài đặng cho nó có tánh đức Hồng Oai, Hồng Từ ấy.
Mai đây Bần Đạo làm oai cho biết chừng, ai đời không có tiền cất chợ cho em, rán làm được 4 cái nhà lồng, đặng cho sắp nhỏ vô chui đục nắng mưa. Mấy bà nào đó không biết giăng ngang qua hết thảy vậy, đem trại thiết giăng ngang chận đường mà năn nỉ biểu dời, đặng cho sắp nhỏ có chỗ vô nhà lồng buôn bán với, ngăn ngang qua đó, đáo để đuổi cũng không đi. Cho đất đặng dời cũng không đi nữa. Mai này Bần Đạo làm oai ra lịnh vở tốc đồ đó hết. Bần Đạo làm oai một lần thử coi.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 15-05-Ất Mùi nhằm ngày (dl. 04-07-1955).
Q.6/3-16: Lễ Đại Tường Ngài Khai Pháp Chơn Quân.
ĐỨC HỘ PHÁP THUYẾT ĐẠO TẠI ĐỀN THÁNH
ngày 12-8 Ất Mùi (1955) Lễ Đại Tường ông Khai Pháp Chơn Quân
Thưa cùng Chư Quan Viên và Chức Sắc cùng mấy em Nam, Nữ.
Hôm nay là ngày Lễ Đại Tường Đức Khai Pháp Chơn Quân, Bần Đạo không cần minh tỏa, tưởng lại toàn thể con cái Đức Chí Tôn cũng hiểu Đức Ngài là một vị Chơn Quân nơi Hiệp Thiên Đài là một Chơn Linh nguyên nhân Đức Chí Tôn đã định.
Nhắc lại công nghiệp của Ngài Bần Đạo lấy làm ngậm ngùi cảm xúc vô cùng, sự cảm xúc của Bần Đạo đối với Đức Ngài không giờ phút nào Bần Đạo quên cái công cực khổ đáo để của Ngài đối với Đạo. Bần Đạo chắc chắn rằng, trong Chức Sắc Hiệp Thiên Đài, Bần Đạo chỉ nhờ Đức Ngài Khai Pháp nhiều hơn hết, đó là bằng chứng hiển nhiên ngày nay Đức Ngài đã qui Tiên, thì Bần Đạo đã bớt một cánh tay gánh vác sự nghiệp Thiêng Liêng vĩ đại của Đức Chí Tôn tại mặt thế nầy.
Bần Đạo đã thấy cái sống ở đời của Đức Ngài Khai Pháp trong buổi sanh tiền chưa có hưởng hạnh phúc hay thú vị gì cả, vì sự nghiệp giàu sang vinh hiển của Ngài mà Ngài cũng không màng, chỉ nguyện đem cái xác thân nầy hiến trọn vẹn với cửa Đạo.
Đức Chí Tôn đã định sẵn đâu hồi nào mà chính mình Đức Chí Tôn lựa thật là xứng đáng. Trong buổi lập Hiệp Thiên Đài Đức Chí Tôn dạy con muốn ra gánh vác sự nghiệp Thiêng Liêng lập nên nền Đạo. Trước hết con phải lập Pháp cho xong thì Đạo mới vững bền được.
Buổi nọ Bần Đạo nguyện để trọn vẹn Đức Chí Tôn lựa, chớ không phải phàm lựa, khi được lịnh Cơ Bút dạy đi tìm Pháp thì chỉ dạy Bần Đạo đến Tỉnh Gò Công mà tìm tên Trần Duy Nghĩa. Đức Chí Tôn chỉ cho biết nơi Tỉnh Gò Công mà thôi. Khi tìm đến biết đâu có phải hay chăng? Bởi vì nơi Tỉnh Gò Công Bần Đạo chưa từng đến và không có làm bạn với một người nào nhưng mà cũng vâng lịnh, để đi tìm. Khi vừa đến Tỉnh Thành Gò Công, ngừng xe lại tìm hỏi thăm thì đã trúng ngay nhà ông Trần Duy Nghĩa và gặp người đứng trước thềm nhà, người nói tôi là Trần Duy Nghĩa đây, bèn mời Bần Đạo vào nhà. Bần Đạo không ngần ngại để trọn đức tin nơi quyền năng Thiêng Liêng, bèn tỏ hết công việc Đạo thì Đức Ngài hứa và nguyện cố một đời là hủy cái đời giàu sang vinh hiển để nạp mình tìm nơi cửa Đạo, Bần Đạo không tin còn hồ nghi bị gạt, khi Ngài về đến Sài Gòn chỉ xách theo một gói đồ trên tay và không trở lại gia đình lần nào.
Bần Đạo đưa bài Thánh Giáo Đức Chí Tôn dạy đi tìm Ngài thì Ngài nói với Bần Đạo hai câu, mà làm cho Bần Đạo kính phục và cảm tưởng mãi nơi tâm, biết rằng ông nầy có thể chung sức với mình gánh vác nổi sự nghiệp của Chí Tôn đã giao phó.
Ngài nói rằng: Tôi tưởng dòng dõi của dân tộc Việt Nam trên 4 ngàn năm đã chết, nào dè ngày nay Đức Chí Tôn đến định lập Quốc Đạo thì chắc hẳn rằng đất nước Việt Nam sẽ sống lại được mà là cứu chữa Tổ quốc và giống nòi dân tộc Việt Nam sẽ cỗi ách lệ thuộc giữa thời Pháp thuộc đang bạo hành.
Kể từ đó thì Ngài vẫn cương quyết lo giúp đỡ Bần Đạo và sự kính nể đáo để không bao giờ phút nào mà Đức Ngài muốn rời xa Bần Đạo.
Không nhắc đến thì thôi, mà nhắc đến làm cho giọt lệ Bần Đạo đã chảy không ngừng, chẳng phải riêng Bần Đạo, mất một người ân trọng nghĩa thâm, mà là toàn cả Đạo Nam, Nữ thấy đều mất một người bạn yêu mến Thiêng Liêng đó vậy.
Lúc Chánh quyền Pháp đày ra Hải đảo Madagascar. Trong đó nhiều vị Chức Sắc Đại Thiên Phong cũng chung chịu ảnh hưởng.
Bần Đạo chỉ thấy một Đức Ngài và em Thánh Hiền hết lòng phụng sự giúp đỡ Bần Đạo, còn bao nhiêu vì quyền lợi mà xua đuổi hành phạt Bần Đạo đáo để. Anh Trọng già rồi chẳng nói chi, nhứt là Ông Thái Phấn và Gấm, dựa quyền lợi theo thuyết Cộng Sản Nga Xô, dùng sức mạnh trở lại hành phạt khổ khắc Bần Đạo mà chưa vừa lòng, họ còn xúi giục Chánh quyền đày Bần Đạo lên chỗ nguồn cao nước độc đặng giết một cách gián tiếp cho vừa lòng, nếu chẳng phải quyền năng Thiêng Liêng giúp sức thì không thế trở về Tổ Đình, Thánh Địa đất nước Việt Nam với ngày nay.
Tội nghiệp thay! Em Thánh Hiền với Đức Ngài Khai Pháp thấy vậy cũng xin đi theo, đã bị chúng đánh đuổi mà tìm kế đi theo nuôi dưỡng Bần Đạo cho được, Thánh Hiền vì đi theo Bần Đạo bị uống nước độc, mà bỏ mình nơi rừng sâu nước thẳm, chỉ còn Bần Đạo và Đức Ngài ôm lấy Bần Đạo mà khóc chỉ van vái có một điều là cầu xin Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu đem xác về gởi đất Thánh Địa lúc cởi xác mà thôi, thật quả nhiên lời nguyện không sai.
Khi trở về Thánh Địa Bần Đạo gượng làm vui chớ kỳ thật riêng về Đức Ngài Khai Pháp và Bần Đạo không bao giờ khắc nào mà quên trong cảnh tù đày lao lung.
Bần Đạo đã thấy toàn thể con cái Đức Chí Tôn rất chú ý về việc đó, nhưng Bần Đạo ôm lòng nín chịu và căn dặn Ngài vẫn dằn lòng không thốt ra lời nói gì cả. Bần Đạo sợ nói ra đây gây oán chất hờn thêm cho Đạo, nếu Bần Đạo nói ra không có bút mực nào tả cho hết, lại thêm xung đột.
Kể từ ngày về Thánh Địa Đức Ngài Khai Pháp thường than khổ với Bần Đạo, vì sợ e không khỏi gây cảnh nồi da xáo thịt, bên ngoài thì Pháp, bên trong thì Việt Minh, ở giữa thì Quân Đội Cao Đài, ai vui hứng chớ riêng Đức Ngài không có ngày nào mà không lo sợ sự đổ máu giết chốc lẫn nhau làm đến tương tàn cốt nhục của nòi giống Việt Nam ta nữa mà chớ.
Sau ngày Trung Tá Trấn (Truyền Trạng Phạm Ngọc Trấn) bị quân đội Thành ám sát Đức Ngài thường đến Trí Huệ Cung mà ôm Bần Đạo vào lòng mà than rằng: Thầy ôi! Cái sợ của tôi ngày nay đã đến rồi, tôi hằng than thở với Thầy từ nơi Hải đảo là chốn đày khổ thân của Thầy trò mình, tưởng là về đất Thánh Địa được yên vui; nào dè có Quân Đội cho nên ra nỗi nầy. Than rồi khóc lại càng định nếu Bần Đạo mà nói Thầy ơi vì lời khuyên xưa kia Thầy trò mình mới về để dìu dẫn con cái Chí Tôn mà họ đâu thấu đáo tâm trạng, nay Trấn đã chết đi rồi thì tôi thấy càng gây nhiều hiểm họa dẫy đầy, từ từ gây phản bội mà làm ly tán bầy con dại của Chí Tôn rồi đây họ phải sống nơi nào cho an phận. Thưa Thầy, nếu mà tôi biết hậu quả và tình trạng ngày nay như thế nầy, thà là Thầy trò mình ở lại nơi chốn tù đày hải đảo là nơi rừng xanh nước độc còn thú vị hơn về đây thấy cảnh đổ máu không lịch sử, giòng dõi chủng tộc Việt Nam sẽ ly tán, tiền đồ Tổ quốc không dựng lại mà hầu hết nhơn loại chịu trong cảnh sắp điêu tàn, nền Đạo chinh nghiêng bởi cảnh đó.
Nghe qua những tiếng than thảm thiết làm cho giọt lệ Bần Đạo phải chảy theo không ngừng, nhưng Bần Đạo cố gượng cho khuây khỏa, hồi nghĩ lại Bần Đạo làm vui mượn cớ an ủi cho Ngài bớt buồn rầu đau thảm.
Không anh à, mấy em vì nó có óc thanh niên không phải như mấy anh lão thành vậy đâu, vì máu nóng phải vậy, còn đua tài chất lợi quyền trọng tham danh chớ buộc cả thảy như chí của anh vậy sao được. Bần Đạo thấy Ngài buồn kiếm chước cho vui đở, và lần lượt kiến tạo Trí Giác Cung được khuyên Ngài vào ở cho an tịnh cho bớt cảnh thảm họa trên diễn mãi trước mắt hằng ngày.
Bần Đạo gẫm lại, đã lãnh cái sứ mạng dầu khổ tâm Bần Đạo cũng cố gắng dằn lòng để thi hành trách nhậm là phận sự của Đại nghiệp Thiêng Liêng đó thôi, để gầy dựng tương lai hạnh phúc cho toàn cả nhơn loại chung hưởng hạnh phúc hòa bình đại đồng thế giái.
Trước kia Bần Đạo cũng chạy theo quyền lợi chắc lót từ đồng lương cũng có thể an thú lạc hoan với gia đình, cả cuộc mộng ảo của trường đời là chỉ biết có quyền lợi đó thôi.
Chớ họ đâu có biết được cái nghiệp sống Thiêng Liêng vĩnh cửu vô bờ bến kia mà!
Ngày nay mấy em nương lấy quân đội đã chạy theo quyền lợi quá mức bạo hành mà quên hẳn sự nghiệp của Đại gia đình là tấm đất Thánh Địa, là chỗ miên viễn và tồn tại.
Hầu hết họ đã nhờ bóng từ bi của nhà lãnh đạo Đại gia đình nầy mà dựng nên sự nghiệp cá nhân, có quyền thế vinh hiển với người ta, mà trái ngược lại còn đang tâm hủy hoại nó, họ không biết giá trị cao trọng đó phải nương nhờ nơi đây do Đại nghiệp Đại gia đình nầy mà có.
Bần Đạo nói thật, họ không nhờ Đại gia đình nầy, ngoài ra thì đã bị người khinh rẻ mà phải bị tiêu diệt ngày gần đây mà chớ.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 12-08-Ất Mùi nhằm ngày (dl. 27-09-1955).
Q.6/3-17: Lễ Khánh Thành Đền Báo Quốc Từ.
ĐỨC HỘ PHÁP GIẢNG ĐẠO LỄ KHÁNH THÀNH TẠI BÁO QUỐC TỪ Ngày 16 tháng 8 Ất Mùi (01-10-1955)
Bần Đạo xin trân trọng để lời cám ơn Quan Khách quyền Đời và Chức Sắc Thiên Phong của Hội Thánh Cao Đài cùng Quân Đội Quốc Gia đã có hiện diện nơi đây, đặng giúp cho Lễ Khánh Thành Đền Báo Quốc Từ thêm phần long trọng.
Các Ngài cũng như Bần Đạo đã chung chịu một tình trạng đau thảm, sau 80 năm nước nhà bị lệ thuộc, 80 năm dài đăng đẳng, nỗi thương đau khổ của toàn quốc, mong mỏi đặng ngày quật cường cứu quốc, thì công cuộc tranh đấu thời gian dài đăng đẳng ấy, biết bao nhiêu bực tiền bối ái quốc chơn thành, đã chịu lắm nỗi hy sinh cho vận mạng Tổ quốc giống nòi.
Tiếp tục công trình vì dân vì nước ấy, chủng tộc đồng bào ta cùng con đường đấu tranh chánh nghĩa duy có một, nhưng phương pháp tranh đấu bất đồng mới khiến gây nạn nồi da xáo thịt.
Những danh nhân chí sĩ, vị quốc vong thân ta chỉ được quí danh quí tánh thờ phụng tôn sùng đã đành, còn những vị anh hùng vô danh vị quốc, có lẽ ta phải mang một tội tình cùng họ vì ta không nghĩ đến việc hy sinh công danh và xương máu cao cả của họ. Còn những chiến sĩ đương xông pha nơi chiến địa buổi hôm nay cũng thế ta chỉ biết danh tánh của họ một phần ít còn quên lại là phần nhiều, bởi cớ họ phải bị thân danh mai một.
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ tức là Đạo Cao Đài chỉ cho phép những Tín đồ của mình phụng sự quốc gia và chủng tộc Việt Nam, chớ không phân biệt màu sắc Đảng Phái.
Nơi Đền Thờ nầy, các Ngài đã thấy Linh Vị của mấy vị Cựu Hoàng và Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, xin các Ngài đừng lầm tưởng rằng: Đạo đã xu hướng theo thuyết "Bảo Hoàng" mà kỳ thật các Đấng ấy, chỉ liệt vào hàng trung quân ái quốc của xã hội Việt Nam mà thôi.
Vì công nghiệp của họ tranh đấu giải ách lệ thuộc cũng đồng cùng các chiến sĩ cách mạng khác kia vậy.
Tưởng niệm tới Lễ ấy, nên Hội Thánh mới quyết định lập Báo Quốc Từ thờ trọn cả các Vong Linh của các Anh Hùng Chiến Sĩ, Cứu Quốc Công Thần cùng là Trận Vong Chiến Sĩ.
Tưởng khi các Ngài cũng đã rõ cả hành tàng của Đạo. Từ ngày xuất hiện Đạo nhà của ta trước đã rồi sau mới biến thành nên nền Tôn Giáo quốc tế, vì tư tưởng Đạo giáo khoan hồng của Tổ Phụ chúng ta, mới đem phương pháp tín ngưỡng duy nhứt mối Đạo thờ Trời và Người của Tổ Phụ ta noi truyền từ trước. Ấy vậy đã nói rành Đạo nhà ta trước đã thì ta cũng phải vì nhà của ta là Tổ quốc và nòi giống Việt Nam đặng phụng sự trước, hầu định tỉnh quốc hồn, thống nhứt tinh thần và năng lực trong cuộc Đại Đoàn Kết của khối Quốc Gia mới đủ phương cứu nguy cho Tổ Quốc.
Biết đâu gương mẫu ấy, nếu ta thực hiện ra được, nó sẽ không thành một phương pháp duy nhất cho các Quốc gia nhược tiểu một phương châm duy nhứt đặng tranh thủ tự do độc lập cho họ, quan niệm tưởng đến công trình tranh đấu của đàn anh may ra nó sẽ an ủi và giúp tâm cho các bạn, đồng thời phục vụ cho Quốc gia xã hội.
Trái lại, nếu ta vô tình lãnh đạm để cho họ phải chịu mai một thân thể lẫn tâm hồn, thì cái tội của ta vong ân bội nghĩa không cải chối. Hôm nay các anh linh chư vị anh hùng tiền bối và hậu bối đang ngự trị trong khối Quốc hồn của ta và đang vơ vẫn bên ta.
Giờ phút Thiêng Liêng nầy. Bần Đạo xin cả các Ngài hiệp tâm làm một cùng Bần Đạo thành một khối tưởng niệm duy nhứt đặng cầu xin các Đấng ấy giúp cho nòi giống ta khỏi cơn ly loạn, cốt nhục tương tàn đặng đem hạnh phúc hòa bình lại cho nước nhà và cho toàn thiên hạ.
Q.6/3-18: Ngỏ lời cùng toàn Đạo nhơn dịp Lễ Chúc Xuân năm Bính Thân.
ĐỨC HỘ PHÁP
Ngỏ lời cùng toàn Đạo nhơn dịp Lễ Chúc Xuân ngày 1 tháng 1 năm Bính Thân
Thưa cùng Chư Chức Sắc Thiên Phong, Hội Thánh Cửu Trùng Đài, Hiệp Thiên Đài, Phước Thiện và toàn thể con cái Đức Chí Tôn Nam, Nữ Lưỡng Phái. Các bạn cùng Bần Đạo. Hôm nay đã thêm một tuổi nữa tức Bần Đạo đã 67 tuổi.
Thưa cùng Chư Huynh, Chư Đệ.
Giữa thế kỷ 20 đạo đức suy vi, nhơn luân điên đảo, phong hóa suy đồi. Bởi cớ cho nên, Đức Chí Tôn đến đặng chung chịu cùng con cái đau khổ của Ngài, tạo nên một Cơ Quan Cứu Thế, mở Chơn Truyền Đại Đạo của Ngài vì cả nhơn luân của thiên hạ nó đã điên đảo. Cả thảy Thánh Thể đều thấy một nền Tôn Giáo tối cổ đã đến lập quốc cho nước Việt Nam nầy là Nho Tông, Tổ Phụ ta để lại nền Nho Tông cốt yếu giữ gìn bảo trọng Nhơn luân của Nhơn loại.
Vì cớ cho nên, Ngài đến lấy căn bản ấy làm "Thước ngọc, khuôn vàng" cho toàn thể tâm lý nhơn sanh. Bởi cớ cho nên Ngài để hai tiếng "Chuyển Thế" chẳng cần luận cho xa xuôi, Thánh Thể đều biết giữa buổi nguy hiểm khó khăn này, Đại Từ Phụ đã đến giao cho ta một phận sự Thiêng Liêng như thế đó. Phận sự khó khăn không có hình hài xác thịt, Ngài đến phú thác phận sự cho ta làm Cha, làm Thầy. Phận sự Thiêng Liêng làm Cha thế nào, làm Thầy thế nào gìn trọn, cả thảy khuôn luật đó dường nào, cả con cái Đức Chí Tôn đều hiểu biết. Làm Cha là tạo sự nghiệp, tạo hạnh phúc lưu lại cho con. Làm Thầy là tạo trí óc tinh thần danh thể và hạnh phúc tương lai cho nó. Làm chủ hai phận sự ấy khó khăn biết mấy!
Trong đại gia đình Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn giao phó cho ta phải theo một khuôn luật thiên nhiên ấy, là khuôn luật tiểu gia đình của ta mà thôi không chi khác.
Lạ gì tuồng đời đương buổi này, tâm lý của nhơn loại thế nào ta đã chán biết. Trong một gia đình con cái bất hòa với nhau, bao nhiêu tội lỗi ấy đều trút trên đầu của người Cha nó. Trong một trường, nếu có tranh hơn, tranh thua, tranh ngu, tranh khôn, tranh hơn, tranh thiệt, cả danh vọng quyền thế bao giờ kẻ bất mãn cũng đổ trút trên đầu Thầy nó, lẽ tự nhiên vẫn vậy.
Trong một gia đình dầu cho Ông Cha công bình thế nào, đứa con bất mãn hoang đàng chi địa, vô nghĩa, vô nghì nó đổ trên đầu Cha nó, nó nói Cha nó hại nó.
Trong một trường lập thân danh nó không nên với đời, nó cho Thầy nó dở dạy, tấn tuồng đời vẫn vậy.
Mấy em! Cả thảy Nam, Nữ Lưỡng Phái, Qua nói thật, "Trường hợp biến thiên ra vì con cái của Đạo không đủ yêu ái, không đủ căn bản tinh thần đạo đức, nó mới ra nông nỗi". Mấy em biết một gia đình nhỏ mọn kia, nếu xảy ra sự vô phúc ấy, nó làm thế nào? Huống chi đại gia đình Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn giao phó, Thánh Thể của Ngài cho Qua, tránh sao cho khỏi, làm thế nào tránh cho khỏi những kẻ ấy. Một Ông Cha tạo con cái của mình chia từ tinh khí, huyết quản tạo hình hài cho nó, là của sở hữu của mình, có khi làm chủ tinh thần của nó không được. Huống chi nơi cửa Đạo, nơi cửa đại gia đình Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn giao phó, biết bao nhiêu đầu óc, trí não tâm hồn không đồng một thể.
Ông Thầy mở một trường như Đức Khổng Tử có quyền lựa chọn môn đồ của Ngài. Trái lại trong đại gia đình của Đức Chí Tôn, Thánh Thể của Ngài không quyền lựa chọn, thế nào tránh cho khỏi kẻ bất nghĩa vô nghì? Mấy em đừng coi điều ấy là trọng hệ, trái lại phải định phận, cố gắng hơn, dạy mấy đứa nhỏ nó là hương hỏa tương lai đại gia đình của mấy em và Thánh Thể của Đức Chí Tôn mai hậu.
Qua thường nói, nếu giờ phút nào thân già yếu đuối nầy còn, Qua cố gắng làm nên sự nghiệp cho Đạo cốt yếu là vì chúng nó. Nếu Qua không vì chúng nó, giờ phút nầy chẳng còn lầm lủi đặng tạo dựng cơ nghiệp Thiêng Liêng nầy. Qua là một thằng điên, đáng đem nhốt nơi nhà thương điên Biên Hòa mà chớ!
Một đời Qua chịu khốn khổ, đàn anh của mấy em cũng thế, chung chịu một trường hợp đau đớn như Qua, Qua không thế nào buổi sanh tiền nầy còn thấy dưới mắt sự đau khổ đối với chúng nó. Vì cớ cho nên Qua tạo hạnh phúc tương lai cho nó.
Mấy em thử nghĩ! Trót 31 năm, cả thảy con cái của Đức Chí Tôn Nam, Nữ Lưỡng Phái, từ trên tới dưới đã hy sinh biết bao nhiêu mồ hôi nước mắt, tạo dựng Đại Nghiệp Thiêng Liêng cho Đạo. Vì ai, thử để dấu hỏi? Mấy em sẽ lấy làm đau đớn lắm vậy!
Trường hợp khi Đức Chí Tôn đến cùng chúng Qua, Ông Già nghèo ấy. Ông đến với một cây Cơ thôi. Ông đến với một xác thân hèn yếu, nghèo nàn. Bởi do nơi hèn yếu đó tạo nên một sự nghiệp trọng đại, sự nghiệp đó biết bao nhiêu mồ hôi, nước mắt, xương máu toàn cả mấy em hiện tượng như thế đó.
Có một điều đừng lầm lộn, cả con cái của Đức Chí Tôn nhớ điều nầy: "Giàu sang phú quí của Đạo là cái giàu sang cả toàn thể con cái Đức Chí Tôn đôi triệu người hiệp lại. Nếu thoản như cả phần tử đôi triệu ấy nghèo khổ, đều thống khổ, tới hôm nay mấy em nhìn lụng lại sự nghiệp Thiêng Liêng nầy, mấy em đào tạo được sang trọng vẽ vang như thế này, mấy em nhớ rằng hình trạng đó là mồ hôi nước mắt thành tướng đó vậy".
Chúng Qua có mục đích là phận sự Thiêng Liêng mà chúng Qua thay thế cho Đức Chí Tôn tạo nghiệp Thiêng Liêng cho mấy em, là nghiệp của Đạo. Chúng qua mơ ước thật sự. Tâm hồn chúng Qua mơ ước cái giàu sang vinh hiển; đại thể là cái giàu sang vinh hiển đa số, mạnh mẻ hơn, cao trọng hơn thật sự là cái giàu sang vinh hiển của Đạo mà chớ!
Trái lụng lại dầu cho Đại Nghiệp Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn sang trọng thế nào, mà mấy em bị nghèo hèn đói khó, khổ cực thì giàu sang bóng dáng mà thôi chớ không nghĩa lý gì hết, giả tướng mà thôi.
Chúng Qua đã nghèo khổ 31 năm trước, Hội Thánh chỉ mong một điều là kiếm phương nuôi cả toàn con cái của Đức Chí Tôn, tìm phương thế nuôi lẫn với nhau chưa hề biết trước Đại Nghiệp Thiêng Liêng vĩ đại như vầy. Qua chỉ mong một điều tạo đặng hạnh phúc cho mấy em, đó là mục đích tối yếu trọng của chúng Qua đó vậy.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 01-01-Bính Thân nhằm ngày (dl. 12-02-1956).
CHUNGLỜI THUYẾT ÐẠO CỦA ÐỨC HỘ PHÁP |
Trong bản chánh do Ban Tốc Ký Tòa Thánh Tây Ninh Sưu Khảo, toàn bộ Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp quyển 6 gồm có 3 phần theo thứ tự của 3 năm là: Quí Tỵ (1953), Giáp Ngọ (1954) và Ất Mùi (1955).
Trong 2 năm đầu là: Quí Tỵ (1953) và Giáp Ngọ (1954) Ban Tốc Ký đều có Đề Tựa và Mục Lục cho mỗi bài, riêng năm cuối Quí Mùi (1955) thì không có.
Khi chọn đăng tài liệu nầy để phổ biến trên mạng lưới toàn cầu và phát hành CD-ROM dưới dạng E-Book, chúng tôi cũng chưa tiếp xúc được Ban Tốc Ký để thỉnh ý về việc chọn Đề Tựa cho năm cuối Quí Mùi (1955).
Trong khi chờ liên lạc với Ban Tốc Ký, Thánh Thất NSW mạo muội xin tạm đặt Đề Tựa mỗi bài và Mục Lục cho năm cuối Quí Mùi (1955) để tiện việc trình bày cũng như cho đọc giả dễ dàng tra cứu.
Ngoài ra có những phần khác biệt sau đây so với bản chánh như sau:
1./ Sửa một số lỗi chánh tả thông thường (khi gặp phải) căn cứ vào quyển Việt Nam Tân Tự Ðiển của Thanh Nghị do nhà sách Khai Trí xuất bản tháng 12 năm 1967 & Việt Nam Tự Ðiển của Lê Văn Ðức, Lê Ngọc Trụ do nhà sách Khai Trí xuất bản tháng 4 năm 1970.
2./ Phụ ghi vào cuối một số bài khi gặp một vài nghi vấn (có thể) được Ban Ðạo Sử duyệt xét lại sau nầy.
3./ Phụ ghi ngày và tháng dương lịch (cho những bài không ghi rõ ngày & tháng) căn cứ theo Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996.
Trong việc đánh máy và sao chép lại, nếu có điều chi sơ sót, xin quí Đạo huynh vui lòng chỉ giáo, để trong những lần tái bản sau nầy được hoàn hảo hơn.
Tháng Hai năm Giáp Thân (2004),
Thánh Thất New South Wales thành thật kính cáo.
) )( __)_(__ __(_____)__ (((_________))) ) ׀ ( |
|
ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
LỜI THUYẾT ÐẠO
|
Hội Thánh Giữ Bản Quyền |
Tài Liệu Do Ban Tốc Ký Tòa Thánh Tây Ninh Sưu Khảo.
|
Sau khi ấn-hành xong bộ "Thuyết-Đạo của Đức Hộ-Pháp" đã thuyết trong mười năm, bắt đầu từ năm Bính-Tuất đến năm Bính-Thân. Chúng tôi tiếp tục xuất bản quyển "Con Đường Thiêng-Liêng Hằng Sống" để cống hiến quý vị một tài liệu quý giá trong vấn-đề nghiên cứu nền Giáo-Lý của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ.
"Con Đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống" là một quyển tài-liệu đầu tiên nêu rõ vấn đề siêu-hình mà từ xưa tới nay chưa có một bộ sách nào diễn tả được tận cùng chơn-lý.
Quyển tài-liệu này không những là một ánh đuốc soi đường cho người học Đạo, mà còn là một tài-liệu chép lại đầy-đủ những cuộc đối-thoại giữa các chơn-linh cao siêu nhưng thiếu đạo-đức với các Đấng Trọn-Lành nơi cảnh Thiêng-Liêng Hằng-Sống. Ngoài ra, tài-liệu nầy có thể được xem là một biểu-đồ ghi rõ sự biến-thiên về cá tính cùng trình-độ tiến-hóa của con người qua không gian và thời gian.
Trong những ngày khởi đầu ghi chép tốc-ký quyển Con Đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống, chúng tôi bị thiếu sót một đoạn rất quan trọng là đoạn mở đầu. Nhưng may thay lúc chuẩn bị tài-liệu để thực hiện lời Thuyết-Đạo của Đức Hộ-Pháp thì được Chức-Sắc, Chức-Việc và Đạo-Hữu quen thân gởi về chúng tôi nhiều tài-liệu để đóng góp. Đến khi soạn ra để in thì chúng tôi tìm thấy bài đầu của Con Đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống thật là may mắn thay mà cũng là vinh hạnh thay mà cho chúng ta. Vì nếu Con Đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống mà thiếu bài đầu cũng như chúng ta đi đêm mà không có ánh đuốc vậy.
Thật ra khi chép lời Thuyết-Đạo của Đức Hộ-Pháp, có nhiều Tốc-Ký-Viên ghi chép, nhưng chúng tôi thì hoàn toàn thiếu mất một đoạn đầu, đến nay lại tìm thấy trong số tài-liệu mà quý vị có nhã ý đóng góp với chúng tôi. Chúng tôi muốn biết quý danh để ghi vào danh-sách những ân-nhân của chúng tôi, nhưng không cách nào biết được. Vậy chúng tôi thành kính ghi lại những dòng chữ này để tri ân vị Tốc-Ký-Viên nào đã giúp cho chúng tôi hoàn thành quyển Con Đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống được hoàn toàn đầy-đủ.
Dầu sao, để cho quyển Con Đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống có một giá-trị tuyệt đối về tinh thần, chúng tôi thỉnh cầu Hội-Thánh thiết lập một đàn cơ tại Cung Đạo cầu Đức Hộ-Pháp giáng đàn hiệu đính lại lần chót. Đó là ý nguyện duy nhứt của chúng tôi.
Thành kính,
CON ĐƯỜNG THIÊNG LIÊNG HẰNG SỐNG: Bài 01
Đức Hộ-Pháp
Thuyết-Đạo tại Đền-Thánh, đêm 13 tháng 8 năm Mậu-Tý (16-9-1948)
Đêm nay Bần-Đạo thuyết Đạo có hơi dài chút rán ngồi nghe.
Kể từ đêm nay Bần-Đạo bắt đầu thuyết một đề-tài trọng yếu đề-tài này phải thuyết nhiều đêm mới hết, bởi thế cho nên cứ mỗi bốn đêm thì thuyết một lần, Bần-Đạo rán thúc nhặt cho con cái Đức Chí-Tôn có một bửu-bối nơi tay, để ngày kia tìm đường đoạt Đạo.
Đề tài đêm nay là: "Con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống".
Con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống là gì? Nếu hiểu theo Chơn-Pháp của Đức Chí-Tôn thì con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống là: Con đường dành cho các chơn-hồn khi thoát xác, rồi quay về với Đức Chí-Tôn để được định vị, thăng hay đọa. Nhưng nếu hiểu theo triết-lý nhà Phật, thì con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống là con đường của Luân-Hồi.
Như vậy, Con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống là một đề-tài thuyết-pháp khó khăn, muốn cho toàn-thể con cái Đức Chí-Tôn thấu đáo, lãnh hội đầy-đủ nghĩa lý sâu xa của đề-tài đó, ít ra phải viết thành sách, mà sách ấy tới mấy ngàn trang là ít.
Ấy vậy, con cái của Đức Chí-Tôn rán nghe và rán đi cúng đặng nghe, để nữa sau khỏi hối tiếc và oán trách, nói sao Bần-Đạo không cho hay trước, không cho biết trước, để được nghe những điều bí yếu trong nền Đạo Cao-Đài, những triết-lý cao siêu mà chỉ có Đạo Cao-Đài mới có, tuy nhiên, âu cũng là một đặc ân của Đức Chí-Tôn dành cho Đạo Cao-Đài ngày nay, nên mới có mấy đứa nhỏ cố gắng học được tốc-ký để ghi chép những lời thuyết Đạo của Bần-Đạo, vì những lời thuyết Đạo này, không phải của Phạm Công Tắc mà là của Hộ-Pháp, Hộ-Pháp thay lời Đức Chí-Tôn nói Đạo cho toàn thể con cái của Ngài nghe, quý hay chăng là ở chỗ đó.
Bần-Đạo may duyên được Đức Chí-Tôn chọn làm Ngự-Mã-Quân của Ngài để thay Ngài, lập nền chánh-giáo, tức là nền Đạo Cao-Đài này để thay thế tất cả Tôn-Giáo đã có từ trước. Vì lẽ các Tôn-Giáo ấy, ngày nay không phù hợp với lương tri lương năng của loài người nữa. Hay nói một cách khác là các nền Tôn-Giáo ấy ngày nay đã bị bế.
Nhớ lại, từ khi Đức Chí-Tôn chọn Bần-Đạo làm Hộ-Pháp; dạy Bần-Đạo phò-loan và chấp bút, đặc biệt hơn hết là chấp bút, vì nhờ chấp bút, mà Bần-Đạo được Đức Chí-Tôn dạy cách Tham-Thiền, khi biết Tham-Thiền rồi mới Nhập-Tịnh, nhưng Nhập-Tịnh không phải dễ, chỉ sai một tí, sót một chút là có thể hỏng cả cuộc đời, Nhập-Tịnh mà không tới thì bị hôn trầm tức là ngủ gục, còn Nhập-Tịnh mà quá mức thì phải điên đi mà chớ; Nhập-Tịnh mà đúng rồi, còn phải nhờ các Đấng Thiêng-Liêng mở Huệ-Quang-Khiếu nữa, mới xuất hồn ra được. Con đường mà Chơn-Thần xuất ra rồi về với Đức Chí-Tôn là con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống đó vậy. Chính Bần-Đạo được Đức Chí-Tôn mở Huệ-Quang-Khiếu nên mới được về hội kiến cùng Đức Chí-Tôn và đã học hỏi được nơi Đức Chí-Tôn nhiều điều bí-yếu bí-trọng.
Ngày nay, giảng con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống là Bần-Đạo muốn dìu dắt chơn-thần của toàn thể con cái Đức Chí-Tôn về với Đức Chí-Tôn qua một hình thức thuyết Đạo.
Con đường về với Đức Chí-Tôn không phải dễ, mà cũng không phải về là tới liền, muốn về với Đức Chí-Tôn ta phải qua nhiều Cung nhiều Điện, mỗi Cung chúng ta gặp một sự lạ, mỗi Điện chúng ta gặp một huyền vi khác nhau, phải đi từ Cung này đến Điện nọ, nên gọi là "Dục tấn trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống". Về được với Đức Chí-Tôn thì không còn hạnh-phúc nào bằng.
Một kiếp tu chưa chắc đã về được với Đức Chí-Tôn, muôn năm ngàn kiếp mà nếu thiếu tu, cũng không khi nào về được với Đức Chí-Tôn, mấy anh mấy chị rán nhớ điều đó, mà tu thì sao? Trong cửa Đạo Cao-Đài này đã dạy tu rồi, nhứt là Bần-Đạo đã giảng nhiều rồi, ấy là ta phải: Lập Đức, Lập Công và Lập Ngôn đó vậy.
Bây giờ trở lại đề-tài dục tấn trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống. Như hồi nãy Bần-Đạo có nói, nhờ hồng ân đặc-biệt của Đức Chí-Tôn. Bần-Đạo được diễm phúc hội-hiệp cùng Ngài và trước khi hội-hiệp cùng Ngài, Bần-Đạo cũng đã được hội-kiến cùng các Đấng Thiêng-Liêng nơi cõi Thiêng-Liêng Hằng-Sống.
Kể từ đêm nay, Bần-Đạo không thuyết Đạo, mà Bần-Đạo chỉ nói lại, thuật lại những gì Bần-Đạo đã thấy, đã nghe, đã biết, khi gặp các Đấng nơi cảnh Thiêng-Liêng kia, âu cũng là phương-pháp giúp cho toàn-thể con cái Đức Chí-Tôn biết trước cảnh đó như thế nào, để nữa có về thì không bỡ ngỡ.
Bần-Đạo nói, con cái Đức Chí-Tôn nghe, rồi tưởng-tượng như mình có một người hướng dẫn, và đi đến đâu, thì người hướng-dẫn giải-thích đến đó, tỷ-dụ như người ngoại-quốc đến nước Việt-Nam được một người hướng-dẫn và giới-thiệu các thắng cảnh tại Việt-Nam đó vậy.
Mỗi chơn-hồn nơi thế gian này, khi thoát xác đều phải qui tựu tại Đền-Thánh này và đi từ trong Đền-Thánh này đến các cảnh giới khác. Tại sao phải vào Đền-Thánh này, mà không vào các Đền-Thánh khác? Tại vì Đền-Thánh này tỷ như một trường thi: Mỗi năm Chánh-Phủ mở một kỳ thi như thi Tú-Tài chẳng hạn, địa-điểm đã ấn định rồi, chỉ có thi nơi đó mới có giá-trị: Tòa-Thánh này cũng vậy Đức Chí-Tôn lập ra để con cái của Ngài Lập-Công, Lập-Đức, Lập-Ngôn mà về với Ngài.
Vào Đền-Thánh tức là vào Hiệp-Thiên-Đài, đi từ Hiệp-Thiên-Đài đến Cung-Đạo, nhưng muốn vào Cung Đạo phải qua Cửu-Trùng-Đài, mỗi nấc của Cửu-Trùng-Đài là mỗi lần khảo-dượt của các Đấng Thiêng-Liêng, là mỗi lần cứu-rỗi của Cữu-Vị Nữ-Phật, là mỗi lần cầu xin, của các đẳng linh-hồn, toàn-thể con cái Đức Chí-Tôn đọc lại mấy bài kinh từ Đệ Nhứt-Cửu đến Đệ Cữu-Cửu, đến Tiểu-Tường và Đại-Tường thì biết.
Trong cửa Đạo Cao-Đài có ba cách về với Đức Chí-Tôn, hay là có ba cách lập vị mình:
* Cách thứ nhứt: Các chơn-hồn mượn xác phàm phải đi theo phẩm-trật Cữu-Thiên Khai-Hóa, tức là theo Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài, dùng tài sức mình lập công để đoạt Đạo, nghĩa là phải đi từ bậc Đạo-Hữu lên Lễ-Sanh, Giáo-Hữu, Giáo-Sư, v.v... Phải lập công từ Tiểu-Thừa, Trung-Thừa đến Thượng-Thừa, phải ăn chay từ sáu ngày mỗi tháng đến mười ngày, rồi ăn chay trường luôn, phải tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, các chơn-hồn đi theo phẩm-trật Cửu-Thiên Khai-Hóa còn phải có tự-tín rồi tha-tín, tức là giác-nhi giác-tha đó vậy, có tự-tín rồi tha-tín tức là có tự độ mình rồi độ chúng-sanh. Đạo Cao-Đài khác với các nền Tôn-Giáo khác là ở chỗ đó, trước hết phải độ mình, độ gia-đình mình rồi độ ngoài thân tộc, tức là độ cả nhơn-loại vậy; mình phải học để mình hiểu Đạo. Hiểu Đạo rồi, nói sao cho thân tộc mình hiểu Đạo, chẳng những nói Đạo cho thân tộc mình biết mà thôi, mà phải nói Đạo cho toàn nhơn-loại nữa. Mình học để biết Đạo là lập Đức, nói Đạo cho thân tộc mình biết Đạo là lập Công, độ toàn nhơn-loại là lập Ngôn, có làm đủ ba điểm đó mới về được với Đức Chí-Tôn bằng con đường Cữu-Thiên Khai-Hóa.
* Cách thứ hai: Lập vị mình theo Thập-Nhị Đẳng-Cấp Thiêng-Liêng tức là theo Hội-Thánh Phước-Thiện, nơi đây ngoài việc ăn chay giữ-gìn luật Đạo tùng theo chơn-pháp của Đức Chí-Tôn còn phải dùng Đức để lập vị mình.
Muốn lập đức phải đi từ Minh-Đức, Tân-Dân, Thính-Thiện, Hành-Thiện, Giáo-Thiện, Chí-Thiện, v.v...
Lập đức là gì? Là dùng sự thương yêu để cứu độ chúng-sanh mà Đức Chí-Tôn đã có nói: "Sự thương yêu là chìa khóa mở cửa Bạch-Ngọc-Kinh" là vậy đó.
Các đẳng chơn-hồn tái kiếp đang chơi vơi trong "Tứ-Diệu-Đề-Khổ". Muốn thoát khổ họ phải thọ khổ, có thọ khổ mới thắng khổ. Người đi theo Thập-Nhị Đẳng-Cấp Thiêng-Liêng là dạy người ta thọ khổ để thắng khổ. Muốn dạy người ta thọ khổ trước hết thì mình phải thọ khổ đã, muốn thọ khổ thì không gì hay bằng dùng Đức Thương-Yêu. Cho nên bậc thứ nhất của Thập-Nhị Đẳng-Cấp Thiêng-Liêng là Minh-Đức đó vậy.
Có thương yêu mới thọ khổ được, ta thương Cha-Mẹ ta, ta mới chịu khổ mà bảo dưỡng Cha-Mẹ lúc tuổi già, ta thương con ta, ta mới lo tảo lo tần nuôi nó khôn lớn, ta thương những người cô thế tật nguyền ta mới tầm phương giúp đỡ họ, mà tầm phương giúp họ là thọ khổ đó vậy.
Thọ khổ rồi mới thắng khổ, thọ khổ không phải một ngày, một bữa, mà phải thọ khổ cho đến nơi đến chốn, nghĩa là nuôi Cha-Mẹ cho đến tuổi già, lo cho con từ khi còn bé cho đến lúc nó tự lo cho nó được. Hai điều đó còn dễ, đến lo cho thiên-hạ hết khổ mới khó, vì khi lo người này, hết người này đến người khác và cứ như vậy trọn kiếp sanh mới gọi là thắng khổ, có thắng khổ mới về được với Đức Chí-Tôn bằng con đường Thập-Nhị Đẳng-Cấp Thiêng-Liêng.
* Cách thứ ba: Cách thứ ba Là cách Tu-Chơn hay là cách Tịnh-Luyện cũng thế.
Những người đi trong Cữu-Phẩm Thần-Tiên hay đi trong Thập-Nhị Đẳng-Cấp Thiêng-Liêng, khi mình nhận thấy là đã Lập-Đức, Lập-Công, Lập-Ngôn rồi. Hay là đã thọ khổ và thắng khổ rồi mà còn sức nữa, thì vào nhà Tịnh để được Tu-Chơn. Nơi đây các vị đó sẽ được học phương-pháp luyện Tinh hóa Khí, luyện Khí hóa Thần, tức là Tinh-Khí Thần hiệp nhứt là Hườn-Hư đó vậy.
Bây giờ trở lại con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống. Khi chúng ta qua khỏi Cửu-Trùng-Đài bước vào Cung-Đạo, trực ngó lên trên không thấy Bát-Quái-Đài nữa mà thấy Đại-Hải minh mông, thấy mờ-mờ mịt-mịt. Càn-Khôn Vũ-Trụ bao la không thể gì tưởng tượng được, bắt đầu từ lúc này chúng ta bước vào Con-Đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống rồi đó.
Nếu đi theo con đường Cữu-Thiên Khai-Hóa và con đường Thập-Nhị Đẳng-Cấp Thiêng-Liêng thì khác. Vì đi hai con đường đó là khi ta mãn kiếp về với Đức Chí-Tôn, ta đi với cả Linh-Hồn và Thể-Phách. Còn hôm nay chúng ta về với Đức Chí-Tôn bằng Chơn-Thần vì Bần-Đạo may duyên được đặc ân của Đức Chí-Tôn cho phép nên mới đi riêng cũng như đi tắt vậy.
Chúng ta ngó lên thấy như Đại-Hải minh mông, nhưng thật ra không phải Đại-Hải mà là vòm trời của Càn-Khôn Vũ-Trụ, nơi xa xa khi ẩn khi hiện trong mây, một tòa nhà nguy nga đồ-sộ, thoạt ẩn thoạt hiện mập-mờ, vừa ngó thấy thì ta muốn đến ngay, không biết làm sao đến, vừa lúc đó pháp-thân ta như có một sức mạnh hút đi, không đi mà đến, đến mau như đi bằng máy bay vậy.
Đến rồi ngó thấy quần sanh nhơn-loại muôn trùng, lớp đến lớp đi không biết bao nhiêu mà nói, nhiều như vậy, mà dường như không có tiếng động nào, thứ-tự lớp lang có trật-tự lắm. Nơi đó gọi là Cung Thánh, tức là Cung để cho các chơn-hồn ra khỏi cảnh Thiêng-Liêng đi tái kiếp mà cũng là nơi tiếp rước các đẳng linh-hồn sau khi tái kiếp trở về. Nơi đó giống như một trạm hàng không, hay là trạm xe lửa vậy, kẻ đi, người đến muôn trùng, đi thì buồn, về thì vui, nhưng tất cả đều hiển-hiện lên khuôn mặt của mọi người một sự lo lắng chung; đi cũng lo mà về cũng lo, đi mà lo là lo không biết xuống thế-gian có làm tròn bổn-phận khi giao-ước với Đức Chí-Tôn không? Về cũng lo là lo không biết phẩm-vị mình ra sao có còn hay mất, lo lắm, mọi người đều lo lắm.
Kỳ sau, Bần-Đạo giảng tiếp về Cung Thánh và Cung Thể-Thiên Hành-Hóa./.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 13-08-Mậu Tý nhằm ngày (dl. 15-09-1948).
CON ĐƯỜNG THIÊNG LIÊNG HẰNG SỐNG: Bài 02
Đức Hộ-Pháp
Thuyết-Đạo tại Đền-Thánh, đêm 18 tháng 8 năm Mậu-Tý (21-9-1948)
Y như lời hứa hẹn của Bần-Đạo hôm qua, chúng ta rủ nhau dục tấn trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống.
Hôm qua chúng ta, đã đến Cung Thánh, chúng ta đã hiểu sơ lược quần sanh nhơn-loại trên mặt địa-cầu này. Hôm nay Bần-Đạo dắt chư Hiền-Hữu vào nơi Cung Thừa-Thiên Hành Hóa, nơi đó Chư Thánh đang ngồi cân lường từ việc tương lai, từ trái địa-cầu này, qua trái địa-cầu khác, nơi đó không có một buổi nào họ không tưởng đến tinh thần nhơn-loại trong Càn-Khôn Vũ-Trụ. Từ nước này qua nước khác, họ ngồi, họ lập chương-trình định quyết, ai đến, ai về để cứu vãn tình thế, không có buổi nào họ quên được, hạng nhứt hơn hết trong Cung Thừa-Thiên Hành-Hóa, chúng ta hiểu rằng Chư Thánh không buổi nào họ quên lo cho số mạng của chúng ta. Ta phải dục tấn tới nữa, tới Cung Hành-Hóa ta giong ruỗi trên con đường xa xăm, vòi vọi, bởi trên đường đi đến Cung Hành-Hóa thiên hạ vắng vẻ, ít ai. Từ thử tới giờ, muốn qui Tiên, muốn vị Phật, chẳng phải dễ gì đoạt đặng. Từ loài người, biết người, ta so sánh coi luật-pháp giúp nhơn-loại thành Tiên, thành Phật như thế nào? Tức nhiên muốn thành Tiên thành Phật phải tu bao nhiêu năm? Chúng ta coi Đạo-Giáo tại sao không tăng tiến, chúng ta tính xem Đạo-Giáo đã giúp thiên hạ đoạt vị gì? Phong-Thần Trung-Hoa hay của Phù-Tang không giúp họ gì hết chỉ làm họ tạo thêm bất mãn, luân-luân chuyển-chuyển, không giúp họ tạo được phẩm-vị gì hết, phần đông họ nhờ quả kiếp họ định-vị cho họ mà thôi. Vì cớ chúng ta thấy trên mặt địa-cầu này nhiều vị oán Đạo-Giáo lắm.
Bần-Đạo nói điều ấy để quan-sát vì chúng ta phải dục tấn trên con đường vô cùng vô tận, kiếp sanh của chúng ta mặc cho thiên-hạ nói dễ mà khó gìn chơn-lý. Chúng ta đi đến nơi khác hơn cảnh náo nhiệt đã trải qua.
Trái lại, con đường chúng ta đi hôm nay thật là huyền-diệu đẹp-đẽ, an-nhàn làm sao. Ta vừa bước tấn tới thì thấy trong mình ta thơ-thới nhẹ-nhàng, dọc theo hai bên con đường ta đi ấy, cảnh nào cũng hữu tình, khi nhắc đến thế-gian làm ta buồn rầu, nhưng nơi đây không có cảnh nào làm cho các bạn thơ-thới bằng. Hễ nói Tiên, thì có Tiên, mấy bạn biết sao không? Mơ mộng chẳng phải là chuyện không có. Ta đi tới mãi, càng đi sâu chúng ta thấy hưởng vui khoái-lạc vô cùng. Chúng ta sẽ đi tới cảnh đó, để tạo ra các Pháp Giới. Muốn đặng thì đặng vô biên huyền bí, chúng ta thấy các việc ta chưa đoạt đến mà dòm thấy mặt thiên-hạ đặng. Họ không phải lãnh-đạm với ta đâu, chờ ta đặng đón rước ta. Ta thấy trên khuôn mặt họ hiện ra đủ khôn ngoan, hiền từ, đức tánh Thiêng-Liêng lộng-lẫy không còn một mảy may phàm cách. Cái phong-thần vẫn còn huyền-bí vô biên, họ muốn thế nào thì đẹp cả đôi như vậy. Trái lại có một điều vẫn giữ Thể Pháp của họ cho dễ nhìn: Như chúng ta gặp Bát Tiên y như trong tượng vẽ không thay đổi mấy, đặng, thiên hạ nhận ra cho đặng (*1). Bởi trong thâm-tâm cao-siêu ấy cho chúng ta tìm phương đoạt tánh. Chúng ta thấy địa giới không thua gì Càn-Khôn Vũ-Trụ, từ Thượng-Cổ đủ hết. Tôi xin nói không phải địa-cầu này làm bạn với địa-cầu này mà thôi, mà nơi địa-cầu khác họ đến làm bạn. Những Đấng đến đó họ ở địa-cầu khác họ qua không phải ở địa-cầu này, họ ở địa-cầu về đoạt phẩm-vị cao siêu, chớ địa cầu 68 này, Bần-Đạo nói: Ở địa cầu 68 này có loạn nhiều chớ không phải có con cái nhiều.
Bần-Đạo nói, họ đương nói chuyện mà trên đầu họ muôn ánh hào quang xẹt tứ tung ở không trung, họ đương nói chuyện ở đây mà họ điều đình tới địa-giới khác, cả Càn-Khôn Vũ-Trụ huyền bí vô biên không tỏa đặng. Ấy là một phẩm-vị Thể-Thiên Hành-Hóa cầm quyền Tạo-Đoan, không có điều gì họ không làm đặng.
Cái quyền ấy như đàng cựu chúng ta nói: "Tiền trảm hậu tấu". Họ nịnh có, trung có; nhưng chúng ta muốn tìm bạn mực thước tinh-thần nghị lực, trí não huyền bí, nơi Cung Thể-Thiên Hành-Hóa có cảnh nào mà không có, ta thấy hoàn cảnh phủ phê Pháp-Giới, không sở năng nào thiếu thốn. Địa-cầu này muốn đủ thì họ bảo bọc cho tồn tại không thể thiếu Pháp-Giới nào./.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 18-08-Mậu Tý nhằm ngày (dl. 20-09-1948).
(*1) Nơi đoạn thứ 4: ... Trái lại có một điều vẫn giữ Thể Pháp của họ cho dễ nhìn: Như chúng ta gặp Bát Tiên y như trong tượng vẽ không thay đổi mấy, đặng, thiên hạ nhận ra cho đặng. Bởi trong thâm-tâm cao-siêu ấy cho chúng ta tìm phương đoạt tánh... ...
Nguyên bản chánh in là: ... Trái lại có một điều vẫn giữ Thể Pháp của họ cho dễ nhìn: Như chúng ta gặp Bát Tiên y như trong tượng vẽ không thay đổi mấy, đặng, thiên hạ cho đặng. Bởi trong thâm-tâm cao-siêu ấy cho chúng ta tìm phương đoạt tánh... ...
CON ĐƯỜNG THIÊNG LIÊNG HẰNG SỐNG: Bài 03
Đức Hộ-Pháp
Thuyết-Đạo tại Đền-Thánh, đêm 08 tháng 9 năm Mậu-Tý (10-10-1948)
Đêm nay Bần-Đạo giảng tiếp con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống, chúng ta đã đình bộ tại Cung Thể-Thiên Hành-Hóa, ngày nay giảng về Cung ấy.
Chúng ta đi tới nữa sẽ gặp cảnh ly kỳ, nhứt là buổi giảng Đạo hôm nay, cốt yếu giảng cho cả Chức-Sắc Thiên-Phong là các phần-tử trong Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn đó vậy. Chúng ta tiến tới mãi đi trên con đường đó xa vô cùng tận, không thể gì định thời gian, chúng ta tới nữa, thử nghĩ, chúng ta ngồi trên chiếc máy bay như thế nào thì đi theo cơ huyền-diệu-pháp như thế ấy. Ngồi trên cơ huyền-diệu-pháp tức là ngồi trên chiếc xe bí-mật của Chí-Tôn để đến một đài sáng suốt chiếu diệu. Đài ấy có tám góc kêu là Bát-Quái-Đài không thể gì chúng ta tả ra với lời nói đặng. Bởi đài ấy huyền-bí biến hóa vô cùng, nó có tám cửa, trong tám cửa chúng ta ngó thấy cả Vạn-Linh và Vật-Loại, các hình thể Vạn-Linh đều xuất hiện hình ảnh sáng suốt hiện ra hào quang chiếu diệu. Trong tám góc có tám cái cầu. Lạ thay, cầu ấy không phải bằng cây ván, mà nó là tám đạo hào-quang. Cầu ấy bắt ngang bờ. Dưới cầu ấy chúng ta ngó thấy dường như một Bích-Hải nước xao, sóng dợn như biển sôi nổi đó vậy. Trong tám góc chúng ta thấy đó, chắc cả thảy đều để ý nơi góc ta đến, thấy nhơn-loại đi tới đi lui nhiều hơn hết.
Lạ thay, cầu ấy rất huyền-diệu, ai đứng đó được mới biết mình nhập vô Bát-Quái-Đài. Lúc để bước lên cầu, cầu ấy chuyển đi, làm cho chúng ta phải yếu, đi không đặng. Chúng ta muốn thối bộ. Khi chơn vừa bước tới chính mình ta ngó thấy dường như mình yếu đi nhưng người nào bước tới cũng đặng. Đi được nửa chừng nếu không đủ thiên-vị, hay vì tội tình oan gia nghiệt chướng chi mà chúng ta đã đào tạo nơi mặt thế này, chúng ta đi tới nữa cầu sẽ bị lọt xuống Bích-Hải. Lọt xuống đó rồi ta thấy hồi lúc đi, còn ở trên cầu, chúng ta thấy hình ảnh còn đẹp-đẽ tốt tươi, hễ lọt xuống Bích-Hải rồi chúng ta thấy hình thù đen thui dị hợm lắm, ta không thể tưởng-tượng, còn hơn loài mọi kia tối đen như vậy. Tội nghiệp thay khi ta thấy nơi ấy, có nhiều bạn đồng tu với ta, những bạn chung sống với ta ở trong lòng Đức Chí-Tôn đó vậy. Chúng ta may duyên được ngó thấy mình ngồi trên chỗ cao trọng để làm người khán giả, dòm thấy người bạn của chúng ta lâm vào cảnh ấy, dầu ai vững tâm thế nào tôi tưởng khó cầm giọt lụy đặng. Ngộ-nghĩnh có một điều là không khi nào sai chạy. Bần-Đạo dám quả quyết rằng: Không có điều nào qua Pháp-Luật vô biên ấy, chúng ta ngó thấy mỗi việc nơi thế gian này ta nên lấy làm bài học đặng định tâm chúng ta, đặng tu tỉnh tinh-thần ta cho nên chí thiện, chí Thánh, hầu xứng đáng làm phần-tử Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn, đừng mộng tưởng một hành tàng nào trong kiếp sống thế-gian này của ta có thể khuất lấp qua khỏi quyền Thiêng-Liêng của Đức Chí-Tôn được.
Ta minh-mẫn, sáng suốt, biết phân biệt tội phước đặng định số phận Thiêng-Liêng, quyết hẳn rằng không có điều nào khuất lấp Luật-Pháp Thiêng-Liêng của Đức Chí-Tôn đã định cả.
Bần-Đạo may duyên đặng thấy hình trạng ấy, chúng ta không thể gì định hành-tàng người này hay, người kia dở, người này nên, người kia hư, nhiều điều ta ngó thấy trong cảnh này khác hẳn với khuôn luật vô hình, chúng ta chẳng thể nào đoán trước được. Bần-Đạo thấy người bạn nhờ ơn Thiêng-Liêng của Đức Chí-Tôn, ơn riêng ban cho người bạn ấy, Người ấy có Người chí thân là một Đấng cầm quyền trọng hệ trên Hư-Linh tức là Diêu-Trì-Cung Thất-Nương, Bần-Đạo nói rõ, Người ấy là Vương-Quang-Kỳ chú ruột của Thất-Nương vậy. Người mở Đạo mà chẳng biết Đạo là gì hết. Đi theo một tư-tưởng của nền chánh-giáo do Đức Chí-Tôn định quyết tư-tưởng của Người ấy và cả hành-tàng, nếu chúng ta thấy ta sẽ lên án là Tả-Đạo Bàn-Môn chắc hẳn vậy.
Lạ thay! Khi Bần-Đạo quay lại dòm thấy nhiều bạn rơi xuống Bích-Hải khóc lóc, còn người đó bận Thiên-Phục giống hình đội mão Giáo-Sư, lại áo tốt vắt vai, mão cầm nơi tay, bận quần cụt ở trần đi ngật-ngờ, ngật-ngưỡng cười một mình không biết cười cái gì, đi ngang qua Bát-Quái-Đài như không vậy.
Ấy các bạn đủ biết, dầu hành tàng của người bề hữu-vi thấy trái hẳn nền chơn-giáo Đức Chí-Tôn mà trọn tâm tín-ngưỡng Ngài, ta đoán không đặng, người thọThiên-Phục áo mão dầu không thế gì mặc vô được, duy cầm nơi tay đi ngang vô Bát-Quái-Đài không quyền-lực nào ngăn cản được. Chúng ta nên (*1) lấy bài học ấy đặng để trong tâm, đừng phê-bình công kích. Thoảng ta có phận sự dạy-dỗ để dìu-dắt cả các phần-tử Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn, và chúng ta có được quyền lấy oai-nghiêm của mình tìm phương thế nào dạy-dỗ đặng hiểu biết về phần hình-thể và phần hồn của toàn con cái Đức Chí-Tôn, ngoài ra không có quyền gì công kích, tự kiêu, mình bất quá là một phần-tử trong Thánh-Thể Ngài mà thôi, không đặng quá tự-tôn tự-trọng, cửa Thiêng-Liêng, chúng ta có những linh hồn, thoảng may duyên tạo nhiều linh hồn nữa, tức nhiên ta có đủ quyền năng, dìu dắt con cái của Đức Chí-Tôn trở về trong đường lối khai phá của Người, ấy là phận sự của chúng ta đó.
Phận sự, khi nào gọi đến phận sự thì không có quyền sở hữu chi riêng của mình nơi đó, chẳng phải quyền hành riêng tư của mình, thì không có lý do được tự-kiêu, tự làm phận sự, nếu nói chánh đáng nữa, thì ta bất quá là cái máy Thiêng-Liêng của Đức Chí-Tôn, mạnh yếu tại nơi người điều khiển, không phải tại chúng ta có quyền tự-chủ tự-kiêu gì mà đọat được. Chúng ta có quyền thay thế làm Thầy làm Cha của con cái Đức Chí-Tôn, chúng ta không có quyền làm chủ sự đày đọa họ bắt làm nô lệ. Chẳng phải vì công-nghiệp vĩ-đại hay là công-nghiệp tối cao của mình mà trở lại khi rẻ các chơn-linh xuống thế-gian này, nếu các bạn không giữ cho nó công-bình ấy cũng không phương thoát khỏi tội đó. Bởi nó là phương-pháp trị loạn vậy.
Có điều thảm trạng hơn hết là có nhiều kẻ đi đến nơi, biết mình đi không được đến bờ, khóc lóc rồi trở lại. Cả thảy tưởng-tượng coi họ cốt yếu tái kiếp làm người để trả oan- nghiệt của họ là vì lẽ đó./.
Phụ ghi:
(*1) Nơi đoạn thứ 7: Ấy các bạn đủ biết, dầu hành tàng của người bề hữu-vi thấy trái hẳn nền chơn-giáo Đức Chí-Tôn mà trọn tâm tín-ngưỡng Ngài, ta đoán không đặng, người thọThiên-Phục áo mão dầu không thế gì mặc vô được, duy cầm nơi tay đi ngang vô Bát-Quái-Đài không quyền-lực nào ngăn cản được. Chúng ta nên lấy bài học ấy đặng để trong tâm, đừng phê-bình công kích....
Nguyên bản chánh in là: Ấy các bạn đủ biết, dầu hành tàng của người bề hữu-vi thấy trái hẳn nền chơn-giáo Đức Chí-Tôn mà trọn tâm tín-ngưỡng Ngài, ta đoán không đặng, người thọThiên-Phục áo mão dầu không thế gì mặc vô được, duy cầm nơi tay đi ngang vô Bát-Quái-Đài không quyền-lực nào ngăn cản được. Chúng ta đến lấy bài học ấy đặng để trong tâm, đừng phê-bình công kích....
Chúng tôi mạn phép trình bày như trên cho rõ nghĩa hơn.
CON ĐƯỜNG THIÊNG LIÊNG HẰNG SỐNG: Bài 04
Đức Hộ-Pháp
Thuyết-Đạo tại Đền-Thánh, đêm 12 tháng 9 năm Mậu-Tý (14-10-1948)
Bần-Đạo giảng tiếp con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống. Kỳ trước Bần-Đạo đã đi đến Bát-Quái-Đài, tưởng cả thảy đều nhớ. Hôm trước Bần-Đạo chỉ giảng về bài học của chúng ta khi vượt qua khổ hải để đến Bát-Quái-Đài.
Hôm nay, Bần-Đạo giảng tiếp, tại sao chúng ta lên Bát-Quái-Đài bằng con đường khác hơn con đường những kẻ đã đến. Vì những kẻ khác bị một cây cầu ngăn cách giữa khổ hải và Bát-Quái-Đài, cầu ấy buộc họ không thể gì đến Bát-Quái-Đài, phải thối bước, sự thảm trạng của họ không thể gì tả được, sự thối bước đó diễn tiến trước mắt, chúng ta không có người nào cầm giọt lụy của mình đặng, ngó thì đau khổ vô ngần.
Vậy kiếm hiểu coi: Bát-Quái-Đài ấy là gì? Phải chăng là Tòa-Tam-Giáo của Đức Chí-Tôn, do Thánh-Ngôn để lại, chúng ta quan-sát coi trạng thái. Muốn đến Bát-Quái-Đài chúng ta phải qua ao Ô-Trì chúng ta thấy, Bát-Quái-Đài nó thù lù ở dưới trồi lên trước mặt chúng ta, chúng ta thấy hình nó giống như cây cột có tám cửa vậy. Cột đài ấy có tám cửa là Thất-Đầu-Xà, có bảy đầu trong tám cửa ngăn cản các chơn hồn không cho vào Bát-Quái-Đài duy chỉ chừa có cửa Phật mà thôi. Cả bảy cửa kia Quỉ giữ không cho ai qua lại, không có lực quyền nào đi ngang qua đặng, chúng ta dòm phía dưới thấy Đại-Hải mênh mông, nước cuồn-cuộn xanh như biếc, sóng dợn ba đào, mỗi làn sóng có đề chữ "Khổ". Chúng ta chia ra đi trên ấy, chúng ta thấy dợn hào-quang nổi lên dữ tợn lắm; mấy chữ lớn là: Sanh, Lão, Bệnh, Tử, làn sóng dợn lên rồi hạ xuống, mỗi làn đều có một chữ "Khổ", chúng ta thấy đau khổ trong buổi sanh, thấy làn sóng rồi chúng ta thấy khổ nhục, khổ dữ lắm, mỗi làn sóng đều thấy khổ, thử nghĩ Đại-Hải như thế nào thì khổ hải là cả nước của chúng ta như thế ấy.
Nếu chúng ta xin phép Đức Chí-Tôn vô đài ấy, chúng ta biết trước rằng: Đó là Tòa Tam-Giáo Ngọc-Hư Cung, chúng ta được hiểu trước hết, nếu Chí-Tôn cho vô thì chúng ta chẳng phải đi ngang qua cầu như những người kia vậy con đường ta đi khác hơn. Chúng ta tưởng rằng: Đường Bần-Đạo dắt cứ đi, đi trên con đường Hằng-Sống. Con đường này khác hẳn với con đường kia, chúng ta dung rủi trên con đường Thánh cho nên chúng ta muốn đến tức nhiên sẽ đến.
Chí-Tôn có Bát-Quái-Đài, chúng ta ở ngoài thấy mênh-mông hào quang chiếu diệu một nhà tám cửa. Khi chúng ta vô rồi đài ấy biến mất, chỉ còn Càn-Khôn Vũ-Trụ chung quanh chúng ta. Đài ấy vẫn xây, xây mãi, mà ta biết rằng đài ấy là Tòa-Tam-Giáo, chúng ta không thấy cái trạng thái hình thể nó ra sao. Khi chúng ta đến hào quang chiếu diệu xông lên làm như ngọn lửa vậy.
Lửa ấy chẳng phải là lửa thật, nó là hào quang, cho ta thấy trước rồi nó biến mất đi, kế thấy một cây cân Công-Bình hiện ra trước mắt chúng ta rồi cũng từ từ biến mất. Chúng ta thấy mình chẳng khác nào như khán giả đứng trước đài kia coi cả kiếp sanh chúng ta, từ trước nó sẽ có trước mắt chúng ta, không điều gì sót, phải chăng nơi ấy kinh Phật nói là Minh-Cảnh-Đài? chớ không phải kiếng, trước mặt chúng ta, chúng ta thấy, khi trước chúng ta làm những việc gì nay nó sẽ chiếu lại cho xem chẳng khác gì như mình xem tuồng hát bóng vậy.
Mỗi khi mình hành động gì trong kiếp sanh khi xưa hôm nay đều ngó thấy trước mặt, và cân ấy tùy theo nên, hư, tội phước mà hiện tượng ra hết thảy, quyết đoán một cách công-bình không sai chút nào hết, phải chăng đó là huyền-bí của Tòa Thiêng-Liêng ấy. Vậy hành tàng đã có trước mắt, luật Tam-Giáo chẳng hề sai chạy. Kiếp sanh đã làm gì Đời hay Đạo, mặt Luật Thiêng-Liêng không sót một điều, chúng ta muốn coi cái Bí-Pháp sửa trị ra sao, đi vô đó thì biết. Những người khác, họ đi đường nào, chúng ta không ngó thấy, khi vô trong Đài rồi họ cũng như mình, đồng thể như mình, nếu họ vô rồi không phân biệt họ được nữa, ngó thấy quyền-pháp trong Đài ấy tình trạng rất ngộ-nghĩnh hào quang chiếu diệu, khi bước lên cây cầu đứng rồi thấy chung lộn với nhau, vạn vạn người đi ngang qua đấy. Có một điều ngộ-nghĩnh là chúng ta ngó thấy Nam hóa Nữ, Nữ hóa Nam không còn hình ảnh nữa, đến bây giờ trong Đài ấy hiện ra hai ánh lửa: Nếu người nào thiếu lòng thương yêu không biết thương mình, không biết thương người, nếu phạm vào luật thương yêu ấy thì dầu Nam cũng phải hóa Nữ, Nữ đã trọn kiếp tu thật hành nghiêm luật thương yêu đó thì đặng hóa Nam. Có một điều ta nên để ý là không biết lúc nào họ ra cửa, khi họ ra không biết họ ra cửa nào, chúng ta ra chỉ biết mình thôi, không thể gì đoán được mấy người kia, nếu có đoạt phẩm-vị họ chỉ biết lấy họ mà thôi, họ thành Tiên, thành Phật cũng tại đó, khi họ ra Nam hóa Nữ nếu họ có tội tình gì thì bắt họ phải trở lại đầu kiếp.
Dầu cho hình luật định, họ phải đầu kiếp, nhưng họ còn quyền duy chủ của họ nữa không có quyền luật nào buộc họ phải đầu kiếp liền được, họ đặng vô Đài ấy 1.200, 2.400 tới 3.000 năm ở đó an nghĩ vui hứng, ngày giờ nào biết ta có thể đầu kiếp trở lại, đặng chuyển Pháp, đến giáo Đạo, hành Đạo, chừng ấy chúng ta ra khỏi Niết-Bàn đặng đầu kiếp. Ngày ấy chúng ta định cho chúng ta chớ không phải Ngọc-Hư-Cung định cho chúng ta, ta có quyền tự chủ khi đã định nơi cõi Hư-Linh, còn khi mang xác phàm này rồi thì mình không định được nữa. Có nhiều Đấng Thiêng-Liêng đến trọn một kiếp sanh mà không làm gì được lại phải đầu kiếp. Ấy vậy chúng ta nên kể trong sử của chúng ta từ thử đến giờ, nhứt là Đạo-Giáo họ để tâm-thần tìm cho nhơn-sanh một thuyết, thuyết không đúng với chơn-lý Thiêng-Liêng chút nào, họ lập thuyết là phân chúng sanh ra Nam Nữ, làm ra khuôn-khổ "Nam Nữ thọ thọ bất thân", cả nền Tôn-Giáo tạo ra Pháp-Giới bất công là Nữ bao giờ cũng chịu thiệt thòi hơn Nam.
Đạo vợ chồng ở trên thế gian này chúng ta nên cẩn thận để ngày kia về đến Bát-Quái-Đài khỏi thất lỗi với vợ, nếu người vợ đối tròn bổn-phận với mình thì họ được hóa Nam, chừng ấy là người bạn mật thiết với chúng ta, thoảng như chúng ta làm sai với bạn chúng ta, thì ngày kia bạn ta trách ta rằng: Tôi xuống trần chung sống với bạn, những cảnh khổ bạn không dìu dắt tôi, bạn còn hân-hủi tôi nữa, câu trách ấy ta phải chịu không thể gì trả lời được.
Vì cớ cho nên Phật-Giáo cho Nữ đồng quyền Nam, tôi nói quả quyết rằng: Chừng nào chúng ta thấy nơi mặt thế này đoàn em Nữ phái mình biết sợ, kiêng nể Pháp-Luật thì nó cũng như Nam vậy. Nếu bạc đãi nó, hủy bỏ nó không dìu-dắt đồng sống nhau, ngày giờ đến Bát-Quái-Đài nó hóa Nam dòm lại nó là người bạn quí nhứt của mình, cũng chịu đau khổ trọn kiếp sanh, chúng ta tưởng lấy làm đau đớn không giúp được, trái lại còn khi rẻ gớm ghiếc, chúng ta đến sẽ thấy chỗ đó không còn Nam Nữ nữa. Hư-Linh kia quả quyết rằng: Có nhiều bạn Nam ta quen biết, đầu kiếp Nữ tại thế-gian này, không biết là bao nhiêu, nhiều lắm. Có các Đấng cao siêu đến Ngươn Tứ-Chuyển này đặng tạo hình các chơn-hồn, họ xuống tại thế đặng chuyển thế, dầu Nam Nữ ở các Cung cũng đến tại thế gian này, làm đàn bà đặng thay các sắc dân ấy, để chuyển thế, chơn thật nơi cõi Hư-Linh kia không phân biệt Nam Nữ, Đức Chí-Tôn nói: Nam không được lấn quyền hành hơn Nữ, Nam Nữ đều con của Đức Chí-Tôn hết, nói như thế ta biết không có gì lạ./.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 12-09-Mậu Tý nhằm ngày (dl. 14-10-1948).
CON ĐƯỜNG THIÊNG LIÊNG HẰNG SỐNG: Bài 05
Đức Hộ-Pháp
Thuyết-Đạo tại Đền-Thánh, đêm 19 tháng 9 năm Mậu-Tý (21-10-1948)
Đêm nay chúng ta rủ nhau dục-tấn trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống, trước Bần-Đạo đã đắt chư Hiền-Hữu, chư Hiền-Muội vào Bát-Quái-Đài chung chịu với các bậc Quỉ-Nhân, hay Nguyên-Nhân, tưởng khi chúng ta vào đó mỗi đứa chắc hẳn rằng sẽ được gặp nhiều người bạn quen có thâm tình yêu mến chúng ta. Trước khi chúng ta ra khỏi Bát-Quái-Đài rồi không còn hình-thể nhơ-nhớp như trước nữa, bỏ bảy khí chất tạo thành hình-thể chúng ta, nhờ đi ngang qua Bát-Quái-Đài, bước Thiêng-Liêng ấy, Bần-Đạo tả cho chúng ta rõ con đường đi ấy không phân biệt Nam-Nữ, còn cả thảy hình-hài thể-chất chúng ta nhờ huyền-diệu ấy mà tiêu hủy, nó biến thành đạo hào-quang. Chúng ta dòm lại, Bần-Đạo quả quyết rằng chúng ta tưởng như thể xác này là gió bụi, chúng ta không còn mặc một mảnh áo, hay mảnh vải gì khác nữa, chúng ta trở nên trầm lộn với đạo hào-quang vinh diệu kia che phủ, khi chúng ta ra khỏi Bát-Quái-Đài rồi thấy vui sướng chúng ta không tả được, phải chăng nơi ấy là nơi chúng ta đã đoạt đặng Thánh-Thể ta, nhà Phật gọi "Tiên-Phong Đạo-Cốt", khi ra khỏi Bát-Quái-Đài, các bạn chúng ta ở trong Bát-Quái-Đài không có người nào là không bạn với chúng ta, chẳng bao lâu nữa các vị ấy là thân nhơn của chúng ta, đây rồi chư Hiền-Hữu, chư Hiền-Muội còn ba điều vui hơn nữa, ba hạnh phúc mà chúng ta không bao giờ hưởng được nơi mặt thế này. Chúng ta đi, chúng ta dục tấn tới con đường Thiêng-Liêng ấy, con đường này là con đường chúng ta phải đi. Duy có một điều đi trên con đường chúng ta đã đi, con đường quen này chưa gặp trong Bát-Quái-Đài có người nào ác hết, dầu biết hay không biết chẳng hạn, khi về cảnh ấy không Đấng nào xa lạ với chúng ta, không phải một loài với chúng ta, mà lại trong Bát-Quái-Đài có cả thân nhân chúng ta đó vậy.
Một điều chúng ta sẽ ngạc nhiên hơn hết là: Chúng ta đi trên con đường Thánh này thấy những hạng lãnh-đạm ấy cũng mừng rỡ cũng vui thấy nhau vậy, nhưng không bằng những người đi qua cầu Bát-Quái-Đài rồi, khi chúng ta tưởng-tượng các Đấng ấy thì họ sẽ nghinh tiếp mừng rỡ chúng ta, mừng rỡ một cách nồng-nàn như người thân nhân của họ vậy, và họ còn ứa lụy nữa. Trong Đài tiếp rước mừng rỡ tôn trọng ấy, chúng ta chưa thấy vị Đế-Vương nào tại thế-gian này mà hưởng được đặc ân ấy.
Chúng ta tự hiểu rằng: Cõi Thiêng-Liêng Hằng-Sống kia không phải để rước những vị Chí-Thánh mà thôi, mà cảnh Thiêng-Liêng vinh diệu kia thoảng chúng ta biết tự tu thân giải oan nghiệt, tội chướng, thì đoạt đặng chơn huệ tinh-thần của chúng ta vậy. Một điều chúng ta đừng tưởng họ ganh-ghét chúng ta, sự vinh-hiển của họ có bao nhiêu thì mình cũng được vui hưởng bấy nhiêu như họ vậy, tới cửa đó hết sự ganh-ghét, giành-giựt, hiềm thù với nhau, cảnh đó là cảnh vui hưởng hạnh-phúc chung với nhau, chúng ta thấy vật loại cũng có tình đời với chúng ta, có một cảm-tình không thể gì tả đặng, như loài chim chóc, thú cầm, cây cối, đều có để (*1) trong tinh-thần của chúng ta một thâm tình quen biết nồng-nàn đặc-biệt với nhau, con người ở thế gian này gọi Nam thanh, Nữ tú, nhưng Bần-Đạo quả quyết rằng: thế gian này không có, nếu có thì cũng chẳng đẹp bằng, ở trên đó không người nào không xinh, nơi cảnh ấy không cần gì ăn mặc, họ muốn thì hiện tượng có, tỷ như mình muốn cái gì đẹp thì có cái nấy, nhứt là mấy cô nhỏ muốn chi đặng nấy, cái kiếp chúng ta nơi cảnh này là cảnh giả, chúng ta đoạt ý muốn một điều vui hơn nữa là những người thiếu-thốn nơi mặt thế này nếu họ đoạt vị được thì ngày đó họ vui hưởng biết bao nhiêu. Chúng ta đến nữa xa xa dòm tới một phương trời xanh thấy một Vân-Động đẹp vô- biên, vô-giới, không tả bằng mực hay bút nghiên được, Vân-Động ấy hữu tình nồng- nàn với chúng ta làm sao đâu!
Chúng ta thấy xa xa kia phất-phới một cây phướn theo chiều gió phất-phơ, màu chiếu diệu, đầy hào-quang, mà cây phướn ấy lại quen, phướn ấy là tình cố hữu với chúng ta nữa.
Bần-Đạo dám nói chắc rằng những kẻ nào gốc-gác ở Tây-Ninh này đã lìa khỏi xứ sở lâu rồi, đến khi về tới Trảng-Bàng trực lên ngó thấy hình dạng Núi Bà xanh ngắt kia, bắt nhớ lại mọi cảnh đáo để. Bần-Đạo nói cái tình của mình đối với cây phướn trước mặt kia, có muôn triệu sự mến yêu. Bởi vậy nên chúng ta ngó thấy, thấy rồi dường như kẻ ấy muốn chạy sao cho mau đến Tây-Ninh, đến đặng thấy Tòa-Lầu nguy-nga chớn chở đẹp đẽ vô cùng. Tại đó cũng biến hóa vô biên nào nhà nghề, nào nhà kiến-trúc, làm cho cả tinh-thần phải gẫm nghĩ xem mê man, không có họa đồ nào vẽ được hết. Chúng ta thấy bước qua nền bên kia chúng ta đi đó chẳng phải cát đất, nó là hào-quang chiếu diệu, chúng ta vô Tòa-Lầu-Các ấy đủ các hạng người chúng ta quen thuộc hồi trước.
Bần-Đạo chẳng cần nói cả thảy cũng đều biết, nội bao nhiêu đó chúng ta sẽ biết cảnh đó thế nào, chúng ta được gặp bạn thân yêu không còn e lệ Nam Nữ, kìa bạn ôi! bạn thân mến, không có gì ngần-ngại nữa, tình thương chúng ta sống lại, ân-ái chập chồng, anh em xác thịt đối với cảnh ấy nó không nghĩa lý gì hết.
Bần-Đạo nói rằng cái luật thương yêu ấy nó hiện tượng ra không phải vô nhơn-đạo, nó hiện tượng tình hạnh-phúc lớn lao làm cả mấy người dòm thấy hiểu hạnh-phúc, vui hưởng cái tình ấy, họ để cái thâm tình nơi cảnh ấy, có một điều quyền-năng vô tận mà chúng ta không hưởng được, chúng ta không thể hưởng được cảnh ấy nơi thế-gian này. Ngộ-nghĩnh thay tỷ như chúng ta đã lưu-lạc cõi xa, khi Bần-Đạo về đến, thấy cảnh ấy, thấy nó nồng-nàn thâm-thúy biết bao nhiêu, họ mừng rỡ tiếp rước, Bần-Đạo nói, nơi cảnh ấy chúng ta muốn gì đều có trước mắt, nên giờ khắc này, chúng ta vừa tưởng muốn người bạn nào thì sẽ có người bạn ấy ngay. Bần-Đạo căn dặn một điều, đặng ngày sau về cõi Thiêng-Liêng khỏi ân-hận là: vợ chồng với nhau, Bần-Đạo nói đồng ý-kiến hay không, là về tâm-lý để về đến cõi ấy rồi ân-hận.
Bần-Đạo khó tả được vì sự thương yêu của họ còn mặn nồng yêu ái hơn nữa, những hạnh-phúc đã qua họ rớt giọt nước mắt đau thương, trong thế-gian làm người một trăm năm, còn cảnh kia đời đời kiếp kiếp. Chúng ta đi tới, vô cửa, họ sẽ dắt chúng ta đi tới nữa thấy vui hớn hở vào thân ta, không biết vui hưởng thế nào có phải chăng là nhờ nơi cửa Đạo.
Gọi là Cực-Lạc Thế-Giới, ngoài cảnh đó ra Bần-Đạo chưa tìm được cảnh nào hơn cảnh ấy, chỉ có nơi đó mà thôi Phật gọi là Cực-Lạc Thế-Giới.
Chúng ta vào trong cũng thấy một cái Ngai, đến trước Ngai vinh diệu ấy, chúng ta vừa dòm lên dường như có một Đấng, Đấng ấy chúng ta có thể gọi là Bà Già, nếu chúng ta tưởng một vị Tiên-Nữ thì có một vị Tiên-Nữ, muốn thấy già thì già, muốn thấy trẻ thì trẻ, rất huyền-diệu, chúng ta được vào, vô thấy bà mẹ mình.
Ông Nội, dòm lên cũng thấy Mẹ, cháu nội dòm lên cũng thấy mặt Mẹ, bởi vậy cho nên cả tình ái của mình đều thấy cả nghiệp năng yêu-ái của mình. Ở thế-gian này, Mẹ hay chửi mắng, rầy la, khi chúng ta về cảnh ấy thấy người Mẹ có nhơn tình làm sao đâu, chớ không phải như các Bà Mẹ ở thế-gian này vậy.
Hễ khi thấy Bà rồi cả tình ái xưa không thể gì tả ra hình-trạng được, rồi tình ấy buộc chúng ta dầu đứa nào cứng đầu bao nhiêu mà khi thấy cái thâm-tình cao trọng của Bà Mẹ cũng phải đổ lệ, rơi châu, Bần-Đạo dám chắc có nhiều người tin Đạo, hiểu Đạo mà chưa biết. Thử hỏi Đức Di-Lạc Vương-Phật, dầu Ngài đến bực cao trọng bao nhiêu cũng là con, nghe ra dường như Chưởng-Quản các nơi, do quyền của Đức Di-Lạc. Còn Phật-Mẫu nơi Cung Tạo-Hóa-Thiên là Mẹ của chúng ta, có một điều Bần-Đạo chẳng dám nói. Muốn biết cái tình Mẹ yêu con thế nào? Chúng ta thấy tượng của Phật-Mẫu, Đức Di-Lạc quì đằng sau lưng chấp hai tay đưa lên đó, dầu Bần-Đạo không tả hai nghĩa lý ấy cả thảy cũng đều hiểu quyền-năng bực nào, nghĩa là "Mẹ cũng vẫn là quyền Mẹ".
Trái ngược lại cầm quyền vi chủ mà Bần-Đạo làm con phải hiếu hậu vi tiên, quyền năng ấy cũng để là Mẹ./.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 19-09-Mậu Tý nhằm ngày (dl. 21-10-1948).
(*1) Nơi đoạn thứ 3: ... chúng ta thấy vật loại cũng có tình đời với chúng ta, có một cảm-tình không thể gì tả đặng, như loài chim chóc, thú cầm, cây cối, đều có để trong tinh-thần của chúng ta một thâm tình quen biết nồng-nàn đặc-biệt với nhau,... ...
Nguyên bản chánh in là: ... chúng ta thấy vật loại cũng có tình đời với chúng ta, có một cảm-tình không thể gì tả đặng, như loài chim chóc, thú cầm, cây cối, đều có thể trong tinh-thần của chúng ta một thâm tình quen biết nồng-nàn đặc-biệt với nhau,... ...
Chúng tôi mạn phép trình bày như trên cho rõ nghĩa hơn.
CON ĐƯỜNG THIÊNG LIÊNG HẰNG SỐNG: Bài 06
Đức Hộ-Pháp
Thuyết-Đạo tại Đền-Thánh, đêm 26 tháng 9 năm Mậu-Tý (28-10-1948)
Hôm nay Bần-Đạo giảng tiếp dục tấn trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống.
Trước khi tiếp Bần-Đạo nói rõ cái chí hướng của Bần-Đạo thế nào mà từ trước đến nay Bần-Đạo giữ căn bản đặng rủ các bạn đi cùng Bần-Đạo trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống.
Cả thảy các bạn Nam cũng vậy Nữ cũng vậy, có một điều làm cho Bần-Đạo ái ngại lo-lắng hơn hết. Trước khi mở nền Đạo đã có định phận đặng đi độ những chơn-hồn Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn, nhứt là đối với mấy anh mấy chị niên cao, kỷ trưởng. Bần-Đạo lo-lắng với nhiều điều hơn hết, vì cớ cho nên Bần-Đạo giảng dục tấn trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống, cốt yếu là để cho có địa vị trước mặt cả Thánh-Thể Đức Chí-Tôn, nhứt là mấy anh mấy chị lớn biết con đường đi, hiểu rõ thấy trước mặt dường như mình đã biết rồi, định tinh thần, đừng mờ mệt, áy náy, sợ sệt, ngập ngừng, đường mình đi quen tức nhiên mình đặng, đặng mình đi mạnh bước trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống.
Bần-Đạo cùng các bạn kỳ trước đã ghé nơi Tạo-Hóa-Thiên tức Tòa Thiên-Cung Phật-Mẫu là Diêu Trì Cung. Bần Đạo có nói một điều làm cho chúng ta nên suy nghĩ nhiều là: "Huyền-bí vô biên của Phật-Mẫu".
Bần-Đạo nói sơ lược huyền năng thế nào, mà khi chúng ta vào kiến diện Ngài, ta ngó trên mặt Ngài ta thấy mặt Bà Mẹ ta, sanh ta, đương như buổi sống, đương lo buổi trở về, Bần-Đạo tưởng ngó thấy Bà Mẹ sanh Bần-Đạo, tưởng cả thảy cũng đều ngó thấy người Mẹ của họ vậy.
Nếu lấy theo cái trí học tưởng-tượng không biết con mắt Thiêng-Liêng có chiếu hình Mẹ ta chiếu diệu ra không? Hay là huyền-diệu vô biên của Phật-Mẫu cho chúng ta thấy như vậy.
Bà Mẹ hình hài chúng ta đây, là nhơn-viên của Đức Phật-Mẫu bên phái Nữ đó.
Phái Nữ rán để tâm nghe điều ấy, là nhân-viên mật thiết của Đức Phật-Mẫu, trước khi đã để tại thế-gian này một hình-hài vào lòng mình sản-xuất, tức nhiên là Phật-Mẫu đã giao quyền năng Tạo-Đoan trong tay mình đó vậy.
Chẳng cần nói cái vinh-diệu của người đàn bà khi người con ấy nên người, biết dục tấn trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống.
Mình về tại Cung Diêu-Trì dòm lên thấy tượng ảnh của mình, không vinh-diệu nào bằng, cái vinh-diệu ấy, có điều trọng hệ là dầu Nam, Nữ cũng vậy rán giữ một điều này, coi chừng đừng thất hiếu với cha mẹ. Ngày mình ngó thấy hình ảnh của Đức Phật-Mẫu thì thấy người Mẹ nhơn từ, hiền-hậu vô cùng, hạnh-phúc mình được hưởng đó, còn trái ngược lụng lại nếu ta thất hiếu, ta dòm vào hình ảnh của Phật-Mẫu, ta thấy nét mặt nghiêm-nghị và lãnh đạm, chúng ta sẽ hết sức đau khổ đó.
Bây giờ, chúng ta đi vô đến cảnh ấy, muốn cái gì đặng cái nấy, vì cớ cho nên Đức Phật Kim-Cang, khi đoạt Đạo có đi vào cảnh ấy để một câu "Thơ tượng hành khúc" là chơn-thần ấy vậy. Bởi nơi cảnh ấy, hễ mình tưởng cái gì, muốn cái gì, thì được cái nấy. Nếu mình chưa thỏa mãn trong mấy ngàn kiếp sanh thuở trước mà khi mình được hữu hạnh, hữu phước, về đến Phật-Mẫu được, thì chừng ấy chúng ta muốn cái gì nó sẽ hiện ra để làm cho chúng ta thỏa mãn cái tinh thần, cũng như cái hạnh phúc ở thế gian này vậy.
Loài người tìm mãi hạnh-phúc của kiếp sanh, mà trong kiếp sanh, không bao giờ đoạt được, chúng ta có thấy, khi trước trong Đạo-Sử để lại nếu chúng ta muốn biết Đạo Minh-Châu chúng ta đều ngó thấy trước mắt, có một điều kẻ nào có đi thì mới biết, còn tánh tọc mạch nghe nói nơi Diêu-Trì-Cung có Vườn Ngạn-Uyển mà Vườn Ngạn-Uyển ấy ra sao? Trong kinh luật có nói mỗi mạng sanh con người đều có hiện tượng một bông nở trong Vườn Ngạn-Uyển, mỗi khi bông ấy héo rụng tức nhiên là có một người chết, tại thế này gọi là chết chớ không phải chết. Loài người không bao giờ chết cả, chết ấy là chúng ta thay một cái áo để ngoài, vào nhà tắm, tắm rồi ta mặc lại nữa, sự sống chết như thay đổi cái áo kia vậy thôi. Trước mắt chúng ta, hiện-tượng hào quang chiếu diệu một vườn hoa, đẹp-đẽ đủ màu, vườn hoa ở cảnh Thiêng-Liêng ấy, không phải như vườn hoa ở thế-gian này đâu. Bông hoa Thiêng-Liêng ấy sẽ sống một triệu lần, do nơi quyền-năng biến hóa của nó, và nó sẽ hiện-tượng biến hóa trước mặt ta vô cùng tận vậy. Bởi vì nó thay đổi màu sắc rực- rỡ vô biên, cho nên mỗi phen kiếp sanh tại thế này, đường tấn hóa trên con đường trí-thức tinh thần, mỗi khi nhơn-loại tấn triển lên thì Vườn Ngạn-Uyển nó sẽ đổi hình đổi tướng một cách đẹp-đẽ vô ngần.
Nghe trong kinh luật nói: Nơi ấy là nơi Vạn-Linh hay nơi Ngọc-Hư-Cung hoặc là nơi Cực-Lạc Thế-Giái, nếu chúng ta tưởng-tượng thì nó sẽ hiện-tượng ra trước mặt chúng ta, có một điều là kẻ tọc mạch muốn đi tới đặng biết cái hướng của mình thế nào?
Khi dòm lại thế-gian phía sau lưng hiện-tượng trước mặt chúng ta dường như con sông đại-hải và thấy bờ sông bên kia người ta đứng muôn trùng thiên số không thể nào đếm được. Còn phía xa mù tịch bên bờ sông đông đảo vô cùng, mắt ta không thể nào trông thấy và đếm được, chúng ta thấy xa xa thiên hạ vô số bên kia bờ họ đương khóc than đau khổ vô cùng, có một điều làm người tọc mạch ngạc nhiên hơn hết là: không biết họ sao mà đông đảo. Bên bờ sông bên nây Nam cũng có, Nữ cũng có, bên bờ sông bên kia Nam cũng có Nữ cũng có, nhưng họ cứ dòm chừng nhau ở bên mé Thiên-Cung, họ buồn rầu như lo lắng, như đợi chờ ngày tái kiếp, muốn đi nữa đặng mà sống. Thương thay người mé bên kia sông dòm qua mé bên nây sông, thấy họ thảm đạm khóc lóc, buồn rầu, không biết bao nhiêu mà kể.
Nam cũng vậy Nữ cũng vậy, rán để tâm mà nghe một điều này là một điều bí-mật trọng yếu cho kiếp sanh, nên hiểu kìa. Ở mé bên nây thiên hạ hào-quang chiếu diệu đẹp- đẽ vô cùng, còn ở mé bờ bên kia sông, thấy hình thể họ khô khan đau thảm tiều-tụy và buồn rầu.
Hỏi vậy bên này làm gì dòm bên kia lại khóc, bên kia dòm qua bên nây lại đau khổ, đó là luật thiên-nhiên vẫn có một, vì luật thương yêu mà những người đứng bờ sông bên kia dòm qua, bên nây dòm lại, là những người trước kia đã có tình thương yêu với nhau mà những khi có sự trắc trở nhơn tình nên họ bị quả kiếp mà họ phải tự sát lấy họ. Người đàn bà nào tự vận hay người đàn ông nào tự sát rồi người nào có thiệt lòng thương yêu chơn thật ấy, trước đã xuống Uổng-Tử-Thành để đầu kiếp mà trở lại căn quả vì không trọn căn số của mình còn niên kỷ bao nhiêu cũng phải trở lại đầu kiếp, vừa đến tuổi cập kê Nam Nữ đôi bên vừa có tình-dục đã phát động ra thì là chết, làm cho chết, dầu hai đàng đứng trước mặt nhau cũng không khi nào làm chồng vợ với nhau đặng. Chừng ấy người trọn lòng thương yêu chơn thật thì Đức Phật-Mẫu siêu độ cầu rỗi với Đức Chí-Tôn đem vào cảnh Thiêng-Liêng Hằng-Sống, còn người nào không biết tình thương, thương bằng tình giả dối xảo trá phải đầu kiếp trao lại từ người.
Kiếp người hữu-hình, đời người vô-hình, xây nhau cả năm mười kiếp, thiên trùng đau đớn đáo để. Nếu biết con đường Thánh vào ở nơi đó, thì trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống là con đường Đạo hay là con đường giác-ngộ mà thôi.
Chúng ta dòm bên kia thấy họ đau khổ họ chỉ mong cái ước vọng của họ đoạt thành, nhưng tuyệt vọng! Họ cũng phải đành chịu vậy thôi. Chúng ta ngó thấy tình-trạng này làm cho kẻ ấy ngày đêm mơ-mộng, họ ước mong sao qua khỏi con sông ấy. Bần-Đạo tưởng là Ngân-Hà sông đó vậy. Chúng ta dòm xuống mặt sông bờ bên nây giữa con đường khi chúng ta phải đi ngang qua đó dòm lại thấy Bát-Quái-Đài đứng giữa không trung.
Con sông ấy có tám đạo hào-quang mù-mịt chiếu ra tám cửa, chúng ta dòm tiếp trong các hào-quang đều có tượng hình ảnh vạn-vật cả thảy.
Bên bờ sông kia có một chiếc thuyền, thuyền ấy của Đức Phật-Quan-Âm Bồ-Tát đã vâng lịnh Đức Di-Lạc-Vương-Phật đi độ sanh, thuyền ấy thường qua qua lại lại, vì cớ cho nên bờ bên nây ngó bờ bên kia như mơ-mộng để trông chờ, tôi tưởng bài học này ai biết được quyền-năng vô biên ấy, ngó lại kiếp sống của mình, ngó thấy cả trạng thái đương nhiên, nó không phải là cảnh phàm này vậy. Mà mãi từ thử đến giờ, làm người ai có biết kiếm chỗ thật của mình không?
Hại thay, họ không biết họ sống, họ không biết kiếp sanh của con người khổ não là thế nào./.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 26-09-Mậu Tý nhằm ngày (dl. 28-10-1948).
CON ĐƯỜNG THIÊNG LIÊNG HẰNG SỐNG: Bài 07
Đức Hộ-Pháp
Thuyết-Đạo tại Đền-Thánh, đêm 29 tháng 9 năm Mậu-Tý (31-10-1948)
Ngày nay chúng ta lại tiếp tục tiến bước trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống.
Kỳ rồi Bần-Đạo rủ cả thảy các bạn đi Cung Diêu-Trì, chúng ta lại còn rủ nhau ra trước Cung Diêu-Trì dòm trở lộn lại xem cảnh tục của chúng ta, vừa thoát qua coi thế nào? Bần-Đạo chỉ nói nơi xa-xăm của chúng ta đi qua, chúng ta thấy hình-trạng Bát-Quái-Đài, dưới chân có Thất-Đầu-Xà, và dưới mình của Thất-Đầu-Xà là khổ hải tức là cảnh trần của chúng ta vậy. Bên kia có liên tiếp mật thiết vô một nẻo sông Ngân-Hà, rồi Bần-Đạo chỉ cho hiểu rằng, từ khổ hải ấy về cảnh Thiêng-Liêng Hằng-Sống phải đi ngang qua Ngân-Hà, có một chiếc thuyền Bát-Nhã của Đức Quan-Âm Bồ-Tát, vâng lịnh Đức Di-Lạc Vương-Phật chèo qua lại sông Ngân-Hà và khổ hải đặng độ sanh thiên-hạ.
Có một điều chúng ta để ý ngó lại tám cửa Bát-Quái-Đài xuất hiện ra tám hào-quang chiếu diệu rực-rỡ và xây tròn trong tám hạng sanh linh, đều có đủ tám cửa có Bát-Hồn hiện ra đủ hết: Vật-Chất, Thảo-Mộc, Thú-Cầm, Nhơn-Loại, Thần, Thánh, Tiên, Phật.(*1) Chúng ta thấy các Đẳng chơn-hồn ấy rải khắp trong Càn-Khôn Vũ-Trụ, có điều đặc-sắc chúng ta để ý dòm coi người ta thế nào? Chúng ta ngó thấy các vật loại, nhứt là hạng bất động-vật cũng vẫn bình-tịnh trong đạo hào-quang ấy, xuất hiện ra mà không xao-xuyến dữ tợn, ra khỏi một phần ba đường, bề xa xuôi của nó chúng ta không thế gì đoán đặng, tỷ như ra khỏi cửa ấy ba bực, chơn-hồn ấy vẫn còn có thứ-tự, ra ngoài nữa thì lộn-xộn. Phải chăng nơi ấy Đạo-Giáo cho là Kim-Bàn đó vậy, tức nhiên là nơi các chơn-hồn hiện ra, còn các chơn-hồn nữa, chúng ta ngó thấy trên đầu mỗi người có một đạo hào-quang, đặc sắc hơn nữa là, trong ấy hiện ra một điểm linh-quang hiển hiện chơn-tánh kiếp sanh họ tức nhiên là vị Phật, chúng ta quan-sát tìm hiểu ngó thấy trong mỗi người chúng ta có ba món đặc-sắc mà Đức Chí-Tôn đã để vào hình ảnh con người là: Tinh, Khí, Thần, thật ra thì ba vật là: Thú, Người và Phật. Thỉnh-thoảng có dịp Bần-Đạo sẽ giảng-giải điều ấy cho biết nguyên-căn của người xuất-hiện nơi nào, đến đây để làm gì, và chết rồi đi đâu?
Phải chăng cái cảnh của Đức Phật Kim-Cang đã đoạt vị (Vô thọ thường thức Diêu-Trì) chúng ta đến đó ngó thấy tinh-thần tư-tưởng hiện-tượng, chúng ta thấy bất quá là tin- tưởng Đạo-Giáo, Bần-Đạo dám chắc người nào đi tìm Đạo mà có tâm định tưởng là thấy ngay, chớ nếu đi theo Đạo Chí-Tôn dìu-dắt tới đâu thì hay tới đó, thành ra không phải tin tưởng, thì cái thế-giái vô-hình là con đường đã mở để dìu-dắt cả toàn nhơn-loại trong Càn-Khôn Vũ-Trụ, không thấy được.
Chúng ta thiết nghĩ Đức Chí-Tôn mở Đạo cho chúng ta biết phân biệt Bí-Pháp chơn-truyền đặng đi theo Ngài, hay là theo thú, vì thi hài chúng ta là thú không thể gì chối cãi được.
Nếu chúng ta quan-sát trong cái bí-mật huyền-vi của Thiêng-Liêng Tạo-Hóa từ trong phẩm Tiểu-Hồi đến Đại-Hồi, tới phẩm Thần, Thánh, Tiên, Phật, thì con đường ấy đi không biết bao nhiêu thời gian mà nói, thật sự từ hồi mới tạo trái địa-cầu này, tức nhiên mỗi địa-hoàn mới phôi thai, chúng ta có thể tính nó là 700 triệu năm. Tiểu-Hồi đã đến tại mặt thế gian này tạo hình ảnh vật loại thú cầm, cho nên cốt cách nhơn-phẩm, từ trong giác-hồn đi cho đến linh-hồn, tính ít nữa cũng 100 triệu năm. Con thú chúng ta đang mang nơi mình đây là con kỵ vật nó lăn-lóc, chết sống nơi mặt địa-cầu này, tới chừng nào nó có đặng nhứt điểm linh-tâm, thì Đại-Hồi chúng ta đến nhập thể-phách của nó là thú thì nó tranh sống đủ điều, phải ăn phải mặc, đồng sanh dưới mặt địa-cầu này đặng bảo tồn sanh mạng, phải đối phó với áp-lực Tạo-Đoan như: lửa, nước, gió, mưa, nóng nực, thú dữ v.v...
Loài người cũng dữ đã bảo tồn sanh mạng thì chiến-đấu không biết bao nhiêu là chiến-đấu, với tánh đức thú đã qua chẳng biết bao nhiêu thời gian chiến-đấu đặng sống. Con người giữ được nhơn-phẩm thì đừng để con thú ấy nó dữ đặng nó bảo-tồn mình, tức nhiên nó sẽ đày đọa mình. Mình ở giữa trên kia là Chí-Tôn, dưới đây là thú, hỏi mình có đủ linh-tánh bảo tồn danh-thể khỏi phải theo ai chăng? Không lẽ mình theo thú, thú là cái khí, cái khí là sự sáng-suốt khôn ngoan là linh-tâm mình vậy.
Nơi trí mình đây, đương nhiên bây giờ, chúng ta thấy cả huyền-vi bí-mật của Tạo-Đoan, một ngày kia không khỏi trí óc của loài người có điểm quang-minh cực kỳ, họ sẽ đoạt được huyền-vi ấy, bởi trí họ quá khôn ngoan, vì vật-chất, trí ấy dục họ vô Đạo, phản loạn lại linh-tâm và dục tánh, phản lại Tạo-Đoan. Chính mình đứng trong hạng quyền-năng, tức nhiên khí ấy là quyền-năng khôn ngoan ấy, do Đấng Tạo-Đoan ban cho, mà Đấng Tạo-Đoan, tức nhiên là Đức Chí-Tôn vậy. Chí-Tôn ban cho chúng ta hưởng cái khôn ngoan hơn vạn loại mà loài người thường phản lại với Tạo-Hóa, trở nên tự-kiêu, tự-đắc, sách Thánh, sách Phật nói: "Cái khôn ngoan của người là quỉ". Hèn chi Ông Bà mình nhất là An-Nam, hễ khi nào thấy đứa nào xảo trá ngang ngược họ nói: "Thằng đó quỉ quái", Cái khôn ngoan của mình là quỉ nếu nó dìu đường mình đi theo nó thì mong gì đoạt được ngôi vị cao trọng đối phẩm Thần, Thánh, Tiên, Phật mà Chí-Tôn đã hứa.
"Nếu các con có thể hơn Thầy, thì Thầy cũng hạ mình cho các con đoạt được ngôi vị", ấy là hàng phẩm của Đức Chí-Tôn đối cả Chơn-Thần.
Hại thay, họ không muốn nghe và không muốn biết, bởi không dám biết mình sợ e cho họ không biết, nên Quỉ tánh họ dục theo con đường thú, thành thử ra cái tấn tuồng tương-tàn, tương-sát nhau tại thế-gian này đương nhiên, chúng ta thấy tình-trạng khổ sở trước mắt là do nơi loài người mất nhơn-phẩm mà theo tùng phục con thú, làm nô-lệ cho nó rồi họ chiến-đấu sát hại nhau như con thú rừng. Tương-tàn, tương-sát nhau mà giành sống, đó là bài học để cho chúng ta biết, và Bần- Đạo còn thuyết nhiều nữa, hôm nay chỉ nói sơ lược đặng mở trí để kỳ tới chúng ta có thì giờ đặng dục tấn trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống./.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 29-09-Mậu Tý nhằm ngày (dl. 31-10-1948).
(*1) Nơi đoạn thứ 3: Có một điều chúng ta để ý ngó lại tám cửa Bát-Quái-Đài xuất hiện ra tám hào-quang chiếu diệu rực-rỡ và xây tròn trong tám hạng sanh linh, đều có đủ tám cửa có Bát-Hồn hiện ra đủ hết: Vật-Chất, Thảo-Mộc, Thú-Cầm, Nhơn-Loại, Thần, Thánh, Tiên, Phật.,...
Nguyên bản chánh in là: Có một điều chúng ta để ý ngó lại tấm cửa Bát-Quái-Đài xuất hiện ra tám hào-quang chiếu diệu rực-rỡ và xây tròn trong tám vạn sanh linh, đều có đủ tám cửa có Bát-Hồn hiện ra đủ hết: Vật-Chất, Thảo-Mộc, Thú-Cầm, Nhơn-Loại, Thần, Thánh, Tiên, Phật....
Chúng tôi mạn phép trình bày như trên cho rõ nghĩa hơn.
CON ĐƯỜNG THIÊNG LIÊNG HẰNG SỐNG: Bài 08
Đức Hộ-Pháp
Thuyết-Đạo tại Đền-Thánh, đêm 05 tháng 10 năm Mậu-Tý (05-11-1948)
Ngày nay Bần-Đạo giảng tiếp cuộc dục tấn trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống. Hôm trước Bần-Đạo rủ các bạn đình lại nơi Bát-Quái-Đài để xem cái bí-mật huyền-vi của cơ tạo. Chỗ ấy là toàn cả chơn-thần của vạn loại, biến tướng ra tạo thành Càn-Khôn Vũ-Trụ.
Bần-Đạo không cần tỏa, duy lấy cái bí-mật huyền-vi mà làm bài học, ngày nay Bần-Đạo tỏa hình tướng nó ra cho rõ-ràng coi có phải Phật-Giáo gọi Kim-Bàn là đó chăng? Chúng ta day mặt ngó lại nơi cõi trần là khổ hải, liên hệ với sông Ngân-Hà, cõi Thiêng-Liêng thì giòng Ngân-Hà, có chiếc thuyền Bát-Nhã, người ngồi dưới thuyền ấy là Đức Phật Quan-Âm Bồ-Tát, vâng lệnh Đức Di-Lạc Vương-Phật, để đưa rước các chơn-linh đoạt Đạo. Bần-Đạo xin tỏa Đài Bát-Quái ấy nó huyền-vi bí-mật làm sao. Trong tám cửa xuất hiện ra 8 phẩm chơn-hồn, nó xây tròn như bánh xe, chúng ta thấy chẳng khác cây đèn pha nơi mé biển, hễ có xây thì thấy 8 đạo hào-quang chiếu diệu khắp cả Càn-Khôn Vũ-Trụ. Cái tôn nghiêm không thể tỏa, mặt Thiêng-Liêng huyền-bí vĩ-đại làm cho kinh khủng sợ-sệt, bởi hào-quang chiếu diệu ấy nó lẫn lộn trong khối sanh-quang. Cái hình-trạng các chơn-thần như chúng ta thấy ở mặt thế-gian này vậy. Dầu thú-cầm, nhơn-loại, thảo-mộc, chơn-thần hình tượng nó vẫn tốt đẹp như thường, không phải như xác thịt thú-chất chúng ta vậy. Hễ 8 đạo hào-quang ấy soi tới đâu thì 8 phẩm chơn-thần đều cuồn-cuộn chiếu diệu ra, lớp thì đi, lớp thì về, lớp vô, lớp ra, muôn trùng vạn điệp không thể gì tưởng-tượng được.
Vả chăng, trong Càn-Khôn Vũ-Trụ có nhiều Tam-Thiên Thế-Giái, Tứ-Đại Bộ-Châu, Thất-Thập Nhị-Địa, ngoài cảnh giới ấy, thế-giái này qua thế-giái kia, có nhiều thế-giái chưa biến hình-tướng cả thế-giái, chưa có Vạn-Linh Vũ-Trụ. Chúng ta lấy sự so-sánh gọi là chủ quyền hơn hết là trong phần 72 trái địa-cầu có nhơn-loại ở, chúng ta tưởng-tượng trái đất này bề ngang có 10 ngàn cây số, chúng ta chỉ lấy một tấm ban-gian chúng ta cân thử thế giái chỉ xa chúng ta 280 cây số, mà xa trái đất có một tấc thôi. Chư Hiền-Tỷ, chư Hiền-Muội tưởng-tượng Càn-Khôn Vũ-Trụ lớn vĩ-đại, lấy mặt Thiêng-Liêng mà thấy càng sợ-sệt, thì ngoài ra không thể nào chúng ta thấu đáo đặng những chơn-hồn biến hóa ra Vạn-Linh. Chúng ta ngó lại coi, trước Diêu-Trì-Cung, nguy-nga đẹp-đẽ vô cùng, bên mặt có thế-giái, bên trái cũng có thế-giái chẳng khác, nơi cung giữa cũng chiếu diệu hào-quang như trước mặt chúng ta đó vậy.
Tưởng cả thảy muốn biết trước Diêu-Trì Cung, ba Cung ấy là gì? Bần-Đạo nói rõ: Cung giữa trước Diêu-Trì-Cung, là Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa, bên mặt là Cực-Lạc Thế-Giái, bên trái là Ngọc-Hư-Cung.
Tuy vân chúng ta thấy, với con mắt Thiêng-Liêng Bần-Đạo nói quả quyết rằng: Đường xa muốn đoạt đến muôn trùng xa thẳm chúng ta thấy đặng là vì tại Cung-Diêu-Trì chúng ta muốn cái gì thì được cái nấy. Muốn đoạt đến Bát-Quái-Đài như chúng ta thấy khi nãy chẳng phải dễ. Kim-Bàn chúng ta thấy con đường muôn trùng mà không thể gì quan-sát và tưởng-tượng được, bây giờ chúng ta chung vô cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa, rồi lần-lượt qua hai Cung kia. Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa, Đức Chí-Tôn để ở thế-gian này cho chúng ta hiểu biết hai chữ Hiệp-Thiên đem để trong cửa Đạo, tức nhiên đem hình-tượng để nơi mặt thế-gian này. Ấy là nơi ngự của Tam-Trấn Oai-Nghiêm, là nơi của các Đấng Trọn Lành đóng đô tại đó. Chẳng phải nơi mặt địa-cầu này thôi, trong Tam-Thiên Thế-Giái, Thất-Thập-Nhị Địa-Cầu cũng vậy, đều có đại-diện của mình nơi đó đặng để bào chữa tội cho Vạn-Linh sanh chúng.
Bần-Đạo nói nơi đây chẳng khác gì ở nơi cõi trần này, như các chỗ Tòa-Án để làm việc vậy. Các Đấng Trọn-Lành mới được về đó làm đại-diện cho Vạn-Linh, phải có đặc quyền mới vào được Cung ấy.
Dầu Thần vị, Thánh vị, hay Tiên vị, Phật vị cũng phải đoạt được cấp bằng Trọn-Lành mới vào Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa. Cung ấy đặc biệt để binh vực Vạn-Linh sanh chúng. Bần-Đạo tưởng Đức Chí-Tôn lập Hiệp-Thiên-Đài tại thế này rất ngộ-nghĩnh thay! Có một điều là khi Bần-Đạo vào thì thấy họ niềm-nỡ, Bần-Đạo dám chắc nơi miệng họ, khi thấy mình đến đó hiểu được và biết được như có lời yếu thiết, họ muốn nói với mình rằng: Về nếu có thể nói lại với sanh chúng tức là nhơn-sanh, hiểu rằng cái án của kiếp sanh họ nơi Hiệp-Thiên Hành-Hóa đã có nhiều, chúng ta đã đảm nhiệm nhiều nỗi khó khăn, ước ao sao các bạn hiểu luật nhơn-quả Thiêng-Liêng, quyền Thiêng-Liêng thưởng phạt là gì? Định quyền Thiêng-Liêng đặng về nói lại, thuyết lại dỗ-dành họ cho biết rằng nơi cõi Hư-Linh còn có kẻ chí thân vẫn hằng ngày cầu nguyện và xin tội cho mọi người. Nơi Ngọc-Hư Cung rất nghiêm khắc, nơi Cực-Lạc Thế-Giới khó khăn mà các bạn đều có binh vực và dìu đường mở lối cho họ đi, đặng các bạn có một điều tu tỉnh đặng nối gót theo Đức Chí-Tôn, tận hiếu với Ngài tận trung cùng Thánh-Thể Ngài.
Cả anh em nơi Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa đủ phương chước, đủ quyền hành để bảo tồn con cái Đức Chí-Tôn, họ biết tự-trọng họ, thì chẳng quyền-năng nào ép họ đặng.
Bần-Đạo tưởng, từ thử tới giờ, chưa có nền Tôn-Giáo nào công-chánh, nhơn-từ và đặc sắc công-bình là quyền Thiêng-Liêng vô cùng, vô tận. Tưởng lại tiếng hứa của Đức Chí-Tôn "Tận độ" chúng-sanh không phải quá đáng vậy. Có lẽ phương-pháp khó khăn ấy, Đức Chí-Tôn định quyền năng dầu thế-giái vô-hình cũng vậy mà thế-giái hữu-hình cũng vậy.
Các bạn duy có tu mà thành, tu hành thì không ai có quyền-hành nào biếm nhẻ các bạn, và không có quyền-hành nào bỏ rơi các bạn. Nhớ hằng ngày tưởng-tượng tới lẽ ấy, để tâm hăng-hái đặng làm bửu-bối mà theo chơn Chí-Tôn cho trọn Đạo./.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 05-10-Mậu Tý nhằm ngày (dl. 05-11-1948).
CON ĐƯỜNG THIÊNG LIÊNG HẰNG SỐNG: Bài 09
Đức Hộ-Pháp
Thuyết-Đạo tại Đền-Thánh, Thời Tý, đêm 08 tháng 10 năm Mậu-Tý (08-11-1948)
Bần-Đạo ngày nay thuyết vấn-đề có liên-hệ với Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa.
Chúng ta kỳ trước đã ghé nơi Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa, đã hội đàm cùng các Đấng Trọn-Lành, các Đấng cứu rỗi nhơn-loại toàn cả Càn-Khôn Vũ-Trụ.
Có một điều trọng hệ, đương buổi này là buổi náo nhiệt, tại sao? Tại mãn Hạ-Ngươn Tam-Chuyển, Thiên-Thơ đã định Long-Hoa Hội, Thánh-Giáo Chí-Tôn nói: "Các con phải chung cùng nhau, tức nhiên lập Long-Hoa Hội, định vị cho các chơn-linh trong kỳ Hạ-Ngươn Tam-Chuyển này, định vị cho họ đặng mở Thượng-Ngươn Tứ-Chuyển cho các chơn linh". Ngài mở Long-Hoa Hội ấy, tức nhiên là Ngài định chấm rớt đậu cho các chơn-linh vậy. Vì cớ cho nên chúng ta ngó thấy có huyền-vi bí-mật nơi mặt thế này, Đức Chí-Tôn đến mở Đạo ngày nay, chúng ta có thấy oan-gia nghiệp-chướng phải trả liền buổi này, không cho thiếu, trả mãn mới thôi.
Bần-Đạo đã thuyết-minh dầu cho một cá nhân, một quốc-gia, hay cả toàn thiên hạ, mỗi nơi đều có quả kiếp của mình, đương hiện-tượng, tấn tuồng chúng ta thấy than thở, nạn nồi da xáo thịt, cốt nhục tương tàn, sát hại lẫn nhau, nguyên do không có gì lạ, cái tấn tuồng loạn Tây Sơn buổi nọ thế nào, tấn tuồng này cũng vậy. Quả kiếp của nước Việt-Nam vay trả đó là xong. Vì cớ cho nên Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa nắm quyền nhơn-loại cả Càn-Khôn Vũ-Trụ nhiều trái địa-cầu, duy có trái-địa cầu 68 này các chơn-linh ở Hiệp-Thiên Hành-Hóa, khổ tâm hơn hết là lo trái địa-cầu này phải chịu oan gia của Hạ-Ngươn Tam-Chuyển. Ấy vậy Bần-Đạo đã thuyết-minh từ buổi mới khởi đoan, chúng ta dắt nhau đi trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống.
Bây giờ chúng ta để dấu hỏi (?) Vì cớ nào cả toàn cầu nhơn-loại buổi này sanh hỗn loạn, náo nhiệt, tương-tàn, tương-sát nhau? Vì có tấn tuồng ấy mà cả nền chánh-trị thế- giới Quốc-Gia nào cũng chinh nghiêng, xiêu đổ. Nguyên do tại chỗ nào? Ta tìm hiểu trước rồi mới để ý truy nguyên căn nhơn-quả của trái địa-cầu 68 này, mới có thể hiểu được con đường tấn bộ trong cõi Thiêng-Liêng Hằng-Sống. Con vật nó còn chung sống cùng xã-hội, tức nhiên hiệp-chủng cùng nhau đặng sống . Loài thú có nhiều giống, nó tự-chủ lấy nó, dầu cho côn trùng, thú vật, hay ngư điểu, có nhiều loại đã sống tự-chủ lấy nó được. Nhơn- loại là người, chẳng hề khi nào sống riêng mình được, tại sao? Tại cái thương yêu ràng buộc trong phương sống, con người chỉ lấy trí khôn ngoan tức nhiên cái thiên-lương mình đặng chung hiệp.
Nói về mưu trí bảo vệ sanh mạng mình là cái mưu trí con người không đủ, lấy luật sống để làm căn-bản, thì con người thua nhiều hơn con thú lắm. Bần-Đạo thường nói thua mà sợ, nào kêu là Ông Cọp, Ông Voi, Ông Sư Tử v.v...
Nhiều con thú mà con người sợ như vậy, nên lập xã-hội đặng bảo vệ cho nhau, tức nhiên có lập luật xã-hội, quây-quần chung sống cùng nhau, mới có tinh-thần vững chắc. Mà con người bao giờ cũng vậy, họ chẳng hề khi nào định phận họ phải đối trả lại xã-hội nhơn quần. Trái lại, trí khôn ngoan để mâu-thuẫn, lường gạt xã-hội mà thôi. Ăn gian xảo mị, con người có thể qua mặt xã-hội được, nhưng luật công-bình Thiêng-Liêng căn quả chẳng hề khi nào chúng ta qua mặt đặng. Vì cớ trái-chủ, oan-gia là tự chúng ta tạo nghiệp nơi kiếp sanh của chúng ta đã nương theo đặng sống, đặng bảo vệ sanh mạng mình mà ra. Mình còn mượn cái sống cả vật loại đặng làm phương sống, phải ăn mới sống, phải mặc mới lành, nếu nhơn-loại trần-lổ thì dở hơn con thú nữa, con thú không có manh quần tấm áo, nó tìm phương thế che để sống, mà hễ nương sống, tìm sống tức giết nhau đặng giành sự sống. Con người nếu giành sống như con vật tức nhiên phải sát nhơn đặng bảo vệ sanh mạng mình. Tấn tuồng ấy chúng ta thấy hiển nhiên trước mắt. Bần-Đạo chức-vụ Thiêng-Liêng là Hộ-Pháp, Bần-Đạo vấn-nạn các Đấng Thiêng-Liêng buổi ban sơ, không thể gì con người có thể đầu kiếp làm thú. Các Đấng Thiêng-Liêng trả lời dè-dặt: Khi tôi tưởng có nhiều chơn-linh không đáng địa-vị nhơn-phẩm, Chí-Tôn vẫn ban ơn cho, làm thế nào cho có sự tấn-hóa toàn-thể. Còn nhơn-phẩm trở lại, tấn tuồng ấy có hai lẽ, hoặc đứng chựng phẩm người tấn tới mà hễ ta đứng không đặng phải thối bộ, mà con người đã thối bộ, tức nhiên con người trở lại thú rồi!
Chơn-lý ấy để lại có lẽ thiên-hạ quả quyết không xứng đáng bảo thủ. Kỳ dư nếu buổi Hạ-Ngươn này định Long-Hoa Hội, Chí-Tôn đã đau khổ về con cái của Ngài biết bao nhiêu, Đấng Cha Lành Thiêng-Liêng ấy đã thảm khổ dường nào vì con cái của Người. Ta tưởng-tượng từ tạo-thiên-lập-địa tới giờ không có nhơn-loại nào nơi mặt địa-cầu nào được hưởng hồng-ân đặc-biệt như chúng ta ngày nay vậy.
Nhơn quần xã-hội đồng sống cùng nhau tức nhiên ta phải có định chủ-quyền, từ lúc còn ăn lông, ở lổ dĩ chí ngày nay, muốn bảo vệ phương sống, cất nhà trên ngọn cây, rồi tạo ra hang ổ, rồi thỉnh-thoảng làm nhà. Hồi buổi ấy duy có sợ thú dữ, ở trong hang coi chừng không thấy thú gì dữ mới dám chạy ra bưng, ra ruộng tát cá đem nấu ăn. Rồi coi chừng không có con gì dữ hại đến tánh mạng, chạy ra cuốc đất trồng khoai đặng nuôi sống. Có nhiều khi sợ thú dữ, không dám chung ra khỏi hang, bị ba thằng điếm nó lén ăn cắp của mình, rồi mình yếu hơn nó, không thể gì bảo vệ sanh mạng được phải chịu thua, rồi cập bầy, cập bọn, hễ nó làm được bao nhiêu củ thì tao mầy hiệp nhau giành lấy. Một mình mầy đánh không lại nó, tao hiệp với mầy đánh nó, đứa này kiếm hai, ba người, đàng kia tìm bốn năm người hiệp nhau đánh giết tàn phá. Thành ra Mán, Mọi kia chưa chắc bảo thủ cả sanh mạng đặng, duy sợ chúng đánh trước rồi cùng phương, hết thế mới chịu thua, rồi phải phục lụy làm tay chơn nô lệ, bọn này làm chủ bọn kia, tổng-số lại làm xã-hội, quốc-gia nguyên do là vậy.
Từ thử tới giờ, muốn giữ trật-tự công-bình, bảo vệ mạng sống chung cho nhau có phương công-lý, tức nhiên có định chủ-quyền. Chủ-quyền hồi trước, mỗi nơi có một vị đủ trí-thức, đủ tài tình, đủ mạnh mẽ làm chủ nơi Mán, Mọi. Khi lập quốc phải tôn sùng, cung kỉnh vị làm Chúa của nước, tức nhiên chúng ta đã thấy sau này vậy. Nhờ kiến-thiết, nhờ định phận có nghiêm-luật, như ở Nhật Bổn có khuôn khổ buổi ban sơ, bảo vệ sanh mạng nhân dân, cân giữ công-chánh, cái khuôn khổ làm chúa của Mán, Mọi, dĩ Chúa quốc-gia, làm chủ sanh mạng toàn-thể quốc dân, nó đã định vận của toàn quốc-gia Mán, Mọi vậy. Tấn tuồng ấy chúng ta thấy hiển nhiên bây giờ còn dấu tích mà buổi đó theo Mán, Mọi một quốc-gia không có khó như bây giờ, nhơn-trí buổi ấy hiền lương, Thánh-Đức của họ không xảo trá, không hung ác, không như vào thế-kỷ hai mươi này, chịu ảnh hưởng của Thiên Chúa Giáo, trí-lự khôn ngoan của nhơn-loại đi quá xa, không phương thế trị an đặng. Vì cớ cho nên chánh quyền thường bị đánh đổ. Họ nói gì công chúng kêu gọi đại đa số nhân-dân cướp chánh-quyền lập lại chánh-trị.
Ngày nay chúng ta thấy cả toàn mặt địa-cầu này đều xu hướng theo dân-chủ, dân-chủ là gì? Là đại đa số dân chúng tổng họp lại nắm chủ-quyền, mà ảnh-hưởng cũng do đại đa số đó cầm vận mạng mặt địa-cầu này. Hại thay có nhiều hạng người không đủ tinh-thần học-thức hay không đủ tâm-đức cầm sanh mạng nhơn-loại, thảo nào ta trông thấy(*1) phương tranh-đấu ai mạnh là hơn, làm Chúa thiên-hạ với phương xảo mị, không phải làm chúa loài người theo phương-pháp tối cổ. Nhơn-loại để lại cái giống loạn, cả tinh-thần toàn-thể trên mặt địa-cầu này đều loạn, chỉ vì không có quyền vi-chủ.
Vì cớ cho nên vận mạng nước nhà không chủ-quyền đặc biệt, không quyền vi-chủ, tức nhiên phải loạn. Có loạn đương nhiên bây giờ họ mới biết, họ tự hiểu có quyền vi-chủ ấy, mới cầm vững quốc vận, nhưng quyền vi-chủ họ đã đập tan nát hết rồi. Bây giờ họ tìm-tàng phương thế đào tạo chủ-quyền ấy mới ra tấn tuồng ngày nay, chúng ta ngó thấy nhơn-loại đương mong chiếm đoạt quyền ấy đặng bảo tồn vận mạng cho nước được tồn tại.
Bây giờ nhơn-loại đương chạy kiếm chủ-quyền, chủ-quyền ấy dầu nó thế nào, nó cũng không thể tồn tại được. Vì cớ cho nên Đức Chí-Tôn đến, Đức Ngài nói: "Phương-pháp tạo quyền của nhơn-loại không thể gì bền vững được. Ta coi các người đập tan tành hết. Ta đến cho lại. Ta chỉ đường cho".
Đường Đức Chí-Tôn chỉ là con đường Pháp-Chánh vậy.
Ngày giờ nào trên mặt địa-cầu này, quốc-gia xã-hội nhơn-quần biết tìm chủ-quyền đặc-sắc vĩnh-cửu, công-chánh, tức phải đồ theo Pháp-Chánh của Đạo Cao-Đài, tạo hình tướng chánh-thể quốc-gia,(*2) có lẽ ngày giờ đó thiên-hạ mới thấy, chủ-quyền Đạo Cao-Đài định thật quyền cho quốc-gia, và cho toàn nhơn-loại, Bần-Đạo nói Pháp-Chánh có năng lực đào tạo quyền hành cho nhơn-loại. Khá sửa lại, chỉnh đốn lại, ít nữa muốn đoạt được món báu ấy, nhơn-loại phải tự-tỉnh, định vi-chủ trước lấy mình; dầu cho cá nhân, quyền sở-hữu tự-chủ của họ cũng do nơi đạo-đức tạo thành vậy.
Ấy vậy ngày giờ nào nhơn-loại trở lại con đường đạo-đức đặng giải kiết, gầy dựng phương-pháp sống, mới sống vinh-quang, sống ôn tồn hạnh-phúc, ngày giờ nào tiêu diệt được quả kiếp hung tàn, trở lại con đường đạo-đức, ngày giờ ấy quốc-gia mới yên ổn, ngày giờ ấy thiên-hạ mới hưởng hồng-ân đặc-biệt của Đức Chí-Tôn ban cho./.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 08-10-Mậu Tý nhằm ngày (dl. 08-11-1948).
(*1) Nơi đoạn thứ 11: Ngày nay chúng ta thấy cả toàn mặt địa-cầu này đều xu hướng theo dân-chủ, dân-chủ là gì? ... ... ... Hại thay có nhiều hạng người không đủ tinh-thần học-thức hay không đủ tâm-đức cầm sanh mạng nhơn-loại, thảo nào ta trông thấy phương tranh-đấu ai mạnh là hơn, làm Chúa thiên-hạ với phương xảo mị, không phải làm chúa loài người theo phương-pháp tối cổ....
Nguyên bản chánh in là: Ngày nay chúng ta thấy cả toàn mặt địa-cầu này đều xu hướng theo dân-chủ, dân-chủ là gì? ... ... ... Hại thay có nhiều hạng người không đủ tinh-thần học-thức hay không đủ tâm-đức cầm sanh mạng nhơn-loại, thảo nào ta không thấy phương tranh-đấu ai mạnh là hơn, làm Chúa thiên-hạ với phương xảo mị, không phải làm chúa loài người theo phương-pháp tối cổ....
(*2) Nơi đoạn thứ 15: Ngày giờ nào trên mặt địa-cầu này, quốc-gia xã-hội nhơn-quần biết tìm chủ-quyền đặc-sắc vĩnh-cửu, công-chánh, tức phải đồ theo Pháp-Chánh của Đạo Cao-Đài, tạo hình tướng chánh-thể quốc-gia, có lẽ ngày giờ đó thiên-hạ mới thấy, chủ-quyền Đạo Cao-Đài định thật quyền cho quốc-gia, và cho toàn nhơn-loại,...
Nguyên bản chánh in là: Ngày giờ nào trên mặt địa-cầu này, quốc-gia xã-hội nhơn-quần biết tìm chủ-quyền đặc-sắc vĩnh-cửu, công-chánh, tức phải đồ theo Pháp-Chánh của Đạo Cao-Đài, tạo hình tướng Thánh-Thể quốc-gia, có lẽ ngày giờ đó thiên-hạ mới thấy, chủ-quyền Đạo Cao-Đài định thật quyền cho quốc-gia, và cho toàn nhơn-loại,...
Chúng tôi mạn phép trình bày như trên cho rõ nghĩa hơn.
CON ĐƯỜNG THIÊNG LIÊNG HẰNG SỐNG: Bài 10
Đức Hộ-Pháp
Thuyết-Đạo tại Đền-Thánh, đêm 12 tháng 10 năm Mậu-Tý (12-11-1948)
Bần-Đạo giảng tiếp con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống, bởi vì có chơn-lý triết-lý bí yếu về phần hồn của chúng ta.
Buổi chúng ta đương hội đàm cùng Thần, Thánh, Tiên, Phật đã đoạt-vị trọn lành làm đại-diện bào chữa cho chúng ta nơi Ngọc-Hư Cung và Cực-Lạc Thế-Giái.
Bần-Đạo hôm nay giảng qua ảnh-hưởng với các triết-lý của nền Đạo, đặng mở con đường trí-thức cho cả toàn-thể theo bước, đặng thấu đáo chơn-truyền. Bần-Đạo nói, chúng ta đi tìm triết-lý này, hồi lúc chúng ta còn sanh tiền, tức nhiên chúng ta đi tìm con đường Thiêng-Liêng tối cao trước mắt, chúng ta không thể gì tìm học triết-lý đặng dạy dỗ chúng ta được, cho nên từ thử đến giờ, Bần-Đạo muốn dìu-dắt con cái của Ngài, đi trên con đường chơn thật; nếu cả thảy đều để tâm nghe và suy nghĩ tìm tàng, Bần-Đạo nói một cách chơn thật, cái triết-lý chơn thật nó không có giả dối. Bần-Đạo cần chỉ điều trọng yếu, nên tầm hiểu để ý, đặng vô Cung Diêu-Trì, đặng tìm hiểu chơn-lý của họ. Nền Chánh-Giáo của Đức Chí-Tôn, các bạn đã ngó thấy, nơi Kim-Bàn Bát-Quái-Đài xuất hiện ra Bát-Phẩm chơn hồn, chánh-thể của họ thể nào? Cái phách của họ thể nào? Bần-Đạo đã minh tả kỳ trước cái Chơn-Thần của chúng ta như xác thú chúng ta vậy.
Chơn-Thần ấy là gì? Bần-Đạo chỉ sơ qua đó thôi, nó là một khối linh-quang (bởi vì khối linh-quang tạo Chơn-Thần) thì hình-thể nó là xác thân, thọ linh-hồn chúng ta vậy, hình-thể chúng ta mang ngày nay là xác thú. Bần-Đạo đã có dắt các bạn ngoạn cảnh sanh-hoạt của hình-thể và thể-chất. Bần-Đạo đã dìu-dắt các bạn đi trên con đường mới sơ sanh, cái thể của con người tức nhiên là con thú hữu-hình chúng ta đương mang, đương lập là nhờ nơi khối thiên-lương Đức Diêu-Trì Kim-Mẫu đã tạo. Quyền năng chơn-linh chúng ta có hai con thú trong chơn-linh chúng ta, để bảo vệ tánh mạng chúng ta, ngày nay loài người còn tồn-tại nơi mặt thế này chẳng phải vì mạnh mẽ mà thắng cả vạn-vật nơi mặt địa-cầu này để bảo tồn mình đặng.
Nếu các bạn hiểu số cộng lịch-sử của trái đất, các bạn sẽ thấy, trái đất này từ mới phôi thai, duy trì cho đến ngày nay biết bao nhiêu thế-kỷ có thế lực, bảo sanh mạnh-mẽ, mà có phương thế nào bảo trọng cho đến ngày nay chăng? Nếu một kiếp, chúng ta tưởng-tượng được, thì thấy luật sanh hóa ngày nay, nó dữ tợn lắm, ngày nay các vật loại cầm thú, nó mạnh lụng lại, đặng bảo vệ cả sanh mạng của nó, còn loài người yếu ớt, bạc nhược. Muốn bảo-vệ sanh mạng mình được tồn tại, thì phải làm sao mới đặng? Chúng ta đến nhờ khối sanh-quang ấy tạo chơn-thần, ấy là nhứt điểm linh của Đức Chí-Tôn đó, mình nương nhứt điểm linh đó, nên con người mới bảo tồn sanh mạng cho được đến ngày nay, không thể gì mình diệt nhứt điểm linh-quang này đặng.
Bây giờ, chúng ta đã thấy giáp vòng Càn-Khôn Vũ-Trụ, phải chung vô Hiệp-Thiên Hành-Hóa, coi đại-diện mình bảo vệ mình về phương diện nào? Vả chăng, trong Càn-Khôn Vũ-Trụ, chư Hiền-Hữu, Hiền-Muội, Hiền-Tỷ, Hiền-Huynh đã ngó thấy, hằng hà sa số nhơn-loại, chớ không phải một số hệ-định mà hết trong Càn-Khôn Vũ-Trụ này.Trái đất này chúng ta sánh lại với Càn-Khôn Vũ-Trụ, dám chắc không có bằng hàng xóm láng giềng chớ đừng nói đến một thành-thị hay một xã-hội gì được. Bởi vậy cho nên, các Đấng Trọn Lành đại-diện chúng ta, đã tạo thành hình-thể, trong trái địa-cầu này, chưa biến tướng ra sao, vì nó còn định một ở trong như mặt trăng, nó đủ bảy phần của nó, nó biến thể này ra hằng-hà chơn-linh của trái địa-cầu.
Hồi nhứt kiếp của nó đoạt biết bao nhiêu vị Thần, Thánh, Tiên, Phật, các Đấng Trọn Lành đã tạo trước kia dám chắc danh-thể trái địa-cầu 68 này, Bần-Đạo nói quả quyết với các bạn, hình thể của nó cao trọng lắm, vì sao nó là một hạng địa-cầu chót hết trong 72 mà đứng vào hàng 68. Nói đến chót mà danh-thể nơi đó, nó đã tạo ra. Chúng ta có được đoạt phẩm-vị, là nơi cửa Hiệp-Thiên Hành-Hóa, Bần-Đạo nói quả quyết, các Đấng Đại-Diện cho chúng ta có một danh-thể đặc biệt, danh-thể cao trọng lắm đó vậy.(*)
Chúng ta vấn nạn, chúng ta vào nơi ấy ngó thấy các Đấng Thiêng-Liêng hằng hà sa số, đối phẩm một cách vinh-quang cao trọng. Bần-Đạo tưởng cả thảy lấy làm ngạc nhiên lắm. Nếu chúng ta tọc mạch tìm coi trái địa-cầu ở trước làm thế nào, mà tạo các Đấng Trọn-Lành được? Tạo vinh-quang cao trọng được? Chắc cả thảy đều tọc mạch như Bần-Đạo, cũng muốn biết như Bần-Đạo. Loài người do ai sanh ra thì Phật Kim-Cang trước kia đã có triết-lý buổi sơ sanh cái nguyên-căn tạo ra Tứ Khổ, mối khổ sanh kia còn tạo ra chúng ta ba cái khổ nữa. Tại sao phải sợ? Cái sợ phải hay quấy, chúng ta để ý theo dõi, chúng ta sợ khổ lắm, triết-lý các Đấng Trọn-Lành đại-diện chúng ta nơi cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa sợ phải, sợ mà tránh khỏi, thì cái sợ ấy hữu lý, sợ mà tránh không khỏi, thì cái sợ ấy vô lý, lại còn khuôn mẫu, sửa ra tánh đức chơn thành, hồn phách còn hèn hạ tại sao ai cũng vậy. Hết thảy chúng ta quan-sát như thế này: Tại sao chúng ta phải làm? Phải ở đây? Tại sao chúng ta phải mang Tứ Khổ? Bằng cớ đã có hiển nhiên, chúng ta không thể gì chối cải được. Sự thật phải tìm cái sự thật chớ, tại sao sợ? Bần-Đạo đã thuyết: Dầu cho cá nhân, dầu cho thôn lân, dầu cho xã-hội, dầu cho toàn-thể thiên-hạ nơi mặt địa-cầu này cũng vậy, cũng đều có quả kiếp, quả kiếp ấy gầy dựng ra, sản-xuất ra do cơ sanh-hóa của nó, vì cớ cho nên Bần-Đạo dắt chư Hiền-Hữu đi trên con đường ấy.
Chúng ta sanh tại mặt thế này, vừa lọt lòng mẹ phải chịu mấy muôn quả kiếp rồi. Thánh-Giáo Gia-Tô đã gọi là: Tội Tổ-Tông chúng ta đó vậy, thì thân thể này mới làm sao đây? Bởi vì chúng ta vừa có thì khóc tu oa, cái tiếng ở trong lòng mẹ mới ra mà có tất cả các nợ, nợ trái chủ, nợ quả kiếp(*1) đủ thứ, không biết bao nhiêu món nợ. Cửa Hư-Linh các Đấng Trọn-Lành đại-diện chúng ta biết bao nhiêu Đấng đã gớm-ghiết quả kiếp ấy, vì sợ giựt giành quyết thắng không nổi phải chịu muôn triệu năm trong quả kiếp.
Họ mãi ngồi trong địa-vị họ thôi, không tấn thối được, phải chăng là mối nợ mình biết để tìm phương thế đặng mình trả, mà hễ trả rồi mình lại giàu thêm nữa mới là lạ chớ! Cái nợ nó thiết yếu nó trọng hệ, nó mắc mỏ lắm, chừng nào mình trả được mối nợ ấy, rồi thì nó sẽ vinh diệu cho mình lắm. Nếu chúng ta sợ, như người chiến-sĩ ra mặt trận mà sợ chết thì không có giá-trị gì hết, phải quyết thắng mới đáng mặt Tướng-Quân, Tướng Soái, đáng mặt anh-hùng, còn chiến-sĩ mà sợ chết, trốn lính thì có danh-vọng gì đâu?
Trái Địa-Cầu 68 này, nó có danh-thể đặc-biệt của nó nơi Thiêng-Liêng Hằng-Sống. Cũng nói sợ mà các Đấng Trọn-Lành đến cư ngụ, cũng do nơi đó mà ra, các Đấng ấy quyết thắng, lập vị mình một cách khó khăn, nhưng vinh-diệu lắm. Chơn-lý ấy, chúng ta không khi nào đặng mờ hồ, duy có một điều là những trái chủ, quả kiếp nặng-nề của chúng ta từ thử đến giờ, làm sao mà trả cái quả kiếp ấy cho rồi, đừng để nó theo ràng buộc cái khối Thiên-Lương của chúng ta, buộc nhứt điểm Linh-Quang của chúng ta, tức là nó ràng buộc lấy ta, chẳng khác nào mang theo một thây chết. Làm sao bỏ được cái thây chết thúi tha ấy, thì mới thong thả, nhẹ-nhàng, nhưng không thể bỏ được!
Cái tình trạng khổ não ấy, làm người ta ai cũng đều biết, không cần gì tả hình-tướng nó ra, cái sanh-hoạt của con thú này, Bần-Đạo tưởng Đạo Phật gọi nó là con kỵ vật, con thú cỡi của chúng ta, vì cớ nên triết-lý của Đạo Phật nói ví-dụ như: Đức Từ-Hàng cỡi con Kim-Mao-Hẩu, Đức Phật Kim-Cang cỡi con Đề-Thính giải kiếp họ một cách vinh diệu. Con vật này nó làm cho ta thiếu chịu kiếp sanh của nó, nó làm ta phải biểu nó trả cho đặng. Phương-pháp nó phải trả thế nào? Là nó phải nương theo cơ-quan hữu-vi này, mà nó sống nó tạo, nó gây ra quả kiếp tồn tại, nó mới nương theo xã-hội nhơn quần, nương theo mặt địa-cầu này mà sống, nó nương theo mối nợ riêng của nó, để nó trả nợ riêng cho nó. Nó có phần đoạt được cái triết-lý cao thượng rồi, nó không nương theo mặt địa-cầu xã-hội mà sống nữa. Nó quyết định làm tôi tớ cho xã-hội, làm tôi cho mặt địa-cầu này, để trả nợ tình của nó. Ngày giờ nào nó không làm tôi tớ cho cơ-quan hữu-hình này, thì mối nợ ấy vẫn còn vậy. Cái triết-lý cao thượng hơn hết là mình không sống cho mình, mình sống cho xã-hội nhơn quần, tức nhiên chung sống trên mặt địa-cầu này, thì cơ-quan giải khổ của chúng ta ngày nay, chắc-chắn không ai là không đoạt được đó vậy./.
Phụ ghi:
(*1) Nơi đoạn thứ 9: Chúng ta sanh tại mặt thế này, vừa lọt lòng mẹ phải chịu mấy muôn quả kiếp rồi. ... ... ..., cái tiếng ở trong lòng mẹ mới ra mà có tất cả các nợ, nợ trái chủ, nợ quả kiếp đủ thứ, không biết bao nhiêu món nợ.... ... ...
Nguyên bản chánh in là: Chúng ta sanh tại mặt thế này, vừa lọt lòng mẹ phải chịu mấy muôn quả kiếp rồi. ... ... ..., cái tiếng ở trong lòng mẹ mới ra mà có tất cả các nợ, sợ trái chủ, sợ quả kiếp đủ thứ, không biết bao nhiêu món nợ.... ... ...
Chúng tôi mạn phép trình bày như trên cho rõ nghĩa hơn.
Cuối những đoạn có dấu (*): Ðể cho người đọc được dể dàng, chúng tôi xin mạn phép phân đoạn tại những nơi có dấu (*). Nguyên bản chánh không có phân đoạn tại những nơi ấy. Kính cáo.
CON ĐƯỜNG THIÊNG LIÊNG HẰNG SỐNG: Bài 11
Đức Hộ-Pháp
Thuyết-Đạo tại Đền-Thánh, đêm 04 tháng 11 năm Mậu-Tý (04-12-1948)
Trước khi giảng trên Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa, chúng ta còn một vấn-đề rắc rối giữa các cuộc thiệt chiến của các chơn-linh đã tạo thành Đạo, có một vấn-đề rắc rối hơn hết là vấn-đề con người trong "Tứ-Khổ". Các chơn-linh đến trần này, mang cái xác phàm, tức nhiên xác thú của họ, nương với cái hình-luật tấn-hóa của các chơn-linh để lập Thiêng-Liêng vị của mình, có một điều mâu-thuẩn hơn hết là muốn đoạt Thiêng-Liêng vị xứng đáng thì phải giải quyết vấn-đề "Tứ-Khổ". Đã đành sanh trong vòng Tứ Khổ, định lại cả tinh-thần, chúng ta không thể gì từ chối cái tinh-thần ấy đặng. Mang xác phàm phải chịu khổ với phàm, mới đoạt được Thiêng-Liêng vị. Ngài nói có một điều là tấn tuồng theo mặt luật tấn-hóa trong kiếp sanh, trong hành khổ, khổ thì ai cũng thế, kỳ dư các chơn-linh đoạt đến Tiên-Phật vị họ dám có can đảm, dám có nghị lực, dám có oai quyền, họ ngó ngay Tứ Khổ để quyết thắng.
Bởi vì họ có năng lực đủ tinh-thần, mà hại thay các Đấng Trọn Lành không đủ oai quyền, không đủ năng lực của họ, các Đấng Trọn Lành vì sợ hải. Bởi cớ muốn trọn lành thì họ phải tìm hạnh-phúc, họ tìm hạnh-phúc trong cảnh khổ ấy, chúng ta đều ngó thấy như vạn loại: Con cá bị nhốt trong chậu, con chim bị nhốt trong lồng, con người bị nhốt trong Tứ-Khổ, bao giờ cũng tìm kiếm phương thế đặng thoát ngục, thoát ngục nơi mặt Càn-Khôn Vũ-Trụ này. Thật tướng nó, ta là cái lồng, cái khám, nhốt cái chơn-linh, như con thú kia nó còn vùng-vẫy thoát cảnh khổ dầu thoát không đặng mà nó vẫn tìm thế vùng-vẫy để thoát cho đặng.
Cái chơn-linh đầu kiếp mang lấy xác phàm nơi Càn-Khôn Vũ-Trụ này, họ đã hiểu "Tứ Diệu-Đề Khổ", họ phải tìm phương thế đặng thoát khổ, nhưng Luật Thiêng-Liêng định vậy. Chúng ta ngó thấy đễ hiểu, nhứt là Bần-Đạo đã hiểu tấn tuồng ấy rồi.
Con người bị đầu kiếp trong cảnh khổ, trong ngục hình, bao giờ cũng tìm phương kế hoạt động để giải khổ, tìm phương thế giải khổ không đặng, cũng kiếm phương thế an-ủi lấy mình, tức nhiên tìm mảy may hạnh-phúc để gỡ khổ cho mình. Ngặt nổi muốn tìm phương thoát ngục ấy, nhưng than ôi!!! biết bao nhiêu là "khổ hải". Có nhiều khi chưa tìm đặng hạnh-phúc để giải khổ, nó làm cho mình thêm tội nữa mà chớ.
Ấy vậy một vấn-đề không đồng năng-lực với nhau, các chơn-linh cao siêu ấy cũng không dám đứng ra với Tứ-Diệu-Đề Khổ ấy, để kiếm phương thế tạo hạnh-phúc mảy may trong kiếp sống đặng đỡ khổ.
Bây giờ chúng ta cũng nên ngừng bước lại, đặng quan sát cái thiệt hạnh-phúc của loài người, có phương thế nào thắng cảnh khổ đặng chăng?
Hạnh-phúc trong cảnh trần họ là gì? Chúng ta nên kiếm hiểu, có kiếm hiểu đặng mới giải quyết vấn-đề thắng khổ đặng, chúng ta chỉ ngó thấy từ thử đến giờ thiên hạ chỉ mơ ước của mình. Bần-Đạo nhớ Đạo-Giáo của chúng ta có một triết-lý rất hữu hình, rất ngộ nghĩnh, rất cao siêu.
Có một chơn-linh đó đi xuống địa ngục đến chừng trả tội xong rồi ở dưới Diêm-Vương cho đi đầu kiếp, chơn-linh ấy cự nự lắm xin Diêm-Vương phải cho mấy điều xin thì chơn- linh mới chịu đi đầu kiếp.
Diêm-Vương hỏi: Ngươi muốn xin điều gì? Chơn-linh ấy nói: Cho tôi xin 4 điều, rồi đọc lên 4 câu thơ:
Cha Thượng-Thơ,
Con Trạng-Nguyên,
Quanh nhà ngàn khoảnh nhứt hạng điền,
Trai tơ gái lịch, vợ tốt hầu xinh thảy thảy đều.
Diêm-Vương nói chưa chắc nếu có cho người cũng chưa đủ hạnh-phúc, chưa đủ vinh- hiển đâu. Cha Thượng-Thơ, con Trạng-Nguyên tức nhiên linh-hồn ấy muốn làm Trạng-Nguyên con của vị Thượng-Thơ.
Chưa chắc gì vị Trạng-Nguyên ấy gặp được vị quan thanh-liêm, đủ đạo-đức, đủ cường lực, đủ hạnh-phúc để làm cha mẹ cho dân. Thoảng gặp vị Thượng-Thơ gian ác, gian tham, hối lộ, chung vô đầu-kiếp có nên hay chăng?
Chơn-linh ấy vẫn cầu xin cho mình được làm quan, nhứt định làm quan Trạng- Nguyên. Nếu thi đậu đặng Trạng-Nguyên rồi cũng chưa chắc gì có hạnh-phúc.
Làm quan Trạng như ông Tam-Phương ba kỳ thi đậu Trạng gặp ông Minh-Mạng làm ba khoa thi, ông Tam-Phương chiếm hết. Mới 14 tuổi mà đã ba lần đậu Trạng, nhưng tuổi còn nhỏ lắm không xuất-sĩ đặng, đợi tới 20 tuổi mới xuất-sĩ ra triều, nhưng đến 25 tuổi lại chết, thử hỏi ông Tam-Phương có hạnh-phúc hay chăng? Dám chắc chưa có.
Câu thứ ba: Quanh nhà ngàn mẫu nhứt hạng điền, nghĩa là, quanh nhà ấy ruộng nhứt hạng ngàn khoảnh đặng sau này làm giàu, mà thử hỏi có hạnh-phúc chăng? Bất quá tham của thôi, chớ chưa có hạnh-phúc.
Câu thứ tư: Trai tơ gái lịch, vợ tốt hầu xinh thảy thảy đều. Trai tơ gái lịch tức nhiên đệ nhứt trong thiên-hạ hết, mà sao, có tạo hạnh phúc đặng hay chăng? Chưa chắc.
Câu thứ năm: Vợ tốt hầu xinh thảy thảy đều. Vợ tốt hơn mình thì nó ăn hiếp mình, nó cậy sang, nó biết nó đẹp hơn mình, vì mình thương nó quá nên nó cậy thế nó đè đầu mình xuống nó dọi đầu mình. Duy có câu thảy thảy đều hơn hết thảy là câu chót, mà cũng chưa chắc tạo hạnh-phúc được.
Ấy vậy từ thử đến giờ cả thảy đều hiểu dầu cho bực Đế-Vương cũng chưa chắc kiếp sanh đoạt được hạnh-phúc. Các nhà Hiền-Triết của nước Việt-Nam ta, Nho-Tông của chúng ta có để 3 câu trọng yếu, muốn lập quốc, muốn tạo hạnh-phúc cho dân, quốc dân phải có 3 điều kiện: "Thiên-thời, địa-lợi, nhơn-hòa". Ấy vậy chúng ta kiếm thử coi trong ba điều kiện để tạo cho dân coi có phương thế gì giải khổ hay chăng? Thuận lợi, Thiên-Thời, Địa-Lợi, Nhơn-Hòa.
1- Thiên-thời tức nhiên theo mạng Trời, Trời đã định cho mình tức nhiên mình phải tùng mạng Trời, tùng mạng Trời tức nhiên tùng Đạo. Thiên-thời tức nhiên tùng Đạo, không thể gì chối được.
2- Địa-lợi là gì? Là cả thảy địa-dư toàn trong nước dân đều hiện, đất sung túc được hay chăng? Bực thượng-lưu, trí-thức cần nên tưởng lại câu ấy, mà câu ấy là của ai? Quốc- Vương, Thủy-Thổ, Địa-Lợi, dầu không đặng hưởng địa-lợi nó cũng biến địa-lợi, mà phải có đạo-đức có nhơn tài tạo mới được.
3- Nhơn-hòa đặng chi? Nếu cả thảy không có hòa thì loạn-lạc, hễ loạn-lạc thì có giặc giã chiến-tranh. Ấy vậy có ba điều từ thử đến giờ đặng tạo hạnh-phúc cho quốc dân, mà có phương-thế tạo đặng hay chăng? Tạo có thể đặng chớ, nhưng chúng ta thử nghĩ đương giờ phút này nhơn-loại bị dọa nạt trận giặc thứ ba. Đã hai phen rồi, hai trận chiến tranh thiên-hạ chết muôn trùng vạn điệp.
Nhơn-loại sắp bị dọa nạt trận giặc thứ ba nữa, nhơn-loại sống làm gì mà phải chịu nạn ấy, có phải nhơn-loại đeo đuổi tìm hạnh-phúc chăng?
Đây một bằng cớ hiển nhiên toàn cả quốc-dân Việt-Nam đương vì của, đương tìm hạnh phúc của họ ở trong lý-thuyết mơ-mộng mà thôi, như chánh-phủ Hồ-Chí-Minh đương tìm hạnh-phúc trong lý-thuyết chớ không có gì hết.
Cả toàn-cầu đương khởi chiến-tranh, tìm hạnh-phúc cho nhơn-loại, Bần-Đạo dám chắc là không có. Có là chỉ lòe-loẹt các yếu điểm để lên nạn chiến-tranh giết lẫn nhau, để hai phen thất bại cũng vì muốn tạo hòa-bình hạnh-phúc cho nhơn-loại.
Hại thay tinh-thần của nhơn-loại bây giờ đang thống khổ, dám chắc dầu không khổ nhơn-loại cũng không biết nghe theo tiếng Thánh, đặng tự-giác sửa mình, tìm hạnh- phúc chơn thật. Họ cứ nương theo cái hạnh-phúc giả dối, nên vị Thánh Gandhi bị chúng giết, mà vị Thánh Dalagadot cũng bị kẻ ác tâm ám-sát, để tranh sống. Đương nhiên bây giờ nhơn- loại bị thống khổ nhiều mà nó hiện-tượng ra, đặng kiếm thế giải quyết cơ-quan thống trị cả tinh-thần hạnh-phúc của loài người, họ lập Vạn-Quốc-Liên-Minh mà Hội-Quốc-Liên đã làm nên chưa? Cũng chưa gì hết. Bởi vì có nhiều nguyên căn cho nên Garry Davis anh đã tượng trưng tinh-thần của loài người được, phải có người đến giữa Hội-Quốc-Liên đặng hỏi: Có thể bảo trọng hòa-bình cứu nhơn-loại đặng chăng? "Garry Davis" chiến tướng biểu nhơn-loại theo anh, mà nhơn-loại nghe không? Chính mình Bần-Đạo cũng theo nữa.
Đúng theo lý-thuyết mờ ám theo lý-thuyết Cộng-Sản thuyết này thuyết nọ, đặng tìm hạnh-phúc cho loài người, mà càng tìm, càng đi sâu chừng nào thì càng đau khổ cho nhơn-loại chừng nấy, để cho thiên-hạ suy nghĩ, suy gẫm tìm thử hạnh-phúc chơn thật thế nào?
Kỳ tới Bần-Đạo sẽ giảng thêm./.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 04-11-Mậu Tý nhằm ngày (dl. 04-12-1948).
CON ĐƯỜNG THIÊNG LIÊNG HẰNG SỐNG: Bài 12
Đức Hộ-Pháp
Thuyết-Đạo tại Đền-Thánh, đêm 05 tháng 11 năm Mậu-Tý (05-12-1948)
Hôm rày đình thuyết cuộc dục tấn của chúng ta trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống, hôm nay Bần-Đạo giảng tiếp. Nhưng trước hết, Bần-Đạo cho cả toàn con cái của Đức Chí-Tôn nhứt là Thánh-Thể của Ngài tức Hội-Thánh hay rằng Đức Cựu Hoàng Bảo-Đại vừa gởi cho ông Nguyễn-Hữu-Trí tức là một vị của Chánh-Phủ Trung-Ương Lâm-Thời Việt-Nam phái đi làm quan-sát viên, dự Hội-Nghị Liên-Hiệp-Quốc, nhưng Đức Bảo-Đại chưa cho ông dự Hội-Nghị, vì chơn tướng độc-lập và thống-nhứt của Việt-Nam chưa thành hình, chưa có thể dự Hội-Quốc-Liên được. Ngài gởi cho ông ba bức thơ tỏ vẻ đầy đủ hy-vọng về sự đòi hỏi sẽ toại nguyện đem lại độc-lập và thống-nhứt cho nước nhà. Ngài yêu cầu toàn quốc-dân hiệp nhau, đừng quá trọng đảng phái chánh-kiến mà nên trọng tương-lai của Quốc-Gia, phải có lòng ái-quốc chơn chánh, chung tâm hiệp sức vùa giúp(*1) Ngài thì Ngài mới có thể tạo hạnh-phúc cho nước nhà và cho chủng-tộc. Ấy là lời than của một vị Đế-Vương. Ngài nói rằng: Nếu tôi đoạt được cái sở vọng của toàn-thể đồng-chủng ta đặng, chẳng qua là nhờ ở tâm-lý cương quyết của Quốc-Dân mà đoạt đặng, tạo quốc cũng do Quốc Dân, mà định vận mạng tương-lai của nước nhà cũng do Quốc-Dân đó vậy. Một vị Đế-Vương đã kêu gọi, toàn-thể bá tánh hiệp sức với người đặng lo tạo thành hạnh-phúc, tương-lai của nòi giống và cho nước, Bần-Đạo tưởng lại duy có kẻ điếc, đui mới không biết phận-sự mình đối đãi với nòi giống mình, với nước nhà mình như thế nào?
Hôm nay Bần-Đạo tiếp giảng cuộc dục tấn trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống.
Chúng ta ngưng bước từ hổm rày nơi Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa, Cung ấy có liên-quan tới phần hồn của nhơn-loại nhứt là về Đạo-Giáo tinh-thần, nên chúng ta ngưng lại đó đặng quan-sát cả hành-tàng của Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa như thế nào?
Ta gặp các Đấng Trọn-Lành nơi Cung ấy lãnh đảm-nhiệm trọng yếu là bào chữa cho các đẳng linh-hồn được siêu-thoát.
Chúng ta hỏi về năng-lực của các Tôn-Giáo, đương nhiên sanh-chúng đang theo dõi đặng tạo tâm hồn của mình, các Tôn-Giáo ấy có đủ quyền-năng bảo vệ tương-lai phần hồn của sanh-chúng chăng? Ta sẽ thấy các Đấng ấy cười và nói rằng: Thoảng nơi Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa này đòi phen mời các vị Giáo-Chủ ấy đến hiện-diện đặng chứng kiến một án-tiết gì của các Tông-Đồ họ thi thố tại thế, đương nhiên tôi xin chư Hiền-Hữu đừng lấy làm lạ.
Vả chăng các vị Giáo-Chủ, lập giáo đều nương nơi một tinh-thần của họ, tinh-thần hữu-định ấy có căn nguyên trong tinh-thần của toàn nhơn-loại. Họ chỉ lấy một thuyết trọng yếu đặng làm triết-lý Đạo-Giáo của họ, tỷ như Thánh-Giáo Gia-Tô lấy tâm làm căn bản, Lão-Giáo lấy thân làm căn bản, Hồi-Giáo lấy tín-ngưỡng làm căn bản, mỗi Giáo-lý đều có sở năng làm trung-tâm điểm đặng vi-chủ tinh-thần của con người trong chỗ khuyết-điểm của họ.
Thoảng có một vị tu chơn theo Phật-Giáo, chẳng noi theo tánh đức nhà Phật là Từ-Bi Bác-Ái, chỉ biết một điều trọn kiếp sanh đem thân phụng sự cho nhơn-loại, cho chúng- sanh. Sang, trọng, vinh, hiển họ coi như nước chảy, như giọt sương đầu cỏ. Sang trọng như Phật, xuất thân nơi nhà Đế-Vương mà còn bỏ hết, mang Bình-Bát đi hành-khất đặng mà chi, để làm gì? Ngài hành-khất đặng của bố-thí, tạo Cấp-Cô-Độc-Viên nuôi kẻ nghèo đói. Mảnh áo Ngài không muốn mặc sang trọng hơn kẻ khó khăn. Tánh-đức của Phật là ăn mày, mà ăn mày như thế ấy siêu thoát tinh-thần làm sao!
Thoảng một vị Giáo-đồ nhà Phật lấy căn bản hành-khất ấy đặng tạo một cảnh chùa rồi ngồi đợi chúng-sanh đem của bố-thí tới đặng ăn mà sống, ngoài ra nữa, còn lường gạt tâm-lý của các Tín-Đồ, đem cả mầu-nhiệm Thiêng-Liêng của Phật dạy làm một món khí cụ đặng dọa nạt, hù nhát kẻ Tín-Đồ, duy có một phương hù nhát mà thôi. Lập ra cửa Phong-Đô có hình khảo ghê sợ đặng dụ-dỗ họ nơi Niết-Bàn mà kỳ trung chưa hề phụng-sự chúng-sanh như Phật, đến khi về cửa Thiêng-Liêng nói: Tôi theo tôn chỉ nhà Phật, mà Phật đã đoạt-vị, tôi cũng phải được đoạt-vị như Phật vậy chớ! Hỏi vậy chớ Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa mới đem lý-thuyết nào, bằng cớ nào đặng bảo-vệ cho kẻ ấy nơi Cực-Lạc Thế-Giới và Ngọc-Hư-Cung đặng.
Nói về Tâm: Đức Gia-Tô truyền Thánh-Giáo tại thế, Ngài lấy tâm làm căn bản, vì lòng yêu-ái vô tận của Ngài đối với chúng-sanh. Ngài nói với một mảnh tâm chơn thật của Ngài, Ngài có thể làm con vật hy-sinh đặng tế-lễ Chí-Tôn, Ngài xin mang cả tội tình của loài người vào mình cũng như con dê hy-sinh (Le bouc Emissaire) mang cả tội tình cho nòi giống. Ngài đã mang cả tội tình ấy mà chịu chết trên cây Thánh-Giá đặng cứu rỗi nhơn-loại. Vì một mảnh tâm yêu-ái vô cùng tận mà Ngài chỉ biết sống với tình thương vô tận đó mà thôi, Ngài chỉ biết sống đây, mạng sống để trong tay của chúng-sanh, đặng làm con vật tế Đức Chí-Tôn, và vì Đức Chí-Tôn mà thôi, chơn-lý của Ngài là vậy, tâm Thánh của Ngài vô cùng tận.
Thoảng các môn-đệ của Ngài về tới Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa nói: Tôi thương chúng-sanh như Thầy tôi, tôi noi theo chơn-truyền của Thầy tôi tức là Đức Chúa Jésus Christ, tôi cũng đem mảnh tâm đặng hiến cho Chí-Tôn vậy, nhưng tinh-thần của họ không mảy may yêu-ái chúng sanh, trái lại họ cầm quyền-năng gọi là nhơn danh Đức Chúa Trời tha tội cho nhơn-loại, cầm quyền ấy đặng vi-chủ tinh-thần loài người. Nơi cửa Hiệp-Thiên Hành-Hóa ấy chúng Tín-Đồ nói: Tôi theo dõi chơn Chúa, làm tôi cho Chúa, gìn chính-sách của Chúa, đem mảnh tâm làm môi giới đặng cứu khổ chúng-sanh, mà kỳ thật xét đoán chơn-lý cao siêu của Đức Chúa Jésus Christ, hành-tàng của họ thi thố không ăn thua chi cả, hỏi vậy, nếu Ngọc-Hư-Cung và Cực-Lạc Thế-Giái vấn nạn các Đấng Trọn Lành nơi Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa về những hành-tàng của các Tín-Đồ trái ngược lại Đạo-Giáo của Thầy họ, các Đấng Trọn Lành ấy trả lời thế nào với hai quyền năng Trị-Thế và Giác-Thế.
Nói đến Trí: Khổng-Giáo lấy Trí làm căn bản, Trí thực muôn hình ngàn trạng, đem cái triết-lý cao siêu ra tạo xã-hội nhơn-quần không phải dễ. Đức Khổng-Phu-Tử phải dùng Trí đặng tự-tu kỳ thân. Có tự-tu kỳ thân đặng mới đủ quyền-năng yêu-ái giáo-hóa các chơn-linh tức là các nhơn-loại đặng trọn lành, đến tột bực lành là Chí-Thiện. Trái ngược lại môn-đồ của Ngài nương nơi trí-giác ấy làm căn bản, học nhiều thấy rộng, nói cho hay cho khéo, lấy cả tinh-thần cao thượng đặng hài-hước nơi lỗ miệng, còn thật chơn-lý không ai làm đặng. Những kẻ ấy về Ngọc-Hư-Cung kêu nài nói, tôi theo Đạo-Giáo của Đức Khổng-Phu-Tử, đào luyện trí-thức, tôi biết trọng nhơn-luân phẩm-cách, biết giữ-gìn luật-lệ của Thánh-Giáo di-truyền, tôi cũng có quyền đứng vào phẩm Thánh, Tam-Thập-Lục Thánh thế nào, tôi cũng phải được thế ấy, chớ có lý do nào tôi về đây lại bài-bác tôi ra khỏi cửa Khổng-Giáo đặng chăng? Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa tính lẽ nào đây? Nó noi theo Đức Khổng-Phu-Tử đào tạo tinh-thần, tôn trọng Thánh-Giáo, phục tùng giáo-lý của Ngài, sự thật chẳng thực-hành gì cả mà trái ngược lại, họ lấy trí-thức để giục loạn làm cho xã-hội điên đảo, lấy trí-thức ngồi liếm bút lông mèo xúi thiên-hạ kiện cáo nhau, lấy văn-chương làm cho ly-dị chồng vợ người ta, dùng miệng lưỡi lường-gạt kẻ dốt nát, mượn ngòi bút nó dám bán cả sanh mạng của con người, hỏi những kẻ đó Đức Khổng-Phu-Tử có nhìn không? Chắc chắn không nhìn, khi Ngài đến Cung Hiệp-Thiên-Hành-Hóa đặng vi-chứng vụ án đó.
Trong ba bằng cớ vừa kể đó Bần-Đạo quả quyết rằng, các vị Giáo-Chủ đã tạo ra các nền Tôn-Giáo, tinh-thần của họ cũng chỉ biết phụng-sự cho nhơn-loại. Mà hại thay! hại thay! Cơ- quan của họ đào tạo tinh-thần của loài người với tinh-thần trí-thức của họ, họ chịu khổ hạnh, muôn cay ngàn đắng, trọn kiếp sanh đào tạo cho đời, rốt cuộc cả triết-lý Đạo-Giáo thay vì tạo hạnh-phúc cho nhơn-loại, trái ngược lại đã làm khí cụ cho kẻ vô tâm lợi dụng đặng lường gạt tinh-thần nhơn-loại hơn nữa. Thay vì làm phước họ đã làm tội. Tội nghiệp thay, nếu Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa chiếu luật "Tội vi trưởng" thì các vị Giáo-Chủ ấy chưa chắc ngồi yên trên Liên-Đài của họ đặng, và nếu như nơi cửa Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa ấy là Tòa-Ngự của các Đấng Trọn-Lành, đặng bào chữa cho các đẳng linh-hồn siêu thoát, mà các Đấng ấy nếu còn chút phàm tâm, thì chưa chắc gì các vị Giáo-Chủ ngồi yên, cứ hầu tòa mãi-mãi thôi. Tín đồ các Đạo-Giáo tạo thành, thay vì làm cho Giáo-Chủ của họ thêm danh-dự, lại gây tội tình thêm nữa.
Lời tục nói: Không ai hại mình nhiều hơn là kẻ thân yêu của mình. Có một điều Bần-Đạo xét đoán lấy làm sợ-sệt hơn hết là nền Tôn-Giáo của Đức Chí-Tôn lấy Tinh-Thần làm căn- bản, hỏi vậy, tinh-thần của nhơn-loại hiện ở dưới quyền áp bức của văn-minh vật-chất, tinh-thần ấy có đủ quyền-năng tự-vệ lấy họ chăng? Tinh-thần họ có đủ lực lượng chiến thắng chăng? Nếu thoảng tinh-thần của nhơn-loại không quật khởi lên, tự-quyết, tự-chủ, tự định phận đặng mà phải chịu làm nô-lệ cho văn-minh vật-chất, thì tương-lai của Đạo Cao-Đài sẽ ra sao? Mà chẳng những phải tự bảo vệ chiến thắng mà thôi, mà còn phải bảo vệ chơn tướng của đạo-đức tinh-thần của loài người trở mặt ra đối với tinh-thần cường liệt của Chí-Tôn, thì tương-lai nơi mặt thế này sẽ như thế nào? Chúng ta cũng nên để có một câu hỏi.
Có một điều ta nên để mắt nhìn coi Chí-Tôn tạo hình thể nào đặng bảo trọng tinh-thần đạo-đức ấy. Ấy là một phương-pháp ta nương theo đó đặng tạo dựng khối đức tin vững chắc bền-bĩ vậy./.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 05-11-Mậu Tý nhằm ngày (dl. 05-12-1948).
(*1) Nơi đoạn thứ 1: Hổm rày đình thuyết cuộc dục tấn của chúng ta trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống, ... ... ..., phải có lòng ái-quốc chơn chánh, chung tâm hiệp sức vùa giúp Ngài thì Ngài mới có thể tạo hạnh-phúc cho nước nhà và cho chủng-tộc.... ... ...
Nguyên bản chánh in là: Hổm rày đình thuyết cuộc dục tấn của chúng ta trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống, ... ... ..., phải có lòng ái-quốc chơn chánh, chung tâm hiệp sức vừa giúp Ngài thì Ngài mới có thể tạo hạnh-phúc cho nước nhà và cho chủng-tộc.... ... ...
Chúng tôi mạn phép trình bày như trên cho rõ nghĩa hơn.
CON ĐƯỜNG THIÊNG LIÊNG HẰNG SỐNG: Bài 13
Đức Hộ-Pháp
Thuyết-Đạo tại Đền-Thánh, Thời Tý, đêm 13 tháng 11 năm Mậu-Tý (13-12-1948)
Hôm nay, Bần-Đạo giảng tiếp cuộc thiệt chiến giữa Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa về "Đức-Tín".
Có nhiều điều rắc rối giữa quyền-năng binh vực các chơn-linh trong Càn-Khôn Vũ-Trụ đối với quyền trị thế của Ngọc-Hư-Cung và quyền giáo-hóa của Cực-Lạc Thế-Giới. Về mặt triết-lý, có nhiều triết-lý đã gây nên một trường ngôn luận sôi nổi giữa các nền Tôn-Giáo và tín-đồ của họ.
Về đức tin ta ngó thấy phần nhiều hạng thượng-lưu trí-thức trước mặt ta hiện giờ này, nhứt là các văn-sĩ của Á-Đông ta, tức là các nhà Nho, còn ở Âu-Châu có các nhà tự do ngôn-luận, tự do tư-tưởng, phần đông hạng tự do ngôn-luận ở Âu-Châu đều là vô tín-ngưỡng cả thảy. Họ còn đi quá nữa là bọn Anarchistes là bọn chẳng có phương châm tôn chỉ thờ phượng chi hết, chớ chẳng phải nói vô tín-ngưỡng mà thôi đâu. Các nhà ấy tới chừng trở về Thiêng-Liêng vị rồi phải buộc mình quì trước mặt luật Thiêng-Liêng chịu khảo dượt tinh-thần. Họ muốn tránh mà làm sao tránh khỏi quyền-năng vô đối của Càn-Khôn Vũ-Trụ, muốn tránh luật Thiêng-Liêng ấy mà làm sao tránh khỏi đặng. Các nhà ấy họ miệng lưỡi lắm, họ phản đối kịch liệt với nhiều lý-thuyết đến đổi quái gở ta không thể tưởng-tượng được. Tỉ như giữa Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa họ nói như thế này: "Mấy nhà triết-học cao siêu đại-giác đến thế lập-giáo dạy Đạo cho nhơn-sanh họ đã lập quyền sở-hữu của họ, điều đó có thật, nhìn nhận, song quyền sở-hữu ấy đối với phương sanh sống của đời không có quyền-năng chi hết, trái lại làm cho trở ngại bước đường tranh-đấu và tấn hóa của loài người mà chớ. Chớ chi quyền-năng Thiêng-Liêng mà người ta nói là quyền vô cùng tận, năng lực vô biên, quyền lực ấy thường nơi miệng nhơn-sanh, gọi là quyền-năng tạo-đoan của Càn-Khôn Vũ-Trụ, có thế cho chúng tôi đức tin, lấy oai-quyền mà tạo đức tin cho chúng tôi thấy hiện-tượng trước mặt. Hay là quyền-năng ấy có bảo trọng đặng mạng sanh của loài người thì ai không muốn tu, ngặt một nổi cả triết-lý ấy còn bóng dáng mờ hồ, thì chúng tôi mới mượn nơi đâu mà tạo đức-tin theo Đạo-Giáo cho được? Các vì Giáo-Chủ khuyên chúng tôi làm lành lánh dữ, chúng tôi thấy trường đau khổ trước mắt, chúng tôi muốn làm lành ngặt thiên-hạ không muốn lành, giục thúc chúng tôi phải dữ, vì chúng tôi nhịn thì sẽ bị cái dữ của thiên hạ tàn hại. Muốn nhẫn-nhục vì lòng thương yêu nhịn cái sống của mình đặng tạo cái sống cho người, mà nhơn-loại không nhơn tay, thay vì tôn sùng sự cao siêu như chúng tôi, họ không chịu vậy, chớ mạng sống của chúng tôi nào có quản chi.
Các Ngài cũng ngó thấy, thế-gian kìa bao nhiêu bực đạo-đức phải chịu khuất thân dưới quyền cường-bức của thế gian, chịu mai một thiệt thòi, chịu ăn xin ở tạm, bây giờ mấy Ngài biểu nương nơi họ mà tạo đức-tin, cái đức-tin trọn cả kiếp sống của các vị đạo-đức ấy tôi chưa hề thấy hình ảnh nó, xin các Ngài tả hình nó cho chúng tôi thấy thử coi .
Các Đấng Trọn-Lành nơi cửa Thiêng-Liêng kia mới lấy lý-thuyết nào đặng đối-đãi với lời nói ấy. Các Ngài nói: "Các ông bất quá là đa-văn quảng-kiến, tìm phương-thế đặng chữa mình, chớ chơn-lý không phải như mấy ông bày đặt ra đó đâu. Cái chơn-lý là các ông không biết tin mình thì còn tin ai, còn tin triết-lý Đạo-Giáo sao được. Đức Chí-Tôn sai các vì Giáo-Chủ đến tạo Tôn-Giáo nơi mặt thế này chẳng phải cầu nhơn-loại thờ phượng Ngài, mà chính Ngài đến, hay Ngài sai Người đến chỉ để tạo Đền-Thờ, thờ đức-tin của nhơn-loại tức là tạo Đền-Thờ cho nhơn-loại thờ nhơn-loại, không phải thờ Ngài đâu. Mấy ông phản đối, nói rằng: Lấy đạo-đức đặng làm môi-giới tạo phương-pháp bảo trọng mạng sanh một cách bền vững kiên cố, chỉ thử coi. Không có! Chính mình các ông còn nương nơi triết-lý Đạo-Giáo đặng tạo cái sống của các ông kia mà. Nếu triết-lý Đạo-Giáo không có thì nhơn-loại sẽ thuộc vào hàng thú-cầm như voi, cọp, beo, khỉ, dộc trên rừng kia, các ông đã nương nơi Đạo-Giáo đặng bảo trọng mình đó. Hỏi các ông nương lý-thuyết nào mà biết mình cao trọng, mà biết mình hơn vạn loại, mà biết mình tối linh, biết mình là Thần-Linh của thế-gian này, mà biết chính mình các ông là điểm chơn-linh củaTrời? Làm sao các ông biết tự-trọng mình là phẩm cao trọng tại thế? Tối linh hơn vật loại? Các ông tính muốn chối phẩm-vị cao trọng của mình đặng nạp cả mạng sanh và tâm hồn vào chỗ đê tiện, thì bảo tinh-thần phải nương nơi đâu? Chính mình các ông không tin mình thì tin ai?
Không, không bao giờ các vì Giáo-Chủ gạt ai! Mấy ông nói triết-lý Đạo-Giáo gạt-gẫm tâm-lý của nhơn-sanh, chính triết-lý đó là cái mặt kiếng để trước mắt nhơn-sanh coi theo, các ông không coi, vì sợ, mà tránh đi thì các ông tạo đức-tin ở chỗ nào? Tấn tuồng sanh sống giục thúc nhơn-loại tàn hại nhau như thế nào? Bực trí-thức tinh-thần trong nhơn-loại, tìm hạnh-phúc trong cái sống vật-chất, tức là cái sống của con vật. Loài người đã đào óc não mưu cầu hạnh-phúc cho kiếp sống của loài người đã nên chưa? Đã thành hình chưa? Hay còn đang tìm tàng, còn đang chiến-đấu, mà còn chiến-đấu chừng nào, tức là còn mê-man trong phương-pháp tàn hại, làm tàn khổ cho kiếp sanh nhơn-loại mà thôi, chớ không mảy may đắc lợi. Các ông trách quyền Thiêng-Liêng, không để một oai-quyền nào trước mắt không đủ năng-lực định đức-tin cho thiên-hạ. Dám chắc dầu chính Đức Chí-Tôn hiện hình biểu nhơn loại theo Ngài đi nữa, con vật của họ biểu hạnh-phúc của con vật mà thôi, tại họ không theo, chớ có phải hiện ra cho thấy mà theo đâu?
Đức-tin nơi ta đó, trước hết ta biết ta, có biết ta rồi mới biết thiên-hạ, có biết thiên-hạ rồi mới biết đến Chí-Tôn là ngôi Chúa-Tể Tạo-Đoan Càn-Khôn Vũ-Trụ, biết Đấng ấy là biết rõ mình vậy, nếu chưa biết Đấng ấy thì đừng trông mong biết mình, mà chính mình không biết mình thì không còn ai biết hết. Sống không đức-tin, nghĩa là không tự biết mình, khác nào cây cỏ vật loại kia, thì không có nghĩa gì hết, sống ấy vô giá-trị.
Bây giờ hỏi vậy, vô trong trường khoa-mục kia, các giám-khảo hỏi Tứ-Thơ, Ngũ-Truyện, Kinh-Điển, tức là các triết-học Nho-Giáo của mình đã học rồi, tới chừng nhập thi không đem theo gì hết, mà trả-lời các vấn-đề hạch-hỏi được trúng, thì khoa-mục ấy mình đậu. Đạo-Giáo cũng vậy, các Tôn-Giáo để tại thế-gian cho mình thi hành triết-lý ấy ra hiện- tượng, tại không đức-tin rồi không làm, biểu các phẩm Thần, Tiên nơi cõi Hư-Linh tôn sùng mình trọng hậu với giá-trị nào? Nói thật kẻ đánh bông dụ kia, đánh trúng thì ăn tiền, nếu để chén ngữa ra thì thiên-hạ nói trúng hết.
Đức-tin có ở con người tự biết, tự-trọng, tự thờ mình, mình thờ mình đặng, tức là thiên-hạ thờ mình đặng, đức-tin do nơi mình tin mình; mình tin mình đặng, thiên-hạ mới tin mình, còn mình chưa tin mình, mà biểu thiên-hạ tin mình làm sao đặng? Mình không tin mình, mà biểu nhơn-loại tin tưởng Đức Chí-Tôn là Đấng tạo sanh Càn-Khôn Vũ-Trụ, sản-xuất ra linh-hồn ta sao đặng? Nếu chưa đủ đức-tin làm bằng chứng vô đối, thì chưa xứng đáng làm phần-tử trong Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn, tức là Hội-Thánh của Ngài đó vậy./.
CON ĐƯỜNG THIÊNG LIÊNG HẰNG SỐNG: Bài 14
Đức Hộ-Pháp
Thuyết-Đạo tại Đền-Thánh, thời Tý, đêm 15 tháng 11 năm Mậu-Tý (15-12-1948)
Hôm nay Bần-Đạo giảng tiếp cuộc thiệt chiến giữa các Đấng Trọn-Lành nơi Cung Hiệp Thiên Hành-Hóa và các Chơn-Linh có trí-thức tinh-thần cao siêu mà không dung nạp một tín-ngưỡng nào hết, tức là các tinh-thần vô đạo-đức.
Vấn nạn về tín-ngưỡng Đạo-Giáo, họ hỏi các Đấng Trọn-Lành: Nếu quả nhiên như các Ngài buộc chúng tôi phải có đức-tin đặng tu, phải có đức-tin mới tu kỳ thân đặng, và dục tấn trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống vô-biên vô-giới trong hàng phẩm các Đấng Thiêng-Liêng, tức là các chơn-hồn trong Càn-Khôn Vũ-Trụ; chúng tôi xin hỏi: Nơi thế-gian này, biết bao nhiêu Tôn-Giáo, mà các vị Giáo-Chủ đã tạo thành, đương giáo-hóa nhơn sanh nơi mặt thế; chúng tôi không công-kích gì các Đạo-Giáo ấy, nhưng làm cho tinh-thần nhơn-loại mờ hồ, mất cả tín-ngưỡng Đạo-Giáo là do lẽ ấy. Chúng tôi cũng không công-kích rằng: Các vị Giáo-Chủ đã để các triết-lý Đạo-Giáo nơi thế-gian này là không thật bổ ích cho tinh-thần nhơn-loại, song chúng tôi làm chứng quả-quyết một điều là triết-lý của các nền Tôn-Giáo đã phản khắc nhau, tinh-thần triết-học tín-ngưỡng không đồng, làm cho tinh-thần trí-thức loài người hoang mang không biết nên để đức-tin nơi nào cho đặng.
Về nhơn-đạo, ta thấy ai rủi sanh làm người tại thế-gian này tự nhiên biết mình đến một cảnh khổ, và kiếp sống của mình là kiếp khổ, ai cũng hiểu cả Tứ-Khổ mà Đức Phật Thích-Ca đã để tại thế gian, không phải là không chí lý, để cho tinh-thần loài người nhận thấy, bởi trọn kiếp sanh làm con người, phải biết cái khổ ấy do nhiên, không chối cải được, nhưng mỗi Đạo-Giáo có mỗi phương-chước tu hành, đặng dục tấn về mặt tinh-thần trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống.
Nhơn-Đạo dạy nhơn loại Tùng-Khổ,
Thần-Đạo dạy nhơn loại Thắng-Khổ,
Thánh-Đạo dạy nhơn loại Thọ-Khổ,
Tiên-Đạo dạy nhơn loại Giải-Khổ,
Phật-Đạo dạy nhơn loại Thoát-Khổ.
Thành ra chỉ có một triết-lý, chỉ vì muốn diệt khổ mà các Tôn-Giáo để mỗi điều, mỗi nẻo, mỗi triết-lý. Chúng ta thấy các triết-lý ấy đều chơn thật đều bổ ích, chơn-lý ấy chúng tôi không phản đối, nhưng chúng tôi thấy vì lẽ phải, toàn-thể Tôn-Giáo ấy làm cho tinh-thần loài người không biết chọn cửa nào cho đặng. Vì cớ nên nhiều kẻ nếu trí-thức tinh-thần được đầy-đủ đặng suy đoán, tìm hiểu, biết quan-sát các triết-lý đạo-đức, thì sự mờ-hồ như chúng tôi đã nói là chơn thật, quả quyết đáng gọi là mờ-hồ. Nó mờ-hồ có nhiều lẽ. Thoảng có một triết-lý nào mà tìm chưa tận cùng chỉ sợ một điều nếu nhẹ tín, đem để đức-tin mình nơi nào rồi, sợ thiên-hạ bàn tán trích điểm ấy, sợ xấu hổ, biết đáng tín-ngưỡng lại sợ miệng lưỡi thế-gian trích điểm, rồi làm bộ mình cũng coi không chịu có tín-ngưỡng gì hết. Phần nhiều các bậc có học, các triết-học-gia tại thế-gian này có tánh ấy .
Đã biết mà lại sợ, biết mình tín-ngưỡng là đáng mà không quyết thắng tâm-lý của mình, và của người đặng định-quyết sự tín-ngưỡng, sợ thiên-hạ cười rồi làm màu-mè không tín-ngưỡng. Phần nhiều hạng hữu-học như vậy.
Như thế thì các Đấng Trọn-Lành trả-lời ra sao? Nói: Các ông đủ trí-thức tinh-thần, đủ học-thức kiến-văn đặng chủ định tinh-thần tâm-lý của mình, mà các ông không đủ can đảm quyết làm cái điều phải làm ấy. Các ông chán thấy một kẻ có tâm hồn cao thượng, điều gì học hỏi quyết nhận thấy là cao thượng, phải lẽ, thì họ cũng dám hy-sinh tánh mạng làm cho nên tướng điều ấy. Từ tạo-thiên lập-địa đến chừ, bao nhiêu bực hiền-triết đã hủy mình làm theo lẽ phải ấy. Chúng tôi hỏi các ông: Các nền Tôn-Giáo hiện-tượng nơi thế-gian có Tôn-Giáo nào dạy thiên-hạ làm quấy chăng? Nếu quả nhiên không có Tôn-Giáo nào, dầu Tả-Đạo, Bàn-Môn đi nữa, không dám dạy nhơn-loại điều quấy, vẫn dạy điều phải mà thôi. Bởi vì với lẽ phải ấy, không có Tôn-Giáo nào đã gọi là Tôn-Giáo mà dám dạy làm quấy, tức nhiên dạy làm phải. Nếu bực trí-thức như các ông thấy phải không dám làm thì là bạc nhược tinh-thần lắm vậy.
Một điều nữa, lấy tín-ngưỡng làm căn bản, từ thử đến giờ các ông đã thấy nó làm môi giới, định phương-châm cho nhơn-loại sống, như thế nào các ông chối đặng? Nếu thoảng nói các Tôn-Giáo tại thế này làm cho tinh-thần nhơn-loại không thế chủ-định nơi nào mà để tín-ngưỡng, chúng tôi xin nói như thế này: Người ta dọn một bữa cơm có đủ món ăn, nào thịt, nào muối, nào rau, nào tương, nào chao, mà mấy người nói nhiều món quá, cứ cầm đủa quơ hoài, không ăn rồi chịu đói sao? Phải ăn chớ!
Các Tôn-Giáo để tại thế-gian này miêu tỏa tánh nết của loài người, làm phương-châm đặng dìu-dắt tinh-thần loài người.
Trong một cái nhà cũng có chỗ cho mấy người ở, không lẽ không có một nơi nào cho mấy người đến, người ta đem nhiều món ăn mà không biết lựa chọn mà ăn, không phải không món nào bổ ích đặng định phần sống, tại dở không biết lựa, hay là tại làm màu, chê rẻ, trề nhún thà chết đói không thèm ăn. Lời tục nói: "Làm cách sạch ruột, ắt phải đói".
Các nền Tôn-Giáo có thể ví như một gia-đình, người này tranh hơn thua công-kích người kia, không lạ mỗi gia-đình nếu có Ông Bà, Cha Mẹ, Cô Bác, phải có con cháu, như đám thiếu-sinh kia, nếu dạy anh mầy phải phục tùng Mẹ mầy, Mẹ mầy phải phục tùng Cha mầy, Cha mầy phải phục tùng Ông Nội mầy, Ông Nội mầy phải phục tùng Ông Cố mầy, định quyền hạn trong gia-đình không phải là chuyện dối giả hay là không có thật. Nhưng có một điều là khi đứa trẻ đã nên người, không cần nói đến những điều trên mà nói như vầy: Trong gia-đình mầy có Ông, Bà, Cha, Mẹ và anh em mầy, mà mầy là một phần tử, mầy là người ở trong gia-đình ấy. Các nền Tôn-Giáo đã để tại mặt thế này tùy theo trí-hóa, tánh-đức của nhơn-loại tiến tới địa-điểm nào, để Tôn-Giáo cho vừa chừng địa-điểm ấy.
Còn hiểu Tôn-Giáo là gì, lẽ ấy Tôn-Giáo nào cũng dạy ta cho sáng đạo-đức tinh-thần, tổng-số các Tôn-Giáo ấy đáng tạo ra thiệt tướng của đạo-đức, chớ không phải sanh ra cho nhiều đặng trích-điểm nhau, tàn diệt nhau, không có phương-thế gì mà Tôn-Giáo này tàn diệt Tôn-Giáo kia, dầu có ganh-ghét nhau không khi nào Tôn-Giáo này có thể giết được Tôn-Giáo khác, bởi không có năng-lực, lực-lượng gì diệt tiêu nhau được cả. Bởi chơn-lý chỉ là một chơn-lý, là sống trong cái sống của tín-ngưỡng, sống trong con đường hằng sống và làm cho được hằng sống vô-biên vô-giới, tạo tinh-thần cho biết nguồn cội của Tôn-Giáo là chỉ hằng sống mà đi tìm thôi. Dầu cho một trăm đường đi, ta chỉ cần biết một nẻo là đủ, chớ đi một ngàn ngỏ cuối cùng cũng đến một địa-điểm là cõi Thiêng-Liêng Hằng-Sống. Đó là thiệt cảnh mà ta cần tìm chớ không phải cảnh phàm này.
Ta mang thi hài thú-chất, chịu khổ sở đủ đầy, ta tìm chơn-lý của Tôn-Giáo thì có Tôn- Giáo nào mà không chỉ đường, họ chỉ nhiều chừng nào thì con đường chắc đến chừng nấy. Nếu không chỉ được con đường Hằng-Sống ấy không phải là Tôn-Giáo nữa, ta không cần nghe mà cũng không nên theo dầu bị dụ-dỗ buổi mê-tín đị đoan, chừng ấy không phải chơn-tướng Thiêng-Liêng Hằng-Sống, mà nhơn-loại muốn tìm thì họ từ-giã ngay, không hề khi nào gạt đến tận cùng, đến diệt tiêu cả sở-vọng của tinh-thần loài người đặng./.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 15-11-Mậu Tý nhằm ngày (dl. 15-12-1948).
CON ĐƯỜNG THIÊNG LIÊNG HẰNG SỐNG: Bài 15
Đức Hộ-Pháp
Thuyết-Đạo tại Đền-Thánh, đêm 19 tháng 11 năm Mậu-Tý (19-12-1948)
Hôm nay Bần-Đạo giảng tiếp về triết-lý trọng yếu nên hơi lâu dài, cả thảy ngồi có mỏi mệt xin đừng phiền.
Mỗi phen cúng giờ khuya, muốn giảng triết-lý nào có thể viết ra một quyển sách mà gom nó lại thế nào làm một bài văn ngắn-ngủi, có đủ tinh-thần không phải là dễ, khó lắm vậy.
Đêm nay Bần-Đạo giảng tiếp: Trường thiệt-chiến nơi Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa về huyền-vi bí-mật của các cơ-quan hiệp nhứt là về triết-lý: "Vị tha diệt kỷ" tức là "Dĩ công diệt tư", ấy là Bí-Pháp. Nếu có thể thật-hành tại mặt địa-cầu này, đặng cứu vãn cả cơ-quan tương khắc, tương đối, đem nhơn-loại ra khỏi vòng tương-tàn, tương-sát lẫn nhau.
Vả chăng, trên Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa, các Đấng lấy thuyết dục-tấn làm căn-bản, dầu cho về mặt triết-lý cũng ở trong tay các Đấng mà có tự do tín-ngưỡng, các Đấng chịu ảnh-hưởng của Nho-Giáo, nêu lên lẽ công bỏ điều tư. Ngoài ra có tín-ngưỡng mới rõ danh-vị của huyền-vi thưởng phạt, và toàn cả quyền năng hữu-hình và vô-hình của Đức Chí-Tôn là Đấng Chủ-Tể muôn loài. Nhưng hại thay! Trong triết-lý của Nho-Tông tín ngưỡng lấy tinh-thần của nhơn-loại mà chịu cái ảnh-hưởng ấy thôi, ấy là phương-pháp trong sự tự-do tư-tưởng và tự-do tín-ngưỡng của nhơn-loại, mà nhơn-loại chịu ảnh-hưởng ấy chưa đoạt được quyền vi-chủ ấy, nên giữa Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa phản đối nói rằng: Chúng tôi thấy tại mặt thế cả vạn loại bảo-thủ sanh mạng có nhiều lẽ bất công trước mắt, trường đời hổn loạn, mạnh được yếu thua, ngu bị tàn hại, trí được cường-liệt. Dầu cho nhơn-loại cũng vậy, chúng tôi thấy trước mắt đương nhiên mặt địa-cầu này, tấn tuồng tiếp diễn mãi thế, không buổi nào dứt đặng. Bực Đại-Giác của nhơn loại kiếm phương thuốc dung hòa, các cơ-quan tuồng đời đã xô đuổi nhơn-loại đi trên con đường diệt vong. Buổi tương-lai đây, hỏi nếu có một quyền năng vô-hình định vận, định căn cho toàn nhơn-loại, quyền năng đó có đủ năng-lực để bảo vệ họ và ngăn cản không để cho sự bất công tiếp diễn nữa không?
Tưởng nếu chúng ta bị vấn nạn như vậy, chắc khó giải quyết lắm, may thay, nơi Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa các Đấng Trọn-Lành chưa chịu thua họ, các Đấng ấy trả lời: "Cũng bởi nguyên căn dĩ tư diệt công, dĩ kỷ diệt tha", tấn tuồng tiếp diễn giờ phút nào thì luật tương đối định mạng vận cả sanh-hoạt của vạn-loại vẫn còn đến giờ phút ấy. Giờ nào mà nhơn-loại biết dĩ công diệt tư, dĩ tha diệt kỷ, giờ ấy là giờ giải thoát cho nhơn-loại chớ có gì đâu.
Chúng ta nhìn thấy trường đời, có khác chi nơi cửa Thiêng-Liêng kia lạ (*1) một điều là: Những cơ-quan của tinh-thần vật loại tạo thành tướng đều là "Dĩ kỷ vị tư", mà hễ dĩ kỷ vị tư tức có tương tranh tương đối, mà có tương tranh ắt có tương tàn tương diệt chớ có gì lạ đâu.
Các vật loại đã chịu mặt luật Thiên-Nhiên, luật ấy định quyền dĩ công diệt tư, dầu cho xã-hội nhơn quần đến gia-đình cũng vậy. Trong gia-đình toàn con cái lấy gia-đình làm chủ-nghĩa, mà họ lấy tư-kỷ thì gia-đình ấy náo loạn, tàn mạt. Trong một quốc-gia xã-hội, dân phải vị quốc (tức là vì nước) mình thì quốc-gia mới cường liệt, còn dân vị-kỷ chỉ biết hạnh-phúc cá nhân, không biết hy-sinh cho quốc-vận, thì nước nhà loạn lạc, xã-hội vạn quốc đương nhiên chỉ biết làm cho nước mình cường liệt, chỉ lo cho nước mình cao sang hơn các nước khác, chẳng qua vì vị-tư, vị-kỷ của họ mà ra. Nước này muốn đặt mình cho cao sang hơn nước kia, tức có phản đối có phấn đấu, mà hễ phấn đấu thì nhơn-loại tương tàn tương-sát nhau. Điều ấy không lạ, luật thiên-nhiên dục-tấn, họ dục-tấn đặng chi? Đặng đưa họ đến con đường hiệp nhứt tức là đường vị-tha bất vị-kỷ. Hại thay nhơn-loại chưa có tinh-thần đó, điều nào vị-kỷ đáng lẽ họ không gọi là công-lý hay gọi là chơn chánh đối với kẻ khác, họ để giá trị ấy là đê hèn, thô bỉ, lạc hậu, là lẽ bất công thì thế nào thế-gian này không đào độn loạn-ly cho được?
Các bạn có giấu-diếm được không? Mời các bạn ra khỏi Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa xem (*2) xuống thế-gian coi thế-gian đào tạo từ thử, coi tình trạng biến hóa của nó đặng quyết định do quyền-năng thế nào? Đứng trước cửa Diêu-Trì-Cung dưới cây phướn chiêu-hồn của Đức Diêu-Trì, ta dòm thấy một bản-đồ dường như trải ngửa cho chúng ta xem, thấy một khu đất de ra đại-hải, đất ấy một phần bưng lầy nho nhỏ, một phần trên gò nỗng, chỗ khuyết chỗ đầy, chỗ lưng chỗ vơi dơ dáy là bùn để giá bán ba trăm quan. Mảnh đất ấy là thành Nữu-Ước (New York) tình cảnh đìu-hiu để giá bán chỉ có 300 quan mà thôi. Rồi chúng ta thấy hình nó biến tướng ra sao? Nó thành Châu-thành nho nhỏ, vừa như Châu-thành vừa như cửa biển, các con buôn đến buôn bán. Kế thấy biến tướng ra một Châu-thành lớn, thiên hạ lên xuống nhứt là bán vàng, xem ra tình-trạng kha khá rồi, biến nữa, thấy Châu-thành lớn lao, thiên-hạ náo nhiệt, đó là đến thế-kỷ La Fayette, lúc ấy thiên-hạ nơi thành Nữu-Ước tìm phương giải thoát nạn đô-hộ của Anh, biến nữa thì thấy lầu đài chớn-chở, cửa biển thuyền bè tấp nập, thiên-hạ đô hội, nhà thì cất 100 từng, lầu các nguy-nga không còn tình trạng như trước kia. Những nơi bùn lầy thành ra một cửa biển lớn lao vô cùng tận, giàu sang vô đối. Nếu chúng ta tưởng tượng, tại có những cái tư-kỷ ban sơ mà thành Nữu-Ước có được cảnh trạng bây giờ, hỏi nhơn-loại muốn bảo thủ cái nào, muốn bảo thủ mảnh đất bùn lầy hay là cảnh đài các hiển nhiên đây?
Các Đấng ấy nói: Chưa hết, sẽ còn thay đổi nữa, chẳng phải thành phố Nữu-Ước thôi, mà cả hoàn-cầu đến hạn định của mình đều phải đổi nữa.
Các bạn Việt-Nam, cho các bạn thấy bản-đồ thành Sài-Gòn, dòm thấy trên bản-đồ do con sông lớn hai bên bần mọc li-bì, kế đó con sông nhỏ, sơ-rơ mấy nhà thuyền chài. Bến-Nghé là đó, bùn lầy dơ bẩn hai bên sông lớn chảy dài vô trong ruộng đầy-đặn, đưng cỏ mọc. Thỉnh-thoảng thấy biến tướng ra hai bên sông bớt bần, thiên-hạ chen nhau cất nhà, gọi là nhà sàn, đầy dẫy thuyền bè tới lui buôn bán. Biến nữa, thấy dựa bờ sông có người xúm-xít cất nhà, nhóm thành làng lớn, nhà cửa thuyền bè đặt nghẹt. Biến nữa thấy ruộng khô, nhà đắp nền đất, nhà ngói, nhà tranh nhiều. Biến nữa thấy hai bên bờ sông nhỏ, bây giờ là đường Charner, thiên-hạ ở coi náo nhiệt, lao-xao lố-xố. Biến nữa, con sông đó đâu mất, hai bên bờ sông lớn không còn nhà sàn như trước nữa, lại có tàu khói ra vô tấp nập, thiên-hạ buôn bán. Biến nữa thấy Châu-thành buôn bán sầm uất. Biến nữa thấy lầu đài, nhà thờ nhà nước. Rồi biến nữa ta thấy Châu-thành đương nhiên bây giờ.
Các Đấng hỏi: Chúng ta muốn bảo thủ thành Sài-Gòn như trước, còn ruộng đất bùn lầy, hay muốn bảo thủ phong cảnh ngày nay? Lại nói: Chưa hết đâu còn thay đổi nữa.
Bây giờ có người nhứt định nói hiện giờ có Đạo Cao-Đài chờ coi đặng làm bằng chứng. Tìm tòi thấy Đền-Thánh chúng ta đây, bản-đồ có rừng, cây, cọp, beo, khỉ đủ thứ thú dữ ở. Rồi thấy biến ra vài ba cái nhà tranh cất leo-teo trong rừng. Biến nữa, thấy phát ra một khoảnh trong cất Đền-Thờ, với vài ba cái nhà lá làm trú phòng. Rồi biến ra chòi cất cùng hết, mỗi nơi mỗi cái chòi xen lẫn nhau trong rừng có vùng đắp đất. Biến nữa thấy thiên hạ vô Đền-Thờ coi được sạch-sẽ, vẻ-vang. Thấy làm gì mấy ông lớn vô rồi ba người ở ngoài cửa mắng nhiếc chưởi bới. Biến nữa thấy thiên-hạ người nghèo khó tấp nập ra vô, đốn cây, ban gò mối, làm cho đất bằng phẳng. Biến nữa thấy chất đá ngói cất Đền-Thờ lợp ngói, biến nữa sập cái Đền-Thờ đó xuống có Đền-Thờ khác thiên-hạ đang làm, tức là Đền-Thờ đương nhiên dinh-thự mọc lên cùng khắp.
Hỏi Đạo Cao-Đài muốn có bảo thủ khu rừng hoang vu hay là bảo thủ Đền-Thánh hiện giờ, hay là muốn giữ để làm tư-kỷ cho mình chăng?
Các Đấng ấy nói các sự biến-tướng là gì lẽ công hết thảy, dầu cho thành Sài-Gòn hay thành Nữu-Ước điều biến-tướng theo lẽ công không vì tư được, nhà ta cất giờ phút này, bất quá là mở phần tựu hình đặng cốt yếu trong sự thống-nhứt vì công, không vị-tư vị-kỷ được.
Ấy vậy, ta thấy hữu-hình hiện giờ, cái bí-mật huyền-vi Thiêng-Liêng trên con đường trải qua từ Bát-Quái-Đài đến đây thấy thế nào? Thấy có những cây, khi đi ngang qua các Đền Đài phải biết rằng, có bàn tay của mấy người tượng nắn ra các cái đó, các vật chung quanh mỗi người nhìn thấy trên con đường trải qua ấy, cũng chính tay mỗi đứa mình đào tạo thành ra một vật chung, nó là công không phải tư, cho đến Đức Phật Mẫu mà các người đến kiến định, nhìn nhận là Mẹ sanh của mình tại thế, chính Phật-Mẫu tượng hình cho chúng mình. Phật-Mẫu cũng là công, không phải tư được, còn Chí Tôn mà ta sẽ gặp tới đây ta sẽ thấy Chí-Tôn là cha của mỗi đứa mình, thấy Ông định nhập vào cho công và hết còn là tư. Về huyền-bí Thiêng-Liêng, nắm cái Càn-Khôn lập quyền-năng vững chãi do nơi cơ-quan vị-công bất vị-tư.
Thế-gian này, ngày giờ nào nhơn-loại lấy của mình làm công, không lấy một mảnh đất nào làm tư nữa, thì ngày giờ ấy thiên-hạ mới hạnh-phúc./.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 19-11-Mậu Tý nhằm ngày (dl. 19-12-1948).
(*1) Nơi đoạn thứ 6: Chúng ta nhìn thấy trường đời, có khác chi nơi cửa Thiêng-Liêng kia lạ một điều là: Những cơ-quan của tinh-thần vật loại tạo thành tướng đều là "Dĩ kỷ vị tư", mà hễ dĩ kỷ vị tư tức có tương tranh tương đối, mà có tương tranh ắt có tương tàn tương diệt chớ có gì lạ đâu.
Nguyên bản chánh in là: Chúng ta nhìn thấy trường đời, có khác chi nơi cửa Thiêng-Liêng kia là một điều là: Những cơ-quan của tinh-thần vật loại tạo thành tướng đều là "Dĩ kỷ vị tư", mà hễ dĩ kỷ vị tư tức có tương tranh tương đối, mà có tương tranh ắt có tương tàn tương diệt chớ có gì lạ đâu.
(*2) Nơi đoạn thứ 8: Các bạn có giấu-diếm được không? Mời các bạn ra khỏi Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa xem xuống thế-gian coi thế-gian đào tạo từ thử, coi tình trạng biến hóa của nó đặng quyết định do quyền-năng thế nào? Đứng trước cửa Diêu-Trì-Cung dưới cây phướn chiêu-hồn của Đức Diêu-Trì, ta dòm thấy một bản-đồ dường như trải ngửa cho chúng ta xem,...
Nguyên bản chánh in là: Các bạn có giấu-diếm được không? Mời các bạn ra khỏi Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa đem xuống thế-gian coi thế-gian đào tạo từ thử, coi tình trạng biến hóa của nó đặng quyết định do quyền-năng thế nào? Đứng trước cửa Diêu-Trì-Cung dưới cây phướn chiêu-hồn của Đức Diêu-Trì, ta dòm thấy một bản-đồ dường như trải ngửa cho chúng ta xem,...
Chúng tôi mạn phép trình bày như trên cho rõ nghĩa hơn.
CON ĐƯỜNG THIÊNG LIÊNG HẰNG SỐNG: Bài 16
Đức Hộ-Pháp
Thuyết-Đạo tại Đền-Thánh, đêm 22 tháng 11 năm Mậu-Tý (22-12-1948)
Hôm nay chúng ta đã đến tại nơi Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa đặng quan-sát kiếm tìm cả sự thiệt-chiến coi có cái chi phản-khắc với chúng ta không?
Từ hôm trước đến nay Bần-Đạo đã thuyết-minh những điều vấn nạn của các Chơn Linh siêu thoát. Nhưng vì thiếu đạo-đức tinh-thần, kiếm đủ triết-lý đặng chối tội, chúng ta đã thấy các Đấng Trọn-Lành nơi Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa kia chưa để cho họ đặng thắng đó vậy.
Đêm nay chúng ta tưởng mình lên tại chót Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa, kỳ này là kỳ trọng yếu hơn hết. Bởi vì họ vấn nạn về quyền-năng tín-ngưỡng.
Luật Thương-Yêu Công-Bình của các vị Giáo-Chủ đã để tại mặt thế-gian này, vấn nạn kịch liệt lắm, chúng ta để ý, hạng nhứt là Chư Chức-Sắc Thiên-Phong Nam Nữ nên cần để ý cho lắm.
Bần-Đạo thuyết đêm nay là đêm trọng yếu hơn hết, họ vấn nạn về tín-ngưỡng.
Kỳ trước Bần-Đạo giảng về chỗ có nhiều Tôn-Giáo làm cho nhơn-tâm bất nhứt, ngày hôm nay họ công-kích về luật điều, họ hỏi: "Nếu như Đạo-Giáo có một khuôn khổ hữu hình, tức nhiên là phải chiếu theo khuôn-khổ của Thiên-Điều mà tại sao lại các vị Giáo-Chủ lập giáo bất đồng với nhau? Vị này nói vầy, vị kia nói khác, tức nhiên phản-khắc với nhau, biểu sao nhơn-loại không chia rẽ? Biểu sao không thống-nhứt?
Các vị Giáo-Chủ quan-sát lại coi những Đạo-Pháp, Đạo-Luật của mấy vị Giáo-Chủ ấy, vẫn là phương-pháp khắc bạc với nhau, phản đối với nhau, không đồng tâm không đồng đức, nhứt là không đồng tánh về tư-tưởng, đạo-đức, tinh-thần, biểu sao nhơn-sanh không chia rẽ, nếu chia rẽ tức nhiên loạn-lạc.
Đời lúc nào cũng phản khắc loạn-lạc, chia rẽ. Thì các Đấng Trọn-Lành nơi Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa họ chỉ ngồi họ cười. Họ nói: Luật hữu-hình bất công của các chủng-tộc nơi mặt địa-cầu này, là tại nhiều tâm-lý, nhiều tâm-đức, nhiều tinh-thần, đừng có nói là một nòi giống, một quốc-gia, hay vạn-quốc, tánh-đức nhơn-loại bất đồng thay, chẳng khác nào các vị buộc vị Phật (Sĩ-Đạt-Ta) lập giáo nơi Ấn-Độ là Phật-Giáo ngày nay, mà Ngài đồng tâm đồng tánh với người khác giống được. Ngài vẫn làm chủ tâm-lý của loài người do tại đâu? Do mặt Luật Bác-Ái và Công-Bình, những phương-pháp của các vị Giáo-Chủ, dầu cho luật-pháp đã lập nền Tôn-Giáo bất điều hòa với nhau nhưng đó cũng mở đường chỉ nẻo cho nhơn-loại đi đến con đường của Đạo-Giáo, tức là tín-ngưỡng thờ Người và thờ Trời. Còn về luật-pháp của mình, Đức Phật Thích-Ca có nói nếu như Ngài không Bác-Ái không Công-Bình, thì Đạo-Giáo của Ngài không Bác-Ái Công-Bình đặng, lập đạo từ trước đến giờ. Hỏi Đấng ấy lập giáo của họ trên nền tảng nào? Có phải là Bác-Ái và Công-Bình chăng?
Nếu không phải Bác-Ái và Công-Bình thì chưa có tìm một triết-lý cao siêu, để vào tâm-lý tinh-thần nhơn-loại mặt thế này. Chúng ta đã ngó thấy của ấy là Nhân đó vậy.
Nhưng trái ngược lại, họ còn giành phần (*1) họ đánh ép mình, nếu chúng sanh không có tinh-thần với họ và nếu không có công-bình, tâm-lý, tinh-thần và không lòng thương yêu đầy dẫy, chưa đồng tâm tánh trí não, thì các Ngài chưa hạ mình xuống đặng nâng đỡ tinh thần loài người dường ấy.
Đức Lão-Tử thấy thiên-hạ không biết nhìn phẩm-vị của mình, không biết chơn-tướng của mình để nơi nào mà định vị cho mình. Trái ngược lại, Ngài sanh ra tại đất Trung-Hoa, buổi tâm-lý nhơn sanh điêu tàn, họ không biết phẩm-giá con người là gì? Đến đổi tâm-lý loài người buổi ấy cũng xáo trộn, không còn chơn-phẩm của người. Họ không biết tự tôn họ, họ chưa biết phẩm-vị họ, thì họ chưa tin thiên-hạ, tức nhiên là thú-chất vật loại, nếu không phải có bác-ái từ-bi thức tỉnh nhơn-loại buổi ấy, thì họ chưa biết phẩm-vị tối cao tối trọng của họ. Họ không còn làm con vật nữa! Nếu chẳng Bác-Ái Công-Bình chưa hề khi nào lập nên nền Tôn-Giáo như thế đặng.
Đến ngày nay nước Tàu còn lưu lại, Ngài nói chẳng phải nói Á-Đông mà thôi đến Âu châu cũng vậy. Ngài nói cái triết-lý Đạo cao siêu chơn thật, người ta theo không biết bao nhiêu. Nói về chơn thật thì chúng ta bảo vệ tinh-thần mà thôi. Các Ngài tìm thấy, các Ngài ngó lụng lại, các Ngài thấy tinh-thần mà thôi, dầu luật-pháp Tôn-Giáo cũng do Bác-Ái Công Bình mà lập thành, những phương-pháp họ tạo ra cho có hình-tướng cốt yếu dìu dắt tinh thần nhơn-loại, đi đến mức cao thượng là Bác-Ái Công-Bình. Bác-Ái Công-Bình ấy là Đạo Nhơn-Luân đó vậy. Nho-Giáo, Đức Khổng-Phu-Tử lập tại Trung-Hoa vì Ngài thấy nhơn luân buổi nọ điên đảo điêu tàn nên mới lập ra Nho-Giáo để bảo vệ Nhơn-Luân.
Cũng vậy nữa, Lão-Tử, Ngài thấy nhơn-phẩm suy đồi không còn giá-trị tâm-lý, nhơn sanh buổi ấy mất hẳn giá-trị của nhơn-loại, nên Ngài hạ mình xuống đặng định Luật- Pháp, trụ cái Đạo Nhơn-Luân làm căn bản, hễ biết trọng mình, biết địa-vị mình, tức nhiên Thiên-Đạo, biết Thiên-Đạo tức nhiên biết Thiên-Điều, biết Thiên-Điều tức nhiên biết Đức Chí-Tôn, tạo Đạo, mình phải giữ Đạo. Ngài không lẽ lấy danh tánh của Đức Chí-Tôn làm của tư được.
Ngài nói, đệ nhứt Đạo, tối cao tối trọng, đặng chỉ mặt Luật Bác-Ái và Pháp Công-Chánh. Đã định cái sống trong Càn-Khôn Vũ-Trụ thì phải định cái sống cho loài người, định cái sống cho toàn cả chủng-tộc cho toàn mặt địa-cầu này.
Luật-Pháp của Ngài nó đã trái hẳn phong-hóa mặt địa-cầu, nói về tinh-thần đạo-đức của Tôn-Giáo nó là mô giới, cho nên ngày giờ này cả vạn-quốc đều để tâm tìm kiếm Luật Pháp ấy.
Vì cớ cho nên Đạo Cao-Đài Đức Chí-Tôn có tiên-tri rằng: "Đạo Cao-Đài tức nhiên là một cây cờ báo hiệu cho Vạn-Quốc toàn-cầu hay trước là: Thời kỳ Nho-Tông chuyển thế đã đến".
Đạo Đức Chúa Jésus-Christ tức nhiên là Công-Giáo, nếu Người không có Bác-Ái thì chưa đem xác thịt của mình làm con vật đặng tế Đức Chí-Tôn. Ngài cầu xin tha thứ tội tình cho nhơn-loại, Người ấy là Người đáng để lòng thương yêu, nếu đem ra làm kiểu mẫu cho nhơn-loại bắt chước thì Tôn-Giáo Gia-Tô đã đoạt được bao nhiêu tinh-thần thương yêu nơi mặt địa-cầu này vậy.
Nếu các Ngài còn chối cãi thì tôi nói rằng: "Dầu cho muôn đường ngàn nẻo thì các Ngài cũng phải chọn một, các Ngài chối không chịu dìu-dẫn tâm-lý loài người đi trong con đường tín-ngưỡng và dìu-dắt tinh-thần loài người trong Luật Yêu-Thương và Pháp Công-Chánh, các Ngài chỉ đem mấy bản hồ-sơ ra để trước mắt Tòa Tam-Giáo mà cầu rỗi lấy mình, tôi dám chắc các Ngài không phương thế gì chối tội đặng. Dầu cượng lý bao nhiêu cũng không chối đặng, các Ngài chối tội xin có bằng cớ dĩ nhiên rằng:
Đạo Cao-Đài xuất hiện, Đức Chí-Tôn đến mở Đạo 24 năm trường, Ngài đến ký một bản Hòa-Ước Thứ Ba với Nhơn-Loại, vì bản Hòa-Ước Thứ Hai nhơn-loại đã phản bội, không giữ sự tín-ngưỡng của mình vì cớ cho nên thất Đạo, nhơn-loại đi trên con đường diệt vong tương-tranh tự-diệt nhau. Vì lòng bác-ái từ-bi cho nên Đức Chí-Tôn Ngài đến, Ngài ký tờ "Hòa-Ước Thứ Ba" này nữa, để nơi mặt Luật-Điều cho chúng ta.
Các Đấng Thiêng-Liêng chỉ ngay Đạo Cao-Đài mà tín-ngưỡng và từ-bi cho y theo chủ pháp của mình "Dieu et Humanité" nên Trời và Người về mặt Luật Bác-Ái, về mặt Pháp Công-Bình, ngoài ra dầu Luật-Pháp muôn hình ngàn tướng cũng vẫn trong Luật Bác-Ái và Công-Bình mà thôi.
Hội-Thánh Cao-Đài cũng vẫn do mặt luật vô-hình tối cao là mặt Luật Bác-Ái và Công-Bình, dẫn họ đến cảnh vô-hình tối cao tối trọng, cũng do Luật-Pháp của Đạo Cao-Đài.
Ngoài ra Luật Công-Bình Bác Ái tất cả còn lại là phương-pháp mà thôi.
Kỳ tới Bần-Đạo giảng cái quyền-năng là cái hiệu-nghiệm của Luật Bác-Ái và Công-Bình./.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 22-11-Mậu Tý nhằm ngày (dl. 22-12-1948).
(*1) Nơi đoạn thứ 10: Nhưng trái ngược lại, họ còn giành phần họ đánh ép mình, nếu chúng sanh không có tinh-thần với họ và nếu không có công-bình, tâm-lý, tinh-thần và không lòng thương yêu đầy dẫy,...
Nguyên bản chánh in là: Nhưng trái ngược lại, họ còn giành phận họ đánh ép mình, nếu chúng sanh không có tinh-thần với họ và nếu không có công-bình, tâm-lý, tinh-thần và không lòng thương yêu đầy dẫy,...
Chúng tôi mạn phép trình bày như trên cho rõ nghĩa hơn.
CON ĐƯỜNG THIÊNG LIÊNG HẰNG SỐNG: Bài 17
Đức Hộ-Pháp
Thuyết-Đạo tại Đền-Thánh, đêm 26 tháng 11 năm Mậu-Tý (26-12-1948)
Kỳ trước Bần-Đạo thuyết cuộc thiệt-chiến tại Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa về mặt luật các nền Tôn-Giáo để, có thuyết sơ cái Luật và Pháp của Đức Chí-Tôn đã dành cho Thánh-Thể của Ngài thi-hành Đệ-Tam Hòa-Ước của Ngài.
Bần-Đạo hứa sẽ thuyết-minh cái quyền-năng của Luật Thương-Yêu và Pháp Công-Chánh. Bần-Đạo đã nói sơ qua cái luật quyền-năng của Đức Chí-Tôn đã nói buổi nọ, buổi ấy luật hình của Đức Chí-Tôn cho nhơn-loại chưa có ký tờ Hòa-Ước, Đức Chưởng-Đạo đã có tả sơ qua cho chúng ta hiểu Đức Chí-Tôn buộc Thánh-Thể của Ngài và toàn nhơn-loại tùng một khuôn Luật Thương-Yêu và Bí-Pháp Công-Chánh. Khi đó Bần-Đạo hỏi Ngài: Thầy là Thầy, Cha là Cha cả thảy sao Ngài lại xưng bằng Thầy, thì Đức Chưởng-Đạo nói: Cha thì đáng Cha, Thầy thì đáng Thầy, nói đến Bần-Đạo sẽ giảng sơ qua bài thi: "Luật Thương-Yêu Quyền là Công-Chánh".
Gần thiện-lương xa lánh phàm-tâm,
Làm cha nuôi sống âm thầm,
Làm Thầy lại nhượng phẩm Thần, ngôi Thiên.
Tức Ngài cho hiểu Đệ-Tam Hòa-Ước với Đức Chí-Tôn, Ngài sẽ buộc nhơn- loại nhứt là Thánh-Thể của Ngài thi hành Luật Thương-Yêu và Quyền Công-Chánh.
Bây giờ Bần-Đạo thuyết về cái năng-lực của Luật Thương-Yêu của Quyền Công Chánh, chúng ta đã thấy hiện-tượng trước mặt chúng ta cả cơ-quan tạo đoan hữu- hình. Chúng ta chẳng cần tìm sâu-xa mà hiểu là do nơi Luật Thương-Yêu mà sản-xuất, vật gì, con gì, nó cũng có tình ân-ái của nó, thoảng như nó không có tình-cảm ân-ái của nó, thì nó không sanh-sản con cái được, con người không có tình thương với nhau, ân-tình với nhau nên chồng, nên vợ. Nếu không như vậy chắc là chưa có con nối dòng, truyền tử, lưu tôn cho loài người đặng.
Từ tạo Thiên lập Địa đến giờ, Luật Thương-Yêu dầu vạn-vật cũng thế, người cũng thế, Luật Thương-Yêu muốn đủ cao trọng hơn nữa, cao sang hơn nữa, thì luật định luật nơi Ngọc-Hư-Cung và Tây-Phương Cực-Lạc, tức Cực-Lạc Thế-Giái. Nếu nói thiệt đủ tinh thần mặt Luật Thương-Yêu ấy, trừ lại cơ-quan Tạo-Đoan, cả vạn-vật trong Càn-Khôn Vũ-Trụ này là Cung Diêu-Trì tức nhiên là Cung Đức Phật-Mẫu đó vậy.
Nói thật nếu Đức Chí-Tôn Ngài không có những tình-ái, không phân ra đệ-nhị xác thân, Ngài là bạn, Ngài là cơ hữu-vi Tạo-Đoan Càn-Khôn Vũ-Trụ đương nhiên bây giờ, cũng như ta nếu chúng ta sợ cái cơ-quan Tạo-Đoan ấy, tức nhiên tạo đời của mình. Nếu bên Nam, bên Nữ, sợ vợ, sợ chồng thì đâu có tạo ra đời của mình, phải có tình ái nồng-nàn, nó mới nên chồng vợ. Không phải vợ chồng thương nhau mà thôi, nó còn xô đẩy cao xa hơn nữa. Nếu chúng ta biết ???-tâm (*1), nòi giống, quốc-gia, chủng-tộc tức nhiên chúng ta tạo đời, không phải thương chồng vợ mà thôi, Luật Thương-Yêu ấy nó còn cao xa hơn nữa!
Bởi vậy cho nên Khổng Phu-Tử lập Giáo, Đạo Nho-Tông của Ngài chú trọng nhứt là Ngài lấy nhơn-luân làm căn bản, chặt-chịa mạnh-mẽ chắc-chắn lắm vì cớ cho nên Đạo Nho-Tông của Ngài để lại hơn hai ngàn năm vẫn còn nguyên-lực của nó, đương nhiên bây giờ nó còn đủ sức chuyển-thế đặng nó làm căn-bản mạnh-mẽ chắc-chắn. Căn-bản nhơn-luân chỉ sản-xuất nơi tình-ái mà ra, ấy Luật Thương-Yêu Đức Chí-Tôn buộc phải theo, theo mới được, ký Hòa-Ước với Ngài, phải thi-hành cái luật ấy.
Tờ Hòa-Ước này, ký với Ngài phải cho có hiệu-nghiệm. Ngài buộc ký với Ngài, thi-hành theo luật, cho chúng ta khỏi phải bội ước với Ngài, đã hai kỳ ký Hòa-Ước với Ngài, đều hai kỳ bội ước. Nếu chúng ta xét đoán hai kỳ trước, Ngài có buộc luật ấy hay chăng? Sao không có, có chớ! Mà tại Ngài không nói với nhơn-loại, không nói tức không buộc, không buộc thì không làm, đã có định-luật mà không có buộc, không buộc thì không đặng.
Kỳ này Đức Chí-Tôn không nói, mà Đức Chí-Tôn buộc, lại buộc phải thi-hành quyền Công-Chánh, chúng ta không cần tìm Trời - Đất chi cả, cơ-quan dưới thế, nếu không có mặt công-bình về tâm-lý, không có mực thước công-lý tại mặt thế này, thì Bần-Đạo dám chắc rằng: Cả cơ-quan hiển nhiên bây giờ không còn tồn tại được.
Có một điều khuyết-điểm chúng ta ngó thấy, một trường hỗn loạn, tương-tàn tương-sát với nhau, vì muốn thi hành mặt công-lý, tức nhiên lấy cân công-chánh làm mô giới cả cơ quan trị thế. Nhơn-loại loạn lạc tức nhiên mặt luật công-bình chúng ta đã ngó thấy, quả nhiên không thể chối cải cái gì được. Công-chánh là nơi miệng lưỡi loài người, tức nhiên vạn-quốc đương dùng bây giờ là một phương-pháp để lường gạt tâm-lý nhơn-loại.
Mặt cân công-bình thiên-hạ gọi là công-lý mà thế-gian này chưa có công-lý, mạnh thì công-lý của họ khác, giàu thì công-lý của họ khác, sang thì công-lý của họ khác, vinh hiển thì công-lý của họ khác, nghèo thì công-lý của họ khác.
Cái công-lý của nhơn-loại bây giờ là công-lý giả, vì bởi công-lý giả ấy, cho nên mới có trường hỗn loạn, tương-tàn tương-sát với nhau, phải họ đem công-lý về mặt tinh-thần quả quyết, đặng cân phân cùng các chủng-tộc nơi mặt địa-cầu này, nếu cân công-chánh ấy thiệt tướng của nó, thì thiên-hạ không có tương-tàn tương-sát với nhau, ngày nay máu sông xương núi, họ dùng lời dùng tiền, thực hiện công-chánh đặng lòe-loẹt nghĩa lý công chánh của họ, con người chưa có đoạt đặng công-chánh thật sự vì cớ con người chưa có mặt luật Công-Bình Bác-Ái dưới thế-gian này. Bởi cớ cho nên Đức Chí-Tôn buộc cả con cái của Ngài nhứt là Thánh-Thể của Ngài thi-hành cho được thiệt tướng.
Bởi vậy có câu Thánh-Ngôn của Ngài nói: "Ngày giờ nào các con dòm thấy một lẽ bất công nào nơi mặt thế-gian này thì ngày giờ ấy chưa thành Đạo"./.
Phụ ghi:
(*1) Nơi đoạn thứ 7:
Nguyên bản chánh bản in không rõ chữ chúng tôi nghĩ có thể là: Nói thật nếu Đức Chí-Tôn Ngài không có những tình-ái, không phân ra đệ-nhị xác thân, ... ... ... Nếu chúng ta biết ???-tâm, nòi giống quốc-gia, chủng-tộc tức nhiên chúng ta tạo đời, không phải thương chồng vợ mà thôi, Luật Thương-Yêu ấy nó còn cao xa hơn nữa!
Chúng tôi nghĩ có thể là: lưu-tâm hoặc là luơng-tâm hoặc là linh-tâm
CON ĐƯỜNG THIÊNG LIÊNG HẰNG SỐNG: Bài 18
Đức Hộ-Pháp
Thuyết-Đạo tại Đền-Thánh, đêm 08 tháng 12 năm Mậu-Tý (06-01-1949)
Hôm nay Bần-Đạo giảng tiếp cái hạnh-phúc chơn thật của loài người do nơi đâu mà có? Bần-Đạo đã tả do cuộc thiệt-chiến nơi Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa, các Đấng Chơn-Linh cao siêu về trí-thức tinh-thần thiếu đạo-đức họ phản đối, họ cho rằng: Duy có bực chơn-linh cao trọng, đủ tinh-thần, đủ quyền-năng, đủ phương-pháp mới ngó ngay "Tứ-Diệu-Đề" tức nhiên là điều khổ của kiếp sanh đặng lập vị mình. Phần nhiều các chơn-linh khác không thể gì đảm đương quyết thắng "Tứ-Diệu-Đề" ấy đặng, tìm phương thế đặng giải khổ. Mà biết không giải khổ đặng, hơn nữa vì quá khổ, họ tìm mảy may hạnh-phúc, họ phải tìm lấy hạnh-phúc đặng giải khổ, duy có phương thế là tìm lấy hạnh-phúc trong phương tối khổ vì cớ mà tạo ra oan-nghiệt tội tình, quả kiếp là do nơi đó. Bần-Đạo nói vì cớ ấy cho nên rủ nhau tìm coi cái hạnh-phúc chơn thật của kiếp sanh con người do nơi đâu mà có?
Bần-Đạo cũng luôn dịp để toàn-thể Thánh-Thể của Ngài toàn cả con cái của Đức Chí-Tôn lấy trí-thức kiếm hiểu coi nơi Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa các Đấng Trọn-Lành trả lời với họ thế nào? Bần-Đạo thuyết đêm nay hơi lâu một chút phải rán ngồi chờ để tâm mà nghe.
Bao giờ cũng vậy muốn thuyết cái chơn-lý, lấy cái Thể Pháp mà nhứt là dùng cái Thể-Pháp ngắn-ngủi khó lòng lắm, nhứt là phải thúc lại trong thời gian ngắn-ngủi này, vì thấy mỗi khi cúng rồi cả thảy đều mỏi-mệt, nên Bần-Đạo không muốn để cho Hiền-Hữu, Hiền-Tỷ, Hiền-Muội, Hiền Huynh, Hiền Đệ mệt mỏi như thế. Khó lắm không phải dễ, thuyết-pháp không phải dễ, dễ chăng là mấy bà lên nói hai ba câu rồi xuống kết cuộc của mấy bà là vậy thôi; thế nên hôm nay tóm-tắt như vậy thôi, cũng như có vị Giáo-Sư lên đài đứng sợ hãi quá, không phải dễ, chưa có ngày giờ tìm-tàng. Mỗi khi Bần-Đạo thuyết, Bần-Đạo để riêng một chỗ trống để cho tinh-thần toàn-thể con cái của Đức Chí-Tôn kiếm hiểu châm thêm cho được cao siêu, chúng ta có thể tìm-tàng được.
Bần-Đạo cố đưa chìa khóa cho cả thảy nắm trong tay, đặng mở ra hầu dìu dắt cả thảy đi cho trọn vẹn trong khối Linh-Đài của Đức Chí-Tôn.
Ấy vậy chúng ta kiếm hiểu hạnh-phúc chơn thật của con người, tức nhiên của kiếp sanh, do nơi đâu mà có?
Bần-Đạo thường khuyên nhủ muốn kiếm một sự thật của một chơn-lý, hay một triết-lý vô-hình vô-cảnh khó lắm, chúng ta phải thấu đáo cho tận cùng, duy chúng ta tìm-tàng dễ-dàng là chúng ta chỉ tìm nơi cái Linh-Đài, lấy cái nhỏ mà tìm cái lớn.
Thoảng chúng ta muốn tìm phương-pháp giải quyết cái thống-khổ đương nhiên nơi mặt địa-cầu này, họ đương đi trong cảnh vô-hình để họ tìm hạnh-phúc cho nhơn-loại.
Ôi! Biết bao nhiêu cái mưu chước đặng tìm hạnh-phúc, mà tội nghiệp thay cho nhơn-loại họ cũng tìm, họ đương khao-khát cái hạnh-phúc thương yêu đặng để sống. Ai đề xướng ra tạo hạnh-phúc cho họ thì họ theo, họ chỉ theo Hitler vì họ tưởng Hitler tạo hạnh-phúc cho họ đặng. Như dân Ý theo Moussolini họ cũng tưởng tạo hạnh-phúc cho họ được mà thôi.
Đương giờ phút này các chủng-tộc nơi mặt địa-cầu này, giờ phút này thiên-hạ đương bị lòe-loẹt vì hạnh-phúc ấy làm cho tinh-thần loài người đương hoang mang bất nhứt, cũng vì khao khát hạnh-phúc mà thiên-hạ bị lường gạt tinh-thần.
Chúng ta suy gẫm kiếm hạnh-phúc của loài người do nơi đâu mà có?
Bần-Đạo để cho cả thảy đều suy gẫm tìm kiếm. Bần-Đạo nói trắng ra thì chúng ta tự nghĩ mỗi anh em, mỗi người đều tự kiếm lấy mình, kiếm nơi mình, coi hạnh-phúc mình ở chỗ nào, kiếp sống chúng ta từ thuở lọt lòng, hạnh-phúc ở đâu, tìm thử coi? Chúng ta không thấy gì hết, chúng ta duy có biết đau khổ mà thôi. Bởi cớ cho nên, Bần-Đạo khuyên cả toàn-thể nhìn ngay "Tứ-Diệu-Đề" của Đức Phật Thích-Ca là đúng, mà sự phản-kháng của các Chơn-linh nơi Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa không phải là qua lẽ đó được.
Chúng ta biết, kiếp sanh ta khổ, kiếp sanh ta từ buổi lọt lòng Nam-Nữ cũng vậy, phải tìm coi hạnh-phúc do nơi đâu mà có.
Bần-Đạo dùng phép hồi-quang phản-chiếu xem kiếp sống của Bần-Đạo, chịu thống khổ bao nhiêu, và được bao nhiêu hạnh-phúc chơn thật. Bần-Đạo phải đi từ chỗ nào? Bần-Đạo ngó thấy Bần-Đạo sanh ra gặp nhà nhân-từ đạo-đức, ông thân Bần-Đạo làm một vị quan của đời Pháp (lúc ấy, Bần-Đạo mới có bốn tuổi) chức tước ấy cũng khá, có dư dã, dư ăn, đủ mặc, nếu ăn hối-lộ có thể làm giàu được, nhưng ông thân của Bần-Đạo đạo-đức lắm, người dĩ-đức vi-trọng. Ông thường thấy sự bất công thì ông phản đối lắm, nhứt là trường hợp bị áp-bức nòi giống của đám dân nghèo. Đem tinh-thần ra cứu đời như thế nên đứng không bền-bỉ, vì vẫn bênh vực những kẻ yếu hèn, kẻ cô đơn, phản đối kịch-liệt với cái oai-quyền đặc-biệt của thiên-hạ. Thiên-hạ ghét những người phản đối với họ, nên họ đuổi mình, ra về với Bà Mẹ lo tảo lo tần mua bán nuôi sống. Bần-Đạo thứ tám còn con em thứ chín nữa ở với nhau như bầy con ở trong cái ổ nghèo ổ rách như vậy, mấy anh mấy chị họ lớn hơn họ lập nên danh kẻ có chồng người có vợ, chỉ có mình Bần-Đạo ở với Cha-Mẹ mà thôi. Bần-Đạo là con chót, con áp út phải ở trong gia-đình đó, ngay buổi ấy tưởng mình vô phước, mà ngó lại ngay buổi ấy Bần-Đạo chưa biết gì hết chỉ có biết thương nhau mà thôi. Thương cha có công sanh dưỡng và chơn chánh, thương mẹ bảo trọng gia-đình lo tảo lo tần nuôi con, thương anh em trong gia-đình, duy có biết thương mà lo học, sợ không học Ông Bà buồn rầu. Nói con không học Cậu, Mợ buồn lắm, vì thương yêu quyết chí học, học là tánh-đức của thiên-nhiên, thương nhiều quá, thương trong gia-đình hơn ai hết, anh em cũng vậy, hạng nhứt là trong nhà bất hòa, là điều khổ hơn hết. Anh Chị bất hòa Bần-Đạo theo năn-nỉ, khóc lóc giải hòa, ngó lại hồi lúc đó đến bây giờ thì lúc đó hạnh-phúc nhiều hơn hết, chỉ có biết thương yêu mà thôi.
Đến chừng lập được thân danh ra đứng đợt với đời, kiếp sống từ đó xét lấy mình thời buổi ấy đã tính trong óc Cha đã chết hồi 12 tuổi chỉ ở với Mẹ, thương Mẹ sợ Mẹ chết nữa không biết ở với ai? Sợ quá chừng quá đổi khi nằm ngủ cũng sợ.
Ở tỉnh Tây-Ninh này người ta thường chôn đám xác ban đêm, khi ngủ nghe họ hò giựt mình thức dậy mò kiếm Bà Già, Bà Già hay hỏi con làm gì vậy? Con nghe người ta đưa đám xác con sợ Mẹ chết quá. Cũng vì sự thương quá đỗi, chừng được 17 tuổi quyết định ra làm việc để trả hiếu cho Mẹ.
Bần-Đạo hiện tại ở Tây-Ninh thiên-hạ còn nhớ, buổi ấy không biết gì hết, duy có biết thương Mẹ mà thôi, thêm nữa mấy đứa em gái tới ngày giờ định gả lấy chồng chớ không còn ở chung nữa. Lúc ấy Bần-Đạo đã thi đậu, nếu ra làm việc với hãng buôn ăn lương lớn, mà sợ không biết nuôi Mẹ được không? Lại bị người anh rễ nói: Em làm việc hãng buôn ngoài không có danh-dự gì hết, nghe lời nên xin sở nhà nước, làm việc mỗi tháng lương 70, 80 đồng là nhiều lắm. Ăn xài hơn ai hết mà cũng dư một đôi chục bạc để nuôi Mẹ. Đến chừng lương còn hai chục đồng một tháng, chừng đó thiếu nợ lại còn thêm một bà vợ nữa, công việc bối-rối ra không biết bao nhiêu nữa, tới chừng đó không còn lo cho Mẹ được nữa. Còn lo gì nữa được, lúc đó khổ về xác mà tinh-thần cũng khổ nữa, không biết buổi nào quên được, mà trong gia-đình khi đó tạo hạnh-phúc được chưa? Chưa tạo hạnh-phúc được thì bà Mẹ đã chết!
Năm Bần-Đạo được 22 tuổi, đau đớn biết bao nhiêu chỉ có biết một điều là lo lập thân danh đặng nuôi Mẹ, lập đặng thân danh để bảo trọng anh em. Đến chừng thành danh rồi khổ đáo để, Cha Mẹ đã khuất hết, dầu thương bao nhiêu cũng không còn, lại bị ác nữa là vợ con gia-đình sanh đẻ mãi, đâu có lo ngoài được nữa, khởi thống-khổ tâm hồn. Tới chừng cao sang sung-sướng ngó lụng lại không thấy Cha Mẹ, vì Cha Mẹ đã chết hết. Hai Đấng ấy đã chết hết thôi mình đeo theo anh em, em chết nữa, lần lượt bao nhiêu người thân-ái đều chết hết, bao nhiêu cái thương nồng-nàn chỉ để nơi một người Anh Rễ, thương hơn anh ruột nữa. Có một người em gái thứ chín, đó là người bạn thân mến trong kiếp sanh của Bần-Đạo mà đã qui liễu rồi. Tới chừng ấy tâm hồn ngơ-ngẫn, xác thịt bơ thờ, đi ra ngoài đồng ngó ngọn cỏ, con chim nó cũng nhắc, nghe tiếng hát của mấy em cấy lúa, nghe tiếng hò của người chèo ghe, cũng nhắc tới nỗi đau thương. Từ ngày ấy, không biết buổi nào được vui, chỉ muốn tu, muốn tìm cảnh tu, cho đến từng tuổi này đáo để tâm hồn quá lẽ.
Nhờ Đức Chí-Tôn đem cây đuốc Huệ-Quang chiếu diệu tâm hồn này đặng gỡ mối đau khổ. Vì cớ cho nên Bần-Đạo theo, càng theo cái lý-tưởng càng để tâm hồn theo Ngài, rồi Ngài giao tình thương yêu nồng-nàn hơn muôn triệu lần của gia-đình nữa.
Hễ biết tu thì biết Đạo, hễ biết Đạo rồi thì biết dìu-dắt anh em chị em tình thương yêu nồng-nàn đáo để, thương hình-trạng của thiên-hạ muôn ngàn đau khổ.
Bần-Đạo đã sống bao nhiêu năm khổ chỉ biết chung chịu điều thống khổ với nhau, mà mấy anh lớn, mấy chị lớn lần lượt họ đi về Đức Chí-Tôn hết, chỉ để một mình Bần-Đạo quằn-quại gánh vác hai vai, khổ anh khổ em, mà các bạn còn bơ-thờ chẳng biết đạo hạnh là gì hết, nỗi lo Đạo-nghiệp, nỗi lo dạy-dỗ mấy em, nỗi lo cho đám con trẻ, mà mấy kẻ không có tay giúp đỡ vì Đạo, binh vực cho Đạo, mà tình-trạng thể tánh còn thay đổi.
Trái lại Bần-Đạo đem thân mình vô cửa Đạo đặng thoát ly thống-khổ cho tâm hồn, mà nó lại còn tăng thêm cái thống-khổ nữa. Hỏi cái thống-khổ của Bần-Đạo nơi đâu mà sản xuất, trong cảnh khổ ấy Bần-Đạo cũng có thể tìm hạnh-phúc đặng mà sống, nếu không có hạnh-phúc thì Bần-Đạo đã chết rồi, chết hồi thuở thiên-hạ cường quyền áp-bức đồ lưu nơi hải-ngoại, chết hồi buổi Đạo nguy biến suy vong, nếu không có hạnh-phúc tinh-thần an-ủi thì đâu có sống đến ngày nay.
Có chớ, có hạnh-phúc an-ủi được tâm hồn của Bần-Đạo là khối thương yêu của Bần-Đạo, thương yêu con cái của Đức Chí-Tôn, của triệu tâm hồn ấy là hạnh-phúc chơn thật.
Bần-Đạo không kiếm mà thể xác đặng mạnh-mẽ, năng-lực nó làm cho Bần-Đạo sống, sống đặng quyết thắng cả cái thống-khổ là do hạnh-phúc thương yêu ấy. Bần-Đạo yêu thương chơn thật con cái của Ngài, rồi Bần-Đạo thấy cả thảy con cái của Ngài thương yêu Bần-Đạo lại một cách chơn thành. Hỏi trong buổi chưa thương họ còn có kẻ ganh hiền, ghét ngỏ, vì tinh-thần ganh tị của họ, nhờ sự thương yêu chơn thật của toàn thể con cái Đức Chí-Tôn đem chứng cớ ra công-lý, làm cho toàn cả thiên-hạ ngó thấy khối thương yêu công-bình Thiêng Liêng hiện-tượng ra, đặng làm chứng cho Bần-Đạo, vì thương yêu nên mới tạo hạnh-phúc, vì thương yêu nên mới tạo ra tổ-nghiệp. Ngày giờ này cái (*1) hạnh-phúc thiệt tướng là bởi khối thương yêu vô tận đối với con cái của Đức Chí-Tôn, tức nhiên là trong đạo-đức đó vậy. Hạnh-phúc nó làm cho Bần-Đạo sống một cách mạnh mẽ, sống một cách oai quyền, cả thảy đoán xét lại, khi chúng ta tạo dựng được một cái đại-nghiệp, hay gầy dựng một công-nghiệp nào, mà đặng hưởng đặc-ân của nó, thì công-nghiệp ấy vẫn còn giá-trị.
Còn chúng ta có thể tạo công-nghiệp cũng không phải là một thời gian, một thời gian không thể gì đặng. Nếu cả triệu con người tin tưởng đặng, dầu công-nghiệp ấy đem mạng sống của mình đặng ký thác cho nó đi nữa cũng phải làm.
Giá-trị gì một mạng sanh, đem đổi hạnh-phúc cho cả triệu người mà sao không đổi, cái hạnh-phúc chơn thật.
Bần-Đạo cho hay nếu Đạo Cao-Đài sẽ hưởng được cái hạnh-phúc vô ngàn của Đức Chí-Tôn ban bố ngày nay đã thiệt-tướng vì vinh-hạnh đó, Bần-Đạo đã lập được đại công đối với toàn cả con cái của Đức Chí-Tôn, Bần-Đạo đã lập được là nhờ cái quyền-năng vô đối của hạnh-phúc ấy.
Kỳ tới Bần-Đạo sẽ giảng thêm năng-lực thương yêu và hạnh-phúc của loài người./.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 08-12-Mậu Tý nhằm ngày (dl. 06-01-1949).
(*1) Nơi đoạn thứ 23: Bần-Đạo không kiếm mà thể xác đặng mạnh-mẽ, năng-lực nó làm cho Bần-Đạo sống, sống đặng quyết thắng cả cái thống-khổ là do hạnh-phúc thương yêu ấy.... ... ... Ngày giờ này cái hạnh-phúc thiệt tướng là bởi khối thương yêu vô tận đối với con cái của Đức Chí-Tôn, tức nhiên là trong đạo-đức đó vậy. Hạnh-phúc nó làm cho Bần-Đạo sống một cách mạnh mẽ,...
Nguyên bản chánh in là: Bần-Đạo không kiếm mà thể xác đặng mạnh-mẽ, năng-lực nó làm cho Bần-Đạo sống, sống đặng quyết thắng cả cái thống-khổ là do hạnh-phúc thương yêu ấy.... ... ... Ngày giờ này các hạnh-phúc thiệt tướng là bởi khối thương yêu vô tận đối với con cái của Đức Chí-Tôn, tức nhiên là trong đạo-đức đó vậy. Hạnh-phúc nó làm cho Bần-Đạo sống một cách mạnh mẽ,...
Chúng tôi mạn phép trình bày như trên cho rõ nghĩa hơn.
CON ĐƯỜNG THIÊNG LIÊNG HẰNG SỐNG: Bài 19
Đức Hộ-Pháp
Thuyết-Đạo tại Đền-Thánh, đêm 15 tháng 12 năm Mậu-Tý (13-01-1949)
Kỳ thuyết-pháp trước Bần-Đạo đã để một dấu hỏi: Đạo Cao-Đài có thể đem hạnh phúc cho nhơn-loại, tạo hòa-bình làm cho đại-đồng thiên-hạ đặng chăng?
Đã để dấu hỏi tức nhiên phải trả-lời. Chúng ta chẳng nên chỉ biết tin nơi Đức Chí-Tôn mà thôi, mà phải biết Ngài đến tạo nền Tôn-Giáo cốt yếu là đến ký tờ Hòa-Ước với nhơn sanh, tạo hạnh-phúc cho nhơn-sanh, và làm cho thiên-hạ hưởng đặng thái-bình nơi mặt địa cầu 68 này, tức nhiên chúng ta dám quả-quyết và để đức tin chắc-chắn rằng: thế nào cũng thành tựu, nhứt là có lời quyết đoán của Anh Cả Thiêng-Liêng của chúng ta là Đức Lý-Giáo-Tông đã nói:
"Đức tin một khối tượng nên hình,
Đã hiệp Vạn-Linh với Chí-Linh."
Nghĩa là Đạo Cao-Đài đã thành, nhưng từ-từ đi lên cho đến cái địa cảnh vô đối của nó.
Ta choán biết Chí-Tôn đến ký Hòa-Ước dưới thế gian này, chúng ta ngó thấy Hòa-Ước của nhơn-sanh nhứt là các liệt-cường ký với nhau khoản này, khoản nọ, khoản kia đủ thứ, ký không biết mấy khoản.
Với Đức Chí-Tôn chỉ có hai khoản mà thôi:
1- Luật thương-yêu: Ngài định-luật cho chúng ta là thương-yêu, không phải thương yêu nhơn-loại mà thôi, mà phải thương-yêu cả toàn Vạn-Linh nữa.
2- Quyền công-chánh: Ngài chỉ định là quyền công-chánh. Từ thử, ta chưa ngó thấy Hòa-Ước nào mà đơn sơ như thế, mà nó oai quyền làm sao! Không thể gì thực hiện đặng! Dầu cho tận-thế loài người cũng không khi nào thực-hiện ra đặng!
Chúng ta đã hiểu và tin rằng thế nào nó cũng thành, nhưng thời gian ta không biết định đoạt, ta chỉ lương-tri tức là lấy trí-tri để hiểu chơn-tướng của Đạo Cao-Đài, làm thế nào đem hạnh-phúc cho nhơn-loại hưởng được và tạo hòa-bình cho thiên-hạ cả Đại-Đồng Thế-Giới.
Chúng ta duy lấy trí-tri tìm hiểu thôi, chúng ta thấy cái quyền-năng của Luật Thương-Yêu thế nào. Tấn tuồng hiển nhiên hiện từ khi có loài người đến giờ, nếu không có sức mạnh-mẽ vô biên của Luật Thương-Yêu ấy thì Đức Phật Thích-Ca chưa có lập giáo thành tướng được.
Khi Ngài đến Ream luyện phép tuyệt-thực có bốn người theo Ngài, bốn người không phải theo Ngài làm Môn-Đệ mà theo coi Phật có đoạt Pháp đặng chăng? Đến chừng Ngài từ trên đảnh núi tuột xuống, Ngài ăn uống lại. Bốn người ấy đợi Ngài ở chân núi thấy như vậy cho rằng Ngài đã qui phàm rồi, không có đoạt Pháp chi hết, nên bốn người bỏ đi.
Tới chừng Ngài đi thuyết-giáo Ngài tìm bốn người ấy, bốn người ấy biết Ngài chơn thật mới theo, trong bốn người chỉ có hai người trọng yếu hơn hết nhưng rồi đến cuối cùng chỉ còn có một người đoạt đặng Phật-Giáo mà thôi.
Đạo Tiên, Lão-Tử có một người Môn Đệ và một đứa ở là Từ-Giáp biết Đạo của Ngài, duy có ông Doãn-Hỷ theo Đức Lão-Tử đoạt phép truyền giáo mà Đạo Tiên còn tồn tại đến ngày nay.
Đạo Khổng-Tử, tuy vân, nó có Tam-Thập Lục-Thánh, Thất-Thập Nhị-Hiền, Tam Thiên Đồ-Đệ mà cả thảy Đức Khổng-Tử chưa chắc người nào đoạt đặng, duy có một người mà thôi, là Thầy Sâm, bằng cớ là buổi chung qui Ngài kêu Sâm nói: "Ngộ Đạo Nhứt Nhi Quán Chi", Đạo ta chỉ có một người biết mà thôi.
Đức Chúa Jésus Christ có nửa người Môn-Đệ mà thôi, bởi Ông Pièrre chối Đạo 3 lần khi ăn năn khóc lóc với Bà Maria mà xưng tội mình.
Mahomet có một người Môn-Đệ phụ nữ mà Đạo Hồi Hồi đã thành vậy.
Chúng ta suy đoán chỉ có thương yêu, duy có một người thương, hoặc nửa người thương, mà các vị Giáo-Chủ đã lập thành Tôn-Giáo tại mặt thế này.
Chúng ta xét lại thấy Đạo Cao-Đài còn hạnh-phúc hơn các nền Tôn-Giáo trước, nếu nhận quả quyết thì có ba người, mà ba người tức nhiên nhiều hơn thiên-hạ rồi.
Cái thiệt-tướng của nền Tôn-Giáo Đức Chí-Tôn hiện-tượng do quyền-năng vô đối của Ngài mà đoạt được, trong đó các vị thừa mạng lịnh của Ngài đã vẽ nên hình, nắn nên tướng của nó. Bần-Đạo kiếu lỗi cùng con cái của Ngài, không phải tự-kiêu hay là tự-đắc chính tay Bần-Đạo có một phần khá lắm, vì cớ Bần-Đạo rủ chúng ta dùng phép hồi-quang phản-chiếu đặng định tướng diện của mình, cốt yếu là một phần-tử trong nền Tôn-Giáo, hễ mình coi chơn-tướng của mình, rồi tổng-số các chơn-tướng đó làm chơn-tướng của Đạo, Bần-Đạo thấy Đạo Cao-Đài nên hình đặng tức là thành tướng thương yêu vô tận vô biên. Nó nên hình có nét đẹp thiên-nhiên là nhờ vẽ với cây viết thương yêu mà viết nét Thiêng-Liêng cho Thánh-Thể của Ngài để theo nét thương yêu ấy đặng tạo nên hình-trạng thành tướng một khối thương yêu.
Ta không có mơ vọng và không có lường gạt tâm-lý nhơn-sanh, trước mặt mỗi người đều thấy, hỏi do quyền năng nào tạo thành quyền-lực ngày nay.
Quyền Đạo ngày nay do Luật Thương-Yêu mà thành tướng vậy, mà nếu do Luật Thương Yêu thành tướng thì không có quyền-năng nào tàn phá nó đặng, nó có sợ chăng là sợ luật thù hận. May thay cả lực-lượng thù hận cũng không xung đột được bởi có bàn tay Thiêng-Liêng gạt thù hận ra khỏi rồi.
Nó nên hình bởi sự thương yêu, trưởng thành trong sự thương yêu, bởi hình chất của thương yêu, hễ càng ngày càng lớn lên càng tráng kiện, nó sẽ làm chúa cả thù hận không hề xâm lấn nó đặng.
Nói quả quyết Bần-Đạo đã đánh tan thù hận ra, khi các đảng phái dùng quyền-lực đặng chiếm ngôi vị của Chí-Tôn để tại mặt thế-gian này.
Bần-Đạo đã can đảm dùng quyền của Bần-Đạo đánh ngã hết đặng bảo trọng hình tướng Thiêng-Liêng của Đạo. Bần-Đạo lỗ vốn cũng nhiều, Bần-Đạo gánh lấy cả thù hận ấy, đặng bảo tồn hình-thể của Đức Chí-Tôn cho trọn thương yêu.
Bần-Đạo dùng can đảm gánh cả thù hận của thiên-hạ mà bảo tồn khối thương yêu vô đối của Đức Chí-Tôn không cho hoen ố, nhơ bợn.
Tại sao mà Bần-Đạo dám thí mình gánh vác thù hận đặng bảo trọng nó? Bởi biết nó là Chúa của hình ảnh, của quyền trị thế tương lai, nó là Thầy của thiên-hạ đặng trị thế, nếu không trọn vẹn nó lưu lại kiểu vở thô bỉ nhơ nhớp thì không thể vì làm Thầy thiên-hạ đặng.
Các chi phái hồi đó dùng cường-quyền mà đoạt-vị. Bần-Đạo là Hộ-Pháp nắm giữ chơn truyền của Đức Chí-Tôn trong tay đây, mà để cho nó đoạt ngôi soán vị như các đời vua chúa từ trước lưu lại cho nền chơn-giáo của Chí-Tôn sao?
May thay, quyền ấy không xung đột được với Thánh-Thể của Chí-Tôn, nó đã bại trận, bởi Thánh-Thể của Ngài có người cầm Luật-Pháp oai-nghiêm tức là cầm cây huệ kiếm trong tay đặng gìn-giữ nền Chơn-Giáo nên hình được, nó nên được tức nhiên nó tạo cho thiên-hạ được, nó tạo oai-quyền của nó thành tướng đặng, thì tạo quyền cho nhơn sanh tại mặt địa-cầu này về tương-lai đặng./.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 15-12-Mậu Tý nhằm ngày (dl. 13-01-1949).
CON ĐƯỜNG THIÊNG LIÊNG HẰNG SỐNG: Bài 20
Đức Hộ-Pháp
Thuyết-Đạo tại Đền-Thánh, đêm 18 tháng 12 năm Mậu-Tý (16-01-1949)
Hôm nào đến nay chúng ta lưu luyến nơi Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa, chúng ta đã có thấy nhiều bài hay ho về tinh-thần chúng ta, có lẽ chúng ta ở mãi, nhưng chúng ta phải dục-tấn nữa, tấn bộ trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống.
Chúng ta đình lại, rủ các bạn đến đây, rất dễ, ngày giờ chúng ta ở Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa tức nhiên gần nơi Diêu-Trì-Cung là nơi nhao rún của chúng ta, chúng ta chẳng phải dễ gì mà đi đặng. Các bạn nên nhớ rằng: Chúng ta là người hành khách, có một điều là muốn đi đến nơi Cung ấy, dám chắc mình ngưng bước rất dễ, chúng ta đặng một bà Mẹ yêu ái vô tận vô biên, tưởng coi bà Mẹ ở nơi ấy có thâm tình với chúng ta ra sao? Bần-Đạo đã thuyết-minh trong những điều Bần-Đạo có hạnh-phúc, Bần-Đạo nói thật có hạnh-phúc Bà Mẹ của Bần-Đạo đã qui liễu khi trước, đặng nhập vô hình thể Thiêng-Liêng, Bà Mẹ sanh chúng ta tình yêu ái nồng-nàn làm sao!
Chúng ta ngó thấy lúc mới sơ khởi, chúng ta còn vật-loại, biến thân lên cho đến nhơn-phẩm, Thiên-Thần, chúng ta đã có hạnh-phúc, đứng đến địa-vị như nhau, Đệ-Nhị xác thân chúng ta sanh xuống làm người ở trong Đệ-Tam Âm-Quang thì thấy cái liên khổ, trong khuôn-khổ nơi Cung Diêu-Trì thế nào?
Bần-Đạo giảng điều trọng yếu hơn hết, mỗi căn tu của chúng ta đây, chúng ta ngó thấy Bà Mẹ sanh của chúng ta chịu nguyên vẹn nơi Cung ấy. Đại-nghiệp nơi Thiêng-Liêng chúng ta đã đào tạo, Bà Mẹ sanh của chúng ta giữ-gìn một cách mật thiết, chẳng khác nào chúng ta thấy Bà Mẹ tại mặt thế này. Trong những cuộc lễ như ngày Lễ Chúa Giáng-Sinh tức là lễ Noel, Bà Mẹ mua đồ chơi cho con, thương con cho đến đổi, khi nó chơi rồi mỗi vật chơi của nó đều đem chất trong một căn nhà, sự thương yêu trọng-hệ vô cùng, mỗi vật chơi của con đều để có thứ-tự, đến khi con lớn khôn rồi, đem ra làm dấu tích sơ sanh của nó. Bà Mẹ tại mặt thế này như vậy, huống chi là Bà Mẹ Thiêng-Liêng đã để ngàn muôn triệu kiếp sanh, chúng ta đã đoạt được thế nào mà không lưu-luyến nó đặng. Mỗi việc gì, mỗi hành-vi gì, nơi Cung ấy nó giục nhớ cho chúng ta những điều di-tích lại là mỗi cảm-tình vô hạn.
Ngoài ra còn một điều trọng-hệ hơn hết là nơi Cung của chúng ta hội-hiệp mỗi thân tộc Thiêng-Liêng của chúng ta đều hiểu biết cái hạnh-phúc.
Các bạn nên suy nghĩ lại, khi chúng ta lên Cung ấy chúng ta tạm nghỉ nơi Cung ấy, chúng ta nghĩ lại nơi thế-gian này, gia-đình dầu đông-đảo, bất quá sống một trăm tuổi mà thôi, dám chắc bao nhiêu năm đi nữa cũng phải về, huống chi là các thân-tộc nơi Cung ấy đang chờ ta, đương trông ngóng buổi qui-hồi của chúng ta, họ muốn chúng ta trở về không uổng kiếp sanh, cái thâm-tình thường lệ là cái chi? Là cái tình của chúng ta yêu ái từ buổi xa nhau, nó khổ não lương-tâm đau đớn về tinh-thần vô cùng. Cần nhứt chúng ta phải biết, chúng ta là một hành-khách đó vậy, nơi đây hay là nơi kia, cả Càn-Khôn Vũ-Trụ của hình-thể biết bao nhiêu địa-giới.
Giờ này chúng ta sống nơi trái địa-cầu 68 này là cái nhà, trọng-hệ yêu-ái nhứt của chúng ta, tưởng chắc ai cũng sợ chết lắm, sợ chết rồi lìa khỏi trái địa-cầu 68 này, bị cái sợ chết mà sa đọa. Nếu họ hiểu biết cái chết của họ, thì họ không có bị cái khổ hải như vậy. Bần-Đạo nói quả quyết rằng: Trong Càn-Khôn Vũ-Trụ này, cái địa-cầu 68 này là hạng chót, hạng khổ não nhứt nơi mặt địa cầu này, kiếp sanh nơi mặt địa-cầu 68 này không phải đáng cho chúng ta lưu-luyến, mặt địa-cầu này khổ não lắm, khổ não hơn hết.
Chúng ta ngó thấy những cảnh tượng nơi mặt thế này là chúng ta dòm thấy những kẻ bộ-hành đi xa xứ-sở, thân-tộc họ ra bến tàu đưa đi, mà người đi cũng khóc, kẻ ở cũng khóc, khóc mà đi, khóc sao không ở nhà, người nhà khóc sao để cho người ta đi, nếu khóc thì đừng đi.
Bởi bộ-hành nơi cửa Thiêng-Liêng Hằng-Sống kia cũng vậy, chúng ta còn dục-tấn mãi, dục tấn trên nẻo Thiêng-Liêng Hằng-Sống mãi-mãi thôi chúng ta đi không bờ bến.
Trên Càn-Khôn Vũ-Trụ bao la thế này, mà con đường chúng ta phải bước đến, bước đến cái đại-nghiệp của Đức Chí-Tôn, chưa có chơn-linh nào biết cái đại-nghiệp vô biên, đại-nghiệp ấy chưa có ai thấu đáo cho tận cùng.
Các bạn cứ đi theo tôi, đặng bước vô cửa Thiêng-Liêng. Có hai điều tối trọng tối yếu của chúng ta là nơi Ngọc-Hư-Cung và Cực-Lạc Thế-Giái, ngày giờ đó Bần-Đạo sẽ dắt các bạn đến Cung Diêu-Trì, Bần-Đạo cũng nên chỉ rõ Đức Phật-Mẫu đến tại mặt thế gian này đã tượng-trưng bên Ấn-Độ. Phật-Giáo Ấn-Độ gọi Ngài là Civa Phật, là cái hình ở trên Bát-Quái-Đài chúng ta để trên nóc đó, thấy có "Tinh-Nhũ" nơi ngực của Ngài đó.
Hồi buổi Chí-Tôn phân định, phân tánh của Ngài, lấy Khí tức nhiên là Ngài dùng cái "Linh-Pháp" của Ngài biến tướng ra Phật-Mẫu. Phật-Mẫu thuộc về Âm, Chí-Tôn thuộc về Dương, Âm-Dương hiệp lại mới biến hóa Càn-Khôn Vũ-Trụ, sanh ra vạn-vật.
Đức Civa Phật, Ấn-Độ làm một cái hình phân nửa giống đàn bà, còn cái tướng thì đàn ông. Bởi hồi đó con người chưa phân rõ chắc-chắn Nam-Nữ (Âm-Dương). Đức Civa trong huyết-khí tức nhiên là huyết, còn chơn-thần đào tạo chơn-thần là Đức Chí-Tôn. Đức Chí-Tôn là Phật, Đức Phật-Mẫu là Pháp, Pháp mới sanh ra vạn-vật Càn-Khôn Vũ-Trụ, vạn vật ấy là do nơi tinh mà ra, tức là Tăng.
Thần tức nhiên là Đức Chí-Tôn, Thần phân định khí, khí mới sanh ra tinh. Phật là Chí Tôn, Pháp là Civa tức Phật-Mẫu, Tăng là vật-loại trên Càn-Khôn Vũ-Trụ này.
Ấy vậy, Đạo-Phật thờ Phật-Mẫu chớ không phải không biết, dầu không thờ mà Đức Phật-Mẫu vẫn ngồi từ tạo-thiên lập-địa đến giờ, tức nhiên là Đấng tạo ra Vạn-Linh đó vậy.
Phật-Mẫu là gì? mà không biết, có con mắt mà không biết Phật-Mẫu là gì? Kỳ tới Bần-Đạo sẽ tự dẫn các bạn vô Ngọc-Hư-Cung coi Cung ấy là Cung gì cho biết./.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 18-12-Mậu Tý nhằm ngày (dl. 16-01-1949).
CON ĐƯỜNG THIÊNG LIÊNG HẰNG SỐNG: Bài 21
Đức Hộ-Pháp
Thuyết-Đạo tại Đền-Thánh, đêm 12 tháng 01 năm Kỷ-Sửu (09-02-1949)
Đêm nay chúng ta rủ nhau dục-tấn trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống.
Chúng ta đã làm người, mà làm người thì đồng dung rủi trong con đường Đạo của Đức Chí-Tôn đến truyền-giáo nơi mặt thế-gian này, chính ta đem lại điều bí-yếu hơn hết là cái chơn-linh cao siêu Đạo-Giáo của Ngài.
Khi trước chúng ta đến quan-sát các cơ-quan chánh-trị của Càn-Khôn Vũ-trụ. Nơi Ngọc-Hư-Cung chúng ta cũng nên hiểu mình là gì cái đã, giờ mình đương làm gì, đừng để có cơ-quan bất ngờ như chúng ta đã gặp một trận thiệt-chiến nơi Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa.
Con người, Bần-Đạo đã thuyết-minh cái triết-lý ấy có hai phần đặc-biệt:
1- Chơn-linh tức nhiên tinh-thần huyền-bí do Đức Chí-Tôn xuất hiện .
2- Phần về hình, tức nhiên xác do Đức Phật-Mẫu đào tạo, một phần hữu-hình một phần vô-hình, phần vô-hình ấy chí-linh chí-thiện.
Phần hữu-hình nó vẫn là cơ-quan riêng. Phần chí-linh ấy nó vẫn tăng tiến mãi mãi lên cho tới các vị Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Xác thịt của chúng ta từ trước, các Đạo-Giáo đã tỉ con người chẳng khác như một vị Thiên-Thần cỡi một con vật.
Các nhà triết-lý từ thượng-cổ đến giờ họ để ra không biết bao nhiêu thí-dụ về Đạo-Giáo cơ bí-mật Thiêng-Liêng như Đạo-Giáo bên Pháp: "La Belle et la Peine" là Nàng Tiên và con Thú.
Các Đạo-Giáo nơi nào cũng vậy, đều phân biệt ra hai lý hiển nhiên. Tỷ như bên Á-Đông Phật-Giáo của chúng ta đã ngó thấy Đức Văn-Thù Bồ-Tát cỡi con Bạch-Tượng, Đức Từ-Hàng Bồ-Tát tức nhiên Đức Quan-Âm Bồ-Tát cỡi con Kim- Mao-Hẩu, Đức Địa-Tạng-Vương Bồ-Tát cỡi con Đề-Thính, như Bát-Tiên kỵ thú vân vân. Tỷ dụ về phần hồn, phần xác của loài người đó vậy. Nói rõ hơn nữa chẳng khác nào như cơ-quan Tạo-Đoan nơi mặt thế này, chúng ta ngó thấy hiển nhiên là cơ-quan vợ chồng, chúng ta ngó thấy chẳng hề khi nào một người mà lập đặng hay làm đặng phải đồng-tâm, đồng-trí với nhau mới đặng, nhứt là hai cái tâm hồn nó có đặc-biệt với nhau. Tuy vẫn liên-quan mật thiết với nhau mặc dầu, hai tâm hồn chẳng buổi nào đồng thinh đồng âm-chất với nhau.
Luật Tạo-Đoan cốt yếu buộc loài người, phải để ý cho lắm thì mình tự tìm lấy mình, vì Luật Thiêng-Liêng ấy buộc mình phải đi kiếm cái sống, đến tuổi cập-kê rồi mà không định đôi gả lứa, thì dường như thiếu cái sống, con người thiếu cái sống là thiếu vợ chồng đó vậy.
Luật Tạo-Đoan đã buộc mình tự xử với nhau, người Nam với người Nữ mà tự xử với nhau, làm sao cho điều-hòa thân ái, làm sao cho Luật Tạo-Đoan ấy được quân-bình nhau không chênh, không lệch, đặng chi? Đặng cho biết trong thân-thể của chúng ta.
Thiên-Thần và Con Vật tức nhiên họ có thể hòa với nhau, họ có phương thế, hai phương thế ấy hiệp với nhau, đồng sống với nhau, đồng tăng tiến lên tới đồng phẩm-vị nguyên chất Thiêng-Liêng của họ, tức nhiên Ngươn-Linh của họ vậy.
Cả thảy khuôn luật ấy để cho chúng ta đặt trong tinh-thần một câu hỏi: Con vật với người có đồng-luật với nhau chăng? Không, con vật nó có luật riêng của con vật, con người có luật riêng của con người.
Ấy vậy trong thân-thể của chúng ta, vật hình của chúng ta nó có khuôn-luật của vật hình. Còn về Luật Thiêng-Liêng (*1) nó có Luật Thiêng-Liêng. Hai khuôn-luật ấy nó không có tráo-trộn với nhau đặng, chúng ta ngó thấy hiển nhiên trước mặt, con người của chúng ta không đồng phẩm, không đồng tánh, không đồng chất.
Phương sống con vật không đồng với chúng ta, chúng ta không thể gì đem cơm đưa cho con ngựa mà nó ăn, chúng ta cũng không thể gì ăn cỏ được, chúng ta không thể gì bò xuống bốn cẳng mà chạy cả ngàn dặm đặng.
Còn con ngựa không thể gì ngồi đồng bàn như chúng ta đặng, một triết-lý nào mà thiên hạ đã vấn nạn về tinh-thần thì con vật với con người không thể gì đồng phẩm vậy.
Con vật tức nhiên xác thịt chúng ta đang mang đây, còn Ngươn-Linh tức nhiên là Linh-Hồn, hai cái không thể gì đồng với nhau, hiệp với nhau đặng.
Hai mặt luật ấy vẫn đặc-biệt với nhau không thể gì hiệp một. Nhưng điều mà thiên-hạ đã tỷ-thí nói rằng: Ta đoạt Đạo đặng "Bạch Nhựt Chi Thăng" biến hóa vô cùng, Mỵ-Thuật và Mỵ-Pháp không có, không có đâu, nếu có thì Đức Tam-Tạng khi đi thỉnh kinh rồi không bỏ xác trôi giữa giòng sông.
Sống hay chăng? Đoạt đặng cả cơ-quan bí-mật Thiêng-Liêng thì chẳng sống. Chúng ta không phải xác thịt mà đoạt đặng, nó là con vật, nó phải tùng theo con vật, phải tùng theo luật hữu-sanh hữu-loại của nó.
Đoạt chăng nơi cửa Thiêng-Liêng Hằng-Sống tức nhiên là Đệ-Nhị xác thân của chúng ta, lời tục ở ngoài gọi là Vía của chúng ta đó vậy.
Ấy vậy, nơi cửa Ngọc-Hư-Cung là nơi cầm quyền chánh-trị của Càn-Khôn Vũ-Trụ, thì các phần hồn của mặt luật nơi Càn-Khôn Vũ-Trụ, về phần hồn nó không đồng với mặt luật nơi thế-gian này. Hai mặt luật, hai nền chánh-trị khác nhau đặc-biệt, chúng ta không thể gì tưởng-tượng hiệp một với cái kia, cho nên có nhiều cơ-quan trị Càn-Khôn Vũ-Trụ khác hẳn với cơ-quan trị nơi thế-gian này, dầu rằng nó có tương-liên mật-thiết hai nền chánh-trị, mà nó không tương-hiệp cùng nhau đặng. Không có lấy hình-luật trị thế gian này đem trị phần hồn được, vì không giống nhau.
Chúng ta phải biết chúng ta đi tìm gì đây? Đi tìm cơ-quan nào làm cho chúng ta đoạt đặng ngôi-vị vô-hình kia về phần Ngươn-Linh của chúng ta, đoạt phẩm-vị tối cao tối trọng là Phật-Vị. Chúng ta làm phương thế nào đoạt cho đặng Thánh-Đức (*2) của Đức Chí-Tôn, là Chúa. Chính Ngài là một vị Phật, một vị đã sản xuất ra Càn-Khôn Vũ-Trụ, sản sanh các vị Phật nơi Càn-Khôn Vũ-Trụ, chúng ta làm phương nào mà chúng ta đoạt-vị đặng cũng như Ngài vậy.
Chẳng khác nào như cơ-quan hữu-hình đứa con bao giờ cũng muốn làm, quyết làm sao cho giống tính chất Ông Cha, Cha làm được cái gì thì con cũng cố làm được cái nấy, tánh đức thiên-nhiên ấy không gì lạ hết. Các Chơn-Linh của loài người, bất kỳ một cá nhân nào, Bần-Đạo đã thuyết-minh dầu cho họ phàm bao nhiêu thây kệ, họ chỉ muốn làm Trời thôi, dầu cho họ hèn-hạ ra phàm-tục thế nào, mà nơi miệng họ bao giờ họ cũng muốn làm Trời, vì tinh-thần họ ngưỡng-vọng đoạt phẩm-vị ấy, trong Càn-Khôn Vũ-Trụ, chúng ta thấy giục-thúc thế nào, giục-thúc bỏ con vật đặng tạo ra phẩm-vị Phật.
Bởi triết-lý trước mắt chúng ta không thể gì chối cải được, chúng ta không thể gì lấy hèn-hạ mà sống được; hèn-hạ là con vật, hèn-hạ là con thú, tức nhiên là xác thịt của chúng ta đó vậy, nó giỏi ở chúng ta trong thời-gian mạnh-mẽ, rồi tới chừng bạc nhược tiều-tụy ta phải bỏ nó cho nó chết.
Còn con ngựa chúng ta cỡi nó là trong lúc nó còn tráng kiện, một ngày nào đó nó có thể dung rủi được Thiên-Lý, tới chừng nó yếu tha già thảy bị hủy bỏ, thì nó phải chết. Không lẽ chúng ta coi con vật hơn ta, thì chúng ta không thế coi xác-phàm này, con vật này hơn Ngươn-Linh ta, không khi nào ta coi con vật hơn Ngươn-Linh ta đặng.
Vì lẽ ấy mà các nhà trí-thức từ thượng-cổ đến giờ người rất cần-cù tìm-tàng nạo cả trí óc kiếm nguyên do cái sống của mình, đối với Càn-Khôn Vũ-Trụ coi toàn cả trong ấy có gì trọng-hệ mà phải tìm. Chúng ta ngó thấy tìm-tàng một điều là tại sao Ngươn-Linh của họ phải ở trong một con vật? Về tâm-linh đến tánh-linh họ có đặc-biệt, bằng chẳng vậy thì họ toàn là con vật bạc nhược, không bao giờ họ thắng nổi tức nhiên họ phải tìm nguyên do nào mà sản-xuất.
Vì cớ mà chúng ta thấy chẳng bao giờ loài người dám bỏ Đạo của mình. Họ là con vật, nếu họ bỏ Đạo tức nhiên họ là con thú mà thôi, họ không bao giờ dám bỏ cái Đạo của họ.
Họ muốn tìm-tàng thế nào, làm phương nào đem tâm-đức của họ lập giá-trị của họ. Lập giá-trị cho cái sống của họ.
Ấy vậy kỳ này Bần-Đạo đã mở màn bí-mật ra cho chúng ta thấy, coi chúng ta phải tìm cái gì? Rồi kỳ tới Bần-Đạo sẽ dắt cả thảy tới Ngọc-Hư-Cung đặng quan-sát cái chánh-trị của Càn-Khôn Vũ-Trụ cho tường-tận./.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 12-01-Kỷ-Sửu nhằm ngày (dl. 09-02-1949).
(*1) Nơi đọan thứ 15: Ấy vậy trong thân-thể của chúng ta, vật hình của chúng ta nó có khuôn-luật của vật hình. Còn về Luật Thiêng-Liêng nó có Luật Thiêng-Liêng. Hai khuôn-luật ấy nó không có tráo-trộn với nhau đặng, chúng ta ngó thấy hiển nhiên trước mặt, con người của chúng ta không đồng phẩm, không đồng tánh, không đồng chất.
Chúng tôi xin đề nghị cho rõ nghĩa hơn: Ấy vậy trong thân-thể của chúng ta, vật hình của chúng ta nó có khuôn-luật của vật hình. Còn về phần Thiêng-Liêng nó có Luật Thiêng-Liêng. Hai khuôn-luật ấy nó không có tráo-trộn với nhau đặng, chúng ta ngó thấy hiển nhiên trước mặt, con người của chúng ta không đồng phẩm, không đồng tánh, không đồng chất.
(*2) Nơi đọan thứ 23: Chúng ta phải biết chúng ta đi tìm gì đây? Đi tìm cơ-quan nào làm cho chúng ta đoạt đặng ngôi-vị vô-hình kia về phần Ngươn-Linh của chúng ta, đoạt phẩm-vị tối cao tối trọng là Phật-Vị. Chúng ta làm phương thế nào đoạt cho đặng Thánh-Đức của Đức Chí-Tôn, là Chúa. Chính Ngài là một vị Phật, một vị đã sản xuất ra Càn-Khôn Vũ-Trụ,... ...
Chúng tôi xin đề nghị cho rõ nghĩa hơn: Chúng ta phải biết chúng ta đi tìm gì đây? Đi tìm cơ-quan nào làm cho chúng ta đoạt đặng ngôi-vị vô-hình kia về phần Ngươn-Linh của chúng ta, đoạt phẩm-vị tối cao tối trọng là Phật-Vị. Chúng ta làm phương thế nào đoạt cho đặng tánh đức của Đức Chí-Tôn, là Chúa. Chính Ngài là một vị Phật, một vị đã sản xuất ra Càn-Khôn Vũ-Trụ,... ...
CON ĐƯỜNG THIÊNG LIÊNG HẰNG SỐNG: Bài 22
Đức Hộ-Pháp
Thuyết-Đạo tại Đền-Thánh, đêm 18 tháng 01 năm Kỷ-Sửu (15-02-1949)
Trước khi Bần-Đạo dắt cả thảy con cái Đức Chí-Tôn tấn bước trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống, nhứt là vào Cung Ngọc-Hư; có một điều trọng-yếu nếu không thuyết minh ra, trước khi vào nơi ấy chúng ta sẽ có nhiều điều khuyết-điểm. Toàn-thể con cái của Đức Chí-Tôn không có quyền đoán, triết-lý cao siêu trọng-yếu tấn-triển của phần hồn, nhứt là phương-pháp đoạt-vị của mình.
Còn một thuyết trọng-yếu nơi mặt thế này, làm cho các Đẳng Chơn-Hồn quả kiếp biết bao nhiêu thống khổ, nhứt là giục thúc chiến-đấu tấn triển từ thử đến giờ, đã gây biết bao nhiêu tội tình.
Văn-Minh. Hôm nay Bần-Đạo thuyết hai chữ Văn-Minh của thời-đại này, Văn-Minh là gì? Lấy theo chơn-tự Việt-Ngữ tức nhiên Nho-Tông của chúng ta. Văn: nghĩa là những lời lẽ, hoặc là văn-hóa hay văn-chương, những lời-lẽ mà chúng ta đã đoạt đặng của người khác, hay của mình đặt ra. Minh: nghĩa là minh-bạch rõ-ràng, sáng-suốt, lời lẽ minh-bạch rõ-ràng, đã giúp ta đoạt đặng những phương-pháp, để mà định quyết tương-lai, hay là giữ tồn tại sự tiến triển trong kiếp sống của mình, hoặc là chúng ta dùng phương-pháp về văn tự, để lưu truyền ngôn-ngữ của chúng ta, đặng định một sự tấn triển của phương sống, hay phương-pháp sống của xã-hội, chúng ta đã định, chúng ta đã đoạt được, tức nhiên sự tiến-hóa tồn tại, bảo thủ với một phương-pháp văn-chương, đủ lẽ hay là giải-nghĩa bao quát của chữ Văn-Minh là Civilization.
Chúng ta nên hiểu có ba nghĩa Civilization, có thể tưởng rằng:
1- Một là tổng-số của sự tiến-triển về tâm-lý tức nhiên về chính lý, về khuôn khổ, về hình thức của sự sinh-hoạt con người đã đoạt đặng, và lấy trí óc bảo thủ cho nó tấn triển thêm, tấn triển cho mỹ-mãn hơn nữa.
2- Thứ nhì là tổng-hợp các sự tấn triển của xã-hội, một quốc-gia mà họ đã đoạt đặng, họ muốn bảo thủ tồn tại, nhưng họ bị tư-tưởng mới mẻ hay là những điều mới mẻ do phương tiện của sự sanh-hoạt mới mẻ sản-xuất, giục thúc họ, dường như muốn khám phá những cơ nghiệp của họ, đào tạo về văn-hóa của họ, về phương diện hạnh-phúc cho họ. Tư-tưởng mới mẻ ấy, có thể bỏ ra, nếu cả đại-nghiệp của họ được, họ tìm phương bảo thủ cho còn tồn tại.
3- Thứ ba là phương-pháp của tinh-thần quyết thắng vật-chất, tức nhiên là những phương-pháp mà chúng ta không thể đè nén cả tinh-thần về thể-chất của hình thú ta, với cái trí óc ta vẫn biết Thiêng-Liêng do Thiên-Tánh, đặng làm cho người xứng đáng làm người, không hạ mình xuống tánh chất con thú.
Với ba nghĩa lý ấy, nghĩa lý nào chắc? Nếu nói ba thuyết ấy chắc cả thảy ba, thì chúng ta nên nhìn nhận nghĩa lý sau chót hết là chánh đáng, tại sao? Mà không có thể tưởng tượng rằng: Giúp cho loài người đến địa-điểm có thể tưởng là hạnh-phúc được. Con người bây giờ có thể bay giữa không trung, như con chim kia là máy bay, có thể lặn xuống biển được là nhờ máy móc, có thể không ở mặt đất mà lại ở trên mây, trên không khí Thiêng-Liêng, nó không cần đi mà nó có thể chạy trên mặt đất, nó không cần bay mà nó có thể ở giữa lưng trời được, nhưng chưa phải đó là hạnh-phúc; đó là theo cái văn-minh mà thiên hạ tưởng-tượng, có thể đào tạo hạnh-phúc cho nhơn-loại đặng, không phải theo ôm bó hay an ủi hoặc bợ đỡ đặng mảnh thi hài đầy-đủ sung-sướng hạnh-phúc, hay nó giúp cho mảnh thi hài này tưởng-tượng mình không còn một lực-lượng nào đối phó với mình, tưởng hạnh-phúc thực sự, nhưng chưa phải là thật hạnh-phúc của họ vậy, hạnh-phúc thiệt không phải là phần xác, hạnh-phúc thiệt của con người là phần hồn.
Chúng ta đã ngó thấy biết bao nhiêu vị vương-Đế đã tạo giang-san sự nghiệp, từ thượng-cổ đến giờ ai không tưởng đến: "Tứ Hải Vi Thiên Hạ Chi Giao", lấy hạnh-phúc của một Đấng làm Chúa cả các dân-tộc khác, mà so sánh dám chắc nếu chúng ta dở lịch-sử ra coi thì chúng ta để dấu hỏi mơ-hồ họ chưa có thể chắc hạnh-phúc được.
Trái lại chúng ta thấy một tấn tuồng: "Hễ càng cao danh-vọng lại càng dày gian-nan". Nếu họ không thỏa-mãn về tâm hồn thì không phải là hạnh-phúc. Dầu sang trọng, sung sướng cách nào cũng chưa gọi là hạnh-phúc được, không phải tâm hồn thỏa-mãn thì không phải là hạnh-phúc thật. Con người bao giờ cũng vậy, đi tìm hạnh-phúc chớ không phải tìm ăn, tìm sống, nhờ sống cho họ sang cả vinh-hiển phủ-phê thỏa-mãn, ấy là về phần xác của họ mà thôi. Dám chắc chúng ta đoạt được dầu hạnh-phúc ấy hiện hữu chúng ta thấy một vật vi hậu, con người bao giờ cũng vậy, thân-thể của họ sung sướng bao nhiêu đi nữa chỉ hai ba ngày đầu thôi, còn thú-vị đến năm ba ngày sau họ nhảm-nhí. Hễ họ đoạt được hạnh-phúc về phần xác, dầu cho họ đoạt được đến địa-vị bực nào đi nữa cũng không thỏa-mãn, cái hạnh-phúc không phải do nơi xác thịt này mà sung sướng hay vinh-hiển.
Ấy vậy, văn-minh tạo hạnh-phúc cho loài người về phần xác là đời, chẳng khác nào như ngọn cỏ đầu sương, bất quá là lòe con mắt cho thiên-hạ mà thôi, chớ chưa thỏa-mãn. Họ tạo dựng không phải tồn-tại, không phải vinh-hiển.
Cái thuyết của văn-minh là cái phương-pháp giúp cho con người biết duy-chủ con vật của mình, mà điều-độ sự sống còn tồn-tại nơi mặt thế này. Sống tạm tại mặt thế này làm cho họ thỏa-mãn đặng điều-độ mảnh thi-hài, hay thể-chất này thôi, duy có tinh-thần đạo đức mới đặng.
Một lần nữa, giải thật nghĩa hai chữ Văn-Minh: Văn là quyền hạn, Minh là sáng-sủa đạo-đức. Nếu Văn-Minh mà thiệt-tướng được, là thực-hiện một nền Tôn-Giáo cao siêu tại mặt thế-gian này mới thiệt hạnh-phúc. Về phương-pháp Đạo-Đức mới thật hạnh-phúc./.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 18-01-Kỷ-Sửu nhằm ngày (dl. 15-02-1949).
CON ĐƯỜNG THIÊNG LIÊNG HẰNG SỐNG: Bài 23
Đức Hộ-Pháp
Thuyết-Đạo tại Đền-Thánh, đêm 26 tháng 01 năm Kỷ-Sửu (23-02-1949)
Đêm nay Bần-Đạo giảng tiếp dục-tấn trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống. Từ hôm nào tới nay đình-đãi đã lâu, có nhiều điều thúc giục Bần-Đạo phải thuyết, thuyết cho gấp, thuyết đặng cho biết, bởi vì thấy họ cuốn gói trở về nhiều lắm, Nam-Nữ cũng vậy, cần đi cho hiểu cho quen đường về của họ.
Chúng ta dục-tấn từ Diêu-Trì-Cung đến Ngọc-Hư-Cung, tức nhiên là Cung trị Càn-Khôn Vũ-Trụ đó vậy. Cung trị thế không cần nói, chúng ta cũng choán biết rằng: Chúng ta đến một Cung rất yếu trọng, chính nơi ấy là nơi cầm quyền điều khiển Càn-Khôn Vũ-Trụ.
Chắc mỗi người đều tưởng-tượng, nếu cầm quyền điều khiển Càn-Khôn Vũ-Trụ thì phải là một trường Quan-Lại náo nhiệt lắm, vậy chắc ai nấy điều tưởng-tượng phải có một trường Quan-Lại như mặt thế này.
Chúng ta tỷ-thí một chánh-phủ, mà nơi nào đã lấy làm Kinh-Đô để cầm quyền trị một quốc-gia, thì Kinh-Đô ấy bao giờ cũng náo nhiệt, Bần-Đạo xin nói hẳn rằng: Không có, không phải như sự tưởng-tượng của chúng ta vậy đâu!
Bần-Đạo xin nhắc và giảng từ bước, đặng cho con cái Đức Chí-Tôn dễ hiểu. Bần-Đạo ngó thấy chỉ thuật lại xin cả thảy Nam-Nữ nhứt là mấy vị niên cao, kỷ trưởng, mấy vị Chức-Sắc Thiên-Phong phải để ý lắm và nhớ.
Bần-Đạo sẽ thuyết cảnh tượng ấy, cả thảy đều thấy hiện-tượng trước mặt.
Có một điều là từ giã Cung Diêu-Trì dục-tấn tới nữa Bần-Đạo thú thật khó dụ họ đi lắm, phần nhiều về nơi cảnh ấy họ hưởng được một hạnh-phúc vô đối, nhứt là các đẳng Chơn-Hồn đã chịu thảm khổ một kiếp sanh, về cảnh ấy hưởng được hạnh-phúc vô biên vô đối, gần Bà Mẹ yêu ái vô-lượng vô biên, biểu họ từ giả Bà Mẹ ấy mà đi thì không phải dễ. Nhưng có một điều trọng-yếu hơn hết, lời tục-ngữ người ta thường có nói: "Đi cho biết đó biết đây, ở nhà với Mẹ biết ngày nào khôn". Phải dục-tấn tới, thấy chán chường trước mắt mình, con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống, đi mãi không ngừng, chúng ta đi, đi miết tới nữa để học hỏi thêm nữa.
Ngày giờ nào, thời buổi nào, chúng ta có thể cầm nơi tay một quyền-năng vô tận như Đức Chí-Tôn, đặng tạo ra một Càn-Khôn Vũ-Trụ khác, làm đại-nghiệp của mình. Vì vậy nên con đường dục-tấn không có ngừng, không có giới hạn, vô lượng vô biên vô cùng tận, cũng như Càn-Khôn Vũ-Trụ chúng ta thấy trước mặt chúng ta đó vậy.
Nếu chúng ta ngó thấy cây phướn Diêu-Trì-Cung trước mặt chúng ta, chúng ta muốn tìm Cung Ngọc-Hư thì chúng ta xây qua bên mặt, chúng ta ngó ngay Cung Ngọc-Hư, bên trái là Diêu-Trì-Cung đó vậy.
Chúng ta đi hoài chẳng phải chúng ta dục-tấn như buổi trước, bởi cảnh giới khác thường huyền-bí lạ lùng. Chúng ta thấy muôn điều trước mặt chúng ta điều do Chơn-Thần xuất hiện, Vạn-pháp thành hình không có điều gì chúng ta tưởng đến mà không có trước mặt. Cảnh tượng ấy nên hình nên tướng với một cách huyền-bí vô biên vô tận, chúng ta không thể gì tưởng tượng được.
Tỷ như con đường dục-tấn ấy chúng ta muốn có một việc lạ lùng là nếu chúng ta muốn đi đến cho mau, thì chúng ta đi như chớp nhoáng, muốn gì đặng nấy, tưởng thì nó hiện hình liền. Ấy là một địa-giới vô tận vô biên không khi nào lấy trí khôn con người mà tưởng-tượng được. Ôi còn khi bước theo con đường dục-tấn thì chúng ta không thể tỏ bằng ngòi viết đặng, bởi cảnh trí khoái-lạc vô biên.
Chúng ta hưởng hạnh-phúc nơi Cung Diêu-Trì một cách khoái lạc. Hạnh-phúc mà chúng ta hưởng được tưởng là hết rồi, nhưng chúng ta dục-tấn tới chừng nào độ khoái-lạc ấy cứ đến với ta mãi-mãi. Đi tới nữa, đi tới mãi, đi tới một mức khoái lạc hạnh-phúc về tinh-thần, vô tận vô biên, hưởng hoài không khi nào hết.
Khoảng đường mà chúng ta đi không có côi cúc, đi theo đường chúng ta gặp biết bao nhiêu người thân ái, bạn tác mừng rỡ không biết bao nhiêu.
Nếu chúng ta thấy một cảnh tượng của người nào lìa quê hương đi xa xứ, khi về gặp người chí chân của mình thì sự mừng rỡ của họ thế nào, chẳng cần tả ra cả thảy đều biết. Tưởng-tượng coi chúng ta gặp những người trên con đường dục-tấn là những người bạn thân yêu, tình nồng-nàn ấy không biết bao nhiêu. Muôn kiếp mới tạo được khối tình ái ấy, mỗi người chúng ta đều thấy trong thân-tộc của chúng ta, họ hiện-tượng không biết mấy muôn, mấy ngàn kiếp, chung chịu, chung đứng, chung đi với nhau trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống, hạnh-phúc vô cùng, không thể gì tả ra bằng ngôn-ngữ đặng.
Bần-Đạo dám bảo-kê rằng: "Nơi cảnh ấy chưa có buổi nào huyên náo hay có tiếng nào buồn". Không có buồn, không có biết đau thảm, chúng ta đi miết tới, vui mà đi. Đến trước mặt chúng ta thoạt nhiên có một thế-giái vô cùng tận, đẹp-đẽ lầu đài nguy-nga chớn chở, chúng ta tưởng-tượng rất huyền-diệu. Lầu đài ấy chúng ta ngó thấy một màu với nhau chỉ có một vật tạo thành mà thôi, vật đó dường như pha lê vậy, như kiếng, ngà ngà đục đục, màu thì trong, hào-quang chiếu diệu. Một cảnh Trời hào-quang chiếu diệu ra muôn đạo, vì tướng của nó tạo thành hình của nó.
Vì vậy mà các Trang đoạt Đạo khi xưa, đi về tới cảnh đó là nơi Ngọc-Hư-Cung, một địa giới huyền-bí làm sao! Không thể gì minh-tả ra đặng, huyền-bí về tinh-thần của chúng ta, vì nó do tinh-thần của chúng ta biến tượng, ta thấy hình-trạng nó vuông vức, chúng ta tưởng-tượng mà ra đó vậy. Chúng ta tưởng-tượng hình-trạng thế nào, thì nó ra thế ấy. Nếu vị kiến-trúc-sư nào, hay một ông kỹ-sư nào ngó thấy nó, đều muốn bỏ nghề hết bởi không thể gì làm được. Tôi sợ e cho họ ngó rồi chẳng phải bỏ nghề mà thôi, họ còn ngơ-ngơ, ngẩn ngẩn, như điên mà chớ, bởi đã hao tâm mà làm không đặng.
Chúng ta đến nơi ấy, chúng ta thấy thi-hài của mình biến-tướng y như hình-ảnh của khuôn-khổ trong địa-giới, hình chúng ta biến một màu một sắc, hễ nó biến theo được mới nhập cảnh ấy được, nếu biến theo không được, thì chúng ta bị đuổi ra, ấy là Pháp-Thân của chúng ta nó phải nhập cảnh giới ấy, nên câu kinh: "Rấp nhập cảnh Thiêng-Liêng Hằng-Sống là vậy đó". Khi vô đặng rồi, tưởng đâu thiên-hạ náo nhiệt, trùng-trùng điệp điệp lạ thường lắm, không có đâu. Chúng ta chỉ thấy Tông-Đường Thiêng-Liêng của chúng ta đang tiếp đón mừng rỡ. Ô!!! Nơi hội-hiệp các người thân-nhân của chúng ta, từ buổi chúng ta đoạt đặng địa-vị Tiểu-Hồi, lên tới phẩm Đại-Hồi, từ trong địa-vị Đại-Hồi ấy, mà chuyển-kiếp đoạt đến địa-vị Thần,Thánh,Tiên, Phật cả ngàn muôn triệu kiếp sanh.
Các bạn, các Tông-Đường, các Gia-Tộc chúng ta, chúng ta thấy muôn-muôn, trùng-trùng, điệp-điệp, không có định số được. Khi họ đến mừng, họ dẫn chúng ta đến một Cung họ dặn rằng: Nơi đây không đặng nói tiếng, chỉ tưởng mà thôi, hễ tưởng là như nói vậy. Tỷ dụ như: Tôi tưởng tôi muốn gặp anh tôi, thì tức nhiên cái tưởng ấy thành tiếng nói, mà lại có người anh đứng trước mặt liền. Cung ấy không có dùng lời nói, duy có tưởng mà thế cho ngôn-ngữ. Người ta dặn đừng tưởng Thần, Thánh, Tiên, Phật, bởi các Đấng ấy ở cảnh đó không có. Sở dĩ mà có, là tại mặt địa-cầu 68 này ta đặt ra, chớ nơi Ngọc-Hư-Cung không có, những danh-từ Thần, Thánh, Tiên, Phật chỉ dùng nơi trái địa-cầu 68 này mà thôi.
Chúng ta biết rằng: Đẳng-vị Thiêng-Liêng của các Chơn-Hồn không có phẩm-trật, chúng ta định nên có ngôi-vị, chỉ có ngôi vị tại mặt địa-cầu 68 này mà thôi. Chúng ta đã ngó thấy nhơn-loại nơi mặt địa-cầu này tinh-thần mỗi cá-nhân đều khác, hai ngàn bảy trăm triệu (2.700 triệu) chơn-linh nơi mặt địa-cầu này, thì hai ngàn bảy trăm triệu người không đồng phẩm chất, không đồng tánh chất, không đồng chơn-thần với nhau, cho nên không có khi nào mà hai người giống nhau, chưa có một chơn-thần nào giống nhau, thì cái thiên-vị kia nó không định giá được. Mỗi người đều có một phẩm-vị đặc-biệt của mình, mỗi kiếp sanh đều tấn, khi tấn tới có một sở định địa-vị của mình, mỗi một bước là một đẳng-cấp, đẳng-cấp định giai-cấp của mình, giai-cấp không phải giống nhau như ở thế-gian này. Bởi địa-vị không giống nhau, phẩm-vị chỗ nào thì đứng chỗ nấy, không ai xô đuổi không ai giành-giựt được, từ chối gì cũng không được, bởi không có danh-từ, mà danh-từ dường như để sẵn, bởi có địa-vị sẵn. Đức Chí-Tôn đã nói: "Đại-nghiệp của mỗi đứa Thầy có sắm sẵn cho đó".
Bây giờ nói về tánh-chất tôn-ti của mình, hằng-phẩm của mình đã không có, biết lấy chi mà định lấy nó, lấy gia-tộc của mình?
Bần-Đạo ngó thấy gia-tộc của các Đấng có mặt tại thế-gian này, thế-giới nghiệt oan của chúng ta, tức nhiên có năm trái địa-cầu có nhơn-loại ở, tức nhiên có tên của kẻ đoạt Đạo được là: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Ngoài ra nữa chúng ta ngó thấy đại gia-đình của Đức Phật Thích-Ca, đại gia-đình của Đức Lão-Tử, đại gia-đình của Đức Khổng-Phu-Tử, đại gia đình của Mahomet, đại gia-đình của Jésus-Christ, đại gia-đình vinh-hiển hơn hết là đại gia-đình của Quan-Âm-Bồ-Tát, tức nhiên Từ-Hàng-Bồ-Tát vinh-hiển hơn hết là gia-đình ấy.
Ấy vậy gia-đình nào thì có phần trong gia-đình ấy, xây chuyển họ có tương-thân với nhau một cách mật-thiết, như một chơn-linh Kim-Thanh-Quan xuống thế này, có lẽ đầu-kiếp trong gia-đình của Từ-Hàng-Bồ-Tát, hay là của Khổng-Phu-Tử, hay là của Mahomet, hay là của Phật Thích-Ca, cho nên các chơn-linh ấy họ đã liên-quan mật thiết; vì lẽ ấy cho nên Càn-Khôn Vũ-Trụ có tên mình, dầu mà chúng ta muốn biết số trái địa-cầu thì chúng ta không thể gì biết được, chỉ có năm trái của chúng ta ở thì chúng ta biết mà thôi, chúng ta không biết cho hết. Còn ba ngàn (3.000) thế-giái kia với mười một (11) thế giái ở sau, giữa mấy trái địa-cầu kia, chúng ta không thể gì đoán được. Có nhiều khi thấy các Đấng lâm-phàm, hỏi ra dường như tinh-thần của chúng ta biết hết, cũng như có nhiều người bên Tây, bên Pháp mà họ biết nơi xứ Việt-Nam vậy. Nói dường như họ nói trên cung trăng, nhưng thật ra họ thấu-đáo cả chơn-tướng nơi mặt địa-cầu này, họ biết huyền-linh của họ, họ biết tài phép vô-biên của họ. Nói về kiếp-sống của chúng ta, không phải hành-hạ nó, nhưng phải tập nó hành nó. Nếu khi về được rồi thân-nhân của chúng ta dắt chúng ta đến một Cung có một quyển sách Thiên-Thơ để trước mặt ta, dỡ ra xem thấy tên mình và kiếp sanh của mình đã làm gì thì trong quyển Thiên-Thơ ấy nó hiện-tượng ra hết. Chúng ta tự xử chúng ta, mình làm tòa để xử cho mình, hoặc mình phải đầu kiếp hay là đoạt đến địa-vị nào, mình đứng đến mức nào, thì cũng do mình định-đoạt lấy.
Vị Chưởng-Quản nơi Cung ấy theo tiếng phàm của chúng ta đặt tên là Nam-Tào Bắc-Đẩu. Nơi Nam-Tào Bắc-Đẩu không có ai trị hết, chính ta trị ta; không có ai định kiếp cho ta, chính ta định kiếp cho ta; chưa có ai phân tội phước cho ta, chính ta định tội phước cho ta, mạng căn kiếp số ta, ta định, không có một hình-luật nào buộc được chúng ta, chúng ta có quyền tự-do, quyền sở-hữu định mạng căn cho ta vậy./.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 26-01-Kỷ-Sửu nhằm ngày (dl. 23-02-1949).
CON ĐƯỜNG THIÊNG LIÊNG HẰNG SỐNG: Bài 24
Đức Hộ-Pháp
Thuyết-Đạo tại Đền-Thánh, đêm 30 tháng 01 năm Kỷ-Sửu (27-02-1949)
Bần-Đạo hôm nay giảng tiếp dục-tấn của chúng ta trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống.
Khi trước Bần-Đạo đã dắt cả toàn con cái của Đức Chí-Tôn vào Ngọc-Hư-Cung, Bần-Đạo đã cho họ ngó thấy trong Cung ấy để ghi chép cả quả kiếp của loài người.
Bần-Đạo hôm nay giảng thêm cho rành bởi gì cả cơ-quan chánh-trị của Càn-Khôn Vũ-Trụ là vĩ-đại lắm.
Chúng ta tưởng-tượng lại coi Ba Ngàn Thế-Giái, Tứ-Đại Bộ-Châu, Thất-Thập Nhị-Địa, tưởng-tượng lụng lại coi, bảy mươi hai trái địa-cầu ở trước hơn hết, cảnh đọa Ngươn-Linh của chúng ta, mười hai thế-giái. Trong 12 thế-giái của 72 trái địa-cầu, trái địa cầu nhỏ chót hơn hết của thế-giái đương nhiên chúng ta xuống, đấy là thế-giới nghiệt oan. Có 5 trái địa-cầu có nhơn-loại ở.
Chúng ta đây thuộc về trái địa-cầu 68, chúng ta thử nghĩ nhơn-loại nơi mặt địa-cầu này, hơn hai ngàn bảy trăm triệu nhơn-sanh, chúng ta thử nghĩ trái địa-cầu này, có gần một trăm mấy chục lần lớn hơn trái địa-cầu 68 này,(*1) như vậy chúng ta tưởng-tượng xem có bao nhiêu nhơn-loại ở trên mặt Càn-Khôn Vũ-Trụ vĩ-đại này? Nếu chúng ta tưởng-tượng nền chánh-trị Càn-Khôn Vũ-Trụ, kể sanh mạng mỗi người không sót, chẳng phải để chúng ta nghĩ lại coi, họ lấy quyền-năng nào mà cầm quyền chánh-trị vĩ-đại ấy đặng? Chúng ta nên tìm hiểu với huyền-vi bí-mật ấy ở đâu? Chúng ta nên kiếm coi ở chỗ nào? Cơ-quan trị thế phải thế nào? Sửa chữa nó lại, cho nó phù hạp với cơ-quan chánh-trị của Càn-Khôn Vũ-Trụ, chừng ấy thiên-hạ mới được thái-bình, tinh-thần thế nào, hình-thể cũng vậy, không chi lạ. Cả nhơn-loại chưa đoạt-phép, chưa cầm được huyền-vi bí-mật, cho nên nhơn-loại còn loạn-lạc, có lẽ vì cớ ấy! Chúng ta đã ngó thấy, cái án kia chúng ta không thể chối, cái hình-phạt dành cho chúng ta, chúng ta không thể tránh đặng.
Cầm quyền rồi thì không có cái vì quá đáng, bởi tại làm sao? Tại cơ-quan của người ta nắm Bí-Pháp của người ta, quyền-năng vô tận vô biên, nắm giữ cả Càn-Khôn Vũ-Trụ, cái án, cái tội vô hình, chính nó đã có nơi pháp-thân của loài người, tức nhiên nó ở trong tay của Chơn-Thần chúng ta ghi chép, nếu chúng ta muốn chối tội thì chối sao đặng, chính Chơn-Thần ta định cho ta. Các tội-tình đều đưa ra trước mặt, từ Tiểu-Hồi tức nhiên là giác-hồn, sanh tử biết bao nhiêu kiếp sanh, mới đoạt đến Đại-Hồi. Cả cái sanh-hoạt, cả cái liên quan, cả cái căn bản, cả cái quả kiếp bất kỳ cái gì thì trong quyển Vô-Tự-Kinh đều có ghi ghép. Chính ta định cho ta, mà chối sao được, dầu muốn chối cũng không chối đặng. Chính Chơn-Thần ta định-án cho ta chớ không phải ai định-án cho ta, sợ hay chăng là điều đó vậy.
Ông Tòa ở thế-gian này khi định-án còn có Trạng-Sư để bào chữa, còn nơi đó không có Trạng-Sư để bào chữa cho ta, chính ta định-án cho ta, cái bí-mật vô-đối cầm quyền cả Càn-Khôn Vũ-Trụ là như vậy. Người ta để cho mình làm tòa xử lấy mình thì còn ai binh cho mình nữa. Không thể gì mình chối cãi tội, cãi án của mình đặng, vì chính mình định cho mình, nếu cãi đặng là qua Chơn-Thần sao? Không chối cãi gì được hết cả.
Ấy vậy trong các chơn-hồn có chia ra hai phần, hai hạng:
1- Hạng vì quả kiếp, đến trả tội cho mình, chúng ta nên đặt tên cho các đẳng Linh-Hồn ấy là: Kẻ tội nhơn đến để trả tội.
2- Hạng nữa là hạng du-học, đến để lập-vị cho mình.
Chúng ta ngó thấy một tấn tuồng quan lại, chúng ta nghĩ lấy làm ngộ-nghĩnh, nếu chúng ta chịu tội tình một mình ta, thì không lấy làm đau-đớn gì mấy. Ngặt một nỗi, phép huyền-vi vô-đối của Càn-Khôn Vũ-Trụ, buộc cả Tông-Đường, Tổ-Tông từ trước phải chịu cho ta, làm chứng cho ta, có đau-đớn chăng là vậy đó.
Một linh-hồn chịu quả kiếp nơi cảnh trần lúc trở về Ngọc-Hư-Cung, thì cả thảy Tông-Đường họ đều có mặt tại Ngọc-Hư-Cung để đón tiếp, quan-sát coi con đường mình đã đi qua, quả kiếp đã đi qua, quả kiếp có điều chi sửa đổi hay chăng? Có làm chi tội tình nữa hay chăng? Thay vì quả kiếp mình đi trong con đường Chí-Thiện, đoạt được Bí-Pháp Chí-Linh. Còn một vài chơn-linh đi ngược lụng lại thú hình gây thêm tội ác, mình thấy vì mình mà cả Tông-Đường đều chịu tội nên đau-đớn vô cùng.
Chúng ta phải biết các Đấng nhập vào Ngọc-Hư-Cung, tức nhiên các Đẳng Linh-Hồn ấy đã đoạt kiếp được. Có những kẻ đến thế nhập vào pháp-thân mà họ đã tạo căn quả, thì cả Tông-Đường họ khổ não lắm.
Bần-Đạo nói Tông-Đường Thiêng-Liêng thường ở tại Ngọc-Hư-Cung, cao trọng hơn hết là Tông-Đường của Quan-Âm Bồ-Tát tức nhiên Từ-Hàng Bồ-Tát. Tông-Đường cao trọng thứ nhì là Tông-Đường của Địa-Tạng-Vương-Bồ-Tát, Tông-Đường thứ ba là Đức Di-Lạc, ba Tông-Đường cao trọng hơn hết, còn nhiều Tông-Đường khác nữa. Mỗi người đều có Tông-Đường đặng ngồi ở đây là chờ ta.
Cả thảy đều do nơi quả kiếp mà đày xuống thế-gian để trả quả kiếp, trả hình-phạt. Một trường thảm não, nếu chúng ta gây thêm tội ác, thay vì đi trong con đường chí-thiện đặng lập thiên-vị cho mình.
Còn một hạng gọi là hạng du-học, đến để lập-vị mình. Hạng này không sao hết, bởi Tông-Đường họ nhứt định cho họ đi học.
Chúng ta ngó thấy con của một người thượng-lưu kia cho con đi học: Học để khôn, học cho hay, học cho giỏi. Nếu thi được giỏi thì mừng lắm, nếu học dỡ thì cũng vậy. Chúng ta thấy đứa con đi học bên Pháp, không có học, đến cuối tháng bên Pháp gởi Total de note về thấy điểm sức học của con dỡ, nó dỡ về Moral, về Géographie, về Leçon de chose thì cười, bất quá nói thằng biếng học vậy thôi. Viết thơ biểu nó rán học thêm mấy Matière đó nữa, chưa khá mấy, hạng bình thường. Các bạn ấy họ đến giữ Đạo của họ lắm, mật thiết không có đê hèn. Họ không muốn đến, mà nếu họ đến thì cao sang lắm, chẳng hề khi nào họ hạ mình xuống làm tội nhơ-nhớp.
Chúng ta đã ngó thấy Càn-Khôn Vũ-Trụ, nắm quyền-lực làm cho chúng ta sợ hơn hết là làm cho Tông-Đường ta phải chịu khổ, trước cái thương của Tông-Đường ta, ấy là cái hình phạt vĩ đại ở cảnh Thiêng-Liêng, đến khi mãn kiếp trở về đoạt được cái thương hay là cái khổ của Tông-Đường thì mình đau khổ vô cùng. Hình phạt ấy vĩ-đại lắm nên các Chơn-Hồn đều sợ-sệt hơn hết.
Tại sao Đức Chí-Tôn đến Ngài trụ cả con cái của Ngài đặng lập Thánh-Thể hữu hình này, tại sao vậy? Bởi vì hễ tạo được mặt luật hữu-vi này thì cả thảy con cái của Đức Chí-Tôn đoạt-pháp đặng. Một ngày kia đoạt-vị trên cảnh Thiêng-Liêng Hằng-Sống, chưa có hạnh-phúc nào dưới thế-gian này bằng hạnh-phúc trên cảnh Thiêng-Liêng. Chúng ta hưởng được hạnh-phúc thiệt hay chăng là do nơi đó.
Thánh-Thể Đức Chí-Tôn là gì? Là một quyền quản-trị cả luật yêu-ái của Đức Chí-Tôn làm một khối, khối ấy dành để trong tâm não của Ngài. Mỗi phần-tử luân-hồi là mỗi phần tử của Đức Chí-Tôn gieo trong cả hình-luật thương yêu ấy trong tâm não tinh-thần của mỗi người.
Chúng ta thấy Đức Chí-Tôn đã tạo Thánh-Thể của Ngài với một cái tình yêu ái, Ngài nói: Các con đã hưởng được cái quyền yêu ái vô tận, các con nên lấy tình yêu ái truyền cho các em con thế-kỷ này qua thế-kỷ khác.
Một hình-phạt đương nhiên nơi cửa đọa này chúng ta sợ hơn hết là hình-phạt trục-xuất. Trục-xuất là gì? Là đuổi ra khỏi cái đại gia-đình, Đại Tông-Đường của Đức Chí-Tôn đến đào tạo cho chúng ta. Một hình-luật tại mặt thế này đặng cho chúng ta không ra khỏi các Tông-Đường ấy, cốt yếu là vậy, sợ hay chăng là cái đó, án trục-xuất là vậy đó.
Người nào bị trục-xuất là bị đại gia-đình mình trừ bỏ, mà từ bỏ rồi thì thân mình là con vật không phải tìm hạnh-phúc riêng một mình được, vì hình-luật nó biểu nó, phải già rồi nó phải chết, nó không còn sống.
Cái quyền của Hội-Thánh trục-xuất chẳng khác nào bị đuổi ra khỏi Đại Tông-Đường của Đức Chí-Tôn đến tạo dựng, bị đuổi ở dưới này ở trên kia cũng vậy, đuổi phần xác thì phần hồn cũng bị đuổi vậy.
Ngày mình không còn ở trong Tông-Đường của Đức Chí-Tôn là ngày mình bị nhục, tưởng sống mà thân mình trả đặng nợ hay chưa cũng không đáng sợ, trong Tông-Đường của mình bị nhục mới đáng sợ./.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 30-01-Kỷ-Sửu nhằm ngày (dl. 27-02-1949).
(*1) Nơi đoạn thứ 5: Chúng ta đây thuộc về trái địa-cầu 68, chúng ta thử nghĩ nhơn-loại nơi mặt địa-cầu này, hơn hai ngàn bảy trăm triệu nhơn-sanh, chúng ta thử nghĩ trái địa-cầu này, có gần một trăm mấy chục lần lớn hơn trái địa-cầu 68 này, như vậy chúng ta tưởng-tượng xem có bao nhiêu nhơn-loại ở trên mặt Càn-Khôn Vũ-Trụ vĩ-đại này?...
Nguyên bản chánh in là: Chúng ta đây thuộc về trái địa-cầu 68, chúng ta thử nghĩ nhơn-loại nơi mặt địa-cầu này, hơn hai ngàn bảy trăm triệu nhơn-sanh, chúng ta thử nghĩ trái địa-cầu này, có gần một trăm mấy chục lần lớn hơn trái địa-cầu 69 này, như vậy chúng ta tưởng-tượng xem có bao nhiêu nhơn-loại ở trên mặt Càn-Khôn Vũ-Trụ vĩ-đại này?...
Chúng tôi mạn phép trình bày như trên cho rõ nghĩa hơn.
CON ĐƯỜNG THIÊNG LIÊNG HẰNG SỐNG: Bài 25
Đức Hộ-Pháp
Thuyết-Đạo tại Đền-Thánh, đêm 04 tháng 02 năm Kỷ-Sửu (03-03-1949)
Trước khi giảng dục-tấn trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống, Bần-Đạo có nhiều điều khuyên nhủ về phương-pháp thuyết-pháp, thuyết-pháp tức nhiên là thuyết Đạo.
Trót gần hai năm trường, cũng gần 2 năm Bần-Đạo đã tìm phương thế cho toàn cả Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn thuyết-giáo, có điều trọng-yếu về phổ-tế nhơn-sanh, cả thảy đều biết, nhờ cái thuyết-pháp mà chơn-truyền nó hiện-tượng, trọng-yếu của chơn-truyền Đức Chí-Tôn là vậy.
Một điều mình đã để tâm về thuyết-pháp, tức nhiên mình cần có mục-phiêu để cho tinh thần cả toàn thính-giả chú ý vào đây, tức nhiên cầm cây phướn Thần cho chúng ta trụ lụng lại triết-lý thuyết-pháp của mình.
Bần-Đạo thấy có một điều nên sửa chữa, có người lên nói một đề Nam, tới chừng thuyết đi qua đề Bắc, không nhằm đề gì hết, chẳng khác nào Bần-Đạo nói tôi tính đi Sài-Gòn thì thiên-hạ đều ngó về hướng Sài-Gòn, tới chừng đi thì đi lên mé Nam-Vang thành ra không ai hiểu gì hết, nên thuyết-pháp trọn bài nghe mà không biết gì hết. Thuyết-pháp tức nhiên có niêm-luật của phương thuyết-pháp, phải có niêm-luật chớ không phải muốn nói gì thì nói. Bài thuyết-pháp nó giống như bài thi vậy, nó phải có đề, có niêm-luật, có bình trắc, có thừa khóa, có trạng luận, thúc kết, phải giữ cho ăn với cái niêm-luật của thuyết-pháp mới đặng.
Đức Chí-Tôn dạy niêm-luật thuyết-pháp một cách kỹ-lưỡng, Cao-Thượng-Phẩm và Bần-Đạo có tập hai ba tháng vậy. Hễ Cao-Thượng-Phẩm lên đài thuyết thì Bần-Đạo làm thính-giả ngồi nghe. Cần phải tập, không tập không thể gì làm được, không thể gì không tùng theo niêm-luật của Đường-Thi vậy, không thể gì nói càn đặng. Ngoài ra niêm-luật ấy nó còn Phù, Tỷ, Hứng, Thú nữa, phải học cho thuộc lòng. Bài văn hay ho là mình thuyết văn có mực thước, có phù ba có văn chương, có tài khẩu-thuyết mới được, không có khuẩn bức túng thiếu trong lời nói ngôn-ngữ của mình. TỲ - là lên đó mình phải "Quan tiền vũ hậu" lấy kim suy cổ, suy tầm những lý lẽ cho cao sâu. HỨNG - là mình lên đứng nhập vào cảnh tượng nào, thấy hiện-tượng ở thế-gian, phải cho ăn nhập vào cảnh tượng đó trong khuôn khổ đương nhiên cả toàn hình-thể hiện tại Đạo với Đời có liên-quan trọng-hệ mật thiết. Bài thuyết Đạo của mình hay ho có lẽ hứng lấy tinh-thần đương nhiên, đem ra tùy theo mình thuyết-pháp, mình phải giải-thích cho thính-giả thấu đáo.
Bây giờ muốn thuyết-pháp cho trúng và có đề hẳn-hòi thì phải có KINH, ĐIỂN, LUẬT. Kinh là Tứ-Kinh, Điển là Ngũ-Truyện; Luật là cả luật trị-thế từ cổ chí kim, đem ra làm cái niêm luật đặng tạo bài thuyết-pháp của mình, phải có niêm luật của mình, mình phải rán học, cần mẫn học, ấy là một điều chẳng phải dễ, nhưng phải làm cho đặng thay thế ngôn-ngữ cho Đức Chí-Tôn, đem chơn truyền của Ngài để vào tinh-thần của nhơn-loại, nếu mình làm không đặng cũng như mình làm cho Đức Chí-Tôn câm sao! Mình phải làm đặng thay thế ngôn-ngữ cho Ngài, nếu mình làm không đặng thì thay thế cho Ngài không đặng!(*)
Từ đây về sau Bần-Đạo siết chặt lại là ngồi nghe, hễ còn nói bậy nữa Bần-Đạo sẽ phạt nặng đa nghe, đã gần 2 năm rồi không dung thứ nữa được. Bần-Đạo cho hay trước có bị phạt đừng than đừng trách, nói khó khăn gì hết, đã cho hay trước rồi mới làm.(*)
Bây giờ cả Tông-Đường của chúng ta (Bần-Đạo nói đây là Tông-Đường Thiêng-Liêng đa), anh em chúng ta dắt chúng ta qua Cung gọi là Cung Phục-Linh. Các bạn phải biết muôn trùng thiên-hạ vạn điệp chơn-linh, nếu như ở thế-gian này dùng ngôn-ngữ mà thông công cùng nhau, tưởng sự náo nhiệt dữ tợn lắm, nhưng không cần, nền chánh-trị phi thường, Bần-Đạo sẽ tiếp giảng tới cả thảy sẽ thấy một nền chánh-trị lạ lùng không thể gì tưởng-tượng được.
Ngôn-ngữ nơi cảnh ấy duy có tưởng mà đặng thông-công cùng nhau mà thôi, tưởng cái gì có cái nấy. Giả tỷ, Bần-Đạo muốn đi đến chỗ đó, người ta cũng đều hiểu rằng Bần-Đạo muốn đi đến chỗ đó. Các chơn-linh khác cũng tưởng mà nói chuyện với nhau, duy có cái tư-tưởng mà thôi chớ không có ngôn-ngữ. Chúng ta gặp biết bao nhiêu chơn linh quen thuộc thân mến yêu ái với chúng ta, cửa ấy chẳng buổi nào gặp một kẻ ghét hay kẻ nào không có thâm tình với chúng ta, có một điều các anh các chị nhớ nghe, nhớ cho lung.
Bần-Đạo sẽ giảng có ảnh-hưởng với kiếp sanh khi chúng ta chưa vô cửa, thì những anh em trong Tông-Đường ta có dặn trước khi vô cửa đừng có sợ-sệt gì hết, phải bình-tĩnh. Có điều chi thay đổi đừng sợ-sệt nao núng. Có dặn trước mà khi vô dường như mất thần, mất trí, hết thảy mê-muội, tưởng như không có ở trong cảnh ấy làm như thể chúng ta ám muội không biết đó là gì? Không biết đó là ở đâu? Không biết gì hết. Tới chừng tỉnh thấy một vị Phật Cầm cây Kiêm-Câu đứng trước mặt chúng ta và thấy Hộ-Pháp đang đứng bắt ấn giữ linh-hồn chúng ta lại. Vị Phật ấy không ai xa lạ hơn chính là Phục-Linh Tánh-Phật đó vậy. Cầm cây Kiêm-Câu quơ một cái thì chúng ta tỉnh lại một kiếp sanh, tới chừng sống lụng lại thấy trong kiếp sống trước nữa. Hễ mỗi lần quơ thì chúng ta thấy mỗi kiếp sanh, chúng ta sống lụng lại trong cả kiếp sống của chúng ta, chúng ta đi thối lại từ mức Đại-Hồi cho tới Tiểu-Hồi, qua cho tới vật-loại, bởi chúng ta cả thảy đều là Hóa-nhân, không ai ở mặt địa-cầu này là Nguyên-nhân cả. Nguyên-nhân chúng ta đã đoạt được trong lần thứ ba là Đệ-Tam Chuyển, còn bao nhiêu đều là Hóa-nhân, cả thảy đều ở trong vật-loại mà đoạt kiếp cả.
Bần-Đạo chỉ một điều là Đức Di-Lạc Vương-Phật đương cầm quyền Càn-Khôn Vũ-Trụ bây giờ, hồi Thất-Chuyển mặt địa-cầu này nó chưa thoát xác của nó. Kỳ phán-xét chót hết Đức Di-Lạc còn là con Dã-Nhơn (Con khỉ), con khỉ ở làm đầy tớ cho Đức Phật Thích-Ca. Đức Phật Thích-Ca buổi ấy là anh thôn quê dân da đen (Hắc-Chủng) như mọi vậy thôi. Ba chuyển tới là Đệ Tam-Chuyển, Trung-Ngươn Đệ Tam-Chuyển thì Đức Phật Thích-Ca đoạt tới Boudhisava, sau Đức Thích-Ca được vào hàng Phật tức nhiên là Boudha.
Đức Di-Lạc-Vương sửa soạn vào hàng Phật kỳ này. Ngài cầm quyền nữa Ngài đặng vào hàng Phật, nếu Bần-Đạo nói Đức Thích-Ca đến thế này, đến trái địa-cầu 68 này, hồi lúc nó chưa thoát xác của nó thì Đức Phật Thích-Ca đem hình-ảnh Ngài thay lần. Nên tổng-số kiếp sanh của Ngài nơi mặt địa-cầu này lối chừng một ngàn năm trăm triệu năm chớ không có bao nhiêu đâu.
Chúng ta đi vô Cung Phục-Linh chúng ta phải đi ngược lụng lại, đi trở lại xuống tới vật loại. Tới chừng nhập vô Ngươn-Linh, chúng ta dường như Ngươn-Linh của ta sống cảnh cũng như vật-loại vậy.
Lát nữa Bần-Đạo sẽ dắt vô trong Ngọc-Hư mà các Đấng đương thông công với chúng ta, Đấng ấy đương ngự tại Huỳnh-Kim-Khuyết là Ngọc-Hoàng Thượng-Đế, hay là Đại-Thiên-Tôn. Ngài có hai chức: Ngọc-Hoàng Thượng-Đế cũng là Ngài, mà Đại-Thiên-Tôn cũng là Ngài.
Nói lụng lại, tới chừng ta Phục-Linh, chúng ta đoạt được rồi, chúng ta thấy cả Càn-Khôn Vũ-Trụ là bạn, là tình với chúng ta. Các chơn-linh rần-rần, rộ-rộ trước mặt chúng ta nhưng không có ai lạ hết bởi vì nó có một đức, một căn-bản. Bí-mật là vậy đó.
Bần-Đạo giảng tới vô Cung Phục-Linh thì mình mất cả tinh-thần hết, chúng ta thấy đã đi gần mút con đường sơ sanh. Buổi mới sanh chúng ta không biết gì. Kiếp sống bị một lần mê-muội, tới chừng chết chúng ta cũng bị một lần mê-muội nữa, mê-muội rồi mới sống lại. Huyền-vi bí-mật là ở chỗ đó vậy, nếu không mê thì chúng ta biết được kiếp trước của chúng ta hế. Buổi mình định thần lại thì mới biết, thiên-hạ kêu bằng ăn cháo lú mới mê muội. Vô Cung Phục-Linh nếu chúng ta không mê thì chúng ta biết được kiếp sống, nhớ thì sống không đặng phải chết, bí-mật là chỗ đó. Ngày giờ chúng ta phục tánh chúng ta lại được, chúng ta thấy Đấng Tạo-Đoan tạo Càn-Khôn Vũ-Trụ là Đức Ngọc-Hoàng Thượng-Đế tức là Đại Thiên-Tôn đương ngự nơi Ngọc-Hư-Cung, dường như rủ chúng ta phải qua chỗ đó, qua đặng hiệp mặt cùng Đấng ấy, phải qua cho thấy Đấng ấy. Dầu cho Tông- Đường chúng ta hay bạn tác chúng ta giờ phút đó có nắm chúng ta biểu đừng đi, nhưng Chơn-Linh của chúng ta cũng đi qua Ngọc-Hư-Cung.
Bây giờ đến Cung Ngọc-Hư là nơi cầm-quyền chánh-trị Càn-Khôn Vũ-Trụ, không có một ngôi sao nào, không có mặt trời nào đứng trong Càn-Khôn Vũ-Trụ mà không chịu dưới quyền điều-khiển của Ngọc-Hư-Cung.
Quyền trị thế là hình-ảnh của Cửu-Trùng-Đài, một điều mà thiên-hạ tưởng-tượng khác. Có trị ai đâu? Bần-Đạo đã thuyết các chơn-linh tự-trị lấy mình, còn Ngọc-Hư-Cung duy có bảo-thủ tồn-tại cho họ và tác phước cho họ mà thôi, chớ không có trị. Tác phước ấy là họ muốn cho các Chơn-Linh ấy đặng hưởng phước họ không hưởng đặng, là tại quả kiếp của họ, nếu nói nhờ người cầm-quyền cho họ thấy mảy may quả kiếp của họ mà thôi. Trị là một vị Phật cầm quả kiếp chúng sanh, họ cũng không phải là gắt-gao lắm. Có nhiều Chơn-Linh biết quả kiếp của mình đặng nặng nề quá đỗi rồi không muốn sống nữa. Quả kiếp trọng hệ lắm nên các Đấng ấy duy có giảm bớt, kiếm phương thế giảm bớt mà thôi.
Trên Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa cốt yếu chỉ cho người tội nhơn ấy làm tòa xử lấy họ, họ biết tự-tỉnh lấy họ, tự-tỉnh lấy họ đặng ngó thấy quả kiếp bớt oai-quyền mà quyết định tội mình. Trái lại người tội nhơn làm tòa xử lấy mình, còn người cầm-quyền lại để bảo-vệ hạnh-phúc, giảm bớt tội tình cho ta, cầm-quyền chánh-trị Càn-Khôn Vũ-Trụ là vậy đó, cầm để tác-phước và giảm-tội chớ không phải để buộc tội, để không phải định án. Định chăng là do nơi mình, mình làm Tòa cũng mình, nếu có Trạng-Sư cũng không qua đặng. Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa là cung để cho mình định tội lấy mình không qua không đặng. Nền chánh-trị Càn-Khôn Vũ-Trụ là vậy, cho nên khi chúng ta vô đến Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa rủi chúng ta có làm tội tình, thì dường như các Đấng ngự nơi Cung ấy hồi hộp lo sợ, họ sợ mà mình không sợ. Trái lại họ sợ cho mình, sợ mình kêu án mình quá nặng nói trái ngược vậy đó.
Thành thử, nơi Ngọc-Hư-Cung là nơi an-ủi các Chơn-Linh trong Càn-Khôn Vũ-Trụ, chính tay ấy cầm-quyền trị Càn-Khôn Vũ-Trụ để dìu-dắt binh-vực, chớ không phải để trị, các Chơn-Linh tự trị lấy mình, các bạn nên nhớ điều ấy, nhứt là mấy anh mấy chị vẫn phải biết cái bí-mật ấy đặng tự-tỉnh, tại mặt thế này mình trị mình trước đi. Trị theo cái thói của mình đấy, làm cho lấy có đi, để nữa Chơn-Linh mình về trển không có nóng, đặng ngày kia không có buộc tội mình nặng, làm theo kiểu quẹt lọ vậy mà biết tự-trị lấy mình, đừng hồi-hộp, đừng sợ-sệt gì hết, cho nên Đức Chí-Tôn thường dùng tiếng ăn-năn là vậy đó, tiếng ăn-năn nó hay ho làm sao đâu, đặng cho mình khỏi tự-trị lấy mình, quyền nơi Ngọc-Hư-Cung là vậy đó./.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 04-02-Kỷ-Sửu nhằm ngày (dl. 03-03-1949).
Cuối những đoạn có dấu (*): Hai đoạn 6 và 7 được mang sang từ bài thứ 26 đoạn 6 và 7. Chúng tôi nghĩ lý do kỹ thuật hai đoạn nầy bị sắp lộn vào bài thứ 26. Nguyên bản chánh không có hai đoạn 6 và 7 nêu trên. Kính cáo.
CON ĐƯỜNG THIÊNG LIÊNG HẰNG SỐNG: Bài 26
Đức Hộ-Pháp
Thuyết-Đạo tại Đền-Thánh, đêm 08 tháng 02 năm Kỷ-Sửu (07-03-1949)
Hôm nay chúng ta rủ nhau dục-tấn trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống.
Thưa cùng chư Chức-Sắc Thiên-Phong Cửu-Trùng-Đài và Hiệp-Thiên-Đài, Nam Nữ và mấy vị Lão thành. Bần-Đạo từ khi giảng Dục-Tấn trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống, cốt ý giảng cho mấy anh mấy chị để vào cân não. Từ hôm nào tới nay láp-giáp, nói nhiều quá cho anh chị được mở tinh-thần, dám chắc rằng sự nguy-ngập chưa đến nước đó.
Bần-Đạo chỉ có nắm tay các người dẫn đi vào cảnh ấy cho mấy người quan-sát tự mình hiểu lấy mình dễ hơn, thuyết-giáo e sợ mấy người không trọn thấu được, mình thấy để nhớ nhập trong cảnh ấy rồi mới có sự thật, mà Đức Chí-Tôn muốn cả con cái của Ngài thấy cả sự thật mà thôi, không muốn cho thấy ảo-ảnh, Chơn-Truyền của Đức-Chí-Tôn đại kỵ điều ấy. Nếu thoảng như nhà tịnh-thất chưa mở ra đặng, lỗi ấy không phải nơi Bần-Đạo, lo nội Thể-Pháp mà 24 năm trường nhọc-nhằn không biết bao nhiêu khổ tâm, khổ trí, từ tuổi xanh đến bạc đầu mà chưa rồi sáu bảy phần mười. Bần-Đạo xin thú thật rằng không có cái nạn làm nô-lệ nào một cách vô lối như Bần-Đạo đã làm.
Hỏi ra không phải phận-sự của Bần-Đạo mà Bần-Đạo phải làm nhiều khi ngồi buồn muốn phế hủy, ngặt dòm lại thấy con cái của Đức Chí-Tôn không người dìu-dắt, phế bỏ mà không phế bỏ được. Mặt đời là kiếp sanh tức nhiên phần xác còn chịu nhọc-nhằn không lẽ phần hồn mà phế bỏ.
Bần-Đạo xin giảng tiếp và dắt chúng ta ra khỏi Nam-Tào Bắc-Đẩu, khi thấy quyển Vô-Tự-Kinh rồi thì mình đã hiểu căn phần quả-kiếp của mình, mạng căn kiếp số đều hiểu nơi Cung ấy.
Bây giờ muốn thuyết-pháp cho trúng và có đề hẳn-hòi thì phải có Kinh, Điển, Luật. Kinh là Tứ-Kinh, Điển là Ngũ-Truyện; Luật là cả luật trị-thế từ cổ chí kim, đem ra làm cái niêm luật đặng tạo bài thuyết-pháp của mình, phải có niêm luật của mình, mình phải rán học, cần mẫn học, ấy là một điều chẳng phải dễ, nhưng phải làm cho đặng thay thế ngôn-ngữ cho Đức Chí-Tôn, đem chơn truyền của Ngài để vào tinh-thần của nhơn-loại, nếu mình làm không đặng cũng như mình làm cho Đức Chí-Tôn câm sao! Mình phải làm đặng thay thế ngôn-ngữ cho Ngài, nếu mình làm không đặng thì thay thế cho Ngài không đặng!(*1)
Từ đây về sau Bần-Đạo siết chặt lại là ngồi nghe, hễ còn nói bậy nữa Bần-Đạo sẽ phạt nặng đa nghe, đã gần 2 năm rồi không dung thứ nữa được. Bần-Đạo cho hay trước có bị phạt đừng than đừng trách, nói khó khăn gì hết, đã cho hay trước rồi mới làm.(*)
Ngày nay Bần-Đạo giảng tiếp cái chánh-trị của Càn-Khôn Vũ-Trụ, từ trước Bần-Đạo đã có nói cái quyền của họ do nơi đâu mà có? Phương-pháp trị Càn-Khôn Vũ-Trụ xét ra là phương-pháp tự-trị, ta trị ta, cả nhơn-loại tự-trị lấy mình. Càn-Khôn Vũ-Trụ minh-mong đại hải, vô biên, vô giới nếu lập luật, định quyền, thì không có quyền nào cầm nổi. Cả sự sanh-hoạt của Càn-Khôn Vũ-Trụ cái hay hơn hết là cái bí-mật huyền-vi của mỗi cá-nhân đều tự-trị lấy mình, ấy là chúng ta đoạt được huyền-bí vô biên xử đoán của Đức Chí-Tôn đó vậy, là chính mình tự-trị lấy mình.
Bần-Đạo đã nói cái án không có chối, cái tội không có cãi, vì chính mình trị lấy mình, chính mình xử-đoán cho mình và chính mình định hình-phạt cho mình, thì ai đâu chối nữa được, còn miệng lưỡi nào mà chối cho mình, đó là quyền đã vững chắc đó vậy.
Cá-nhân tự-trị, chánh-trị của Càn-Khôn Vũ-Trụ không có gì khác, chỉ khác cái đó. Duy có huyền-bí vô biên của Đức Chí-Tôn là trường Quan-Lại của Ngài, đặng định cho Càn-Khôn Vũ-Trụ sanh-hoạt mà thôi, không có giá-trị gì hết, mỗi Chơn-Linh đều có quyền tự-trị lấy mình, bây giờ nền chánh-trị đã vững-vàng chắc-chắn vậy ( trong phương-pháp Thiêng-Liêng kia nó đã chắc-chắn không có gì ốp(?) được), chắc-chắn mạnh-mẽ oai-quyền làm sao! Bây giờ ta xét thấy nền chánh-trị đã vững chắc, cả tinh-thần của Càn-Khôn Vũ-Trụ hiệp làm một đặng mình trị lấy mình.
Bần-Đạo có nói rằng: Chúng ta chỉ sợ tôi lung hơn hết, khổ não hơn hết, là mình thấy Tông-Đường mình bị tội nơi cảnh Thiêng-Liêng Hằng-Sống, trụ số Tông-Tộc Thiêng-Liêng của mình trên cảnh Thiêng-Liêng Hằng-Sống kia họ chịu nhục-nhã về mình, chịu chê bai biếm nhẻ, vì mình mà bị từ bỏ, dọa nạt trên cảnh Thiêng-Liêng Hằng-Sống và mất giá-trị. Cái đó mới đáng sợ. Vì cớ cho nên Bần-Đạo chỉ vẽ cái thiệt-tướng của Càn-Khôn Vũ-Trụ, tức nhiên cái chơn-lý của Càn-Khôn Vũ-Trụ, chơn-lý ấy hỏi nơi thế-gian này có đoạt được chăng? Có chớ!
Bần-Đạo chỉ nói cho cả thảy đều ngó thấy Việt-Chủng của chúng ta, tức nhiên văn-minh của Trung-Hoa đoạt được trước hết, đoạt được cơ-quan võ-khí. Bần-Đạo đã nói trái địa-cầu này chuyển kiếp lụng lại, nó đi đã ba chuyển kiếp rồi. Kiếp trước nó đi đến Thất-Chuyển, đã bị tiêu-diệt cái hình-hài của nó, nó biến hình của nó, trái địa-cầu này nó đã đi đến Tam-Chuyển của nó rồi, chừng tới Thất-Chuyển nó sẽ tiêu-diệt nữa, hay biến-tướng trở lại Tam Chuyển nữa. Bốn chuyển đầu tạo-đoan ra Dã-nhơn và Hắc-chủng.
Nhứt-Chuyển thì họ duy có tự-vệ mà thôi, hoặc rủ một vài người với phương-pháp tự-vệ mà thôi, vì buổi ấy thú mạnh hơn người, cho nên xã-hội thời-kỳ ấy tự-vệ mà thôi. Tới Đệ Nhị-Chuyển là thời-kỳ nghệ-thuật, tức nhiên kiếm phương-thế để tự-lập mình, bày ra binh khí hiệp nhau. Mường Mán này hiệp với Mường Mán khác, đặng chống-chọi với thú dữ, cơ trời buổi ấy không được hiền từ như bây giờ. Đệ Nhị-Chuyển thiên-hạ bất định nhiều bịnh chướng, nhiều cơ-quan tiêu diệt loài người nên phải tự-vệ. Muốn tự-vệ được mạnh-mẽ thì họ phải tự kiếm ra cho có binh khí, thứ này thứ kia đặng họ tự-vệ họ kêu là nghệ-thuật.
Đệ Tam-Chuyển xã-hội hiệp chủng, khởi có chủng-tộc và xã-hội, mà xã-hội là gì? Là hình ảnh chánh-trị Thiêng-Liêng kia, suy xét chơn-lý kiếm lại coi, giờ phút này đã mãn Tam-Chuyển bắt đầu Thượng-Ngươn Tứ-Chuyển là hồi nhơn-loại tương hợp với nhau, cả thảy nơi mặt địa-cầu này, tức là thuyết Đại-Đồng. Nhơn-loại đem để nơi mặt địa-cầu này một nền chánh-trị cho vững chắc mới hiệp đặng, tức nhiên khởi mầm để tạo ra chánh-trị Hiệp-Chủng Đại-Đồng cho nhơn-loại. Ấy vậy nước Tàu đã đoạt được Bí-Pháp ấy, các Tông-Đường như họ này qua họ kia: Họ Lưu, họ Trần, họ Lê, họ Lý mỗi họ đều có Tông-Đường để trị lấy họ, bởi cớ cho nên nhà Vua không bao giờ khó trị, phần tử trong Tông-Đường nào mà phạm vào tội gì, thì cả Tông-Đường phải chịu trách-nhiệm với Triều-Chánh. Vì cớ cho nên, nền chánh-trị của nước Trung-Hoa tối cổ vững chắc mạnh-mẽ phi thường, nếu có nghiêng đổ là tại họ phế cổ tùng kim, làm cho hủy-hoại nền chánh-trị tối cổ quí báu mạnh-mẽ xưa kia vậy. Phương-pháp chánh-trị Càn-Khôn Vũ-Trụ cũng vậy. Còn nước Việt-Nam là nòi giống Trung-Hoa, của người Tàu, thì chúng ta đã có nền chánh-trị về Tông-Đường đó muốn cho thiên-hạ hiệp lại đại-đồng thì ít ra các Tông-Đường phải hiệp trước đã, phải đi từ cái nhỏ mà đến cái lớn.
Cái mầm Tông-Đường hiệp nhau là vậy, cho nên Bần-Đạo khuyên nhủ Phước-Thiện tạo dựng Tông-Đường trở lại như xưa vậy là cái Bí-Pháp ấy muốn Đại-Đồng, là cơ-quan chánh-trị của nước Việt-Nam, là bổn-nguyên quí hóa, bổn-nguyên chắn-chắn hơn xưa vậy./.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 08-02-Kỷ-Sửu nhằm ngày (dl. 07-03-1949).
Cuối những đoạn có dấu (*): Hai đoạn 6 và 7 của bài thứ 26. Chúng tôi nghĩ lý do kỹ thuật hai đoạn nầy bị sắp lộn vào bài thứ 26. Đề nghị mang sang bài thứ 25 sau đoạn thứ 5.
(?) Nơi đọan thứ 10: Cá-nhân tự-trị, chánh-trị của Càn-Khôn Vũ-Trụ không có gì khác, ... ... ( trong phương-pháp Thiêng-Liêng kia nó đã chắc-chắn không có gì ốp (?) được),... [Ốp: objecter: bắt bẻ, phản đối.]
CON ĐƯỜNG THIÊNG LIÊNG HẰNG SỐNG: Bài 27
Đức Hộ-Pháp
Thuyết-Đạo tại Đền-Thánh, đêm 12 tháng 02 năm Kỷ-Sửu (11-03-1949)
Hôm nay Bần-Đạo giảng tiếp sự dục-tấn của chúng ta trên con Đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống. Bần-Đạo đã có nói rằng: Khi cúng rồi cả thảy đều mệt vì cớ cho nên giảng Đạo không được dài lắm, vả lại, khi nào thuyết-pháp mà dạo đi dạo lại đã nghe không được còn thêm mệt, nên Bần-Đạo thuyết vừa đủ chừng không cho nhạo tiếng, nếu thuyết dài quá thành ra nhảm-nhí, nói cụt quá thì không đủ đề thuyết không hay, thành thử phải gom-góp thế nào cho vừa chừng, cả thảy con cái của Đức Chí-Tôn không có mệt và vui nghe. Đêm nay Bần-Đạo giảng có hơi dài và lâu chút có mệt xin lỗi, xin tha thứ.
Bần-Đạo giảng kỳ rồi vô Cung Phục-Linh, đêm nay giảng dài dài một chút vì bài giảng hôm nay có Bí-Pháp giải-thoát của mình, Bần-Đạo cho hiểu trước cái cơ Bí-Pháp huyền vi Đạo-Giáo của Đức Chí-Tôn có cơ giải-thoát. Bài giảng đêm nay rán để ý cho lắm.
Bần-Đạo đã giảng khi vô Cung Phục-Linh thì chúng ta sống lụng lại nhờ Đức Phật Phục-Linh Tánh-Phật gìn-giữ cho nguyên kiếp của chúng ta, phục-linh lụng lại, qui tựu chơn-linh lụng lại. Ở trên Thượng-Nê-Hoàng thì có Hộ-Pháp bắt ấn giữ cả Ngươn-Linh chúng ta cho vững chắc, chúng ta sống nơi Cung ấy có hồi mê-muội đặng cho quên cả kiếp trước của mình.
Linh-hồn chúng ta đi đặng nhập mình chúng ta sống lụng lại, không biết chừng muôn triệu kiếp từ trong vật loại dĩ chí tới phẩm nhơn-loại, biết bao nhiêu kiếp, lâu chừng nào kiếp căn nhiều chừng nấy. Khi chúng ta thác qua sống lại, cơ huyền-bí làm cho chúng ta nhập vô trong Ngươn-Linh của chúng ta.
Ngươn-Linh ấy nó đoán xét muôn muôn quả kiếp chẳng khác gì xét đoán tội nhơn kia vậy, vì cớ cho nên Bần-Đạo có nói mỗi đứa sẽ làm Tòa lấy mình, xử lấy mình là vậy. Cái xử mình còn nghiêm-khắc mà xử lấy mình nữa, mình xử cho mình hỏi còn ai bào chữa cho. Bần-Đạo nói rằng: Cái án không cãi, cái tội không có chối, cái hình-luật không có tránh. Tránh thế nào được, chối thế nào được vì mình xử lấy mình chối thế nào được, Ngươn-Linh của mình xử mình, Ngươn-Linh của mình làm chủ cả quả kiếp, quả kiếp của mình, trái lại nó xử tội mình thì còn ai mà bào chữa cho.
Ấy vậy mà có phương-pháp bào chữa chớ, có mà không biết. Mình có thể tự mình làm trạng-sư đặng bào chữa tội cho mình. Vì khi mình đương sống đây muôn triệu kiếp, mình biết cái lỗi của mình, tức nhiên Ngươn-Linh của mình cãi cho mình, cái Ngươn-Linh cãi tội cho các Chơn-Linh, cãi cho mình thì ngày kia không có bắt tội mình nữa. Ấy vậy chơn-pháp chữa tội của các Chơn-Linh cao siêu đoạt Đạo, để lại chơn-pháp rất đơn giản mà nhơn-sanh đương dùng không tìm-tàng cái trọng-hệ của nó, không tìm phương giải-thoát mình. Phải chăng phương-pháp "Nhựt nhựt tam tỉnh ngô thân" không phải một ngày mình thăm Cha Mẹ mình một lần mà còn phải xét mình ba lần nữa.
Hỏi thử tội tình của chúng ta đã làm trong kiếp sanh, Đức Chí-Tôn để trong phương pháp nói rằng: Tội tình các con đầy dẫy nơi mặt địa-cầu này mà đến giờ chót, các con biết kêu danh Thầy thì Thầy đến cứu, Thầy đem Bí-Pháp giải-thoát để trong tay các con đặng các con đoạt chơn-pháp giải-thoát đó vậy. Kêu danh Thầy là: "Nam-Mô Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát".
Chúng ta đã ngó thấy, Bần-Đạo đã thuyết-minh rằng: Khi Ngươn-Linh của chúng ta đã hiện-tượng của nó, thì nó đồng tánh với Càn-Khôn Vũ-Trụ, đồng tánh với Chí-Linh là đoạt Đạo.
Càn-Khôn Vũ-Trụ là nơi sản-xuất Đấng ấy mà Đấng ấy đồng tánh với nhau, tức nhiên Đấng ấy có quyền tự giải-thoát cho mình. Vì cớ cho nên kêu danh Đức Chí-Tôn thì đoạt cơ giải-thoát, dầu tội tình bao nhiêu chúng ta đã tạo thành nơi mặt địa-cầu này, dầu có đầy-dẫy đi nữa mà giờ chót chúng ta biết kêu danh Đức Chí-Tôn tức nhiên biết kêu Ngươn-Linh của chúng ta, tức nhiên chúng ta chối cái quyền làm Tòa buổi chung qui của chúng ta. Hễ ta chối cái quyền làm Tòa thì còn ai xử ta đâu?
Đấng Chí-Linh duy chủ mà để quả-kiếp trong tay Đấng Chí-Linh thì còn ai xử ta đâu, cơ quan giải-thoát đoạt-pháp là vậy đó.
Bây giờ chúng ta thử, Bần-Đạo nói Chơn-Linh hiện-tượng ra rồi dường như có quyền năng vô tận, biểu Ngươn-Linh phải đến Chí-Linh, bởi vì Càn-Khôn Vũ-Trụ đồng âm-đức của nó, nó hiện-tượng với cơ huyền-vi bí-mật, bởi đồng tánh, đồng Chí-Linh với Đấng tạo Càn-Khôn Vũ-Trụ bởi vậy cho nên nó mới biết.
Bần-Đạo dám chắc rằng và Bần-Đạo biết trái Địa-Cầu này nó có đến ba ngàn triệu, ba ngàn triệu (3.000.000.000) biết bao nhiêu nhơn-sanh, Chúng ta tính gộp nội trái địa-cầu 68 này, nhỏ hơn hết mà nhơn-loại ở nơi mặt trái địa cầu này có hơn hai ngàn bảy trăm triệu nhơn loại (2.700.000.000).
Trong Càn-Khôn Vũ-Trụ có tới ba ngàn triệu quả địa-cầu thì biết bao nhiêu nhơn-loại? Tưởng-tượng lại coi Đấng Chí-Linh cầm quyền trọn vẹn, cầm quyền xử đoán, hễ tác-phước thì xưng danh Ngọc-Hoàng Thượng-Đế, hễ bớt tội thì Đại Thiên-Tôn. Đấng ấy làm chủ có lạ gì đâu? Bởi trái Địa-Cầu từ vật-loại cho đến con người nó có linh-hồn của nó, mà Ổng làm Chúa cả sanh mạng của nó, tồn tại chẳng khác nào như thân-thể chúng ta. Thử hỏi sợi lông nheo của chúng ta nó ngứa có động đến thân-thể chúng ta chăng? Ngón tay nó bị lột phao chúng ta có biết đau không? Trong Càn-Khôn Vũ-Trụ này nhứt động nhứt tĩnh Ổng đều biết, các vật loại đâu đâu Ổng cũng đều thấu đáo. Bởi vì chính thân-thể của Ổng là cơ-quan giải-thoát. Bí-mật là vậy đó.
Bây giờ Bần-Đạo tả hình ảnh Ngọc-Hư-Cung, khi chúng ta có hạnh-phúc được nhập vào cùng các Đấng Thiêng-Liêng kia, chúng ta mới biết định-phận của chúng ta như thế nào.
Bần-Đạo nói, khi chúng ta đến đứng ngoài, nhứt là Cung Phục-Linh, chúng ta thấy đài các nguy-nga, chớn-chở, chói lòa như hột ngọc giữa không trung. Khi bước vô rồi thấy chiếu-diệu hào-quang, ngước mặt lên thấy Càn-Khôn Vũ-Trụ xanh biếc trước mặt, cũng như khi chúng ta đứng giữa Bát-Quái-Đài, thấy ngôi-vị đẳng cấp Thiêng-Liêng từ mức, có Đức Chí-Tôn ngự nơi Huỳnh-Kim-Khuyết kia vậy, ngó xuống thấy cả triều-đình vô tận vô biên oai-quyền trị thế.
Thiên-hạ muôn trùng vạn điệp cũng không khi nào qua khỏi. Cái nền chánh-trị Càn-Khôn Vũ-Trụ thế nào mà nắm vững chắc nó đặng? Cái nền chánh-trị hữu-vi của chúng ta cũng thế, định quyền của họ là gì? Định quyền, cầm quyền chánh trị Càn-Khôn Vũ-Trụ là gì? Là trị kẻ dữ, mà cái quyền đó nó đơn giản làm sao đâu. Muốn trị kẻ dữ chưa cần Tòa lên án, chưa có ngục để nhốt kẻ tội, muốn thưởng kẻ lành không cần Vương-Đế, không cần phần thưởng, không cần quyền năng phẩm-vị cao thấp, họ không có quyền gì hết, bởi vì cái Ngươn-Linh của chúng ta định án ta, xử lấy ta, tức nhiên nền chính-trị Càn-Khôn Vũ-Trụ đơn giản quá chừng. Luật khó khăn hơn hết là trị tội và thưởng công, mà hai điều ấy không có cần, thì nền chánh-trị Càn-Khôn Vũ-Trụ để làm gì? Để đặng bảo thủ sanh tồn Càn-Khôn Vũ-Trụ. Để bảo thủ là gì? Tức nhiên phụng-sự cái quyền cầm-quyền chánh trị Càn-Khôn Vũ-Trụ, tức nhiên để phụng-sự cho Vạn-Loại và Vạn-Linh.
Càn-Khôn Vũ-Trụ ấy để làm tôi (*1) của nó để phụng sự cho Vạn-Linh, từ thử tới giờ chưa có quyền nào dị hợm vậy. Không có quyền nào vô đối vô đoán như vậy. Vì cớ cho nên cái bí-mật của nhơn-loại đem hình ảnh hữu-hình này, làm con vật tại thế-gian này có mục đích tối trọng tối Thiêng-Liêng. Đến đặng phụng-sự cho nhơn-loại, Vạn-Linh của mức hữu hình, phụng-sự đặng định-phận cho chúng ta. Vì cớ cho nên mới có cái thuyết định-phận. Hễ phụng-sự đắc lực thì đoạt-vị đặng, còn phụng-sự bất lực thì phạm tội.
Cơ-quan giải thoát Bần-Đạo lập lại một lần nữa và nói quả quyết rằng: Cơ-quan giải-thoát của Đức Chí-Tôn do nơi công-nghiệp của chúng ta phụng-sự cho Vạn-Linh đó vậy ./.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 12-02-Kỷ-Sửu nhằm ngày (dl. 11-03-1949).
(*1) Nơi đoạn thứ 17: Càn-Khôn Vũ-Trụ ấy để làm tôi của nó để phụng sự cho Vạn-Linh, từ thử tới giờ chưa có quyền nào dị hợm vậy. Không có quyền nào vô đối vô đoán như vậy. Vì cớ cho nên cái bí-mật của nhơn-loại đem hình ảnh hữu-hình này, làm con vật tại thế-gian này có mục đích tối trọng tối Thiêng-Liêng. Đến đặng phụng-sự cho nhơn-loại,... ....
Nguyên bản chánh in là: Càn-Khôn Vũ-Trụ ấy để làm tội của nó để phụng sự cho Vạn-Linh, từ thử tới giờ chưa có quyền nào dị hợm vậy. Không có quyền nào vô đối vô đoán như vậy. Vì cớ cho nên cái bí-mật của nhơn-loại đem hình ảnh hữu-hình này, làm con vật tại thế-gian này có mục đích tối trọng tối Thiêng-Liêng. Đến đặng phụng-sự cho nhơn-loại,... ....
Chúng tôi mạn phép trình bày như trên cho rõ nghĩa hơn.
CON ĐƯỜNG THIÊNG LIÊNG HẰNG SỐNG: Bài 28
Đức Hộ-Pháp
Thuyết-Đạo tại Đền-Thánh, đêm 22 tháng 02 năm Kỷ-Sửu (21-03-1949)
Đêm nay Bần-Đạo giảng tiếp con đường dục-tấn của chúng ta trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống.
Kỳ trước Bần-Đạo dìu-dẫn chư Hiền-Hữu vào Linh-Tiêu-Điện (Ngọc-Hư-Cung). Đêm nay Bần-Đạo giảng tiếp, trước khi tiếp Bần-Đạo có những điều trọng-yếu căn dặn. Từ ngày Bần-Đạo giảng cái Bí-Pháp ấy, Bần-Đạo vẫn cầu nguyện với Đức Chí-Tôn luôn, bởi vì nó có nhiều điều khó-khăn, những điều mà mình ngó thấy bằng con mắt Thần, lấy cái nhân-khẩu của mình mà tỏa chẳng hề khi nào đúng chắc đặng. Bần-Đạo thú thật rằng mười phần có lẽ Bần-Đạo tỏa đặng năm hay bảy phần là nhiều, sợ còn kém hơn nữa, Bần-Đạo chỉ có cầu-nguyện với Đức Chí-Tôn cũng như hồi trước Tam-Tạng đi thỉnh kinh nơi Ấn-Độ. Ngài là người Tàu mà kinh viết tiếng Phạn, muốn dịch ra rất khó lắm, lấy cả Kinh-Luật trong trong tiếng Phạn đem ra rất khó cho Ngài lắm, cho nên Ngài đại nguyện Ngài làm thế nào Ngài rán sức Ngài âm tiếng Phạn ấy ra chữ Nho. Ngài chắc ý Ngài âm tiếng Phạn ấy chưa đúng, Ngài có hứa chừng nào mà tôi qui liễu, nếu trong Kinh-Luật Đạo-Giáo mà tôi không minh tỏa ra đặng thì khi chết cho cái lưỡi tôi đen, nếu tôi tỏa trọn vẹn thì cho cái lưỡi tôi đỏ.
May phước Bắc Tông được hưởng một ân-huệ của nhà Phật đã ban ân riêng cho Đức Tam-Tạng, khi Ngài chết người ta vạch lưỡi của Ngài ra coi thì lưỡi của Ngài đỏ, vì cớ mà chơn-giáo của nhà Phật là Bắc-Tông có thể nhờ Đức Tam-Tạng đã minh tỏa ra trọn vẹn.
Ngày nay Bần-Đạo mỗi phen lên giảng về Bí-Pháp thì cầu-nguyện với Đức Chí-Tôn cho sáng-suốt, mà biết vẫn còn thiếu kém không thể gì tỏa bằng con mắt Thần của mình đã ngó thấy đặng trọn một bài.
Nếu thoảng như Đức Chí-Tôn ban ân riêng trong nền Thánh-Giáo của Ngài có cả Thánh-Thể của Ngài đoạt Pháp đặng, thấy đặng, có lẽ cũng chỉnh thêm, giùm giúp tay với Bần-Đạo mới toàn-thiện toàn-mỹ đặng.
Ngày nay Bần-Đạo giảng tiếp khi vô Linh-Tiêu-Điện lúc mới tới ngoài, chúng ta ngó thấy lầu các nguy-nga, Bần-Đạo có nói dầu cho vị kiến-trúc-sư nào mà ngó thấy nó rồi thì mơ-mơ mộng-mộng hoài, mơ-mộng cái vẽ đẹp ấy, sợ tới điên chết mà thôi, không thế gì tưởng-tượng được cái đẹp cái khéo của nó đặng.
Lầu các cất bằng ngọc muôn hình ngàn tướng, hễ chúng ta muốn tưởng-tượng cái gì thì có hiện tượng ra cái nấy, quyền-phép vô biên của Đức Chí-Tôn từ trước đã thành tướng, nó là vạn pháp thành hình, nó huyền-diệu vô biên vô đối, không thể gì tỏa đặng. Khi chúng ta bước vô dòm lên thấy Càn-Khôn Vũ-Trụ minh-mông đại-hải, chúng ta thấy từ trên dài tới dưới, một triều-chánh không có miệng lưỡi nào tỏa cho đặng oai-nghiêm huyền-bí làm sao đâu!!! Trên hết chúng ta ngó thấy Đức Chí-Tôn ngự với cái triều-nghi của Ngài là Huỳnh-Kim-Khuyết (Lát nữa Bần-Đạo sẽ tỏa cái hình ảnh của Ngài).
Nơi Huỳnh-Kim-Khuyết trên đầu của Ngài nơi xa xa chúng ta thấy vọi vọi, xa nữa chúng ta thấy ba vị Phật mà hiện giờ ta thấy tượng hình trên nóc Bát-Quái-Đài là Brahma Phật, Civa Phật và Christna Phật. Ngự trên nữa xa hơn nữa cao vọi-vọi xa-xăm hơn nữa chúng ta không thể gì tưởng-tượng được, con mắt mình ngó thấy như một đạo hào-quang chớp nhoáng mà không có hình-ảnh gì hết, chiếu-diệu trên cái triều-nghi của Ngài là Huỳnh-Kim-Khuyết, mà dưới Huỳnh-Kim-Khuyết là Cửu-Phẩm Thần-Tiên đương ngự triều với Đức Chí-Tôn, oai nghiêm, chúng ta không thể gì tưởng-tượng được, oai nghiêm huyền-bí làm sao, làm sao!!! Không miệng lưỡi nào tỏa hình ảnh ra đặng. Nếu may duyên mà chúng ta đoạt Pháp đặng, đoạt-vị đặng, thì dầu chúng ta hàng phẩm dưới cũng không cần gì mơ-mộng tưởng-tượng gì hết, Pháp-Thân của chúng ta cũng đến mức đoạt-vị đặng. Còn nếu chúng ta dòm lên thì thấy địa-vị của chúng ta không thấm vào đâu hết, mà hễ dòm lên cao nữa mà so-sánh thì địa-vị chúng ta không có nghĩa lý gì hết. Còn nếu chúng ta bị đọa thì hại thay, khổ thay, đau-đớn thay, chúng ta thấy cái Triều-Nghi xa tuốt mút khỏi con mắt ta rồi nó biến mất. Chúng ta thấy đứng bơ-thờ, không biết thân hình đến mức nào hay địa-giới nào, hay mình đến đâu, chỉ đứng đó mà chịu một tấn-tuồng thảm khổ vô đối. Hại thay cả tội tình đều hiện ra trước mắt chúng ta không thể gì chối cải được, đứng chịu một cách thảm khổ, mình xử lấy mình, hễ xử rồi thì từ từ hạ lần xuống cho tới cửa Trần-Gian, ấy là cửa Phong-Đô đó, chúng ta tự-xử chúng ta đó vậy.
Bây giờ luật triều-nghi của Cửu-Phẩm Thần-Tiên chúng ta ngó thấy khi chúng ta may duyên lập được một địa-vị khả quan, đừng suy đoán, chúng ta sẽ thấy các Đấng ấy cao sang vinh-hiển dường đó. Có nhiều Đấng đến gần Đức Chí-Tôn xấp-xỉ cùng Đức Chí-Tôn cao sang vinh-hiển dường ấy, họ đã đoạt đặng huyền-bí mà chúng ta ngó thấy những vinh-quang đều hiện ra một chữ Khổ. Các Đấng ấy lập vinh-quang cao trọng là thắng khổ đó vậy. Họ đoạt được cái quyền-năng vi-chủ của họ mà cái khổ muôn triệu vô số trong kiếp sanh của họ, họ đã chịu mà lập-vị vinh-quang. Chính mình ngó thấy ngay Đức Chí-Tôn thấy chữ Khổ mà Ổng là Càn-Khôn Vũ-Trụ, bởi vì Ổng có quyền-năng vi-chủ cái khổ của chúng ta, tưởng-tượng lại coi cái khổ tại sao thắng hơn mình? Tại sao mình không thắng nó nỗi? Xét đoán là tại mình không đủ can đảm, không đủ tinh-thần chịu khổ, sợ khổ rồi không biết vi-chủ cái khổ.
À, hồi lúc Bần-Đạo chưa tin nơi huyền-bí Đạo-Giáo của Đức Chí-Tôn, chỉ học-thức theo thường lệ, lấy cái lương-tri, lương-năng của mình mà đoạt định. Bần-Đạo chưa tin phẩm-vị của Đức Thích-Ca hay Đức Chúa Jésus Christ, để dấu hỏi (?) ngờ vực. Chừng đó Đức Chí-Tôn có trách-nhiệm nặng-nề cho thấy đặng đi ngay đến bổn thân của Đức Chí-Tôn.
Bần-Đạo đã ngó thấy một khối an-ủi vô biên, chúng ta đã chịu trong kiếp sanh bao nhiêu thống-khổ về hình-thể và tinh-thần, sanh sanh, tử tử lập vị mình từ bước. Một mức mình được phẩm-vị cao trọng hơn thua một mức thì thấy người ta như con chim còn mình như con cá vậy.
Phẩm-vị đặc-biệt cao siêu mình đã không có còn thua người ta một mức, vì người ta cao sang như con chim còn mình hèn-hạ như con cá vậy, không có liên-quan với nhau chút nào hết. Rồi khi dòm lại hình-thể của Đức Chí-Tôn, thì thấy như Ngài không có nói, không có thinh âm, mà tinh-thần của chúng ta và của Ngài dường như có liên-quan cùng nhau vậy. Thấy Ngài còn có nhiều thống-khổ, còn ta, ta chịu có một phần mà ta than-thở thối chí sao? Thống-khổ Thầy đã chịu muôn triệu lần.
Vì cớ cho nên khi ta thấy mặt Ngài thì những sự sầu thảm đau khổ về tâm hồn và xác thịt chúng ta đặng an-ủi.
Hỏi tại sao? Tại khối quyền-năng vĩ-đại kia là khối khổ, hình-ảnh của Ngài là khổ vô tận, kho Bửu-Pháp mà Ngài đã chịu thống-khổ mới đoạt được huyền-vi ấy. Vậy chúng ta được an-ủi là sau khi chúng ta thắng nỗi khổ.
Bần-Đạo dám chắc và nói quả quyết rằng: Rất hạnh-phúc cho những kẻ nào đã chịu nhục-nhã về xác-thịt thì linh-hồn họ sẽ được một hạnh-phúc vô đối, vì kẻ ấy phải chịu một thống-khổ của Đời mới được Đức Chí-Tôn an-ủi.
Rất hữu-hạnh cho những kẻ chịu trong kiếp sanh bị thiên-hạ đè nén, khinh rẻ, chê bai, thì Đức Chí-Tôn đem họ vào một địa-vị phi thường vinh hiển, những kẻ ấy do nơi tay Đức Chí-Tôn nâng đỡ cho họ được vinh-hiển oai-quyền.
Nếu chúng ta đủ can-đảm mà chịu nỗi cái khổ của Đức Chí-Tôn là chúng ta được một kho vô tận vinh-hiển đó vậy./.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 22-02-Kỷ-Sửu nhằm ngày (dl. 21-03-1949).
CON ĐƯỜNG THIÊNG LIÊNG HẰNG SỐNG: Bài 29
Đức Hộ-Pháp
Thuyết-Đạo tại Đền-Thánh, đêm 08 tháng 03 năm Kỷ-Sửu (05-04-1949)
Đêm nay Bần-Đạo giảng tiếp sự dục-tấn của chúng ta trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống.
Bần-Đạo giảng gấp-gấp chút cho rồi cái vấn-đề đó, đặng có ngày giờ giảng về Bí-Pháp. Bần-Đạo kỳ rồi dắt cả tinh-thần con cái của Đức Chí-Tôn vào Linh-Tiêu-Điện (Ngọc-Hư-Cung), chúng ta đã gặp Đức Chí-Tôn với Pháp-Thân Ngọc-Đế tức nhiên là Hoàng-Đế của Càn-Khôn Vũ-Trụ. Ngài chưa có phải là Đại-Thánh với chúng ta, còn cái hình-ảnh của Đại-Thiên-Tôn chúng ta không ngó thấy, vì Đức Chí-Tôn không muốn cho chúng ta ngó thấy. Pháp-Thân của Ngài chưa được Đại-Thiên-Tôn chưa thành tại Linh-Tiêu-Điện. Bần-Đạo đã tỏa một cái oai-quyền vinh-hiển của Tông-Đường những kẻ đã đoạt-vị.
Hại thay! Cảnh thăng vẫn khác, cảnh đọa vẫn khác nếu Bần-Đạo tỏa ra, dầu một người nào vững tâm thế nào đi nữa cũng phải kinh khủng sợ sệt. Cảnh hạnh-phúc mà chúng ta đoạt được với Tông-Đường Thiêng-Liêng của chúng ta, họ đương sum họp với nhau không sót một người, đặng chứng-kiến định-án của chúng ta. Nếu chúng ta đoạt-vị đặng thì con đường dục- tấn của chúng ta, cả hạnh-phúc đạo-đức cả tinh-thần cảnh thăng của chúng ta có nhiều tay nâng đỡ. Rủi thay, nếu chúng ta bị tội tình phải đọa thì cảnh vinh hiển ấy từ từ xa, xa lần chúng ta đứng một chỗ cảnh tượng vinh-hiển ấy, cảnh tượng hạnh-phúc ấy, nó dường như thối bước lần lần xa mút chúng ta, chúng ta hết thấy nó, cảnh đi ngược lụng lại, cảnh chạy ta chớ chẳng phải ta chạy cảnh, hạnh-phúc ta sợ ta, chạy ta, lánh ta, rồi thoạt nhiên trong con đường dục-tấn của chúng ta đi biết bao nhiêu khó khăn, thường trong miệng thiên-hạ có nói Thiên-Đàng, Địa-Ngục, tức nhiên Ngọc-Hư-Cung với Thập-Điện Diêm-Vương cũng không có gần nhau, mà gần nhau mới lạ lùng.(*)
Nếu chúng ta làm điều gì trọng-hệ, nói tỷ-thí như chúng oán giận giết người thì đó liền có kẻ đó đứng trước mặt chúng ta tỏ vẻ sầu thảm, thiên-hạ tưởng đâu kẻ đó oán giận giết lại mình. Không! Không khi nào vậy, kẻ ấy buồn thảm cho ta một cách đau-đớn. Vừa ngó thấy kẻ đó rồi linh-hồn chúng ta tức nhiên là đệ-nhị xác thân của chúng ta tùy theo cái tội của nó mà đi lần xuống cảnh Diêm-Cung. Trong cảnh tội tình của chúng ta đã quyết định, liền giờ ấy người tội nhơn ấy đứng nơi cửa Diêm-Cung Địa-Ngục đó vậy, rồi tự mình kết án cho mình.
Thảm thay! Những kẻ nào không biết thương yêu nhau, những kẻ thiếu tình ái thương yêu nhau, những kẻ đó không được lời nào của một chơn-hồn nào an-ủi, chỉ xung quanh mình nghe tiếng than, tiếng trách móc, không biết thời gian nào định tội cho mình, hay tội tình mình mình định cho mình, vì cớ tức mình không biết chừng nào án ấy đã hết, khổ não chăng là điều ấy.
Thỉnh-thoảng rồi Bần-Đạo sẽ tỏ. Bởi vì Bần-Đạo chưa đặng phép đi xuống Địa-Ngục Diêm-Cung, Đức Chí-Tôn có hứa, ngày giờ nào Bần-Đạo thoát xác, trước khi về cảnh Thiêng-Liêng Hằng-Sống thì Bần-Đạo sẽ được phép đi, đi ngang qua đó đặng giải-thoát cho các chơn-hồn oan khúc tội tình đặng siêu-thăng họ.
Bần-Đạo đã được Đức Chí-Tôn và các Đấng Thiêng-Liêng giải-nghĩa cho biết nơi cảnh ấy thế nào, đặng con đường ấy một ngày kia Bần-Đạo đi không có lạ, không có nhát. Ngày giờ nào nếu chúng ta được hạnh-phúc, đoạt cơ giải-thoát thì gia-tộc Thiêng-Liêng chúng ta mừng rỡ biết bao nhiêu. Trên chín phẩm Thần-Tiên Chư Phật dĩ chí cho tới Tam-Thế họ sẽ hạnh-phúc vui-vẻ không biết làm sao tỏa cho cùng, vui-vẻ vinh-hiển không có mực nào, miệng lưỡi nào tỏa ra cho hết.
Hễ khi chúng ta đoạt-vị dầu cho một cấp hay là thấp hơn một cấp đều thấy khác nhau xa, Bần-Đạo có tỏa người ta như con chim, mình là con cá không thế gì so sánh được như một trời với một biển vậy.
Chúng ta thắng một phẩm, ối thôi lễ tiếp rước ta không thể gì tỏa được cái vinh-hiển ấy, có liên-hệ với Tông-Đường Thiêng-Liêng của chúng ta kia, họ sẽ làm cho chúng ta một hạnh-phúc vô đối, bởi vì cả thảy trong Tông-Đường đều được nhấc lên một bực hết thảy, vinh-hiển không biết bao nhiêu.
Ngọc-Hư là cảnh mà Đức Chí-Tôn có nói là đại-nghiệp của mỗi đứa Đức Chí-Tôn đã dành để nơi Cực-Lạc Thế-Giái, khi định-vị được nơi Ngọc-Hư-Cung Linh-Tiêu-Điện rồi, cả gia-tộc Thiêng-Liêng của chúng ta rước chúng ta về đại-nghiệp mà Đức Chí-Tôn đã đào tạo cho ta ở Ngọc-Hư-Cung, Bần-Đạo không có miệng lưỡi nào tỏa, chỉ cả thảy đều tưởng tượng lễ tiếp rước đem chúng ta về Tông-Đuờng Thiêng-Liêng Hằng-Sống đó, sẽ làm cho chúng ta vinh-hiển như thế nào duy tưởng-tượng thì biết.
Ở Cực-Lạc Thế-Giái tùy phẩm-vị của mình đoạt được nơi con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống, cái mức đó không cùng, chúng ta cần phải đi, đi cho đến ngày giờ nào chúng ta có thể ngồi trên Huỳnh-Kim-Khuyết của Đức Chí-Tôn là ngày chúng ta đoạt được mục đích đó vậy, mà còn xa lắm, cho nên về đại-nghiệp của Đức Chí-Tôn chúng ta được hưởng hạnh-phúc tùy theo phẩm-vị của ta đoạt được nơi kiếp sanh.
Phẩm-vị của mình đoạt được cao thấp, trọng hệ hưởng được cùng chăng? Ở yên cùng chăng? Vui hưởng nơi đó gọi là Cực-Lạc Thế-Giới, vui vô cùng tận, cái hạnh-phúc không thể gì tỏa được, hạnh-phúc không cùng. Ở hưởng tại đó một ngàn hai trăm năm (1.200), hay là hai ngàn bốn trăm năm (2.400), hay là ba ngàn sáu trăm năm (3.600), hay là ba mươi sáu ngàn năm (36.000), rồi lại còn tái kiếp lụng lại đặng dục-tấn trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống của mình nữa.
Kỳ tới Bần-Đạo sẽ giảng cảnh Cực-Lạc Thế-Giới./.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 08-03-Kỷ-Sửu nhằm ngày (dl. 05-04-1949).
Cuối những đoạn có dấu (*): Ðể cho người đọc được dể dàng, chúng tôi xin mạn phép phân đoạn tại những nơi có dấu (*). Nguyên bản chánh không có phân đoạn tại những nơi ấy. Kính cáo.
CON ĐƯỜNG THIÊNG LIÊNG HẰNG SỐNG: Bài 30
Đức Hộ-Pháp
Thuyết-Đạo tại Đền-Thánh, đêm 13 tháng 03 năm Kỷ-Sửu (10-04-1949)
Chúng ta rủ nhau dục-tấn trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống. Kỳ trước Bần-Đạo có hứa dìu-dẫn cả thảy con cái Đức Chí-Tôn vào Cực-Lạc Thế-Giái, hôm nay Bần-Đạo giữ lời hứa. Chúng ta rủ nhau đi từ nơi Cửu-Thiên Khai-Hóa, tinh-thần chúng ta quan-sát, nếu chúng ta đoạt-vị đặng thì sự đi, rủ nhau trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống, đi trong một kiếp sanh mà chúng ta đã đào tạo thì sự ấy vinh-hiển không thể nói. Ra đi về nơi Tiểu-Thiên-Cung tức là gia-tộc của chúng ta lập thành trong các kiếp sanh, ta đi từ Tiểu-Thiên-Cung chúng ta cho đến đại gia-tộc của chúng ta. Sự vinh-hiển không cùng tỏa là về đến nơi gọi là Cực-Lạc Thế-Giới.
Từ thử đến giờ Cực-Lạc Thế-Giới trong Phật-Giáo đã truyền bá tỏa hình-trạng đã nhiều cả thảy đều định, nếu mình tu theo Phật-Giáo, hễ đoạt vị đặng thì về Cực-Lạc Thế-Giới. Bần-Đạo nói Cực-Lạc Thế-Giới là cảnh của chúng ta tạm giải-thoát tức là cảnh của chúng ta định-nghiệp của chúng ta vậy, chớ chưa phải là cảnh tối cao tối thượng của các chơn linh.
Thỉnh-thoảng Bần-Đạo sẽ tỏa và sẽ dắt con cái của Đức Chí-Tôn đi đến đặc-điểm của mình rồi mới thấy Cực-Lạc Thế-Giái do các Đạo-Giáo truyền bá lại chỉ có giá trị thường thức, không mấy trọng-hệ, dịch ra Pháp-văn là: Nirvana, Quater-Naire, thì nó không có nghĩa gì hết, còn có địa-giới cao trọng quí báu hơn nữa. Ấy là nơi định-nghiệp, nơi định vị của chúng ta cũng dường như chúng ta định-nghiệp của mình nơi thế-gian, tức nhiên đại-nghiệp của mình đối với toàn-thể gia-nghiệp của quần chúng tức là đại chúng tạo trong kiếp sanh.
Cực-Lạc Thế-Giới hay Niết-Bàn không có lạ chi cả, chỉ là nơi cho các chơn-linh đoạt Đạo đến đây đặng nhập vào đại-nghiệp của họ nên Phật-Giáo coi là trọng-hệ, bởi không đoạt đặng tức là đại gia-nghiệp của mình tạo chưa thành. Trước khi đến đó chúng ta cũng nên hiểu sơ-lược cảnh Cực-Lạc Thế-Giới. Bần-Đạo căn dặn khi mình bước tới cửa Cực-Lạc Thế-Giới thấy các Tăng-Đồ ngồi ngoài mà tụng niệm, có kẻ gặp mình thì tỏ vẻ đau-đớn thương tâm, khổ não tâm hồn lung lắm. Những kẻ ấy sau Bần-Đạo sẽ nói rõ họ là người gì? Có một điều ta thấy họ đông đảo kẻ lại người qua, mà người gì thôi đủ thứ; có kẻ đầu cạo trọc, có kẻ râu dài thậm-thượt, lại cũng có kẻ tướng-tá dị hợm lắm. Nơi đó là ta mới tới ranh giới ngoại-môn Cực-Lạc Thế-Giới, cũng như về tới ngoại-ô Tòa-Thánh vậy, thỉnh-thoảng Bần-Đạo sẽ có dịp nói đến những người ấy.
Cực-Lạc Thế-Giới là gì? Các Chơn-Linh dục-tấn trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống họ tự-do định-vị, tự-do lập nghiệp trên cảnh Thiêng-Liêng, không có quyền nào trọng-hệ hơn, dầu lớn thế nào, định-vị cho họ, phải chăng vì là quyền tự-chủ, tự-do của họ. Hai cảnh ấy:
1- Cửu-Thiên Khai-Hóa: tức là tấn-hóa; một mé bên Ngọc-Hư-Cung, một mé bên Linh-Tiêu-Điện.
2- Hư-Vô Tịch-Diệt: tức là Niết-Bàn, Cực-Lạc Thế-Giới.
Hai cảnh ấy ta thấy tướng diện đương nhiên giờ phút này, mỗi cá-nhân đều chịu hai ảnh-hưởng ấy. Ví như thức thì khổ cực, ngủ thì sung-sướng. Vì cớ nhiều người ham ngủ hơn thức, ngủ đê-mê, bởi thức thì khổ cực.
1- Thức thuộc về quyền-lực Cửu-Thiên Khai-Hóa.
2- Ngủ thuộc về quyền-lực Cực-Lạc Thế-Giới.
Chỉ có sướng với khổ, sống là cực khổ, chết là sướng và hạnh-phúc, sống thuộc về quyền Cửu-Thiên Khai-Hóa, chết thuộc về quyền Cực-Lạc Thế-Giới.
Cầm Vạn-Pháp Chuyển-Luân tức là Pháp-Luân Thường-Chuyển trong Bí-Pháp dục-tấn của các Chơn-Linh trong Càn-Khôn Vũ-Trụ, toàn-thể thuộc quyền Cực-Lạc Thế-Giới, mà nơi Hư-Vô Tịch-Diệt, đoạt Bí-Pháp chơn-truyền cũng thuộc về Cực-Lạc, bên kia trị thế, bên nây định-vị, hai quyền hạn đều có tương liên.
Ấy vậy khi vô Cực-Lạc Thế-Giới rồi, ta thấy còn hạnh-phúc gấp mấy lần ta ở Diêu-Trì-Cung hưởng gần Bà Mẹ ta, bởi hưởng gần Mẹ sự vui sướng không phải của riêng của mình, nó là của chung trong đại-nghiệp của Đại-Từ-Mẫu chúng ta, ấy là đại-nghiệp chung.
Ví như, dầu mình về nơi ngôi nhà chung của Cha Mẹ mình tại thế này, dầu sang trọng hưởng được đặc ân của Cha Mẹ bao nhiêu sự vui hưởng cũng không bằng ta hưởng chính cái đại-nghiệp của chính tay chúng ta đào tạo.
Cái nghiệp của chúng ta tức là cái đặc tướng do chúng ta đào tạo mà vui hưởng nơi Cực-Lạc ấy là trọng-hệ hơn ta hưởng nơi của Cha Mẹ ta.
Sự vui hưởng nơi Ngọc-Hư-Cung không bằng vui hưởng nơi Cực-Lạc Thế-Giới, ta tạo nghiệp ấy, là Tiểu-Thiên-Địa của ta cũng như Đức Chí-Tôn tạo Đại-Thiên-Địa của Ngài. Trong Tiểu-Thiên-Địa của chúng ta cũng có Ma, cũng có Phật.
Tại khôn khéo của ta trong mấy kiếp sanh, vì thù hận chẳng vì yêu ái, vì oán cừu chẳng vì bác-ái. Hễ oán cừu thì tạo nghiệp Quỉ-Ma, còn bác-ái từ-bi thì tạo nghiệp Phật, cũng như oán cừu của Đức Chí-Tôn tạo nghiệp là Quỉ-Vương, bác-ái từ-bi của Ngài tạo nghiệp là Trời.
Chúng ta dầu có quyền-năng trong kiếp sanh đoạt Tiểu-Thiên-Địa mà sửa đổi những điều gì giục ta cừu hận, oán ghét thì ta tuyệt bỏ lần nó đi, mỗi kiếp sanh mua chuộc sự thương yêu đặng sống hưởng nơi Cực-Lạc Thế-Giới, một ngàn hai trăm năm, hay là hai ngàn bốn trăm năm, hay là ba ngàn sáu trăm năm, hay mười hai ngàn năm, hay hai mươi bốn ngàn năm, hay ba mươi sáu ngàn năm, theo thời gian hữu-giới của nó. Ta có phương-pháp mỗi kiếp sanh các chơn-linh trừ bớt thù hận đoạt quyền-lực thương yêu y như trên hình-tượng trước Đền-Thánh Đức Chí-Tôn để Tam-Thánh ký hòa-ước với Ngài đó vậy.
Nhờ khi mới khai Đạo, Bát-Nương đến để một bài Thánh-Giáo về thương yêu rất chí thiết, cả thảy rán hiểu thấu thêm Bí-Pháp bà Bát-Nương đã cầm cây viết mà biên cho mình, ấy là Bí-Pháp trọng-hệ, đến nỗi Đức Chí-Tôn đến ký hòa-ước buộc chúng ta chỉ có Luật Thương-Yêu mà thôi. Bởi do Luật Thương-Yêu mà Ngài cầm-quyền cả Càn-Khôn Vũ-Trụ trong tay, mà chúng ta đã định-nghiệp được cao trọng cũng do nơi quyền-lực của luật ấy. Nói thật trong kiếp sanh của chúng ta rủi có kẻ trong thân ta oán thù ta, kẻ ấy tức là Ma nghiệt ta không nên sợ, mà nếu ta khôn ngoan thì ta lấy tình yêu ái đối lại đặng cho họ diệt tận oán cừu đi, ấy là cơ-quan Bí-Pháp mà Bần-Đạo vừa hé màn bí-mật cho con cái của Đức Chí-Tôn nhìn thấy để tìm cơ-quan giải-thoát.
Cực-Lạc Thế-Giới là nơi ta về cùng Tiểu-Thiên-Cung của ta, nhứt là bên cảnh Phật của ta, còn bên Ma cảnh ta đè nó xuống. Nơi ấy là nơi Cung chúng ta định-pháp. Trong Đạo-Giáo có nói là nói chỉ ngồi tự nhiên bất động, chủ định tinh-thần mà có quyền-lực của tinh-thần là linh-quang chiếu-diệu, không cảnh nào trong Càn-Khôn mà không thấu đáo, chỉ ngồi một chỗ mà dời non lấp bể, đảo hải di sơn, bất kỳ quyền-lực nào đều nên hình tại Cực-Lạc, bởi chúng ta đào tạo mỗi kiếp sanh đoạt thành chơn-pháp, nắm vững trong tay chơn-pháp, lấy hữu-hình mà đào tạo Bí-Pháp vô biên, nó có quyền năng vô tận. Có thể Đức Chí-Tôn ban đặc-ân cho ta chưởng-quản một thế-giới có vài ba chục trái địa-cầu, đặng ta làm Tổng-Trấn nó, ta chỉ thấy tại nơi Cực-Lạc Thế-Giới mà vận hành sanh-hóa trong khuôn-luật không cần đi đến đâu hết. Quyền-năng vô tận ấy chính ta cũng không hiểu, mà chính nó tấn triển mãi cho đến ngày giờ nó đủ quyền đoạt chơn pháp, đủ quyền tạo Càn-Khôn đặc-biệt cho nó như Đức Chí-Tôn tạo Càn-Khôn của Ngài, ngày giờ đó nó đi đến mức cuối cùng của nó./.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 13-03-Kỷ-Sửu nhằm ngày (dl. 10-04-1949).
CON ĐƯỜNG THIÊNG LIÊNG HẰNG SỐNG: Bài 31
Đức Hộ-Pháp
Thuyết-Đạo tại Đền-Thánh, đêm 14 tháng 03 năm Kỷ-Sửu (11-04-1949)
Hôm nay Bần-Đạo giảng có hơi lâu một chút, có mệt xin cảm phiền.
Trước khi Bần-Đạo dìu-dắt cả thảy con cái của Đức Chí-Tôn vào Cực-Lạc Thế-Giới, đêm nay là đêm giảng Đạo, một triết-lý cả con cái Đức Chí-Tôn phải để ý cho lắm, nhứt là Bần-Đạo sẽ dẫn đến một chỗ, một lịch cảnh mà từ thử tới giờ trong Đạo Phật thường có nói là nơi Niết-Bàn Cảnh, nhưng trước khi giảng vấn-đề ấy Bần-Đạo có đôi điều căn dặn....
... ... ....(*1)
Bây giờ Bần Đạo giảng tiếp Cực Lạc Thế Giới. Bần-Đạo đã nói Tông-Đường Thiêng-Liêng của mỗi đứa đã sẵn. Lời của Đức Chí-Tôn đã nói bóng rằng: Cái gia-nghiệp của các con Thầy đã gìn-giữ, đã dành sẵn, ấy là Tông-Đường Thiêng-Liêng của chúng ta đó vậy.
Tông-Đường Thiêng-Liêng của chúng ta chia ra làm ba hạng:
1- Hạng trí-thức tinh-thần chúng ta do Ngươn-Linh của chúng ta sản-xuất.
2- Hạng ngoại-thân là những chơn-hồn chúng ta đã làm bạn khi tái kiếp làm người. Mỗi kiếp làm người chúng ta có Cha, Mẹ, Anh, Em, bạn tác, có thân-quyến đó là ngoại-thân.
3- Nội-thân của chúng ta là chính các Chơn-Linh chính mình chúng ta giáng linh đầu-kiếp, mỗi kiếp mình giáng-linh là phân thân đầu-kiếp, là một người đặc-biệt riêng ra. Bởi cớ cho nên các bậc cao-siêu chẳng cần tái kiếp, nhưng họ có quyền, quyền vô đối của họ, là họ giáng-linh đặng chuyển-kiếp, câu kinh "Nhứt thân ức vạn diệu huyền thần biến" là vậy đó. Người ta có một thân mà người ta được ức vạn diệu huyền, không thể trí-thức tức là lương-tri của mình mà định được, không thế gì cái lương-tâm của mình mà định được, cái đó là do huyền-vi của mỗi người thâu đoạt, nhiều kiếp, nhiều phen mới thâu đoạt được huyền-linh ấy, được Chí-Tôn ban cho. Mỗi kiếp sống chúng ta có một lần chết, mỗi cái chết có cái Tử-Khí, Tử-Khí ấy là một khối đặng làm Tòa-Sen cho chúng ta, tức nhiên định-vị cho chúng ta đó vậy. Cái Khí-Thân của chúng ta do Nguyên-Linh của chúng ta quyết định, cái đó trọng-hệ hơn hết, nếu chúng ta sợ mất, nao núng, sợ sệt chăng là cái đó.
Trở lại hai cái kia dầu cho ngoại-thân, dầu cho nội-thân nó cũng vẫn phản nghịch chúng ta mà thôi. Vì cớ cho nên chính mình Đức Chí-Tôn trong nguyên-căn của Ngài có Quỉ-Vương, Quỉ-Vương là gì? Là người bạn chí-thân của Đức Chí-Tôn, nhưng Ngài đem cái tánh-đức chí-thân của họ đặng ngăn ác-hành của họ mà thôi, phản-phúc với Đức Chí-Tôn là định Quỉ-Vị của họ. Ngoại-thân của chúng ta thường phản-phúc với chúng ta lắm, nên tấn tuồng chúng ta vẫn thấy cốt nhục mà chừng phản nghịch thì phản nghịch, bạn tác của chúng ta thường phản-phúc chúng ta hơn hết, bạn chí-thân chỉ có một mà thôi.
Bần-Đạo dẫn vô Niết-Bàn-Cảnh rồi cả thảy đều thấy, dầu nội thân có một mà biến hóa ra ức vạn đi nữa, tới chừng qui liễu lại có một, tới chừng qui pháp-thân cũng có một. Duy có tai hại cho chúng ta hơn hết là phẩm-vị không xứng của nó, hay địa-vị không vừa lòng sở định của nó, nó thúc giục chúng ta đầu kiếp, ngoài ra nữa không có gì hết.
Ngoại-thân, Đức Chí-Tôn đã có nói, chúng ta có thể làm cho nó Chí-Thiện được, chính mình Đức Chí-Tôn cũng sợ, sợ đến đỗi Ngài biểu lập sẵn dưới thế này đi, đặng giáo-hóa họ lần lần. Bởi cớ cho nên riêng Ngài lập Đạo kêu Tương, Trang, Kỳ. Mấy vị Đại Thiên-Phong biểu mỗi người đều lập họ, lập họ tức nhiên lập ngoại-tộc Thiêng-Liêng của chúng ta đó vậy, trọng-yếu hơn hết là điều đó. Tại sao Đức Chí-Tôn biểu lập? Nếu không có ngoại-thân thì Tiểu Thiên-Địa của chúng ta không có. Vì cớ cho nên các chơn-linh cao siêu người ta đã lập một Thiên-Cung của họ rực-rỡ, điều trọng-yếu hơn hết là những vị Giáo-Chủ, là người trong thân thể của họ kêu họ đi, đi cả thảy đặng giúp sức cho họ.
Bần-Đạo không giấu, vì chính mình Hộ-Pháp cũng có Tông-Đường khá lắm vinh-vang lắm, kém chăng là duy kém một đôi Tông-Đường vĩ đại như: Di-Lạc, Quan-Thế-Âm, Di-Đà mà thôi.
Tông-Đường của Hộ-Pháp cũng khá lắm, nên Đức Quyền Giáo-Tông thường có nói giả ngộ, nói bóng nói bí-mật là Triều-Đình của họ Phạm mạnh mẽ hơn Triều-Đình của họ Lê. Nói bóng vậy thôi.
Bây giờ Bần-Đạo nói Tông-Đường Thiêng-Liêng của chúng ta, nếu sợ mất hay chăng là bạn chí-thân của chúng ta, thiệt hại kia vẫn thường.
Bần-Đạo dắt toàn-thể con cái của Đức Chí-Tôn phải để ý cho lắm, giảng ngày nay cốt yếu giảng cho mấy người đó.
Chúng ta rủ nhau về đến Niết-Bàn-Cảnh, bởi Niết-Bàn-Cảnh cũng như kinh-đô Cực-Lạc Thế-Giới vậy, chúng ta sẽ ngó thấy Đức Phật Thích-Ca nơi Kim-Sa Đại-Điện, tức nhiên Kim-Tự-Tháp giống như bên Egypte, mà không thiệt giống, là mình nó tròn, nó là Ngũ-Thiên Ngũ-Giái. Còn Kim-Tự-Tháp bên Pérou không có giống, từ trên tới dưới chạy ngay như nóc nhà bánh ếch, nó cũng Ngũ-Thiên Ngũ-Chuyển như Pyramide nhưng tới từng chót thì bằng.
Kim-Tự-Tháp, dân Pérou khi nào họ tế Đức Chí-Tôn họ lên từng chót mà họ cúng. Kim-Tự-Tháp Egypte giống hơn, chúng ta tới đã thấy Kim-Tự-Tháp là Kim-Sa vậy. Có một điều là chúng ta để ý hơn hết là cửa Kim-Tự-Tháp ấy có một cây dương lớn lắm, chúng ta không thể gì tỏa được, hình tướng cái lá nó nhỏ như sợi chỉ, chúng ta thấy nó bao trùm Kim-Tự-Tháp ấy, nếu chúng ta lấy con mắt phàm của chúng ta quan-sát bề mặt của nó chúng ta tưởng-tượng lối chừng vài trăm Kilomètre vậy, nó không có cùng, thấy mút con mắt. Cây dương ấy bao phủ trên làm như tàn che tủa xuống trọn vẹn. Trong cái Bí-Pháp của Niết-Bàn là cây dương ấy, mỗi lá dương đều có giọt nước Cam-Lồ, mỗi lá đều có một giọt nước, mỗi một giọt nước là một mạng căn trên Càn-Khôn Vũ-Trụ.
Kim-Tự-Tháp có từng, có nấc, hằng hà sa số Chư Phật, chúng ta không thể đếm được, mỗi từng ngồi trên Liên-Đài của mình mà thấy hằng-hà sa-số đủ hết.
Bần-Đạo có nói các Vị Phật ấy do Nguyên-Linh của Đức Chí-Tôn sản-xuất đoạt-vị mà thôi. Nếu chúng ta có con mắt Thiêng-Liêng dòm lên Liên-Đài của họ, thấy ngôi-vị của họ truyền kiếp cho họ tạo cho đặng Liên-Đài của mình, nhứt đảnh Liên-quan của mình. Nếu một Vị Phật muốn thăng lên nhứt phẩm Liên-quan phải tái kiếp làm con vật, rồi đi từ con vật lên tới Phật vị, mới được một từng Liên-quan nữa. Chúng ta đến từng Liên-quan của họ vô tới Kim-Tự-Tháp, chúng ta thấy họ hườn nguyên Pháp-Thân ấy giống như hồi trong Kim-Bàn xuất hiện ra. Chúng ta thấy trong Kim-Bàn xuất hiện còn mờ mờ mịt mịt như một ánh chiêm bao. Còn Pháp-Thân khi ngự trên Liên-Đài họ rồi, Pháp-Thân được toàn vẹn trong-trẻo và ngó thấy hiện-tượng trong Pháp-Thân của họ huyền-bí vô biên. Mỗi Liên-quan của họ chiếu-diệu tức nhiên mỗi Linh-Pháp chuyển thế của Càn-Khôn Vũ-Trụ, họ tương thân cùng Càn-Khôn Vũ-Trụ, mấy địa-giới hết thảy, do điểm Liên-quan của họ chiếu diệu mà thôi, tỷ như chúng ta ngó thấy radio phát thanh ra, các địa-giới đâu đâu đều bắt được tiếng hết.
Vì quyền đặc-biệt của người ta cai quản, không thể đoán, không thể tưởng, Càn-Khôn Vũ-Trụ đều dưới quyền của họ điều khiển, không phải điều khiển về chánh-trị, mà họ điều khiển bằng giáo-hóa.
Nền chánh-trị Càn-Khôn Vũ-Trụ có hai cơ-quan:
1- Cơ-quan Trị-Thế.
2- Cơ-quan Giác-Thế.
Bên Cửu-Thiên Khai-Hóa cầm quyền chánh-trị Càn-Khôn Vũ-Trụ. Bên Cực-Lạc Thế-Giới tức nhiên Niết-Bàn duy có giáo-hóa Vạn-Linh mà thôi.
Bần-Đạo nói pháp-thân khi lập được Liên-Đài mà còn mơ mộng, duy có Ngũ-Tầng-Quan hay Thập-Tầng-Quan mà thôi, còn thua người ta thì tôi phải ở lại một ngàn hai trăm năm, đặng ngồi định tinh-thần mà tạo Liên-Đài của tôi, cho đặng thêm cao trọng hơn nữa, các Chơn-Linh đi trong con đường dục-tấn, rồi vô Cực-Lạc Thế-Giới cũng chỉ ước vọng có bao nhiêu đó mà thôi.
Chư Phật đối với Đức Chí-Tôn, tức nhiên đối với Đại-Từ-Phụ muôn lần không có một, cho nên con đường dục-tấn của họ đi đi mãi mà thôi./.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 14-03-Kỷ-Sửu nhằm ngày (dl. 11-04-1949).
(*1) Đức Hộ Pháp nói về hoàn cảnh lịch sử của nước Việt Nam trong giai đoạn giành độc lập. (Bài 31b)
CON ĐƯỜNG THIÊNG LIÊNG HẰNG SỐNG: Bài 32
Đức Hộ-Pháp
Thuyết-Đạo tại Đền-Thánh, đêm 18 tháng 03 năm Kỷ-Sửu (15-04-1949)
Hôm nay Bần-Đạo giảng dục-tấn trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống, trước Bần-Đạo đã dìu-dắt toàn cả con cái của Đức Chí-Tôn vào cảnh Niết-Bàn.
Bần-Đạo đã tỏa hằng-hà sa-số Chư Phật và Bần-Đạo có chỉ giữa Kim-Tự-Tháp có cây Dương-Liễu tối cổ, tàn của nó bao phủ cả Kim-Tự-Tháp hết, che trọn vẹn Kim-Tự-Tháp ấy chẳng khác nào như cái "Thiên-La" bao phủ vậy. Lá của nó chúng ta ngó thấy trạng thái của nhành dương nơi mặt thế gian này thế nào, thì nó thế ấy, lá của nó chỉ lớn hơn sợi tóc chút đỉnh vậy thôi mà mỗi đầu lá đều có giọt nước Cam-Lồ. Giọt nước Cam-Lồ ấy là gì? Là hóa-sanh các chơn-hồn trong Càn-Khôn Vũ-Trụ.
Bần-Đạo có tỏa cả Chư Phật, Bần-Đạo có nói hình-trạng chẳng khác chi hồi trong Kim-Bàn xuất hiện buổi trước, hình ảnh nó còn lờ-mờ tới chừng về ngự trên Liên-Đài Kim-Tự-Tháp thì hình ảnh trong-trẻo hiển hiện hết Pháp-Thân huyền-bí vô biên vô tận. Tại sao? Chúng ta tìm hiểu cái triết-lý nguyên do Pháp-Thân ấy, buổi trong Kim-Bàn xuất hiện bất quá bóng dáng mà thôi. Nhờ sanh sanh tử tử thâu đoạt Ngươn-Khí tạo đặng Pháp-Thân của mình với cả muôn muôn triệu triệu kiếp sanh của chúng ta, đặng đoạt cả huyền-vi bí-mật quyền phép tạo-đoan, cho nên cái lúc đoạt được Pháp-Thân rồi, tức nhiên đoạt được Phật-Vị vậy. Lúc đó cả huyền-bí Thiêng-Liêng kia, cả Tạo-Đoan kia mình đã thấu đáo.
Bần-Đạo đã có nói "Tử-Khí" của chúng ta, tức nhiên xác của chúng ta mang nơi cảnh trần này, đặng làm bạn với Vạn-Linh. Xác ấy tới chừng chết tức nhiên trở lại Tử-Khí, thiên hạ tưởng thúi hoại không còn gì hết, nhưng thật ra nhờ Tử-Khí nó tạo Liên-Đài của chúng ta vậy đó. Bần-Đạo nói rõ hơn nữa, Pháp-Thân của các Vị-Phật ngự trên Liên-Đài Kim-Tự-Tháp tổng-số lụng lại vạn kiếp sanh của họ, vạn Pháp-Thân của họ tổng-số lại nên biến tướng nên hình ảnh vô biên vô tận của họ. Bần-Đạo nói: Tuy vậy, nếu chúng ta thấy Tử-Khí sợ sệt mà thật sự ra ta thèm thuồng biết bao nhiêu. Giờ phút này dưới cội cây Dương-Liễu ấy chúng ta vẫn thấy một Liên-Đài rực rỡ quí báu vô biên vô giới chiếu diệu cả muôn muôn vạn vạn linh-quang trong Càn-Khôn Vũ-Trụ bao phủ Càn-Khôn Vũ-Trụ. Trên Liên-Đài ấy giờ phút này vị Chưởng-Giáo ở Niết-Bàn là Đức Di-Lạc Vương-Phật đó vậy. Buổi trước Ngai đó thuộc quyền của Đức Di-Đà. Ngày giờ mở Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ tức nhiên mở Đạo Cao-Đài, Đức Chí-Tôn đã giao quyền lại cho Đức Di-Lạc, ngày giờ này giờ phút Thiêng-Liêng này, Đức Chí-Tôn ban cho nhơn-loại nguyên-tử-lực, cũng do nơi Liên-Đài đó vậy.
Nếu chúng ta đến cảnh Niết-Bàn thấy cái bí-mật là "chữ Khí", chúng ta thấy Đức Chí-Tôn đã để tại nơi sau lưng Hộ-Pháp là nó đó chẳng khác gì. Nếu đoạt nguyên-tử-lực nó là Khí-Sanh-Quang, còn tinh ba của nó là khí sanh của họ là Nguyên-Tử. Đức Di-Lạc ngự trên khối Nguyên-Tử là ngôi của Ngài, là Liên-Đài của Ngài đó vậy.
Giờ phút này Liên-Đài của Ngài là khối Nguyên-Tử ai cũng muốn, ai cũng thèm có chỗ đó. Đức Chí-Tôn tạo cảnh đó, các Chơn-Linh không ai mà không muốn, không thèm thuồng vì vinh vang, huê hạ, phú quí, giàu sang, dầu cho làm Chúa cả mặt địa-cầu này, dầu nơi Cực-Lạc Thế-Giái cũng chưa bằng các cảnh giới ấy. Còn nói gì ngự được trên Kim-Tự-Tháp, ngồi trên Liên-Đài rực rỡ ai cũng thèm ai cũng ham mà không phải không có người được, được hay không là do nơi mình. Bần-Đạo nói Đức Phật Thích-Ca đã nói hằng hà sa số Phật, Ngài không phải nói dối với chúng sanh, có thật vậy, không có số đếm.
Cảnh tượng ấy Bần-Đạo nói quả quyết, cảnh tượng của Đức Chí-Tôn đào tạo dành để cho con cái của Ngài đó vậy. Ngôi vị ấy trước kia ai ngồi đặng thì bây giờ mình cũng ngồi đặng, trước kia ai đoạt đặng thì mình bây giờ cũng đoạt đặng, ngự đặng, ấy là Kim-Bàn mình cũng ngồi đặng, mà ngồi đặng cũng là do nơi căn đức của mình, không phải của cải vô biên ấy, quí báu ấy, để lựa chọn cho có người, của ấy không phải của người nào hết, ai cũng đặng.
Các Chơn-Linh định quyền lập vị của mình, định quyền như ở thế gian, định quyền bao giờ cũng có thật. Muốn làm cho đặng, muốn có Liên-Đài nơi Kim-Tự-Tháp thì cũng do nơi mình, chúng ta muốn mà được bền hay không bền cũng do chúng ta. Sự thật vậy. Chơn-Lý nó bao giờ cũng vậy.
Bần-Đạo nói trước khi vô Cực-Lạc Thế-Giới, chúng ta sẽ gặp một đám ở ngoại-ô Cực-Lạc, chúng ta thấy đủ thứ hết, đủ các sắc dân trong Càn-Khôn Vũ-Trụ, không phải trái địa cầu 68 này mà thôi đâu. Trọc cũng có, râu dài cũng có, đủ thứ người, mà họ đi đến Cực-Lạc Thế-Giới, rồi họ gặp một bức tường cao vọi vọi cản ngăn họ cũng như Vạn-Lý Trường-Thành, chúng ta cũng lấy làm bực tức cho họ. Khi chúng ta đi trên không trung vào Cực-Lạc Thế-Giới dòm xuống thấy họ lao-nhao lố-nhố chùm nhum lại, chòm ba, chòm bảy, tới giờ cũng tụng kinh vậy, không phải nói đặng kêu ngạo người ta, hay nhạo báng người ta, mà thấy tình trạng của họ thấy thương quá, thấy tội nghiệp quá. Các chơn-hồn ấy là gì? Nếu chúng ta thấy được triết-lý của Đức Chí-Tôn thì không sợ cho những kẻ ấy, những kẻ ấy là các Tăng-Đồ của các nền Tôn-Giáo, dầu cho Tả-Đạo Bàn-Môn nhưng mà tâm-linh của mỗi người bao giờ họ cũng hướng về Đạo-Giáo, nhiều hạng trí-thức, nhiều Chơn-Linh siêu thoát. Một nền Tả-Đạo nào biết Tả-Đạo Bàn-Môn đi nữa cũng có người chỉ dẫn hướng đạo về triết-lý vừa bụng họ, tinh-thần họ, thấu đáo thiên-hạ mới theo, vì đó mà họ theo có gì lạ đâu.
Tội nghiệp cho người ta, không phải người ta duy-chủ, mà là người ta lầm-lạc đó, do nơi đâu có nền Tôn-Giáo thì người ta cứ theo không biết chơn-truyền là gì hết. Cũng như bây giờ chúng ta thấy cạo đầu vô chùa tu đặng thành Phật thôi, chớ không biết gì hết, lầm lạc đó do nơi chỗ nào? Chớ không phải do nơi họ. Điều hại bất ngờ cho họ, là họ không thấu đáo chơn-truyền, họ không biết cảnh Niết-Bàn thiệt-tướng của nó, Cực-Lạc thiệt-tướng thế nào? Biểu sao vô Cực-Lạc cho đặng? Họ thật tâm tu mà họ không vào được là tại nền Tôn-Giáo nơi mặt thế gian này thất chơn-truyền, rồi họ vì nghe, vì tin mà theo. Theo, họ cũng đến Cực-Lạc được, duy có một điều là họ không hưởng thiệt cảnh, họ hưởng giả cảnh mà thôi. Họ phải ở ngoại-ô Cực-Lạc một thời gian đặng họ biết, họ đào luyện tinh-thần họ, họ không có tội tình gì hết, họ chỉ đi lạc lối mà thôi, nên họ hưởng không phải thiệt cảnh nơi Cực-Lạc Thế-Giới hay Niết-Bàn. Họ chỉ ở đó ẩn thân tu luyện một thời gian năm bảy trăm năm, rồi đầu kiếp lại tu nữa. Nếu tái kiếp lại tu nữa, chừng đó mới tìm-tàng thấu đáo chơn-truyền, mới được nhập vào thiệt cảnh.
Bây giờ chúng ta thử hỏi gặp các bạn chúng ta nơi Cực-Lạc Thế-Giới rủ nhau ra khỏi Niết-Bàn cảnh, còn đi hội-hiệp nghị luận với họ, họ gặp ta, họ vấn nạn như mấy người Tây bên Pháp thấy mấy người bên thuộc-địa về, gặp họ hỏi thăm sự làm ăn ra sao? Anh em thế nào? Thì các Đấng Thiêng-Liêng kia cũng vậy, họ hỏi tình thế các chơn-hồn tội phước thế nào, họ có làm nên chuyện hay chăng? Họ có thấu đáo hay chăng? Các Chơn-Linh có biết mình hay không biết mình, chúng ta sẽ có một cuộc đàm luận rất hữu tình rất may duyên.
Nhơn-loại họ vì cớ nào họ lập vị họ khó khăn lắm vậy, chúng ta trả lời: Họ ngờ vực, họ tưởng đến mức đó là đủ rồi. Tại họ ngờ vực, họ không biết chơn-lý chỗ thiệt là chỗ nào. Họ nói dối đã nhiều rồi, họ nghi vì lẽ gì? Họ nghi về Niết-Bàn không có Cực-Lạc, họ nói không có cõi Thiên-Cung, chỉ mờ ám hình bóng chứ không có Phật, Tiên, Thánh, Thần gì hết, họ ngờ vực. Đến chừng mình trả lời thì họ chắc lưỡi họ than. Thấy ở thế-gian đủ kẻ ngu người dốt, dĩ chí tới bực thông-minh quyền phép thấu đáo cả cơ thể Tạo-Đoan, biết lợi dụng cơ thể Tạo-Đoan như chúng ta thấy ở thế-gian này vậy thì ở Tây-Phương Phật cũng có đẳng-cấp, do chơn-pháp tạo thành Thần, Thánh, Tiên, Phật. Nếu ở thế-gian chúng ta thấy có những bực cao siêu đến nước đó thì ở cảnh Thiêng-Liêng kia cũng vậy. Sự thật hiện đã có rồi, mà còn nghi hoặc gì nữa, tại mình không thấu đáo phẩm-vị cao siêu ấy, mờ ám là tại mình. Ở tại thế-gian này đã có những bậc cao siêu hơn, tinh-thần hoạt bát hơn, nhơn loại thường thấy như Đức Phật Thích-Ca, Đức Chúa Jésus Christ các vị Giáo-Chủ trên họ còn ai nữa, mà chính họ còn nói: Họ là Vị Phật tại thế, mà trên họ còn nữa. Mình chưa ngó thấy trên cửa Thiêng-Liêng Hằng-Sống nên chưa tin vậy. Chơn-Lý không tỏa được.
Ấy vậy, sự mờ ám ngờ vực của họ do nơi quả kiếp của họ, họ phải chịu thống khổ, phải chịu dưới quyền-lực của Tạo-Đoan, chịu tấn-triển mỗi kiếp sanh của họ, họ phải đi từ từ mà tấn-hóa trong khuôn luật quả kiếp của nhơn-loại. Đức Chí-Tôn có nói với con cái của Ngài: Nếu các con biết Đạo các con tu một kiếp thì đoạt đặng. Lời nói ấy của Đức Chí-Tôn nói không sai, đoạt đặng cùng chăng là do nơi mình ngó ngay Đức Chí-Tôn thì biết./.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 18-03-Kỷ-Sửu nhằm ngày (dl. 15-04-1949).
CON ĐƯỜNG THIÊNG LIÊNG HẰNG SỐNG: Bài 33
Đức Hộ-Pháp
Thuyết-Đạo tại Đền-Thánh, đêm 22 tháng 03 năm Kỷ-Sửu (19-04-1949)
Hôm nay Bần-Đạo giảng tiếp sự dục-tấn trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống.
Kỳ trước Bần-Đạo đã dìu-dắt toàn cả con cái của Đức Chí-Tôn về tinh-thần vào Cực-Lạc Thế-Giới, Bần-Đạo còn đem họ lên đặng xem Niết-Bàn cảnh, Bần-Đạo còn chỉ cho họ ngó thấy Cực-Lạc môn ngoại, tưởng các chơn-pháp của Đức Chí-Tôn đến đây là đủ. Cửu-Thiên Khai-Hóa trên nữa ít ra phải đoạt Đạo mới có quyền đi đến.
Trước khi Bần-Đạo tỏa mấy cảnh trên, tưởng cũng cần phải cho toàn cả con cái của Ngài đặng hiểu biết con đường, đặng một ngày kia có qui liễu thì đã hiểu rõ khỏi sợ sệt, khỏi ngập ngừng bước tấn-hóa của mình.
Bần-Đạo nên nhắc lụng lại một điều trọng-yếu, duy thuộc về phận sự đặc-biệt của Bần-Đạo. Bần-Đạo phải làm ở trỏng, có ảnh hưởng các nền Tôn-Giáo, nhứt là nền Phật-Giáo. Chúng ta từ Thượng-Cổ đến giờ, tu thì nhiều mà thành chánh-quả thì ít, cái nguyên-lý ấy là tại Đạo bị bế.
Bần-Đạo chưa có duyên phần đặng vấn nạn hay luận-thuyết với các Đấng Thiêng-Liêng, đặng Bần-Đạo có hỏi cho tận tường.
Khi ở Ngọc-Hư-Cung Linh-Tiêu-Điện, Bần-Đạo đặng Thánh-Lịnh của Đức Chí-Tôn sai qua mở Cực-Lạc Thế-Giới. Buổi ban sơ, tinh-thần của Bần-Đạo còn hoang mang, không có biết sao lại còn có bổn phận đi mở Cực-Lạc Thế-Giới nữa. Cực-Lạc Thế-Giới là gì? Sao lại phải đi mở? Bần-Đạo tự hỏi. Tới chừng đi rồi mới biết tình-trạng của các Đẳng Chơn-Linh đã đoạt-vị trong Càn-Khôn Vũ-Trụ chịu nạn khảo-thí do nơi Kim-Quan-Sứ. Kim-Quan-Sứ đã đặng Đức Chí-Tôn cho làm Giám-Khảo kỳ thi Hạ-Ngươn Tam-Chuyển qua Thượng-Ngươn Tứ-Chuyển này.
Kim-Quan-Sứ là ai? Bên Thánh-Giáo Gia-Tô gọi là Quỉ-Vương đó vậy.
Kim-Quan-Sứ là một vị Đại-Tiên có quyền hành đem ánh sáng Thiêng-Liêng Đức Chí-Tôn chiếu diệu trong Càn-Khôn Vũ-Trụ, vị Đại-Tiên ấy đã gấm-ghé bước vào Phật-Vị, cái quyền-năng của Ngài đã đoạt đặng tưởng không thua kém Đức Chí-Tôn là bao nhiêu, do cái tự-kiêu tự-trọng còn một bước đường nữa mà đoạt không đặng, nếu người nhường là nhường Đức Chí-Tôn mà thôi. Vì người hám vọng, tự-tôn, tự-đại, gọi cả quyền-năng Đức Chí-Tôn người không nhường, tức nhiên người đủ quyền-năng hơn Đức Chí-Tôn mà chớ, vì cớ cho nên Ngài dành quyền trọng đại muốn cầm quyền một quyền-lực để điều khiển Càn-Khôn Vũ-Trụ, chưa đoạt đặng mà Ngọc-Hư-Cung đã biết tinh-thần Kim-Quan-Sứ muốn phản phúc.
Phản phúc dám đối diện cùng Đức Chí-Tôn mà Ngọc-Hư-Cung đã biết cho làm Thống-Đốc một thế-giới của chúng ta đương thời bây giờ.
Thế-giới địa hoàn này, nếu như người mà không có tự-kiêu, tự-đại, cái chức tước dù cho quả là làm Tổng-Thống của một Càn-Khôn Vũ-Trụ cũng không phải là hèn gì. Người không vừa, phản lại mới bị đọa vào Quỉ-Vị.
Nếu chúng ta muốn biết cái tình trạng của Ngài đoạt quyền Thiên-Cung buổi nọ thì coi trong Chơn-Truyền Thánh-Giáo Gia-Tô buổi nọ thì chúng ta thấy rõ.
Ngày giờ này, Đại-Tiên Kim-Quan-Sứ đã đặng ân xá, cũng như các Đẳng Chơn-Linh được ân xá, bởi vì trong Quỉ-Vị cũng được hưởng Hồng-Ân Đức Chí-Tôn ân xá, cũng như toàn-thể các Chơn-Hồn trong Càn-Khôn Vũ-Trụ. Vì cớ cho nên, người Quỉ Chúa đàng ấy còn lãnh một phận-sự tối trọng, tối yếu là làm Giám-Khảo dượt Chư Tiên đoạt phẩm-vị Phật.
Vì cớ cho nên người có giáng-cơ buổi Đạo đương bình tịnh, cả Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn đương hòa ái với nhau, không có tâm-tánh gì phản động, chưa có một mảy may gì gọi là loạn, họ còn giữ theo nề-nếp chơn-truyền của Đức Chí-Tôn mà thinh không Kim-Quan-Sứ giáng-cơ cho một bài thi chẳng khác nào như tìm đến Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn mà liệng một tối hậu thơ, bài thơ ấy như vầy:
"Cửu phẩm Thần-Tiên nễ mặt ta,
Thích-Ca dầu trọng khó giao hòa.
Cửa Kinh Bạch-Ngọc năng lui tới,
Đường Đạo Tây-Phương thử chánh tà".
Ngó thấy quyền của người ta như thế đó, hại thay! Đường đi từ Ngọc-Hư-Cung qua Cực-Lạc Thế-Giới buổi nọ bị Người ta ngăn đường không cho người ta đi qua, bằng không thì trở lại. Theo chúng ta lấy tình thật thì Đạo-Giáo sẽ chỉ điều ấy, cũng không có lạ gì với Đức Chí-Tôn.
Đấng mà dám đưa tay cho kẻ thù định phận, quyền năng đường ấy để khảo dượt toàn con cái của Ngài, tức nhiên là khảo-dượt Người, mà Người không có nao không có sợ. Chúng ta đủ biết quyền phép của Đức Chí-Tôn hơn quyền phép Kim-Quan-Sứ thế nào? Hơn nhiều lắm.
Đối với tinh-thần nhơn-loại đương nhiên bây giờ, đáng lẽ Đức Chí-Tôn gìn-giữ kỹ càng cho lắm, nhưng Ngài không cần để tâm giữ cho kỹ lưỡng điều đó mà chớ.
Bởi cớ cho nên khi mở Đạo, tại Từ-Lâm-Tự Ngài đến, Ngài cầm cơ viết tên Ngài, rồi Ngài liền thăng. Ngài cho Quỉ đến đặng phá, khảo-dượt, phá cho tiêu nền chơn giáo của Ngài. Ngài đã cho phép làm, nó vẫn thi hành chớ không có sợ sệt, e lệ gì không làm. Kim-Quan-Sứ đã thi hành trong hai mươi mấy năm, cả Thánh-Thể Đức Chí-Tôn và toàn thể con cái của Ngài nam, nữ cũng thế, đang bị tay Người làm tàn hại, đủ mưu lược, đủ mưu chước đặng hại cho thất Đạo. Không một điều gì, không một mưu chước gì mà Người không dùng, không mưu chước gì Người không làm đặng tàn phá Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn, nhưng.... không phải dễ dầu quyền lực Kim-Quan-Sứ bao nhiêu đi nữa cũng chưa qua khỏi cái mức của Đức Chí-Tôn đã gạch sẵn cho con cái của Ngài đi thì chúng ta ngó thấy đủ bằng cớ đoạt đặng.
Ngộ-nghĩnh thay, tuy biết hay là không biết mình không chịu cho Kim-Quan-Sứ biết, Đức Chí-Tôn cho thử con cái của Ngài đặng bỏ cái phàm lấy cái Thánh.
Bần-Đạo đọc truyện sử còn nhớ buổi nọ, trước khi Hàn-Tín vào Quang-Trung, Trương-Tử-Phòng có đưa cho một giác-thư đặng được trọng dụng, Ngài đã đưa gươm Hùng-Kiếm tức nhiên là gươm Thư-Hùng có một cặp mà một cây thì Tiêu-Hà đã giữ, còn một cây đưa ra cho người đến Hớn-Bái-Công đặng nhìn Hàn-Tín thâu người cho làm Soái đăng đàng bái tướng.
Hàn-Tín đã đặng giác thơ của Trương-Tử-Phòng lập thân danh mà không biết thế nào người lại yểm giác thơ ấy đi, quyết lấy tài mình thi thố, làm cho Hớn-Bái-Công trọng dụng không cần phải có người tiến dẫn bằng một giác thơ.
Hại thay, Con người ta muốn tự mình cho người ta biết không phải dễ, cho nên Hàn-Tín bị khảo-dượt, lấy tài bao nhiêu đi nữa cũng không qua cái thời mà thôi. Cậy tài không được mà trái lại còn gặp giám-khảo là Phàn-Khoái làm cho Hàn-Tín trổ tài trí không được, rốt cuộc lập kế gọi là "ly gián", nửa đêm thoát lên ngựa về Quang-Trung, tới chừng Tiêu-Hà hay chạy rượt theo kịp, chừng đó mới chịu đưa giác thơ. Vì cảnh tự tôn, tự đại mới ra đến thế, mà cũng có cái cao thượng, nhưng rốt cuộc rồi cũng phải chịu khảo-dượt mới lập thân danh được hay giá-trị được.
Người thứ nhì nữa là Phụng-Sồ cũng y như vậy, bị Trương-Phi làm giám-khảo thành thử lập thân danh của người cũng không phải do tài đức của mình. Đức Chí-Tôn có thể định được cho mình, mà chính mình phải lập quyền do tài đức của mình. Đức Chí-Tôn có thể định vị cho mình mà mình phải lấy đạo-đức của mình mà lập phẩm-vị, tức nhiên mình phải chịu khảo-dượt, phải thi thố cho đậu mới đoạt đặng phẩm-vị cao siêu của mình. Rớt phải chịu đọa lạc không thế gì chối cãi được, giám-khảo ấy rất khó.
Theo cái chơn-pháp của Người còn khó định, huống chi Kim-Quan-Sứ người tự tôn, tự đại, không có Đấng nào, một Chơn-Hồn nào tới lo lót với Kim-Quan-Sứ cho tôi đoạt được đâu. Bởi cớ cho nên, Bần-Đạo phải thuật buổi mà Bần-Đạo do Thánh-Lịnh của Đức Chí-Tôn đi mở Cực-Lạc Thế-Giới.
Buổi ấy, Bần-Đạo đi với cái Pháp-Bửu bằng Vân-Xa, đi ngang qua từ Ngọc-Hư-Cung đến Cực-Lạc Thế-Giới. Khi Vân-Xa đi ngang qua đó, bị Kim-Quan-Sứ đón đường không cho đi, Bần-Đạo đương bối-rối không biết tính làm sao. Liền khi ấy ngó thấy Đức Lý-Minh-Vương trong Pháp-Thân của Đức Quyền Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt cầm cây gậy cà thọt nhảy ra chiến-đấu với Kim-Quan-Sứ, Bần-Đạo ngó thấy cà ạch cà đuội, chơn cụt chơn dài nhảy cà quơ cà quơ.
Bần-Đạo ngồi trên Vân-Xa suy nghĩ Đức Lý-Minh-Vương có một mình mà làm sao đánh cho lại người ta, thấy ban đầu có một mình Đức Quyền Giáo-Tông, tức nhiên Đức Lý-Minh-Vương, bên kia Kim-Quan-Sứ, hai đàng đánh với nhau không phân thắng bại, bửu-bối không biết bao nhiêu mà bất phân thắng bại. Hồi lâu ngó thấy Đức Lý-Minh-Vương đập Kim-Quan-Sứ một gậy, đập văng hào quang ra như lọ nồi, như đập trong bình mực văng túa sua ra vậy, đập thấy biến ra người thứ nhì nữa. Đằng này, cả trong Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn có một Vị Chức-Sắc Thiên-Phong mà tôi không nói tên ra cản đánh người thứ nhì đó.
Kim-Quan-Sứ biến ra bao nhiêu thì bên này cũng hiện ra bấy nhiêu để đánh với nhau một trận đại chiến náo nhiệt, Bần-Đạo ngồi trên Vân-Xa cũng như người ta ngồi trên máy bay mà khán trận vậy.
Dòm riết mỏi mòn buồn ngủ, ngủ đi rồi thức dậy thấy cũng còn đánh, ngồi lâu lắm gục xuống ngủ nữa, làm ba lần như vậy, tới chừng lần thứ ba tỉnh lại thấy mặt trận đầy Càn-Khôn Vũ-Trụ lớn quá bên mình không biết làm thế nào mà chiến-đấu cho lại, không lẽ ngồi trên Vân-Xa này hoài, phải có phương-pháp gì giúp tay mới đặng.(*)
Bần-Đạo vừa nghĩ như vậy, thì Pháp-Thân Bần-Đạo hiện ra một Người nữa. Hồi Bần-Đạo ngồi trên Vân-Xa mặc cái áo trắng, bịt khăn trắng y như cái đạo phục của tôi đi cúng thường ngày đây, làm bằng gì không biết mà mặc vào mình rồi nghe trong mình nhẹ-nhàng sung-sướng làm sao đâu. Tới chừng xuất Pháp-Thân của tôi ra, tôi ngó thấy mặc đồ Đại-Phục mà tôi đương nhái theo, làm theo kiểu đó mà cũng chưa thiệt trúng.
Mặc đồ Đại-Phục rồi tay cầm cây Giáng-Ma-Xử với cây Kim-Tiên bay giữa không trung ở trên đầu, có người ngồi dưới Vân-Xa. Có một điều là người ngồi dưới, và người ngồi trên biết hiểu như một người vậy.
Dòm thấy mặt trận lớn quá, mới cầm cây Kim-Tiên (còn Giáng-Ma-Xử thì không có hình tướng pháp-bửu ấy vô vi). Cây Kim-Tiên của Cửu-Tiên Cảm-Ứng Lôi-Âm Phổ-Hóa Thiên-Tôn, tức nhiên của Đức Thái-Sư Văn-Trọng, Ngài giao cho tôi một cây Pháp-Giới (chừng vô nhà tịnh mới ngó thấy). Pháp-Giới ấy để triệt Quỉ đừng cho nó lộng trong Đền-Thánh của Đức Chí-Tôn và đừng cho nó phá con cái của Ngài.
Đến chừng bay giữa không trung, thấy minh mông không biết làm sao gom lại được, để vậy đánh khó thắng lắm. Ai ngờ tôi cầm cây Kim-Tiên định vẽ vòng gom lại thì chẳng khác nào vãi cái chài vậy. Tôi cầm cây Kim-Tiên định thần gom lại, vừa gom thì nó thúc nhặt mặt trận ấy lại, nhỏ lần lần thấy đàng ta đã thắng Kim-Quan-Sứ!
Bên Đạo của ta là Lý-Minh-Vương đã diệt được bên Kim-Quan-Sứ, tới chừng rốt cuộc chỉ còn Đức Lý-Minh-Vương đánh với Kim-Quan-Sứ mà thôi, đánh với nhau một hồi, Đức Lý-Minh-Vương đập Kim-Quan-Sứ một gậy thì Kim-Quan-Sứ hóa hào-quang đằng vân bay mất.
Đi qua Cực-Lạc Thế-Giới phải chăng là vì lẽ ấy trong Đạo-Giáo có nói "Đạo bị bế ", phải chăng vì lẽ đó mà Đạo bị bế.
Còn nói nữa, khi tới cửa Cực-Lạc Thế-Giới môn-ngoại, khi gần tới thấy có hai cái chong chóng, hai cái chong chóng ấy quay tròn luôn, nếu chúng ta lấy trí tưởng-tượng chong chóng quay thì mặt dưới lên tới mặt trên ít nữa nó cũng năm mười ngàn thước đặng ngăn Cực-Lạc Thế-Giới môn ngoại như Vạn-Lý Trường-Thành không có một người nào qua lọt.
Hai cửa ấy, một cửa hóa ra hào-quang trắng, một cửa hóa ra hào-quang đỏ hồng hồng, mới ngó thấy hai cửa ấy tôi không biết gì hết. Ấy là hai cái cửa, tới chừng tôi dùng cây Giáng-Ma-Xử trong thân tôi định thần chỉ ngay vào bảo ngừng thì nó liền ngừng lại, coi kỹ vòng tròn trắng ấy là chữ Vạn. Tôi vừa biểu ngừng thì mấy người ở Cực-Lạc Môn-Ngoại chạy ùa vào, chừng vô được một mớ, tôi chỉ bên kia biểu ngừng cũng chạy vô được một mớ nữa.
Vô rồi thấy có một Vị Phật đứng ở trên hai tay bắt ấn liệng xuống chữ Vạn thì chữ Vạn quay nữa, thành thử họ vô được một mớ.
Khi tôi bắt đứng hai chữ Vạn lại, phải chăng vì nơi Cực-Lạc Môn-Ngoại có các Đẳng chơn-hồn đã đoạt-vị mà bị Pháp-Giới đã bế, khiến cho Tôi đi đến đó đặng bắt hai chữ Vạn ngừng lại cho họ vào. Tới chừng Vị Phật kia cho hai chữ Vạn chạy lại, tôi dám chắc các Đẳng Chơn-Hồn vô cửa Cực-Lạc Thế-Giới đã hết. Đó là do Thánh-ý của Đức Chí-Tôn chớ không phải theo con mắt của chúng ta tưởng, đó là sự tình cờ.
Ấy vậy, Đức Chí-Tôn sai qua mở cửa Cực-Lạc Thế-Giới:
1- Vì đường từ Linh-Tiêu-Điện Ngọc-Hư-Cung qua Cực-Lạc Thế-Giới buổi nọ bị Kim-Quan-Sứ đón đường.
2- Các vị Tăng-Đồ từ trước có tu mà thành thì không thành, vì bị thất Pháp-Bửu nên bị đồ lưu nơi Cực-Lạc Môn-Ngoại.
Đức Chí-Tôn biểu qua đó dẫn các chơn-hồn dành để cho có ngôi-vị nơi Cực-Lạc Thế-Giới./.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 08-01-Kỷ-Sửu nhằm ngày (dl. 05-02-1949).
Cuối những đoạn có dấu (*): Ðể cho người đọc được dể dàng, chúng tôi xin mạn phép phân đoạn tại những nơi có dấu (*). Nguyên bản chánh không có phân đoạn tại những nơi ấy. Kính cáo.
CON ĐƯỜNG THIÊNG LIÊNG HẰNG SỐNG: Bài 34
Đức Hộ-Pháp
Thuyết-Đạo tại Đền-Thánh, đêm 26 tháng 03 năm Kỷ-Sửu (23-04-1949)
Đêm nay Bần-Đạo giảng tiếp sự dục-tấn của chúng ta trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống.
Bần-Đạo giảng tiếp kể từ Tạo-Hóa Huyền-Thiên tức nhiên Cung của Đức Phật-Mẫu, Phi-Tưởng Diệu-Thiên, cho tới Hư-Vô Cao-Thiên cầm quyền giải-thoát cho Vạn-Linh.
Quyền ấy, quyền Thiêng-Liêng không cho Bần-Đạo nói mà may thay trong kinh đã có minh tỏa không lạ gì, minh tỏa nói thêm nó cũng thừa không ích. Duy có Cung Hổn-Ngươn Thượng-Thiên chúng ta đương thấy giờ này đương trong Đệ Tứ-Chuyển này, Thượng-Ngươn Đệ-Tứ-Chuyển này giao quyền Chưởng-Quản trị phần hồn và phần xác của Càn-Khôn Vũ-Trụ do nơi tay của Đức Di-Lạc Vương-Phật mà trong Cung ấy là Cung chúng ta thấy mặt Đức Chí-Tôn tức nhiên gần Đức Đại-Từ-Phụ hơn hết.
Khi giảng Ngọc-Hư-Cung, Linh-Tiêu-Điện Bần-Đạo có nói Đức Chí-Tôn tức nhiên Đại-Từ-Phụ, nhưng khi đến Ngọc-Hư-Cung là Vị Thượng-Hoàng mà thôi chớ không phải Đại-Từ-Phụ. Cung Hổn-Ngươn-Thượng-Thiên Ngài đến với hình-thể danh-từ là một Vị Đại-Từ-Phụ. Chúng ta ngó thấy như dân Do-Thái được đoạt-pháp đã qui-liễu được về Cung Hổn-Ngươn Thượng-Thiên thì thấy Đức Chí-Tôn tức nhiên Đại-Từ-Phụ hiện hình là Jehovah giáo-hóa họ, đồng sống với họ. Bần-Đạo dám chắc được hạnh-phúc đó không Chơn-Linh nào không mơ ước.
Chúng ta là người Tàu, nếu đoạt-pháp về được nơi Cung Hổn-Ngươn Thượng-Thiên thì chúng ta thấy Đức Đại-Từ-Phụ đến với hình ảnh Hồng-Quân Lão-Tổ.
Người Ấn-Độ tùy theo trường hợp hành động của họ mà Đức Đại-Từ-Phụ sẽ đến với hình ảnh Brahma, Civa, hay là Christna.
Cung ấy là Cung Vạn-Linh hiệp Nhứt-Linh đó vậy, Cung ấy là Cung Chánh-Pháp của Đạo Cao-Đài để tại mặt thế này cho nhơn-loại đoạt đến.
Chúng ta thấy nơi Cung ấy Đức Chí-Tôn cho những kẻ dầu đoạt-pháp hay không đoạt-pháp, cũng vẫn về hiệp một cùng Đức Chí-Tôn, rồi chính mình Ngài đến đặng giáo-hóa, đặng dạy-dỗ, chính mình Ngài đến đặng cùng chung sống con cái của Ngài, trong buổi giáo-hóa, Ngài không tiếc chi với con cái của Ngài. Đức Nguyệt-Tâm Chơn-Nhơn tức nhiên là Đức Chưởng-Đạo có nói:
"Làm cha nuôi sống âm thầm,
Làm Thầy lại nhượng phẩm Thần, ngôi Thiên.". (*1)
Nếu chúng ta muốn thấy hiện-tượng ấy là khi đến Cung Hổn-Ngươn Thượng-Thiên chúng ta mới ngó thấy được hạnh-phúc ấy.
Lại nữa, nơi Cung Hổn-Ngươn Thượng-Thiên cốt yếu là nơi chung hợp cùng các Đấng chơn-hồn cao-siêu, trí-thức, thông-minh, kể từ bậc Tiên-Thiên cho tới Phật Vị đều đến ở nơi đây. Ở nơi đây đặng tạo dựng đại-nghiệp của mình. Cả toàn-thể trong Càn-Khôn Vũ-Trụ hoặc tiêu-diệt hoặc biến sanh, cũng do nơi đó cầm chơn-pháp quyết định.
Nơi đây nhứt là nơi quyết định chương trình Long-Hoa Đại-Hội, của toàn-thể Vạn-Linh trong Càn-Khôn Vũ-Trụ.
Bởi cớ về nơi đó thấy họ thì thầm tưởng niệm không giờ phút nào xao lãng, không giờ phút nào không niệm danh của Đức Chí-Tôn. Sống trong Đức Chí-Tôn và hình ảnh hiệp một cùng Đức Chí-Tôn, vì cớ cho nên Đạo Pháp nhà Phật đã nói: Nếu chúng ta đã xuất hiện ra, biến tướng ra, đến ngày giờ nào chúng ta trở lại đặng, tức nhiên là ngày ấy chúng ta đoạt-pháp, đoạt Đạo đó vậy.
Ấy vậy nơi Cung Hổn-Ngươn Thượng-Thiên gọi là Cung-Định, Cung Pháp.
Tại sao Cung Định, Cung Pháp? Bởi cớ Cung ấy Vạn-Linh phải hiệp cùng Nhứt-Linh.
Hình ảnh của Đức Chí-Tôn tên tuổi của Người, chúng ta đã ngó thấy các vị Đại-Tiên ngự nơi đó, chính nơi đó là Cung Hổn-Ngươn Thượng-Thiên.
Kỳ tới Bần-Đạo sẽ dắt con cái của Đức Chí-Tôn qua Bạch-Ngọc-Kinh là hình ảnh của Bát-Quái-Đài chúng ta để tại mặt thế này./.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 26-03-Kỷ-Sửu nhằm ngày (dl. 23-04-1949).
(*1) Nguyên bản chánh in là:
"Làm Cha nuôi nấng ân cần,
Làm Thầy lại nhượng phẩm Thần ngôi Tiên".
Nơi bài thứ 17 in là:
Làm cha nuôi sống âm thầm;
Làm Thầy lại nhượng phẩm Thần, ngôi Thiên.
Để cho có sự nhất quán các tài liệu chúng tôi xin tạm chọn:
"Làm cha nuôi sống âm thầm,
Làm Thầy lại nhượng phẩm Thần, ngôi Thiên."
CĐEB Kính cáo
CON ĐƯỜNG THIÊNG LIÊNG HẰNG SỐNG: Bài 35
Đức Hộ-Pháp
Thuyết-Đạo tại Đền-Thánh, đêm 30 tháng 03 năm Kỷ-Sửu (27-04-1949)
Bần-Đạo hôm nay giảng tiếp dục-tấn của chúng ta trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống.
Bần-Đạo xin cả thảy đều để ý buổi thuyết-giảng hôm nay cho lắm, vì nó có Bí-Pháp đoạt Đạo trong ấy, phải để tâm hạng nhứt là nghe và nhớ, trụ cả đức-tin mình nơi Đức Chí-Tôn đặng đoạt cơ giải-thoát. Chúng ta tu chỉ mong có bao nhiêu đó, cần yếu tu là chắc đoạt được cơ-quan giải-thoát mà thôi.
Kỳ rồi Bần-Đạo có dẫn toàn thể tinh-thần con cái của Đức Chí-Tôn được vào Cực-Lạc Thế-Giới nhứt là chúng ta được xem biết rõ Kim-Tự-Tháp.
Đêm nay Bần-Đạo rủ cả thảy vô Lôi-Âm-Tự cũng như Bần-Đạo đã đến trình diện với Đức Di-Đà.
Bởi Đức Di-Đà đã giao quyền lại cho Đức Di-Lạc, giao quyền Chưởng-Quản Càn-Khôn Vũ-Trụ, Đức Di-Lạc ngồi ngự nơi Kim-Tự-Tháp, còn Đức Di-Đà trở vào ngự nơi Lôi-Âm-Tự. Khi đến đó chỉ học các triết-lý Phật-Giáo từ tạo thiên lập địa đến giờ.
Cả triết lý ấy để tại mặt thế-gian này, duy nhơn-sanh không có tu nên không có đoạt-pháp, không có điều gì bí ẩn cả. Phật-Giáo cơ giải-thoát cũng để tại mặt thế-gian này, từ Thượng-Cổ đến giờ chỉ có nền Phật-Giáo tối cổ nhứt, một nền Tôn-Giáo mẹ của các nền Tôn-Giáo khác, vào đây Bần-Đạo được nghe thấy thuyết-pháp của Đức Di-Đà nơi đó là nền Tôn-Giáo tối cổ của nhà Phật.
Khi Bần-Đạo đến Lôi-Âm-Tự, liền khi đó Bần-Đạo nghe tiếng chuông kêu, trong tiếng chuông ngân ấy, lại có tiếng biểu Bần-Đạo phải lên Pháp-Xa tức nhiên Vân-Xa, đặng đi đến Bạch-Ngọc-Kinh, hai bên có hai Tiên-Nữ và Thần-Đồng điều khiển cái Pháp-Xa ấy thúc giục Bần-Đạo đi, Bần-Đạo dòm thấy dường như họ hối-hả thúc giục Bần-Đạo lên Pháp-Xa ấy đặng đi.
Ngày kia vào nhà tịnh có thì giờ Bần-Đạo sẽ tỏa cái Tướng và cái Hình của nó, khi Pháp-Xa ấy dung ruỗi trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống ấy. Bần-Đạo đi ngang Cung Hổn-Ngươn Thượng-Thiên là nơi Đức Di-Lạc đã thâu Pháp, đã định-vị nơi đấy.
Bần-Đạo có tỏa mà trong tâm còn mờ hồ không biết tại sao, vì lẽ gì Đức Phật-Mẫu là Mẹ phải chịu dưới quyền con là Đức Di-Lạc, trong bụng coi hơi bất mãn. Liền khi ấy Bần-Đạo ngó thấy cái Tướng Hình của Đức Phật-Mẫu đứng đàng trước, còn Đức Di-Lạc ở đàng sau lưng quì xuống đưa hai bàn tay lên, đặng tỏ cho Bần-Đạo hiểu dầu cho người con ấy mạnh-mẽ, quyền hành thế nào mà quyền Mẹ cũng vẫn là quyền Mẹ, không thể gì qua được. Ngài chỉ tuân theo mạng lịnh của Đức Phật-Mẫu đặng trị thế mà thôi. Bần-Đạo dung ruỗi luôn không có ngừng lại, cái Pháp-Xa ấy đi mãi mãi trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống, không thế gì luận cái thời-gian ấy đặng.
Thoạt tiên chúng ta thấy phía xa xăm có ánh sáng chói dọi cũng như mặt trời mọc buổi sáng. Đàng xa xăm ngó thấy một ánh sáng chiếu diệu cũng như một vừng thoại khí, khi Pháp-Xa của Bần-Đạo đến thấy hào-quang chiếu diệu chói vào Pháp-Xa sáng rỡ, dường thể ánh sáng đèn pha ở thế-gian này vậy. Hào-quang ấy chiếu vào mình của Bần-Đạo, trong mình của Bần-Đạo xuất hiện một bóng hào-quang trở lụng lại lạ lùng lắm, Pháp-Xa đi đến chừng nào thì sự vui sướng trong mình càng tăng lên mãi. Ngồi trên Pháp-Xa ấy mà Bần-Đạo mê-man không biết mình ở nơi nào, sự vui sướng vô cùng tỏa, không thể nào tỏa bằng ngôn-ngữ cho hết đặng.
Lại gần tới còn thấy một vật khác thường quái lạ, nhưng nó là một Tòa Thiên-Các đẹp-đẽ lắm, màu sắc đổi thay sáng rỡ, mà cả thoại khí bao quanh làm như thể vận chuyển hình-trạng của nó vậy.
Lầu đài chớn-chở mà nó là con vật sống chớ không như gạch đá của chúng ta làm đây, nó vận hành như con vật sống vậy, thay đổi màu sắc vô cùng vô biên, Bí-Pháp ấy không thể gì tỏa đặng, ngó thấy đặc sắc lắm.
Nhà cửa ở thế-gian này là con vật chết, nơi Bạch-Ngọc-Kinh là con vật sống, biến hóa thay đổi như thể vận hành, xung quanh thoại khí bao trùm từ Nam chí Bắc, từ Đông qua Tây. Khối lửa ánh sáng ấy chúng ta ngó thấy như mặt trời vậy, mà ánh sáng mặt trời thì nóng nực, bực bội, còn ánh sáng nơi Tòa Bạch-Ngọc-Kinh lại dịu-dàng và huyền-bí lắm, sung sướng khoái lạc lắm.
Tại sao đài-các nó là con tử vật mà nó sống? Sống là do nơi đâu? Nếu biết được thì không có lạ gì.
Nơi Bạch-Ngọc-Kinh nó là Hổn-Ngươn-Khí, biến hình Hổn-Ngươn-Khí ra là Khí Sanh-Quang của chúng ta đã thở, đã hô hấp, khí để nuôi cả sanh vật sống, ta sống cũng do nơi nó xuất hiện, mà biểu làm sao không sống?
Khi Bần-Đạo ngồi trên Pháp Xa đến thấy các chơn-linh hằng-hà sa số, bao vây trước cửa la-liệt không thể đếm. Pháp Xa vừa ngừng Bần-Đạo bước xuống thấy ba cửa nơi Bạch-Ngọc-Kinh có 12 vị Thời-Quân mặc khôi giáp tay cầm Bửu-Pháp đứng cản đường không cho thiên-hạ vô, Bần-Đạo giận quá chừng quá đổi, ba cửa ấy xa nhau, mỗi cửa có bốn người giữ.
Bần-Đạo muốn nói chuyện thì ba cửa ấy gom lại, mười hai người họp lại đứng trước mặt Bần-Đạo, Bần-Đạo hỏi vì cớ nào không cho người ta vô? Vừa hỏi thì họ bở-ngở nói Người ta biểu đừng cho vô. Nói người ta biểu thì Bần-Đạo liền biết là Kim-Quan-Sứ biểu nó xúi nó, đừng cho các Chơn-Linh vào Bạch-Ngọc-Kinh. Giận qua day mặt ra ngoài biểu các Chơn-Linh vô, họ tràn vô nghe một cái ào, dường như nước bể bờ chảy vào Bạch-Ngọc-Kinh vậy. Tới chừng các Chơn-Linh vô hết, liền biểu mười hai vị Thời-Quân vô, biểu họ đi rồi đứng dòm cùng hết thảy coi còn ai ở ngoài nữa không.
Bần-Đạo vác cây Giáng-Ma-Xử đi vô Bạch-Ngọc-Kinh sau hết. Bạch-Ngọc-Kinh chia ra làm ba căn, cửa chính giữa các vị Phật cao siêu ngự, mình đứng day vô, phía bên tả là phái Nữ, phía bên hữu là phái Nam. Bần-Đạo nghe đi rần rần rộ rộ bên kia, thì thấy hình bóng chiếu qua vách mà thôi, tấm vách thật lạ lùng trong trắng giống như sương sa vậy.
Buổi đầu Bần-Đạo không để ý đi tới nữa thấy cả thảy đều có ngôi-vị của họ sẵn, Bần-Đạo được vô cửa thấy họ ngồi có chỗ hết, còn mình bơ thờ vác cây Giáng-Ma-Xử đi vô không biết đi đâu. Nói sao người ta có chỗ ngồi còn mình không có? Vừa nói rồi thì thấy có người đứng gần bên mình mà không hay, họ trả lời: Cái Ngai của Ngài kia. Bần-Đạo dòm lên thấy cái Ngai tốt lắm, thấy rồi mà trong bụng hồ nghi nói không biết họ có gạt mình hay không? Bần-Đạo sợ, vừa sợ thì có người nói: "Chính cái Ngai đó là của Ngài".
Từ thử đến giờ dầu vạn kiếp sanh chịu khổ để tạo vị nơi mặt thế-gian này cũng không bằng ngồi được trên đó, nơi đó sung-sướng lắm, sung-sướng làm sao đâu. Trong bụng nói làm sao lên được trên đó, vừa tính rồi thì dường như có nấc thang. Bần-Đạo lên ngồi rồi thì thấy trước mặt của mỗi người đều có vật ăn và rượu để uống, Bần-Đạo nói: Sao họ có ăn còn mình không có? Vừa nói rồi thì có một trái Đào Tiên và một chung Tiên Tửu. Ở đó tưởng, muốn cái gì đều có hết, nhứt nhứt không có món gì mình tưởng muốn mà không có, tôi tưởng ở thế-gian dầu muôn triệu kiếp sanh cũng chưa có cái sang trọng sung-sướng dường đó.
Long-Hoa-Hội đó; Long-Hoa-Hội chúng ta đang ngự tại Bạch-Ngọc-Kinh đó vậy. Đức Chí-Tôn cho Bần-Đạo thấy trước và ngó thấy các Chơn-Linh ngự trước đó đặng ngày kia con cái của Ngài cũng ngự như vậy. Bần-Đạo làm chứng đặng nói lại với con cái của Ngài. Tôi tưởng nếu chúng ta đoạt được cơ giải-thoát về hiệp một cùng Đức Chí-Tôn được ngồi hưởng ngôi-vị nơi đó. Chúng ta đã đầu thai chịu cái khổ của đời mà lập-vị mình, đối với cái khổ hạnh muôn kiếp của mình nó trả lụng lại một cách vô đối. Nếu có thấy mới tưởng-tượng rằng Đức Chí-Tôn chẳng hề khi nào chịu thiếu nợ ai cả.
Rất hạnh-phúc cho kẻ nào dám cả gan cho Ngài vay, rất hạnh-phúc cho những kẻ nào biết yêu ái, biết làm tôi tớ cho Ngài, Ngài sẽ đáp lại cái ơn ấy cho mình. Tới chừng Đấng ấy làm tôi tớ lại cho mình thì không có cái hạnh-phúc hay giá-trị gì ở mặt thế-gian này bằng đặng.
À bây giờ, nói đến mấy Bà, ở bên kia. Bên nây chỉ thấy cái bóng của họ đi mà thôi, không biết tại sao dựng tấm vách cản ngăn không cho thấy? Không biết tại sao vậy? Giận tấm vách ấy quá chừng, lại gần coi như sương sa vậy; thò tay vào thì nó lủng, rút tay ra thì nó nhiếp lại, bằng cái gì không biết. Bần-Đạo lại có tánh tọc mạch, giận quá, muốn làm sao cho ngó thấy bên kia. Trong bụng vừa tính như vậy, thinh không nó chạy vẹt ra một bên, chừa một chỗ trống, ngó thấy bên kia toàn Nữ phái không, thấy sung-sướng làm sao đâu, sung-sướng lắm mấy Bà ơi! Bên Nam thế nào thì bên Nữ cũng vậy.
Trên cảnh đó họ lịch-sự lắm, vì cái pháp-thân của họ thiên biến vạn hóa, nơi Bạch-Ngọc-Kinh nên họ lịch-sự lắm, không biết thế nào mà họ lịch-sự quá vậy. Mấy Bà muốn lịch-sự thì rán tu đặng về cảnh ấy sẽ lịch-sự chớ ở thế-gian này không có gì lịch-sự đâu.
Kể từ ngày Bần-Đạo hội được Long-Hoa-Hội Thiêng-Liêng rồi thì không còn muốn sống nữa, muốn chết đặng có về cảnh ấy, ham chết làm sao đâu, ở càng thấy thêm bực bội, trông cho nó chết, chết đặng có về cảnh ấy mà thôi, mà chết không đặng.
Nếu ai không phải tinh-thần cao siêu, thì Đức Chí-Tôn không dám cho họ ngó thấy, nếu bất tử người nào được ngó thấy tôi tưởng họ điên đi mà chớ, hay họ tự vận đặng về cảnh ấy, đặng hưởng sung-sướng. Tự vận về cảnh ấy không đặng, trái lại còn phải xuống Uổng-Tử-Thành ở một thời gian để đền tội, rồi đầu thai trở lại nữa, rán tu rồi về đừng có nóng nảy hạng nhứt là mấy người ở trên núi kia (mấy Ông Đạo núi) cạo đầu tròn vo, không phải làm như thế mà đặng đâu, đừng có lật đật.
Khi Bần-Đạo vô trong Từ Phụ muốn biết Ổng là ai? Ông này có phải là Đức Ngọc-Hoàng Thượng-Đế? Mà Ổng có phải là một người không? Làm sao cho tôi được biết Ổng với? Tôi vừa tưởng thì xa lắm, thấy cái gì bao phủ như tấm màn che vậy, vô gặp rồi biết Ổng ở trỏng. Có tấm màn che ý muốn cái màn này vạch ra đặng thấy Ổng, vừa muốn thì cái màn ấy hé vạch ra, dường như có từng có nấc xa lắm, không thể gì tỏa đặng. Kế đó ngó thấy Ổng bước ra mặc áo trắng, bịt khăn trắng giống như bộ đồ Tiểu-Phục của Giáo-Hữu mặc vậy, cũng có một hai miếng vải lòng thòng sau lưng, râu bạc trắng coi đẹp lắm, thấy thương làm sao đâu.
Trong bụng nói Ổng ngồi tại Linh-Tiêu-Điện mình ngó thấy Ổng mặc bộ đồ khác, không lẽ hai người, chắc không phải Ổng. Vừa nói rồi thì thấy Ổng bước ra đứng ngay chính giữa ngó ngay Bần-Đạo, dường như thể biểu Con coi đây. Ngó ngay lên Ổng thấy Đạo hào-quang chiếu diệu ra, tay cầm cây gậy coi đẹp lắm. Cây gậy của Ổng quảy cái bầu, bên mình Ổng mang một cái bị, mặc bộ đồ Ngọc-Hoàng Thượng-Đế, nắm ngang cây gậy trên tay thành cây đòn cân, Ổng kéo cái bầu ra thành cái giá cân, Ổng kéo cái bị ra thành trái cân. Ba món báu ấy hiệp lại thành Cây Cân-Thiêng-Liêng mà chính mình đã thấy Ổng nơi Linh-Tiêu-Điện, không còn ai xa lạ nữa, cũng Đại-Từ-Phụ nhưng thiên biến, vạn hóa của Ổng mà tạo ra Càn-Khôn Vũ-Trụ vậy.
Vì cớ cho nên dầu cho một cái bông chúng ta chưa chắc là một vật, nếu chúng ta bẻ nó một cách vô lối, rủi phải nhầm sanh mạng của Phật thì khó mà tu lắm.
Con thú, nếu chúng ta nói nó là một vật mà biết đâu trong nó là một Vị Phật Bồ-Tát đương chuyển kiếp, nếu mình ăn thịt nhằm nó ngày kia nó về trển nó ngồi ngang mình, nó nhắc: Kiếp trước Phật có ăn thịt tôi, nhắc nội bao nhiêu đó cũng đủ mang bầu, quảy gậy mà tái kiếp nữa. Chúng ta ngó thấy nơi thế-gian này, hằng-hà sa-số con vật, mà biết đâu trong con vật lại có một Vị Phật Bồ-Tát đương tái kiếp để tạo Liên-Đài, rủi thay ta ăn nhằm thì khó đoạt-vị lắm. Vì cớ cho nên Đức Chí-Tôn biểu chúng ta trường chay là phải vậy.
Chừng ngó thấy rồi còn tọc mạch nữa, muốn biết hết Bạch-Ngọc-Kinh vì thấy Bạch-Ngọc-Kinh lớn lắm, đi biết chừng nào cho cùng, coi biết chừng nào cho hết. Liền vô thưa Thầy, cho con coi toàn-thể trong Bạch-Ngọc-Kinh. Vừa nghĩ rồi dường như Ổng đã biết, Ổng bước lại gần cái Đôn, cái Đôn này để gần Bần Đạo mà Bần Đạo không hay. Đến chừng Đức Chí Tôn cầm cây gậy gõ vào cái Đôn, cái Đôn ấy biến ra một Ông Già, nhưng Bần-Đạo không biết tên gì, từ đó đến giờ Bần-Đạo chỉ gọi là Ông Đôn mà thôi, chớ không biết Ổng gì cả, nhờ Ổng dắt Bần-Đạo đi cùng khắp nơi này qua nơi khác, mỗi cảnh các chơn-linh đều thu nhỏ lụng lại như hòn non bộ vậy. Bần-Đạo đi cùng Bạch-Ngọc-Kinh mà sợ có chỗ còn sót nữa. Đi mệt quá, đi bằng Chơn-Linh mà cũng biết mệt. Càn-Khôn Vũ-Trụ minh-mông đại-hải, không có bờ bến mà thâu hẹp lại vô trong Bạch-Ngọc-Kinh. Cảnh giới ấy Nam cũng vậy, Nữ cũng vậy, về đến cảnh giới ấy rồi đừng sợ thiếu chỗ ngồi, không có thiếu đâu, nếu có thiếu kêu Bần-Đạo, Bần-Đạo thường cho.
Bần-Đạo dám chắc con cái của Đức Chí-Tôn, không thể gì thiếu chỗ, hay bị sa thảy đâu, còn dư chỗ ngồi nhiều lắm.
Ở thế-gian này rán tu, tu xin cho được về cảnh ấy mà thôi. Còn về chỗ ở mướn phố, mướn nhà để Bần-Đạo lo cho hết thảy.
Bần-Đạo cho hiểu đó cho ngó thấy đó, đặng cho mấy người tu, mà không tu là tại mình, đừng để sau này nói Hộ-Pháp không nói gì hết, nên tôi không biết, đừng có ăn gian ăn lận, nói ngược nói ngạo gì hết thảy, Bần-Đạo nói có chứng thiên-hạ hết thảy.
Từ đây đến sau con đường dục-tấn trên cảnh Thiêng-Liêng hằng sống đã chấm dứt.
Kỳ tới Bần-Đạo sẽ khởi thuyết Bí-Pháp./.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 30-03-Kỷ-Sửu nhằm ngày (dl. 27-04-1949).
CON ĐƯỜNG THIÊNG LIÊNG HẰNG SỐNG: Bài 31b
Đức Hộ-Pháp
Thuyết-Đạo tại Đền-Thánh, đêm 14 tháng 03 năm Kỷ-Sửu (11-04-1949)
Hôm nay Bần-Đạo giảng có hơi lâu một chút, có mệt xin cảm phiền.
Trước khi Bần-Đạo dìu-dắt cả thảy con cái của Đức Chí-Tôn vào Cực-Lạc Thế-Giới, đêm nay là đêm giảng Đạo, một triết-lý cả con cái Đức Chí-Tôn phải để ý cho lắm, nhứt là Bần-Đạo sẽ dẫn đến một chỗ, một lịch cảnh mà từ thử tới giờ trong Đạo Phật thường có nói là nơi Niết-Bàn Cảnh, nhưng trước khi giảng vấn-đề ấy Bần-Đạo có đôi điều căn dặn.
Bởi thời giờ đã đến, có điều trọng yếu hơn hết là kết cuộc của sự quyết định tương lai nước nhà chủng tộc Việt Nam đó vậy. Bần Đạo khi nói đã tỏ ra cái hình trạng đương nhiên Quốc dân Việt Nam đối với Pháp, Bần Đạo đã kiếm được người mà đòi cái nợ của Quốc gia Việt Nam cho kỳ đặng, không đặng phải làm thế nào, đòi cho kỳ đặng mà thôi.
Bần Đạo tưởng cả toàn Quốc dân Việt Nam quyết định không cho người đó thất bại, mà người đó, Hoàng Đế Bảo Đại, phải đòi cho kỳ đặng độc lập và thống nhứt nước nhà.
Bần Đạo quả quyết rằng: Hoàng Đế Bảo Đại sẽ đòi đặng và đòi đặng, Ngài đòi đã đành, mà còn biết bảo thủ, bảo thủ cho tồn tại biết có đặng chăng? Điều trọng yếu nhứt là điều ấy, mà cần phải giữ cho tồn tại, chẳng phải quyền nơi Hoàng Đế Bảo Đại mà do toàn quốc dân.
Ngài để đoạt được phận sự của Ngài, Ngài phải đòi cho đặng, còn bảo thủ được hay chăng là do toàn thể Quốc dân không phải do nơi Ngài nữa.
Bần Đạo căn dặn điều nữa. Điều trọng yếu nữa, đưong giờ phút này, không có một người nào đứng ra nói mình đại diện cho Quốc dân hay mình cầm quyền cho Quốc dân, toàn thể Quốc dân chưa có ai cầm quyền mình, chưa có uy quyền nào quyết định tương lai nước nhà, toàn thể Quốc dân Nam Nữ cũng thế, không có kẻ trộm nào dám cả gan nói tôi đại diện cho Quốc dân. Ngưòi ta đã bị ăn trôm ăn cướp nhiều lắm rồi.
Bần Đạo tưởng toàn cả Quốc dân giờ phút này, họ khôn ngoan không để cho kẻ nào lạm quyền hạng ấy nữa. Bần Đạo nói qủa quyết lần nữa, tương lai nên hay hư do nơi trí độ, do tài sức, do sự sáng kiến minh nẫn khôn ngoan của nòi giống Việt Nam định tương lai vận mạng của nòi giống Việt Nam mà thôi.
Nước nhà chúng ta xem lụng lại. Nhứt là các cơ quan trọng yếu hơn hết, cơ quan chính tay Đức Chí Tôn đào tạo, đào tạo cốt yếu để dành cho đến ngày nay cần dùng ấy là Đạo Cao Đài toàn thể con cái của Đức Chí Tôn Nam, Nữ cũng vậy phải minh mẫn sáng suốt hơn nữa, cốt yếu dẫn tinh thần đạo đức cho tồn tại tương lai nước nhà. Sự tồn tại của nòi giống đi đến mục đích và hạnh phúc của toàn thể Quốc dân nói giống Việt Nam tức nhiên nòi giống Lạc Hồng bốn ngàn năm tối cổ.
Bần Đạo có điều căn dặn cần thiết coi chừng, mở con mắt cho lớn, phải nhặt nhịm, khôn khéo đừng để Ma dắt lối, Quỉ đem đường, nó dùng mưu chước đặng phá hoại cả cơ nghiệp của chúng ta, nó quyết định thâu chiếm lại.
Trót 80 năm nô lệ, họ chỉ cả trăm con đường trước mắt chúng ta, đặng họ dẫn lối lạc lầm cho cả tinh thần nòi giống phải lạc lầm đặng nô lệ lần nữa.
Bần Đạo chỉ một con đường cho toàn thể quyết đoán, con đường bốn ngàn (4.000) năm từ trước Tổ phụ để lại. Bốn ngàn năm lập nghiệp, biết bao phen cường quyền áp bức dưới một chế độ đại quốc, chịu ảnh hưởng của nước Trung Hoa, từ thử tới giờ biết bao phen, cũng vì đi theo con đường ấy. Đặng định quốc của mình tới ngày nay, không có con đường nào khác hơn con đường của Tổ phụ dẫn đi, phải đi thôi.
Điều trọng yếu hơn hết Bần Đạo đã có tỏa cho hiểu rằng nhà Vua kia chỉ lảm chủ một Tông Đường, mà Tông Đường đó là Chúa cả thảy, tức nhiên một trăm Tông Đường khác, nhà Vua có quyền làm Chúa cả Hoàng Đồ này, nhà Vua định vận mạng Tổ Quốc, không phải một mình mà độc quyền đặng, mà còn các chủ quyền khác tức nhiên những vị chủ trường các Tông Đường khác. Cho nên Bần Đạo lập Ban Kỳ Lão tức nhiên lập Ban Lão Thành cả Quốc dân, Nam cũng vậy, Nữ cũng vậy, cầm quyền đặng giúp đở nhà Vua, đặng định vận mạng cho nước nhà, nên toàn thể trong Đạo Nam Nữ từ 50 tuổi đổ lên phải làm thông qui cho Bần Đạo biết. Bần Đạo sẽ cậy ngoài đời nữa, đặng kêu toàn thể Lão Thành Nam, Nữ làm cho thành tựu Ban Kỳ Lão ấy, cho kịp ngày Đức Hoàng Đế Bảo Đại hồi loan, về đặng định Quốc vận của mình đều ấy đã xong.
Bây giờ Bần Đạo giảng tiếp Cực Lạc Thế Giới. .... .... .... (Xem tiếp bài 31)
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 14-03-Kỷ-Sửu nhằm ngày (dl. 11-04-1949).
|
|||||||||||||||||
CHUNGLỜI THUYẾT ÐẠO CỦA ÐỨC HỘ PHÁP |
"Con Đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống" và "Bí Pháp" được coi như là hai tập tài liệu quý hiếm nhất trong loạt bài Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp, mà đối với những người mộ đạo đã có dịp đọc qua một lần thảy đều cho là toàn bộ triết lý và yếu lý của Đạo Cao Đài đều được gói trọn trong đó.
TT/NSW chúng tôi xin được phép lần lượt trích đăng và phổ biến tất cả các tài liệu nói trên - coi như là những lời tâm huyết còn sót lại sau cùng của Đức Ngài - để các chư Đạo tâm, Đạo hữu chưa từng lượt qua có dịp làm quen, hoặc chư Đạo hữu nào đã đọc qua rồi có cơ hội tham đọc lại để mà tâm đắc. Hy vọng của chúng tôi là giúp ích cho quí vị có được một quyển cẩm nang trong tay để một ngày kia tự mình tìm về nguồn cội, đạt cơ siêu thoát mà không phải hoài công đi tìm chơn lý.
Tiếc là vì hoàn cảnh khó khăn, chúng tôi vẫn chưa thể đệ trình lên Ban Tốc Ký - những bậc đàn anh đã dày công ghi chép lại tất cả các Lời Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp trong lúc Ngài còn tại thế - để nhờ duyệt đọc lại toàn bộ Thuyết Đạo của Đức Ngài mà chúng tôi đã phổ biến, kể cả hai quyển CĐTLHS và BP trước khi đăng, hầu bổ xung lại những phần nào chúng tôi còn thiếu sót, hoặc hiệu chỉnh lại những chỗ sai lầm để tài liệu chúng ta có được ngày hôm nay tương đối hoàn chỉnh hơn.
Tương tự như những quyển Thuyết Đạo từ quyển I đến quyển VI đã được ấn hành trong Cao Đài E Book trước đây, nội dung quyển CĐTLHS và BP chúng tôi vẫn giữ nguyên. Tuy nhiên, về hình thức trình bày, có những phần khác biệt sau đây so với bản chánh:
1) Thay đổi cách chấm (.) hoặc phẩy (,) trong một số đoạn văn khá dài, không có hoặc toàn là dấu phẩy.
2) Sửa một số lỗi chánh tả thông thường (khi gặp phải) căn cứ vào quyển Việt Nam Tân Tự Điển của Thanh Nghị do nhà sách Khai Trí xuất bản tháng 12 năm 1967 và Việt Nam Tự Điển của Lê Văn Đức, Lê Ngọc Trụ do nhà sách Khai Trí xuất bản tháng 4 năm 1970.
3) Phụ ghi vào cuối một số bài khi gặp một vài nghi vấn (có thể) được Ban Đạo Sử duyệt xét lại sau nầy.
4) Phụ ghi ngày và tháng dương lịch (cho những bài không ghi rõ dương lịch) căn cứ theo Lịch Việt Nam, ấn bản 1-3, do Nguyễn Duy Thức biên soạn, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung - Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996.
5) Riêng trong quyển Bí Pháp, phần Phụ lục về Tam Bửu, chúng tôi xét thấy nội dung những bài nầy đều giống các bài thuyết giảng cũng cùng đề tài Tam Bửu (trong các quyển Thuyết Đạo quyển I và quyển V). Chúng tôi nghĩ xuất xứ những bài nầy có thể đã cùng một nguồn gốc như nhau.
Vì vậy, để cho nhất quán, chúng tôi xin được phép trích lại các tài liệu luận về Tam Bửu nói trên từ nơi các quyển:
Thuyết Đạo quyển I năm Bính Tuất - Đinh Hợi (1946-1947) do Ban Đạo Sử ấn hành lần thứ nhứt năm Canh Tuất (1970).
Thuyết Đạo quyển V năm Nhâm Thìn (1952) do Ban Tốc Ký Tòa Thánh Tây Ninh sưu khảo.
để đăng trong phần Phụ lục của quyển Bí Pháp nầy.
Trong việc đánh máy cũng như đưa bài vở lên mạng lưới toàn cầu, chắc chắn là chúng tôi không thể nào tránh được những sơ suất và lỗi lầm. TT/NSW ước mong đón nhận được sự chỉ giáo và đóng góp ý kiến của các bậc cao minh, cũng như của chư Đồng Đạo khắp mọi nơi trên thế giới, nhất là Ban Tốc Ký Tòa Thánh Tây Ninh để những lần tái bản sau nầy mỗi ngày thêm được hoàn hảo hơn.
Mong thay!
Kỷ niệm nhân ngày Đức Hộ Pháp qui Thiên,
[Mồng 10 tháng 4 năm Ất Dậu (2005)]
Thánh Thất New South Wales thành thật kính cáo.
) )( __)_(__ __(_____)__ (((_________))) ) ׀ ( |
|
ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
LỜI THUYẾT ÐẠO
|
Hội Thánh Giữ Bản Quyền |
Tài Liệu Do Ban Tốc Ký Tòa Thánh Tây Ninh Sưu Khảo.
|
BÍ PHÁP: Bài 01
Đức Hộ-Pháp
Thuyết về BÍ PHÁP tại Đền Thánh, đêm 05-04 Năm Kỷ Sửu (02-05-1949)
Kể từ đêm nay, Bần Đạo khởi tiếp về Bí Pháp Chơn Truyền của ĐỨC CHÍ TÔN.
Ấy là một thuyết pháp trọng yếu khó khăn hơn hết, toàn cả Thánh Thể Đức Chí Tôn tức nhiên Chức Sắc Thiên Phong đều biết rằng: Các nền Tôn Giáo đương nhiên bây giờ nếu gọi là thất chơn truyền, thì thất chơn truyền do nơi đâu? Do tại Bí Pháp không đúng theo lương tri lương năng của loài người.
Lương tri lương năng của mỗi người đương thời buổi này, đã đạt đến một mức cao thượng, trọng hệ là những triết lý đơn sơ buổi nọ, của các nền Tôn Giáo để tại mặt thế này, hồi buổi Thượng cổ, không cầm được quyền năng cầm tâm lý của nhơn loại trong khuôn khổ đạo đức tinh thần nữa.
Đối với các triết lý Bí Pháp buổi nọ, bây giờ nhơn loại tăng tiến quá lẽ, thành thử các vị Giáo Chủ đã lập luật pháp, nhưng luật pháp đơn sơ ấy, ngày nay không có đủ quyền năng trị tâm thiên hạ nữa.
Bởi thế cho nên nền Tôn Giáo mới hơn các nền Tôn Giáo khác có mặt tại địa cầu này là nền Thiên Chúa Giáo, vị Giáo Chủ sáng suốt, vị Giáo Chủ ngôn ngữ hoạt bát, tinh thần minh hoạt hơn hết, là Đức Chúa Jésus Christ, nhưng hại thay trong Thể pháp Ngài đủ quyền năng đem đủ giáo lý của Ngài, đặng làm nền tảng tâm lý của nhơn loại. Nhưng về mặt Bí Pháp chơn truyền, Ngài chỉ có nói một điều, các Môn Đệ nhứt là các vị Thánh Tông Đồ: "Có nhiều lý lẽ cao siêu" ta chưa có thể nói với các người đặng, dầu ta có nói các người cũng chưa hiểu.
Vì cớ cho nên Bí Pháp Chơn Truyền của Công Giáo không có, không có thể có; bởi theo Bí Pháp, theo lời Đức Chúa Jésus Christ thì buổi nọ Bí Pháp Chơn Truyền của Ngài chưa có thể gì nói cho thiên hạ nghe đặng.
Ngày nay Đức Chí Tôn đã đến, đem nền Tôn Giáo của Ngài để tại mặt thế này, đặng chỉnh đốn đạo đức tinh thần từ Thượng cổ đến giờ, bằng huyền diệu cơ bút. Ngài đến không có quyền nào ngăn cản, Ngài dạy con cái của Ngài, Ngài có quyền đem cơ bí mật huyền vi tạo đoan giáo hóa con cái của Ngài.
Nền Tôn Giáo xưa khác, còn nền Tôn Giáo của Đức Chí Tôn ngày nay khác.
Vả chăng mỗi cơ quan đã tượng hình nơi Càn Khôn Vũ Trụ ngày giờ này có hai mặt luật.
1) Luật hữu vi, tức nhiên luật định tướng định hình gọi là Thể Pháp.
2) Luật vô hình là định luật bí ẩn của nhơn loại gọi là Bí Pháp.
Đạo Giáo trọng hệ nhứt là Bí Pháp, vì do nơi Bí Pháp mà người ta mới tìm tàng được trong cơ quan Tạo Đoan.
Cơ quan đó, tìm tàng Bí Pháp ấy do Cách Vật Trí Tri nếu ta dịch ra PhápVăn "La raison renverra toute la chose" Cách Vật Trí Tri, ta ngó thấy Đạo Nho đã có một khoa tối cổ đó vậy.
Các Đạo Giáo đương quyền tức nhiên cơ quan Tạo Đoan vạn vật, Đạo phải có luật Hữu Hình và Vô Hình.
Đạo Giáo của Đức Chí Tôn hay các nền Tôn Giáo khác cũng vậy, Đạo là gì? Đạo là huyền vi bí mật cơ quan Tạo Đoan trọn cả cơ quan Tạo Đoan ở trong hai khuôn luật Hữu Hình và Vô Hình của nó.
Khuôn luật Vô Hình tức nhiên cơ quan bí mật huyền vi.
Tìm hiểu đặng chi? Phải tìm hiểu đặng, mới biết cái định luật về phần hữu vi. Trong hữu hình ấy, nếu ta lấy Cách vật Trí Tri của nó mà tầm vô hình vô ảnh của nó.
Luật Hữu Hình tức nhiên là Thể Pháp.
Luật Vô Hình tức nhiên là Bí Pháp.
Bây giờ chúng ta lấy một cái thí dụ, nếu nấu một nồi cơm muốn cho chín, cho ngon, ta phải làm thế nào? Muốn cho nồi cơm trắng thì phải giã gạo, trước khi nấu để gạo vào nồi ta phải vo cho sạch cám, vo rồi bắt lên nấu, nếu không đổ nước thì thành gạo rang còn gì, nếu đổ nước nhiều thì nhão, nhão quá thành cháo ngô, nên phải đổ nước cho vừa chừng với gạo, cơm cạn rồi cần phải bới lửa ra, chỉ hông lấy hơi cho chín thì gạo mới thành cơm.
Nồi cơm bây giờ đem ra, ta phải tìm cái bí mật của nó tại sao cơm nhão? Tại sao cơm khô? Tại sao có cơm cháy? Tại sao cơm sống. Nếu từ thử đến giờ QuốcDân Việt Nam không biết nấu cơm thì ăn gạo sống sao? Định luật chỉ có một chứ không có hai!
Một cái thí dụ nữa: Như làm bánh bông lan chúng ta ngó thấy muốn làm cần phải có bột, có đường, có trứng gà tất cả là ba món. Bây giờ phải làm sao cho bánh bông lan nổi tầm phồng. Chúng ta thấy phải đánh trứng gà cho nổi bong bóng đều lên, để đường vô đánh nữa, đánh cho nổi tầm phổng, rồi mới để bột vào đánh nữa, đánh cho đều, bột, đường, trứng gà đánh cho nổi thật đều, nổi chừng nào tốt chừng nấy, tới chừng hấp phải để hơi lửa vô cho nóng cho chín thành ra bánh bông lan tầm phổng, nếu bánh không nổi thì thành bánh xệp.
Nhận định, rồi mình ngó thấy bột, đường, trứng gà, là Thể Pháp, nướng chín và nổi thuộc về Bí Pháp, cái bí ẩn vô biên là để lửa nướng chín. Cho nó chín, cho nó tầm phổng đó mình không thể định được.
Bây giờ cơ quan Tạo Đoan cũng vậy, nó có cái lý do của nó, nó có cái định luật của nó, nó có từ mức của nó. Tức nhiên hình luật, chúng ta có thể quan sát được là Thể Pháp, còn mức bí ẩn chúng ta không thể lấy trí định được tức nhiên Bí Pháp.
Ấy là một điều rất trọng yếu các nền Tôn Giáo tại mặt địa cầu này, được trường cửu hay chăng là do luật Bí Pháp.
Đức Chí Tôn để cả hai triết lý cho nhơn loại biết sự thật. Bởi cớ cho nên Đức Chí Tôn đến. Ngài đến đặng Ngài giải một triết lý, một công lý hiện hữu tại mặt thế gian này.
Sự chơn thật Ngài đã giải sự chơn thật.
Ấy vậy từ đây đến sau, Bần Đạo giảng tiếp Thể Pháp cho biết Thể Pháp rồi mới thấu đáo Bí Pháp.
Có một điều Bần Đạo khuyên đừng có bơ bơ nữa, điều khó khăn phải để tinh thần trí não tìm hiểu cho lắm, khó lắm phải rán học mới có thể đoạt pháp đặng.
Điều rất khó khăn là phải viết sách, nhưng Bần Đạo muốn lấy ngôn ngữ làm thế nào cho mau hiểu.
Kỳ tới Bần Đạo giảng tiếp, từ đây đến sau phải rán nghe đặng học./.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 05-04-Kỷ-Sửu nhằm ngày (dl. 02-05-1949).
BÍ PHÁP: Bài 02
Đức Hộ-Pháp
Thuyết Đạo tại Đền Thánh, đêm 09 tháng 04 Năm Kỷ Sửu (06-05-1949)
Kỳ trước Bần Đạo giảng tại sao gọi là Thể Pháp và Bí Pháp của khuôn luật Tạo Đoan Càn Khôn Vũ Trụ này. Nay Bần Đạo giảng tiếp do nơi học thuyết nào sản xuất ra chữ Đạo.
Vả chăng, cơ Tạo Đoan hiển nhiên trước mắt, chúng ta thấy là định một khuôn luật, ngó thấy cả vạn vật đặng sống trong Càn Khôn Vũ Trụ, nó có nghĩa lý sống của nó, cũng như mình biết mình có nghĩa lý sống của mình. Cái nghĩa lý sống ấy có phần hiển nhiên ta định được, ta thấu đáo được, gọi là Đời, còn bí mật huyền vi chúng ta lấy lương tri lương năng định đoạt không được, thuộc về bí ẩn huyền vi cơ tạo, nhứt là cái Sống và cái Linh là trọng yếu của cơ quan Tạo Đoan hơn hết, nó giục tinh thần nhơn loại buộc phải tìm tàng khảo cứu cho ra hình tướng, phần ấy gọi là Đạo.
Vì cớ cho nên sách vở để lại, thiên hạ đã thú thật rằng không phương đoạt được, phần định được chỉ nói "Cường Danh Viết Đạo".
Cái sống và cái linh chia ra làm hai hạng:
Hạng khảo cứu về Vật.
Hạng khảo cứu về Thần.
Vật thì xu hướng theo bản năng của cơ Tạo Đoan hiện hữu, lấy vật lý làm căn bản, mà lấy vật lý làm căn bản thì họ hướng về xã hội nhơn quần, hay là định sống của xã hội, định sống của xã hội tức là định sống của vật. Định sống của vật tức nhiên là đời.
Bây giờ, bí ẩn huyền vi của cơ Tạo Đoan để trước mắt có nhiều lý lẽ bất công, họ khảo cứu về tinh thần đạo đức. Những lẽ bất công đó, buộc họ tìm tàng cao siêu hơn nữa đặng cho thấu đáo cả bí mật huyền vi cơ Tạo Đoan ấy.
Lẽ cố nhiên, con người cũng đồng sống với vạn vật, thấy mình linh hơn vạn vật, biết mình có bản năng đặc sắc hơn nhờ cái Linh đó. Linh ấy đáng lẽ nó phải tồn tại, nhưng cơ bí mật Tạo Đoan, có chết thì có sống, giục con người đi trong con đường hiểu biết, tìm tàng cho thấu đáo, tại sao mình sống, sống duy chủ thân thể mình, mình chết cái Linh ấy, cái sống ấy nó đi đâu? Vì cớ mà đời đã sản xuất các triết lý Đạo Giáo, các vị Giáo Chủ từ trước đến giờ đến thế gian này tạo Đạo, đã để hai khuôn khổ, định về chủ hướng ấy.
Sống về vật hình là dìu dẫn sự sống của huyền linh, họ thuyên về một đường vô hình. Sự sống chết họ thấu đáo cái hư không tiêu diệt và cái tồn tại hiển hách của nó.
Bây giờ cả hành tàng bất công do chỗ nào sản xuất ra trong cửa Đạo?
Đời chúng ta ngó thấy cái sống về vật hình chia hẳn nó ra, thì cái sống về vật hình là bóng dáng mơ hồ. Trong cái sống vật hình, thi hài thể chất, chúng ta nhận thấy nó không tồn tại, mà trái ngược lại nó vẫn là cơ quan tạo khổ cho ta mà thôi. Đã là cơ quan tạo khổ, thì cái sống này có hữu ích gì đâu? Chẳng lẽ cơ bí mật Tạo Đoan tạo ra vật hình, mà loài người ngó thấy đây để ảnh hưởng đến chơn tánh cao thượng. Tạo Đoan ra, không phải để chịu thống khổ mà thôi, phải có nguyên do gì chớ?(*)
Bởi nguyên do phải có chủ hướng, vì lẽ đó mà nó giục nhơn loại tìm tàng chí hướng của con người sống để làm gì, là tìm hiểu đặng định phận của mình, liên quan như thế nào trong cái sống, tức nhiên là thấu đáo bản năng của mình, định phần tương lai giữa Càn Khôn Vũ Trụ trong vạn vật đó vậy. Tương lai của sự sống tức nhiên tương lai của loài người. Tương lai của loài người tức nhiên tương lai của Đạo. Con người đứng trước vạn vật, thú cũng đồng thú, khác bởi người là Đạo, trong người Chí Tôn đã để Đạo, Đạo khác với thú là vì trong loài thú Đức Chí Tôn không có để Tánh Linh như Đức Chí Tôn đã định tánh cho loài người, đặng loài người làm chúa vạn vật. Vật phải dựa vào trong tay loài người đặng duy chủ đó vậy.
Ấy vậy Bần Đạo nói: Có Thể Pháp thì có Bí Pháp.
Các vị Giáo Chủ cũng phải tùng theo khuôn luật đó, một nền chơn giáo có Thể Pháp là cơ quan giải khổ cho chúng sanh tức nhiên phải có Bí Pháp đặng làm cơ quan giải thoát cho chúng sanh. Hễ độ phần xác tức nhiên phải độ phần hồn cho toàn vẹn.
Một nền Tôn Giáo nào đã xuất hiện tại thế gian này dầu Thể Pháp cao siêu bao nhiêu đi nữa, nếu không có Bí Pháp làm tướng diện căn bản, thì nền Tôn Giáo ấy chỉ là Bàn Môn Tả Đạo mà thôi.
Kỳ tới Bần Đạo sẽ giảng tiếp Thể Pháp và Bí Pháp./.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 09-04-Kỷ-Sửu nhằm ngày (dl. 06-05-1949).
Cuối những đoạn có dấu (*): Ðể cho người đọc được dể dàng, chúng tôi xin mạn phép phân đoạn tại những nơi có dấu (*). Nguyên bản chánh không có phân đoạn tại những nơi ấy. Kính cáo.
BÍ PHÁP: Bài 03
Đức Hộ-Pháp
Thuyết Đạo tại Đền Thánh, đêm 13 tháng 04 Năm Kỷ Sửu (10-05-1949)
Trước khi giảng tiếp Bí Pháp và Thể Pháp của Đạo, Bần Đạo nhắc lại một lần nữa, kỳ rồi Bần Đạo đã tỏ cho cả thảy đều biết, nhơn loại đến giữa cơ Tạo Đoan Càn Khôn Vũ Trụ, huyền vi bí mật Tạo Đoan đã cho một tánh chất ly kỳ bí mật, là khôn ngoan hơn vạn vật, do khôn ngoan ấy mà tìm hiểu rằng cả cơ thể Tạo Đoan có hai đặc điểm trọng yếu:
Một là sống
Hai là linh
Biết được hai đặc điểm ấy, thấy nhơn loại có hai chủ hướng: Một là nương với cái sống của mình, cho cái sống là hệ trọng tức nhiên là học thuyết cơ thể Tạo Đoan của đời, hai là nương theo tinh thần nhơn loại, nương theo triết lý này cho cái Linh là trọng hệ, vì cớ nên xu hướng theo phần hồn là tinh thần thường tại.
Bây giờ chia theo hai lẽ ấy.
Sống tức là Đời
Linh tức là Đạo
Hai lẽ sống chia nhơn loại ra hai đường căn bản, đứng trung tâm điểm cũng do nơi trí thức tinh thần, mà trí thức ấy xu hướng:
Theo học thuyết Đời tức là xu hướng theo cái sống.
Theo học thuyết Đạo, tức là xu hướng theo Linh.
Cả hai tinh thần ta thấy không có lầm lạc, nhứt là đàng nào cũng có nguyên lý của nấy. Đời xu hướng theo cơ quan sống tức nhiên cơ quan Đời họ cũng có Bí Pháp và Thể Pháp, xu hướng theo Đạo cũng có Bí Pháp và Thể Pháp. Nhưng hai lý thuyết tương đương như phản trắc. Về phần Đạo, thì trí thức tinh thần nhơn loại nhìn nơi vô biên biết Càn Khôn Vũ Trụ tức là cơ Tạo Đoan, nó định luật cho khối người, thành ra Pháp chủ Luật, tức là Pháp trước Luật sau, còn cơ quan Đời tức là cơ quan xu hướng theo cái sống, định Luật được rồi, mới tìm tàng Pháp đặng thi hành Luật, thành ra Luật trước Pháp sau. Bây giờ Bần Đạo nói về thuyết Đạo Giáo trước rồi mới giảng thuyết Thế Đạo sau.
Kỳ rồi Bần Đạo hứa thuyết về Đạo Pháp tức nhiên là Bí Pháp, Bần Đạo đã nói có hai chủ hướng:
Sống tức nhiên là Thể Pháp.
Linh tức là Đạo thuộc Bí Pháp.
Chia rẽ rõ ràng như vậy, rồi không còn bợ ngợ gì mà không quyết định.
Ấy vậy trong Đạo Pháp có hai thuyết:
Thể Pháp là xu hướng theo sống, cái sống của vạn loại tức là đồng sống với nhơn loại, rồi do cái sống ấy tìm tàng Thể Pháp trong tinh thần Đạo Giáo, đặng bảo thủ cho tồn tại cái Linh, tức là bảo thủ tồn tại cái khôn ngoan trí thức của mình; buổi sống thế nào vẫn còn mãi mãi đến buổi chết. Trái ngược lại dầu cho cơ quan chết ấy do cái Linh ấy không có đại diện của nó, ít nữa Linh ấy cũng để lại trong máu mủ chúng ta, tức là để lại cho nhơn loại tương lai còn tồn tại đặng. Chúng ta không thể chối cãi được, tại sao chúng ta thấy hiện tượng trên mặt địa cầu này con người có đặc điểm riêng, dầu cho kẻ sơ sanh cũng sống với cái sống của con vật, mà con vật ấy cũng sanh như những con vật khác, có điều ta nhận thấy nó khôn ngoan hơn tức là linh hơn vạn vật, Linh ấy do nơi Linh của nhơn loại đoạt được với tinh thần Đạo Giáo đặng truyền lại (Droit d'hérédité) nếu Linh ấy nhơn loại đoạt được là do cha mẹ đã đoạt được trước, vì trẻ sơ sinh kể như con thú kia lấy gì khôn ngoan hơn con thú được, nếu không nhờ cái Linh truyền thống lại chúng ta ngó thấy Bí Pháp ở giữa Thể Pháp ta thấy nó bán thế, bán lý, ấy là do sự truyền thống của tinh thần loài người ta chưa thấy một sắc dân nào đã tiến triển, tức đã tiến bước trên đường văn minh hay là đã tiến bước trên con đường trí thức tinh thần mà thối bước trở lại. Nhơn loại mãi tiến tới không bao giờ thối.
Chúng ta ngó thấy nữa: Mặt địa cầu này có nhiều sắc dân, sắc dân nào đã khôn ngoan thì họ truyền tử lưu tôn, khôn ngoan đặc biệt, điều ấy không ai chối đặng. Ấy vậy cái Linh của chúng ta không ngó thấy mà biết rằng có cái truyền thống cũng như Bí Pháp là cơ quan bí mật ta không ngó thấy, không có gì tượng trưng cho nó nơi mặt địa cầu này, nhưng ta biết rõ nó vẫn tiến triển mãi.
Nhìn cao hơn chút nữa, giữa nhơn loại đối với cá nhân hay đối với dân tộc, chúng ta thấy trước sau đặc biệt không thể gì chối cãi được nữa, ta không thể nói mặt địa cầu này, giờ phút này, có một người nào làm người như Đức Phật Thích Ca, như Đức Lão Tử, Đức Chúa Jésus Christ đã làm người. Ta không thấy người nào dám nói là người, có đủ sức đối thủ với các Đấng ấy, chưa có đặc điểm gì khác. Các Đấng ấy cũng là người như ta, tại sao lại được hơn ta vậy? Tại khối Linh của họ đoạt được muôn muôn kiếp sanh, ta không đoán biết đặng đã lập vị cho họ đến đặc điểm mà ta chưa hề biết tới, chúng ta đang còn ở hồi sau, khối Linh ấy định phận trong tinh thần đạo đức, định phẩm cho họ làm Giáo Chủ nhơn loại.
Hai đặc điểm Bần Đạo vừa nói thuộc về Bí Pháp.
Bây giờ nói Thể Pháp tức là nói xu hướng của cái sống. Các người đã tiềm tàng học thuyết về cái sống mà họ có tinh thần xu hướng về cái Linh của họ, họ đã làm thế nào tìm ra khuôn luật, Bần Đạo đã nói, họ tìm khuôn luật cho hạp với cơ Tạo Đoan Càn Khôn Vũ Trụ tức nhiên cái sống của họ phải thế nào cho phù hạp với chơn lý của vạn vật trước họ đặng đồng sống với vạn vật, đồng sống thì ta thấy có khuôn luật đặc điểm như thế nào? Tại sao vậy?
Tại luật thiên nhiên định cho họ bảo thủ cái sống (Instinct de conservation) luật thiên nhiên cho bảo thủ cái sống là khuôn luật định phận làm người giữa nhơn loại vậy.
Rồi đến bảo thủ cái Linh cho tồn tại tức nhiên là bảo thủ khôn ngoan, cái khôn ngoan hơn vạn vật. Trước phải cung kỉnh cái sống ấy tồn tại mãi, cái sống ấy vẫn còn về tương lai đạo đức tinh thần của nhơn loại để định phận cho nhơn loại. Nhơn loại đã tìm tàng và hiểu rằng: Trên một triệu năm khi nhơn loại để chơn nơi mặt thế này, cho đến ngày nay vẫn còn tồn tại, tại thế này có thể thêm chớ không có bớt là do khôn ngoan, biết bảo thủ cái sống tại mặt địa cầu này thay thế cho Đấng Chí Linh mà sửa cãi, tô điểm các cơ quan hữu hình cho đặng tận thiện tận mỹ như Đấng Chí Linh đã định, họ theo khuôn luật của mỗi ngày đi tới nơi, mỗi kiếp mỗi mới mãi thôi "Nhựt nhựt tân hựu nhựt tân" ngày nay mới, càng ngày càng mới là lời Tiên Nho của chúng ta để lại, đổi mới là khuôn luật thiên nhiên chỉ định cho họ mỗi ngày phải mới tùng theo khuôn luật tấn hóa của vạn loại trong Càn Khôn Vũ Trụ này vậy. Muốn bảo thủ cho cái sống tồn tại, Đạo Giáo lập ra cái thuyết "Ái tuất thương sanh" làm căn bản. Họ lấy yêu ái mà định luật cho cơ quan bảo thủ cái sống tồn tại đến ngày nay, là do nơi đó mà tinh thần của con nguời định quyết rằng; khuôn luật Tạo Đoan có bảo thủ mạng sống với khuôn luật "Ái tuất quần sanh" của họ đặng thi thố định con đường, rồi họ quả quyết đi đến, tức nhiên sẽ đến cảnh Linh của họ giữa vạn vật, họ sẽ thấy đặc điểm của họ để làm chủ Vạn linh ấy. Giờ phút nào họ thấy được thì họ có quyền vi chủ Vạn Linh. Đương nhiên họ sống với hình xác thịt mà họ đã quả quyết định quyền vi chủ của họ giữa Vạn Linh được, buổi thoát xác tức là buổi lìa khỏi căn bản nguyên sanh của họ, họ sẽ tới được cảnh giới Chí Linh; ấy là Bí Pháp Đức Chí Tôn để tại mặt địa cầu này vậy.
Kỳ rồi Bần Đạo đã thuyết một nền Tôn Giáo nào có đủ cái Linh tại thế giữa loài người, làm cho loài người biết ra một nền chơn giáo có đủ bằng cớ là Huyền Linh, đặng bảo thủ phần hồn của loài người là căn bản của loài người, còn nền Tôn Giáo nào không có cái Linh ấy, Bần Đạo đã nói chỉ là Tả Đạo Bàn Môn mà thôi, bởi không có đủ quyền năng siêu độ chơn hồn của vạn loại, phải có cái Linh đủ năng lực độ hồn nhân loại. Bằng không, Bần Đạo nói lại, chỉ là Tả Đạo Bàn Môn đó thôi.
Chúng ta thấy các nền Tôn Giáo từ trước đến giờ dầu cho Linh ấy không ra tướng diện từ buổi có loài người vẫn chạy theo Linh ấy. Các nền Tôn Giáo tại mặt địa cầu này và các vị Giáo Chủ tạo Đạo vẫn tìm cách làm cho cái Linh ấy được ra tướng diện. Bần Đạo không cần tả nhiều e thiên hạ nói của mình trọng hơn của thiên hạ. Đạo Cao Đài có đủ quyền năng hiển hách anh linh của nó, không có nền Tôn Giáo nào tại thế này khả dĩ đối thủ được cả thảy, tức nhiên Bí Pháp của Đạo Cao Đài giờ phút này không có kẻ nào dám cả gan nói Bí Pháp ấy do tay phàm hay do một vị Giáo Chủ mang xác phàm cầm nó mà chính trong tay của Đức Chí Tôn là Đấng tạo Càn Khôn Vũ Trụ, chúa cả vạn vật, cầm Bí Pháp trong tay đặng độ rỗi phần hồn nhơn loại, tức nhiên không có nền Tôn Giáo nào dám đối thủ với Đạo Cao Đài cho bằng đặng./.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 13-04-Kỷ-Sửu nhằm ngày (dl. 10-05-1949).
BÍ PHÁP: Bài 04
Đức Hộ-Pháp
Thuyết Đạo tại Đền Thánh, đêm 12 tháng 05 năm Kỷ Sửu (08-06-1949)
Đêm nay Bần Đạo giảng tiếp Thể Pháp và Bí Pháp của Thế Đạo. Mấy kỳ trước Bần Đạo đã trình bày đại cương Thể Pháp và Bí Pháp của Đạo; bây giờ Bần Đạo khởi tách ra từ chi tiết của nó.
Bần Đạo đã choán biết, có nhiều người ham nghe Bí Pháp của Bần Đạo lắm, nhưng Bần Đạo phất ngọn lên đó để đặng cho họ theo đặng họ đi cúng, nếu không họ làm biếng đi cúng họ ngủ hết.
Bần Đạo khởi thuyết Thể Pháp của Đời.
Vả chăng Bần Đạo đã nói rằng: do hai chủ yếu làm cho con người xu hướng theo hai lẽ.
1) Yếu tố thứ nhứt sống đeo đuổi theo sống, theo yếu tố sống tức nhiên theo Đời.
2) Yếu tố thứ nhì đeo đuổi theo Linh tức nhiên theo Đạo.
Trước Bần Đạo đã thuyết sống của Đời, chúng ta đã thấy luật định sống của con người. Bần Đạo nói: muốn định sống cho có trật tự, cho có đẳng cấp, thì họ có hai cái hòa bình và tranh sống với nhau, cái khổ Thể Pháp của Đời là vậy. Chúng ta thấy Thể Pháp của Đời để đặng bảo toàn sự sống chung của nhơn loại.
Chúng ta thấy trước mặt không cần kiếm.
Muốn bảo toàn sanh mạng của loài người, chúng ta thấy buổi Thượng cổ lúc còn ăn huyết ở hang chưa biết cất nhà cửa lầu đài đặng ở, phương sống của họ khó khăn lắm.
Chung quanh họ bao vây toàn những cơ quan tiêu diệt họ là thú dữ thiên tai mộc ách.
Họ muốn bảo toàn mạng sống, tức họ phải kiếm phương thế tự an tự lập. Chỉ có hai bàn tay không thì làm sao kiếm cho ra sắt đặng làm binh khí tự vệ lấy mình; vì buổi ấy thú dữ mạnh hơn người.
Người Mường Mán tự vệ bảo toàn sanh mạng buổi đó cho còn tồn tại cho đến ngày nay không phải dễ.
Chưa biết cất nhà, họ phải chun vô hang, hố đặng bảo trọng lấy họ, rồi một người chiến đấu với thú mạnh mẽ không nổi họ phải chung hiệp với nhau, tức nhiên thành Mường Mán như chúng ta ngó thấy Mọi miền Cao Sơn của chúng ta vậy.
Mường Mán ấy chẳng phải để chiến đấu với thú dữ, chiến đấu với thiên tai mộc ách mà thôi, họ còn phải chiến đấu với các cơ quan làm hại họ, tức nhiên Mường Mán này muốn đè lên Mường Mán khác, buộc họ phải chiến đấu, chiến đấu đặng giành quyền tự chủ của mình.
Muốn chiến đấu cho đắc thắng họ phải chung hiệp lại đại đa số hơn, thành ra một quốc gia một xã hội. Trong một quốc gia chúng ta thấy nhiều số nhơn sanh là vậy.
Ngày nay định sống của họ cho có trật tự thì khổ lắm, bởi vì ai cũng muốn bảo tồn mạng sống của mình trước đã. Nhiều khi mình muốn bảo tồn mạng sống của mình chẳng kể mạng sống của kẻ khác, khổ là chỗ đó.
Muốn cho sống có trật tự thì phải định luật tức nhiên họ phải bảo vệ sanh mạng của dân, đặng buộc người đồng sống trong khuôn khổ tự hữu của mình; muốn cho được vững chắc thì phải đặt ra luật pháp, có luật pháp thì phải có Viên Quan Vua Chúa.
Định luật xã hội phải như thế mà thi hành rất khó khăn lắm, lúc tâm lý nhơn sanh còn đơn giản, thi hành là muốn cho thiên hạ bảo vệ sự sống của dân trong một quốc gia mà thôi, rồi lần lần họ khôn ngoan, họ lấy khôn ngoan của mình đặng chiến đấu với các cơ quan nào làm cho mình mất tự do làm cho mình không được tự chủ.
Nhơn loại bây giờ cũng thế, họ phá rối luật pháp buộc ràng họ bằng mọi cách gián tiếp hay trực tiếp. Bởi vậy ngày nay một luật định xã hội bảo toàn sanh mạng cho nhơn loại đương nhiên bây giờ khó khăn đáo để.
Đầu tiên khởi ra Mường Mán chiến đấu với nhau, Mường Mán đó tiêu diệt sang qua xã hội quốc gia, quốc gia bao giờ cũng muốn cường quốc đông dân số, như các nước mạnh kia vậy. Cũng như thể Trung Hoa dân số có lối bảy trăm mấy chục triệu dân tộc hiện tại thành thử họ thường thường tương tranh với nhau luôn luôn, khuôn khổ kia xét lại đến ngày nay các liệt cường quốc gia liên minh của mặt địa cầu này, muốn bảo toàn mạng sống khó khăn lắm.
Bần Đạo nói cho mấy người nghe đặng mấy người theo, rán theo sau Bần Đạo đặng hiểu Bí Pháp của Đạo.
Bần Đạo cho biết rằng: Bí Pháp của Đạo và Thể Pháp của Đời có liên quan với nhau, nếu làm biếng không nghe Đời không thể gì biết đến Đạo.
Bần Đạo nói rằng: về Thể Pháp, dù Thể Pháp, dù Bí Pháp nào nói rõ Thể Pháp một quốc gia nào, một dân tộc nào, mà phù hạp với tinh thần tiến triển của dân sanh nước ấy, tức nhiên phù hạp với tinh thần hữu nghị của họ, thì nó tồn tại bằng trái ngược lụng lại tinh thần của dân tức nhiên dùng cường quyền ép bức mà thôi.
Bần Đạo đã nói từ hồi nào đến giờ, con người bao giờ cũng chiến thắng với các trở lực làm mất tự do, mất quyền vi chủ của mình, tức nhiên tâm lý nhơn sanh không buổi nào chịu thua một cường bức nào làm cho họ đã mất quyền vi chủ, họ chiến đấu mãi thôi.
Ngày giờ nào còn quyền áp bức, dân tộc này, ép bức dân tộc khác, dùng quyền tàn sát đặng bảo thủ sanh mạng của họ, thì giờ phút đó chưa có hòa bình trên mặt địa cầu này. Không hòa bình là Tả Đạo, là giả pháp, không đúng với tâm lý nhơn sanh.
Ấy vậy, chúng ta thấy những quyền luật nào lập ra tại mặt địa cầu này mà không trái với tâm lý của nhơn loại thì nó sẽ tiến triển theo sự tấn hóa của nhơn loại, đặng bảo tồn sanh mạng của nhân loại cho được vĩnh viễn và hạnh phúc.
Ấy thế Đạo của Đời chơn chánh đó vậy./.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 12-05-Kỷ-Sửu nhằm ngày (dl. 08-06-1949).
BÍ PHÁP: Bài 05
Đức Hộ-Pháp
Thuyết Đạo tại Đền Thánh, đêm 22 tháng 05 Năm Kỷ Sửu (18-06-1949)
Đêm nay Bần Đạo thuyết Bí Pháp của Thế Đạo, vì kỳ trước Bần Đạo đã thuyết Thể Pháp của Thế Đạo.
Nay Bần Đạo phải thuyết Bí Pháp đặng cho toàn thể con cái Đức Chí Tôn biết định phận chơn với giả. Người ta tưởng Thế Đạo không có Bí Pháp, có chớ, tại Đời không đem ra để cho toàn thể nhơn sanh hiểu biết.
Có Bí Pháp chớ, bởi những hạng vĩ nhân tạo thời cải thế, đã lập công trạng đối với nhơn loại nơi mặt địa cầu này. Chủ hướng của họ tùy theo khuôn luật, khuôn pháp nào đặng họ tạo nên cơ nghiệp vĩ đại nơi mặt địa cầu này.
Thể Pháp của họ chúng ta thấy họ mơ ước một điều: trước khi quá vãng (chết) được nêu danh ư hậu thế hay là để lại một trang sử tốt đẹp cho đoàn hậu tấn của nhơn loại.
Xem ấy mà định hướng chủ tâm của mình hay định tương lai của mình, tức nhiên thế gian người ta thường gọi: "Lưu danh ư hậu thế" để danh lụng lại cho kẻ sau đó vậy.
Lưu danh ư hậu thế, họ đã dùng phương thế nào, họ đã dùng chánh thuyết nào đặng họ phụng sự cho thiên hạ trong một nước? Nếu họ không phụng sự cho Tổ Quốc.
Đối với Quốc dân họ phụng sự cho Quốc dân, đối với toàn nhơn sanh nơi mặt địa cầu này, họ có đủ chủ hướng phụng sự cho nhơn loại. Đã định tâm phụng sự tức nhiên nơi này là nơi bí yếu hơn hết. Xin để ý.
Hễ quyết tâm phụng sự tức nhiên họ phải lấy chánh tâm làm căn bản, do chánh tâm ấy họ bước vô khuôn khổ của Đạo, tương liên với Đạo, chánh tâm ấy để giá trị cho Quốc dân. Thiên hạ bước vô đường chánh tâm rồi tức nhiên có liên hệ với Đạo, họ phụng sự cho thiên hạ là chỗ liên hệ sự đạo đức tinh thần của toàn nhơn sanh đó vậy. Chúng ta đã thấy rằng lời của Đức Chí Tôn đã nói: "Đạo không Đời không sức mà Đời không Đạo không quyền", cả hai tinh thần ấy phải tương liên mật thiết cùng nhau không thể gì rời rã với nhau đặng. Chúng ta đã thấy nhiều lý thuyết họ đã tìm tàng họ muốn thế nào Đời thoát ly với Đạo mà như thế chúng ta ngó thấy các nền Tôn Giáo như bên Thiên Chúa Giáo như Care Litaire muốn thoát ly ra khỏi Công Giáo Gia Tô mà họ chẳng hề thoát ly đặng.
Họ muốn thoát ly Công Giáo, thoát ly Công Giáo tức nhiên họ tìm tàng đáo để họ kiếm phương thế giải thoát ra khỏi Đạo nhưng cũng không đặng.
Giờ phút này chúng ta ngó thấy Nga Sô Viết lấy thuyết Cộng Sản làm căn bản, thuyết Cộng Sản tức nhiên thuyết Duy Vật lấy vật chất làm căn bản, mà chối bỏ linh hồn.
Về thuyết vật hình, tức nhiên nghịch hẳn với tinh thần đạo đức. Vật chất họ phải đề xướng: "Tam vô" là vô thần đứng đầu hơn hết, nó phải đánh đổ tinh thần đạo đức đặng nó đi trọn con đường vật chất. Phải chiến đấu để vật chất thắng tinh thần.
Giờ phút này nước Nga cũng chưa hề thoát ly đạo đức được phải đem đạo đức làm căn bản mà thôi.
Tại Nga Sô lúc Cộng Sản chiến thắng đánh đổ chánh quyền rồi, tức nhiên "Staline" không còn nhìn Đạo Giáo nữa, không còn nhìn quyền Hội Thánh La Mã nữa.
Ngày đánh đổ chánh quyền khám phá quyền lực của Nhà Thờ, chỉ trích quyền lực của Nhà Thờ, nhưng rốt cuộc ngày nay phải đem Đạo Giáo đem Công Giáo, tái lập các Đền Thờ trở lại.
Tuy vẫn không tùng quyền Ông Giáo Hoàng La Mã mà nó vẫn tùng quyền Ông "Got Oann" như Ông Giáo Hoàng của nhà Thờ mà thôi.
Còn nhiều nữa, nếu chúng ta quan sát từ thượng cổ, bao giờ Đời cũng kiếm phương thế thoát ly Đạo, chiến đấu để thoát ly Đạo.
Họ biết không tùng theo nó thì họ không quyền mà hễ tùng theo nó thì mất tự do tự chủ của họ, nó mất thì nó chẳng khi nào mà trị thiên hạ được?
Từ thượng cổ đến giờ không một quốc gia xã hội nào nơi mặt địa hoàn này vô Đạo mà cầm quyền thiên hạ được, không thể có.
Vì cớ cho nên cổ nhơn tức nhiên Tổ Phụ nòi giống Việt Nam trị dân vi đạo "Dĩ đạo vi tiên" tức nhiên trị Đạo chớ không phải trị dân đó vậy.
Có một điều Bần Đạo chỉ chỗ chính giữa, muốn phụng sự quốc dân hay quốc gia cho đắc lực, phải có thành ý, rồi chánh tâm; muốn có chánh tâm thì mình phải tề gia trị quốc rồi mới đến bình thiên hạ nghĩa là: tu thân, tức nhiên nhơn đạo đó vậy. Chính thiên hạ có liên quan mật thiết với Đạo mà lưu lại thanh sử, nhưng cũng chưa đủ.
Chúng ta ngó thấy họ muốn thoát ly Đạo Giáo, nói gần hơn nữa, ở cõi Á Đông chúng ta thấy gì? Như nhà Vua các công thần "Vị quốc vong thân" nhà Nam ta có phong thần nên buộc các Làng các Tổng, các Huyện, các Phủ, phải lập Đền Thờ, thờ các Đấng ấy, là Đình của chúng ta đó vậy.
Thoát ly, họ muốn thoát ly Đạo, đặng họ lập khuôn khổ riêng tư của họ, họ càng lập càng đội Đạo Giáo trên đầu thêm nặng nữa.
Bên Âu Châu chúng ta thấy gì? Họ muốn thoát ly Đạo Giáo mà những công thần ấy họ dựng hình để chỗ nào đông dân chúng, tùy theo công nghiệp của mỗi người họ định chỗ dựng hình ảnh của họ để lưu lại cho hậu thế, dựng hình ảnh ấy là gì? Ấy là Bí Pháp của họ đó vậy.
Họ tưởng thoát ly Đạo Giáo là dễ nhưng mà hình cốt dựng lên họ để cả bài học cho hậu tấn; những cái hình ảnh còn tồn tại đây, xác thịt xương máu của những kẻ ấy được lưu hình ảnh tại mặt thế này là những Đấng để cả tâm đức phụng sự cho quốc gia và nhơn loại đó vậy.
Làm cho đặng họ ham lắm.
Giờ phút này các vị cầm quyền trị thế trong một xã hội nhơn quần nào, cũng mơ ước một điều là phải lưu danh hậu thế mà thôi, lưu cả hình ảnh tôn nghiêm của họ để hậu thế nữa.
Vì cớ cho nên nhiều người, nhiều khi khổ hạnh phải cực khổ trong trường tranh đấu vì quốc gia xã hội nhơn quần khổ não về tinh thần nhọc nhằn biết mấy. Có nhiều người thối chí mà nhờ cái năng lực và quyền lực lưu danh ư hậu thế ấy buộc họ phải làm nữa, trong con đường phụng sự quốc gia cho đến cùng. Vì thế phải có một tấm lòng chơn thật mới quyết định được.
Ấy vậy, Bần Đạo lập lại một lần nữa để lại một trang lịch sử tốt đẹp cho hậu thế, để hình ảnh tôn nghiêm cho hậu thế ấy là Bí Pháp của Thế Đạo.
Còn nữa, ngoài ra nữa, còn có cái này; cái này không hình trạng mà đáng sợ hơn hết là miệng lưỡi của thế gian. Có nhiều việc không để nơi trang lịch sử được, nhiều khi bất công của nhà vua hay của nhơn quần họ không để nơi trang sử được, họ chỉ để nơi miệng lưỡi thế gian mà thôi, đáng sợ hay chăng là chỗ đó. Hoặc là vì sự bất chánh yểm cả công nghiệp công thần của mình; nhưng công nghiệp ấy họ để nơi miệng lưỡi của dân, của thiên hạ. Bí Pháp ấy mới cao thượng, mới bền bỉ, Bí Pháp mà Đức Chí Tôn dành để đặng ban thưởng cho những kẻ vì đạo nhơn luân của con người biết quên mình. Vì đạo mà tạo tinh thần cho quần chúng đó, Bí Pháp ấy cao thượng hơn hết./.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 22-05-Kỷ-Sửu nhằm ngày (dl. 18-06-1949).
BÍ PHÁP: Bài 06
Đức Hộ-Pháp
Thuyết Đạo tại Đền Thánh, đêm 26 tháng 05 Năm Kỷ Sửu (22-06-1949)
Kể từ hôm nay Bần Đạo giảng tiếp Thể Pháp và Bí Pháp của Thiên Đạo.
Trước khi Bần Đạo giảng một cái triết lý trọng yếu ấy Bần Đạo muốn cho cả thảy chúng ta mỗi người đều để tinh thần trí não của mình tự xét lại coi đương nhiên chúng ta đang sống trong hoàn cảnh nào ...? Chúng ta làm gì nơi cõi thế này? Cái lập trường của kiếp sống ta đối với vạn vật hữu hình mà Đức Chí Tôn gọi là Vạn linh ấy thế nào?
Mỗi người tự soát, tự soát đặng mới có thể hiểu đặng huyền vi bí mật của Thể Pháp và Bí Pháp của Thiên Đạo, ấy là cái chìa khóa của chúng ta mỗi đứa mở lấy cái nguyên linh của chúng ta vậy.
Bần Đạo rủ cả thảy con cái Đức Chí Tôn cầm chìa khóa nơi tay, đặng mở cả huyền vi bí mật ấy cho thấu đáo, thấu đáo cho đặng rồi mới có thể biết được cơ quan giải thoát của mình.
Bần Đạo lấy của Bần Đạo trước đã, Bần Đạo tự mình quan sát của Bần Đạo coi cái sống của Đời và cái Linh của Đạo, tức nhiên trí hóa khôn ngoan vô đối của chúng ta thuộc về Đạo như thế nào?
Linh ấy sống với phương pháp nào cho còn tồn tại? Tại sao chúng ta vào cửa Đạo, chúng ta vào đây chúng ta ngồi, tại sao chúng ta chung hiệp với nhau vô Đền Thánh này mỗi đêm phải cầu nguyện kinh kệ với Đấng mà chúng ta gọi là Đấng Tạo Đoan cả Vạn Linh tức nhiên Đấng Chí Linh đó vậy. Chúng ta tôn sùng Đấng ấy để làm gì? Đấng ấy đó hữu ích gì cho chúng ta hay chăng? Mà chúng ta phải phụng sự những điều chí thiết ấy, nên tìm tàng cái nguyên lý của nó cho thấu đáo mới gọi rằng tu mà muốn tu phải biết huyền vi bí mật ấy mới tu, còn không biết bất quá vô Đền Thánh hát chơi vậy thôi.
Hễ khi nào làm biếng không đi cúng rồi đổ thừa có chuyện này chuyện kia, tại mình không biết giá trị của sự đi cúng, phải biết trong đó cái đã.
Bần Đạo biểu tự soát mình coi, tại sao vô Đạo Cao Đài, Đấng đã chung hiệp với con cái của Ngài là Đấng Chí Linh tức nhiên là Đức Chí Tôn chúng ta đương chiêm ngưỡng tại Đền Thánh này. Phải biết giá trị đó mới dám can đảm thí thân cho Đạo mới có thể cương quyết đặng chung sống với con cái của Ngài. Chớ không lẽ ngồi đó tu theo họ mà không biết chơn lý ở đâu.
Các nền Tôn Giáo, chúng ta đã thấy chán chường trước mắt vì lẽ đó mà vong phế.
Bần Đạo thuyết, bây giờ Bần Đạo khai rõ cả tâm lý của Bần Đạo rồi cả thảy con cái Đức Chí Tôn cũng vậy tự mình cung chiêu của mình đi.
Bần Đạo theo Đạo Cao Đài do lẽ này: Kiếp sống của Bần Đạo không có biết tin gì hết, nhứt là đầu óc chỉ lấy triết lý học thức làm căn bản, không ai nhồi sọ đặng, nhứt định không để chủ quyền tinh thần mình không bị ai lừa gạt, dầu cho Bần Đạo đã theo Đạo Thiên Chúa Giáo.
Hồi thuở nhỏ nghe ra bị khó nuôi rồi Ông già Bà già sanh ra mấy người đều chết hết, đến nóng lạnh cũng chết, đến đổi thiên hạ sợ, tới phiên tôi Ông già Bà già bồng đem tôi đến Nhà Thờ Thiên Chúa cho ông Cha, làm con nuôi ông ấy.
Tôi lớn lên đi học trường mà cũng đi theo làm đồng nhi bên Thiên Chúa Giáo cũng như ai kia vậy; nhưng trước khi đi học Bà già cho vô trường học Nho trước, học chừng một năm rưỡi rồi cho vô trường Pháp nên không biết thêm gì hết, xét mình tự nhỏ đến lớn kỳ khôi hơn ai hết.
Cái gì cũng muốn biết mà thôi, cho đến lúc khôn ngoan trí thức cũng vậy, cả cơ quan của Đời tìm tàng cho thấu đáo mọi điều, tìm cho hiểu, mỗi sự chi cũng tìm cho biết mà không biết được thì không ăn không ngủ.
Khó lòng lắm, khó lòng quá, khó khăn lắm, vậy phải tìm qua cho đặng hay biết cho đặng mọi việc ở Đời.
Suốt một thời gian, vẫn giục thúc tới chỗ bí mật huyền vi của Càn Khôn Vũ Trụ, giục thúc Bần Đạo một điều làm cho tinh thần Bần Đạo xốn xang biết bao.
Bần Đạo thấy chung quanh các bạn đồng sanh của Bần Đạo dầu cho chí thân hay ngoại tộc cũng vậy họ đương dung rủi trên con đường quanh co khúc khuỷu của Đời. Bần Đạo cũng sống theo với họ trong con đường dục tấn, con đường ấy tức nhiên chạy theo quan chức mỗi bước, mỗi ngày tình trạng khổ não, khó khăn lắm, không biết họ làm cho tinh thần đặng hạnh phúc hay đau khổ! Không thấy hạnh phúc gì hết; qua mỗi khoảng đường day lụng lại kẻ thương yêu của mình dầu lớn dầu nhỏ họ đã té quỵ theo dọc đường ấy nghĩa là họ chết.
Những kẻ thương yêu Bần Đạo, Bần Đạo dòm lại một lần nữa họ đều chết hết dầu chí thân hay ngoại thân cũng vậy. Tức tối thay cho quyền năng vô đối của vô hình kia tại sao phải từ bỏ? Không sanh sống cho vẹn toàn con người già hay trẻ đều lần lượt chết hết biết bao nhiêu giọt lệ của Bần Đạo đã khóc với thân già và biết bao nhiêu giọt thảm của Bần Đạo đã rưới trên thân trẻ. Tình trạng đau khổ giục thúc Bần Đạo tìm hiểu coi cái phương pháp giải kiết phương pháp giải nạn coi có nơi nào hay chăng. Thử tự soát mình, tự xét nghĩ mình cũng một mạng sống cũng như mấy ngàn triệu mạng sống nơi mặt địa cầu này, không kể các Vạn Linh bao phủ chung quanh họ, thấy họ khổ trong con đường sống ấy lắm.
Có nhiều khi muốn bảo thủ mạng sống họ mà họ phải tận diệt mạng sống khác. Các mạng sống bị tận diệt thì họ phải chịu đau khổ thống thiết vô ngần vô đối, trường đau khổ ấy trải trước mặt Bần Đạo.
Đối với vạn vật thấy tình trạng mạnh hiếp yếu, dữ ăn hiền, đối với loài người thì ngó thấy họ không kính nể mạng sống đồng loại đồng chủng với nhau. Một tấn tuồng bất công trải trước mặt, muốn kiếm phương an ủi thấy mình cũng một kiếp sống như các người kia vậy.
Mỗi chúng ta kiếm con đường hữu ích, cái hữu ích cho bạn đồng sanh của mình, hễ thấy mình ăn thì bạn mình mất ăn; mình mặc thì bạn mình mất mặc, tức nhiên chính mình, mình cũng giành sống với họ. Xét đoán mình không có hữu ích chi đối với họ cả, mà trái ngược lại mình làm tội ác, mình làm khổ não cho họ mà thôi. Bởi vì mình giành giựt cái sống họ để bảo thủ cái sống của mình, mình phải giành cái sống của họ kia kìa thành ra mình không hữu ích gì hết.
Kiếm thế an ủi, có thể nào làm nô lệ cho họ tôi không ăn mà tôi sống không, nói đến cái đó thì rất khó muốn làm cho đặng trọn trong con đường sống tức nhiên tôi không thể làm được. Muốn kiếm giải pháp ấy cho được thì tôi gởi cả tâm hồn tôi vào tay một Đấng vô hình, nương theo cái quyền năng vô hình làm Chúa của các mạng sống ấy đặng kiếm thế bảo thủ mạng sống của thiên hạ.
Triết lý ấy kiếm coi ở đâu, như bên Phật Giáo biểu vô chùa mà tu, tụng kinh gõ mõ đặng ăn mà sống, sống riêng cho cá nhân, như vậy thì còn tội ác hơn hết thảy bởi vì biểu họ bố thí cho mình ăn để mình sống còn họ thì thiếu sống. Các nơi khác nữa, ngồi đó duy chủ cái quyền sống như các nền Tôn Giáo khác họ giành cái sống ấy còn mạnh mẽ hơn các thứ quyền giành sống khác nữa. Nếu tới một vài cửa khác họ lại giành sống xảo trá còn tồi tệ hơn nữa. Kiếm phương thế giúp sống cho đồng sanh mà kiếm không ra.
May thay trong buổi khuẩn bách tinh thần ấy, có Đấng quyền linh đem lại với một phương pháp vô hình, không hình mà làm cho chúng ta thấy, không nói mà làm cho chúng ta nghe là Đức Cao Đài Thượng Đế, nhờ đó mà Bần Đạo khỏi đi đâu hết. Nếu không có Đấng ấy thì có lẽ Bần Đạo điên đi mà chớ, điên vì cái khổ não của Đời, điên vì gớm ghiết cái cơ quan tranh sống của nó.
Ban sơ Bần Đạo chưa biết Ổng mà Ổng cho Bần Đạo làm Hộ Pháp. Bần Đạo không biết gì hết, Bần Đạo nhắm mắt Bần Đạo theo.
Tại sao Đấng ấy làm thiên hạ nghe, thiên hạ theo, chính mình cũng vậy. Lý lẽ của Ổng, Ổng đem đến cho thấy rằng: giúp sống chớ không phải giành sống, các bạn của mình họ đua họ theo, em út của mình dĩ chí cho đến bạn đồng niên mình họ đùa họ theo họ nghĩ rằng tôi gởi tâm hồn tôi cho Ổng, một mình tôi, tôi thấy rằng không đủ, Đấng tạo Đạo không phải gọi một mình tôi mà chính gom góp đại đa số tâm hồn như tôi và có thể đem gởi cả đôi triệu tâm hồn khác nữa vì vậy tôi có thể theo Đấng này được, Đấng đó tôi nên theo, theo có hai lẽ.
1) Về phần Đời tôi khỏi cái bệnh đau thảm của tôi.
2) Về phần Đạo tôi khỏi côi cút lẻ loi.
Tôi có một đám người biết tình ái vô hạn của tôi, có một đám người cùng tôi gánh khổ của đời tức nhiên họ chịu nhiều khổ đặng họ giải khổ cho thiên hạ.
Nói đó là nói của tôi, để tâm hồn theo Ổng về mặt Đời và về mặt Đạo mà thôi, tôi chỉ nghĩ có bao nhiêu ngoài ra tôi không biết gì nữa.
Bây giờ Đạo Cao Đài không biết chánh hay là tà, tôi chỉ biết Đấng ấy có thể gom góp đôi triệu tâm hồn vào tay Đấng ấy là Đấng Chí Linh.
Bây giờ tôi không tin Đấng ấy nữa mà tôi chỉ tin một điều là ngày giờ nào cái linh hồn tôi thoát xác ra đi bỏ cái địa hoàn này, tôi sẽ gặp các bạn chí thân từ trước của tôi, Tổ phụ Ông Bà của tôi. Tôi không biết cảnh hư linh như thế nào mà nếu tôi gặp được họ thì tôi mới chắc.
Ngày giờ nào tôi về cảnh Thiêng Liêng kia, quả nhiên linh hồn tôi còn tồn tại chớ không phải tiêu diệt như nhiều triết lý vô thần, nhiều nhà duy vật đã thuyết nơi mặt địa cầu này.
Giờ phút nào tôi thoát xác tôi về với hư linh mà tôi được một vài triệu linh hồn về cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống thì tôi không còn hạnh phúc nào hơn chỗ đó nữa. Tôi không biết giá trị, không biết quyền năng ra sao, nhưng tôi ngó thấy Ổng có thể làm cho tôi làm bạn với cả trăm cả triệu chơn linh trên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, vì cớ cho nên tôi phải vào Đạo Cao Đài đặng tôi phụng sự cho Ổng tức nhiên tôi phụng sự cho con cái của Ổng. Tôi nghĩ có bao nhiêu đó mà tôi theo cho đến ngày nay. Tôi đứng giữa Tòa Giảng này để ngửa cái triết lý ấy đặng cho toàn thể con cái của Đức Chí Tôn rõ biết đặng suy xét.
Đó tôi lấy chìa khóa mở tinh thần của tôi rồi đó còn mấy bạn lấy chìa khóa mở tinh thần mấy bạn đi rồi tôi tiếp tục giảng Thể Pháp và Bí Pháp của Đạo Cao Đài./.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 26-05-Kỷ-Sửu nhằm ngày (dl. 22-06-1949).
BÍ PHÁP: Bài 07
Đức Hộ-Pháp
Thuyết Đạo tại Đền Thánh, đêm 29 tháng 05 Năm Kỷ Sửu (25-06-1949)
Đêm nay Bần Đạo thuyết Thể Pháp Thiên Đạo Cao Đài. Kỳ trước Bần Đạo và toàn con cái của Đức Chí Tôn đã rủ nhau tự soát cái kiếp sống của mình đặng thấu đáo hành tàng cả chơn tướng của mình, phải thế nào đối với Càn Khôn Vũ Trụ, đối với kiếp sống.
Tưởng cả mỗi người chúng ta đều có trí định cái nguyên do căn bản của sự sống mình, cũng như Bần Đạo đã tự soát nơi giảng đài này bữa hôm trước đó vậy.
Chúng ta đã thấu đáo cả chơn truyền của Đức Chí Tôn các huyền vi bí mật cơ tạo đoan Càn Khôn Vũ Trụ, nó có ba điều trọng yếu là:
1) Cái kiếp sanh của ta theo như chơn truyền Đức Chí Tôn các chơn linh đến tại mặt thế này hay là các địa giới trong Càn Khôn Vũ Trụ, cốt để trả quả kiếp của mình, hoặc mình đã tạo căn quả, vì trong con đường tấn hóa chơn linh của mình không đủ mực thước để điều khiển khối nguơn linh yếu ớt, không đủ quyền duy chủ mà phải phạm thêm tội tình oan nghiệt.
2) Đến đặng tìm tàng cái học lực của mình, học lực của mình là điều mình muốn biết cả kiếp căn của mình nếu không biết cũng đeo đuổi theo, tìm tàng theo cho biết cả cơ quan bí mật tạo đoan.
3) Là đến lập vị cao thăng hơn nữa tức nhiên theo cơ tạo đoan Càn Khôn Vũ Trụ về hữu hình cốt yếu để giúp cho các chơn linh tấn triển trên con đường Thiêng Liêng Hằng Sống.
Bần Đạo có cho toàn thể chúng ta thấy căn sống của mình chẳng phải nơi trái địa cầu 68 này mà thôi, mà các mặt địa cầu khác trong Càn Khôn Vũ Trụ cũng đều một khuôn luật ấy.
Có nhiều trái địa cầu tấn triển cao hơn khuôn khổ kiếp sống của con người, có thể giảm bớt tội nhưng khuôn luật vẫn một mà thôi không có chi sửa đổi.
Chúng ta đã thấy mình sống, kiếp sống của mình như thế; Bần Đạo đã cho toàn thể con cái của Đức Chí Tôn tự soát mình lại không có hạnh phúc chút nào hết. Thật sự ra đề mục chúng ta phải đi trong khóa học này của Đức Chí Tôn, đến đặng mở khoa mục cho nhơn loại buổi này. Hay là mỗi lần các Đấng Chơn linh cao siêu hơn nữa đến tạo Đạo, cốt yếu đến mở khoa mục cho các chơn linh thì khi chúng ta đã ngó thấy khóa này là khóa đầu tiên hết thảy trong đề mục.
Khóa ấy riêng từ mức, mới khởi mức số một, chơn linh kia trong vật loại dĩ chí đến Phật vị đề mục ấy chưa có vị Phật nào đoạt vị dầu cao siêu đi nữa cũng chưa giải quyết được. Chính mình các vị trong các vị Chí Linh hằng sống chỉ có một Đấng giải quyết đặng đề mục "khổ sanh" của chúng ta tấn triển là duy có Đức Chí Tôn mà thôi. Ngoài ra nữa không có vị Phật nào giải quyết đặng.
Đức Phật Thích Ca lập vị cầm quyền Chưởng giáo nơi Cực Lạc Thế Giái, chính mình Ngài đem thuyết Tứ Khổ mà thôi, chính mình Ngài cũng không giải quyết được, chính mình Ngài không duy chủ cái khổ ấy đặng.
Ấy vậy, đề mục khổ là Khổ sanh, trước là Khổ sanh, rồi tới Lão, Bịnh, Tử. Sanh trước là sanh sống, sống là khổ, hễ cái pháp luật nào làm giảm khổ của chúng sanh nó là chơn, cái pháp luật nào nó làm cho thống khổ chúng sanh là giả.
Pháp luật Đạo Giáo nào mà không hữu ích gì cho cái khổ sanh của chúng ta thì không có giá trị gì hết.
Chúng ta quan sát coi các nền Tôn Giáo đã có phương giải khổ cho chúng sanh hay chăng?
Tại sao chơn, tại sao giả, chính mình Đức Chí Tôn và các Đấng Thiêng Liêng cũng như chúng ta thấy các cơ quan trong Càn Khôn Vũ Trụ cốt yếu là phải phụng sự cho nhơn loại cho Vạn Linh.
Trái lại họ không phụng sự cho Vạn Linh mà lợi dụng Vạn Linh chớ không phải làm tôi tớ cho Vạn Linh. Hễ lợi dụng là không phải phương pháp giải khổ tức nhiên là giả pháp.
Quan sát lụng lại các nền Tôn Giáo hết, chúng ta thấy không có phương pháp để giải khổ chúng sanh, bất quá là một lý thuyết mơ mộng mà thôi.
Giải khổ cái sống cái đã.
Chúng ta thấy các nền Tôn Giáo đương nhiên bây giờ có nền Tôn Giáo nào phụng sự cho chúng sanh không? Có nền Tôn Giáo nào làm tôi tớ cho chúng sanh đặng giải khổ cho chúng sanh hay chăng? Quan sát coi. Chưa có!
Chúng ta ngó thấy chúng ta có một điều tức cười hơn hết là họ ngồi gõ mõ đánh chuông mà họ nói giải khổ cho chúng sanh.
Sanh trước cái đã, là mực thước đi từ khuôn khổ của nó nếu nói phi lý không quan sát được, không thể công nhận được, nhưng đương nhiên chúng ta đã thấy gì?
Bần Đạo đã thuyết kỳ rồi cái pháp luật của thiên hạ là họ đã xu hướng theo "Tứ Diệu Đề" của Đức Phật Thích Ca, họ giong ruổi theo Tứ Diệu Đề để giải khổ cho chúng sanh là: Sanh, Lão, Bịnh, Tử. Họ thi hành trong khuôn khổ quyền pháp của họ mà thôi.
1) Sanh, họ lập nhà Bảo Sanh đặng giải khổ cho sự sống.
2) Lão, họ lập ra cơ quan Dưỡng Lão để nuôi kẻ già, kẻ yếu.
3) Bịnh, họ lập ra nhà thương khắp nơi cả thảy trên mặt địa cầu này biết bao nhiêu nhà thương để chữa bịnh cho đời.
4) Tử, họ cũng làm âm công, cũng bố thí, cũng làm phước vậy, nhưng có một điều là họ bố thí chớ không phải phụng sự. Họ lấy của người này đem cho người kia chớ không phải phụng sự cho nhơn loại.
Còn Đạo Cao Đài Đức Chí Tôn đến biểu chúng ta làm gì? Biểu chúng ta dùng cả xác thịt, trí não, tâm hồn, làm Thánh Thể cho Ổng, làm đầy tớ cho cả con cái của Ổng, đó mới là thuyết giải khổ vậy.
Chính mình Bần Đạo cầm quyền Hội Thánh đem vào khuôn khổ luật pháp ấy thế nào?
Buổi ban sơ Bần Đạo lấy cả pháp luật làm chuẩn thằng, chỉnh đốn cả cơ quan chánh trị của đời là: Sanh, Lão, Bịnh, Tử. Bần Đạo lập nhà thương, nhà Dưỡng lão, nhà Bảo sanh là cốt yếu chỉnh đốn thân sống trong khuôn khổ mực thước, tức nhiên họ giúp cho nhau trong khuôn khổ đạo đức. Tức nhiên họ có cả cơ quan làm cho buổi thống khổ loạn lạc phải tiêu hủy.
Cơ quan Đạo Cao Đài cốt yếu chỉnh đốn nhơn quần xã hội tăng tiến trong khuôn khổ nhơn luân, nhơn đạo để trong tâm não họ đặng họ tương trợ nhau họ xúm nhau trong một nhà để giúp nhau về mặt tinh thần.
Bây giờ Bịnh, Tử cũng thế, về mặt xác thịt chuyển cả cơ quan Thế Đạo, cốt yếu để giải khổ chúng sanh về sự sống đối với Sanh, Lão thì chúng ta đã lập thành đại gia đình; như thân này khi già rồi còn em, còn bạn, còn con, còn cháu, một đại gia đình càng ngày càng lớn hơn nữa.
Giờ phút này có hai triệu người chứ không phải như trong buổi tạo Đạo chúng ta dầu sống đi nữa cũng không phải cô độc mà khi chúng ta phụng sự trong Thánh Thể Đức Chí Tôn tức nhiên phụng sự cho Ngài, tuổi già chớ tinh thần không già, không buổi nào chúng ta già hơn Đức Chí Tôn, nhỏ làm tôi mọi cho nhỏ, lớn làm tôi mọi cho lớn, già làm tôi mọi cho già.
Không buổi nào thấy cái già cái khổ cho chúng ta tức nhiên giải khổ rồi đó vậy.
Sanh, Lão không phải khổ chúng ta, mà nó là một cơ quan giúp cho đời được lịch duyệt. Bịnh, Tử không phải khổ của chúng ta, mà nó là cơ quan giúp ta đoạt Thiêng liêng vị. Bịnh, Tử, bịnh chúng ta là gì chúng ta bịnh, tại số chết của chúng ta, tại khối sanh quang của ta hết lực mà thôi.
Kiếp sanh này làm tôi mọi cho người, dầu cho có bỏ xác hay chết là cùng. Mạng sống kiếp sanh của mình do quyền Đức Chí Tôn định liệu, thì sợ gì cái chết, trái ngược lại thiên hạ sợ chết là khổ mới chết, còn chúng ta không sợ chết vì chết là cơ quan giải thoát đó vậy.
Giờ phút này người tu là đem thân làm nô lệ cho nhơn loại, rồi có vui sướng gì với kiếp sanh mà cần sống, giá trị cái sống của ta khác hẳn hơn thiên hạ tưởng tượng, mà tưởng tượng cái chết của ta là buổi nghỉ ngơi, buổi hết cực, cái chết ấy chẳng phải do mình mà do nơi Đức Chí Tôn định là tới buổi Đức Chí Tôn nói các con đã làm xong phận sự Thầy cho con về.
Giờ phút này chúng ta đương ở Đền Thánh của Ngài đây, đương phụng sự cho Ngài đây, thì cái sống chết của chúng ta không còn giá trị gì đối với chúng ta nữa, và trong Tứ Khổ không còn giá trị gì đối với chúng ta nữa: Ấy vậy "Tứ Diệu Đề" tức nhiên bài học, bài thi, của đề mục khổ, duy có Đạo Cao Đài giải quyết nó, đánh mất nó, làm cho nó không còn giá trị chi nữa, tức nhiên chính mình và toàn cả con cái của Đức Chí Tôn hay tương lai tôi nữa cũng vậy.
Chúng ta trọn hiến thân làm Thánh Thể cho Ngài mà ta sống cho mình chớ không phải sống cho Ngài là không đúng, sống không phải sống cho mình mà chính là sống cho Ngài vì chính mình đem trọn cái sống ấy dưng nạp cho Ngài, mà tưởng tượng ta khổ thì tức nhiên Đức Chí Tôn khổ còn gì. Ổng không có khổ, mà lại sống vinh diệu quá, ta lại gặp thời kỳ này may duyên gặp được một cảnh sống lạ thường, sống về Thánh chất, sống về Thiêng Liêng, sống về Càn Khôn Vũ Trụ, sống về Trời Đất, sống dường ấy mà gọi là khổ sao đặng.
Ấy vậy Chơn Pháp thuộc về Thể Pháp của Thiên Đạo Cao Đài ngày nay có lẽ phù hạp với tinh thần nhơn loại hơn các nền Tôn Giáo khác, có lẽ, nhưng chúng ta đừng ỷ mình.
Mỗi ngày thường tự hỏi mình coi làm vừa sức của ta chưa? Làm vừa sức của Đức Chí Tôn biểu mình làm hay chưa? Sống của mình có vừa với cái sống của Đức Chí Tôn hay chưa? Nếu chúng ta đủ tinh thần, đủ trí não và đủ năng lực để thay thế cái sống của Đức Chí Tôn thì "Tứ Diệu Đề" của Đức Phật Thích Ca để tại mặt thế gian này không có nghĩa lý gì và giá trị gì đối với chúng ta hết.
Thể Pháp của Đạo Cao Đài chủ về sống mà đánh tiêu cả sự khổ tức nhiên đánh tiêu cả Thể Pháp. Thể Pháp đánh tiêu được thì sẽ đánh tiêu Bí Pháp được./.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 29-05-Kỷ-Sửu nhằm ngày (dl. 25-06-1949).
BÍ PHÁP: Bài 08
Đức Hộ-Pháp
Thuyết Đạo tại Đền Thánh, đêm 04 tháng 06 Năm Kỷ Sửu (29-06-1949)
Đêm nay Bần Đạo thuyết Bí Pháp có liên quan đến Thể Pháp, nói rõ là cái luật Đạo có liên quan đến luật Đời đó vậy.
Vả chăng chúng ta đã ngó thấy cái cơ quan Tạo Đoan Càn Khôn Vũ Trụ là cơ quan Đức Chí Tôn để phụng sự cho Vạn Linh, cái chơn pháp nó vẫn vậy.
Bần Đạo có thuyết về thuyết ấy, Bần Đạo nói đất phải hy sinh đặng phụng sự cho cây, tức nhiên là thảo mộc. Cây phải hy sinh đặng phụng sự cho thú, tức nhiên nó phải hy sinh đặng nuôi thú, mà loài người đứng đầu trong loài thú chớ không có chi khác nữa.
Vì cớ cho nên cổ luật lại buộc thú phải hy sinh phụng sự cho người, phụng sự không đi quá sức, hy sinh đặng nuôi loài người. Bởi vì lẽ lầm hiểu về chơn pháp ấy mà nhơn sanh đã thực nhục (ăn thịt).
Giờ tới một mức nữa, người phải hy sinh đặng phụng sự cho Trời. Chắc là cả thảy đều nhớ cổ luật của Thượng Cổ khi tế Trời họ đem người ra họ giết, rồi họ thiêu như con thú kia vậy. Con người có luật ấy một thời hạn cũng khá lâu. Khi dùng người làm tế vật đặng hiến cho Đức Chí Tôn nếu Bần Đạo hiểu theo các Đạo Sử thì đã có gần 40.000 năm về pháp luật ấy, thử nghĩ coi các nhơn mạng buổi nọ đã đem làm con vật hiến cho Đức Chí Tôn nhiều lắm rồi vậy. Mới đây chừng lối 6.000 năm đời của Jacob trước 6.000 năm, theo Đạo Luật của Hébreu tức nhiên luật của Do Thái phải giết vật để tế Đức Chúa Trời, luật đó tới nay có lẽ vẫn còn đó vậy.
Đức Chí Tôn có đòi hỏi chăng? Không, tôi dám chắc không, vì chính mình Ngài tạo cho Vạn Linh, chính mình Ngài làm tôi tớ cho Vạn Linh và phụng sự cho Vạn Linh, có lẽ đâu Ngài đòi nhơn loại phải làm con tế vật tế cho Ngài.
Bao giờ chúng ta cũng thấy luật phụng sự cho Vạn Linh đi từ vật loại đến nhơn loại.
Chúng ta thấy việc của con ong, con mối, con ong chúa thật sự ra phụng sự đầy dẫy hơn hết, đứng đầu hơn hết, vì làm chúa nên phải có nhiều phụng sự, nó phải chịu sanh sản, làm giống nòi nó sanh sản mãi mà thôi.
Cũng như Thượng cổ trước lối 150.000 năm và trước nữa thì loài người cũng vậy. Đạo Pháp trong Phật Giáo để lụng lại các Đấng duy chủ của các sắc dân, chủng tộc do tiếng Phạn gọi là "Ma Nu" cũng một kiểu vở con ong, con mối. Con mối chúa phụng sự cho cả một ổ mối hơn ai hết, bởi vì chính mình con mối chúa đã sản xuất chủng tộc của loài mối.
Chúng ta thấy lụng lại một triều chính của xã hội nhơn quần đã lập quốc, tức nhiên lập một nền chánh trị tương liên, một quốc gia vô trong một khuôn khổ của một quốc thể, một văn hiến đều chịu một luật pháp ấy, mà luật pháp ấy muốn thi hành thì phải có triều chính. Thật sự ra triều chính nhà Vua phải phụng sự cho quần linh, tức nhiên phụng sự cho lê dân. Một mình Ổng phụng sự cho toàn thể lê dân không thể được nên phải lập triều chính, từ Tể Tướng, dĩ chí cho tới bực hạ quan. Chánh trị một quốc gia là thay thế hình ảnh cho Vua đặng phụng sự cho lê dân mà thôi.
Chúng ta ngó thấy trong vật loại như con mối chúa, con ong chúa cũng làm chúa, cũng phụng sự, trong phụng sự kia cũng lập một triều chính đặng có phương pháp phụng sự cho nó. Nhà Vua cũng vậy, lập triều chính đặng biến thân cho muôn ngàn triệu, đặng phụng sự cho toàn thể lê dân. Mối chúa cũng vậy.
Bây giờ Đức Chí Tôn Ngài phụng sự cho Vạn Linh toàn cả trong Càn Khôn Vũ Trụ, Ngài đã dùng cái gì? Ngài dùng phương pháp phụng sự Vạn Linh là lấy Đời, lấy Vạn Linh phụng sự cho Vạn Linh. Chúng ta ngó thấy Đức Chí Tôn nuôi cây, nuôi thú, thú để phụng sự cho người. Ngài dùng căn bản đó để phụng sự cho Đời, cũng như nhà Vua dùng lê dân lập triều chính đặng phụng sự cho lê dân.
Đức Chí Tôn ngày giờ này đến lập Đạo muốn phụng sự cho cả toàn nhơn sanh mặt địa cầu 68 này, Ngài phải làm thế nào? Ngài cũng phải mượn loài người phụng sự cho Ngài. Ngài phải dùng loài người đặng làm Thánh Thể cho Ngài là lập triều chính của Ngài.
Chúng ta ngó thấy Đức Chí Tôn đến lập Đạo, lập Đạo phải lập Hội Thánh đặng phụng sự cho Vạn Linh trên mặt địa cầu 68 này. Chúng ta ngó thấy cái quyền rồi, ban cho cái quyền luật định phụng sự, vì phụng sự ấy mới làm chúa như con ong kia, con mối kia vì phụng sự mới làm chúa. Ông Vua cũng vì phụng sự cho dân mới làm Vua, bây giờ Đức Chí Tôn vì phụng sự cho Vạn Linh mới làm Trời.
Ngài phải lập Hội Thánh tức nhiên Ngài lập Thánh Thể của Ngài. Triều chính tức nhiên Thánh Thể của Ngài chớ không có gì lạ. Muốn cho Hội Thánh cầm quyền thống trị đặng phụng sự cho Vạn Linh, Ngài phải lập triều chính, triều chính là ngôi Thần, Tiên, Thánh, Phật đó vậy. Ngài lập Thánh Thể cũng như thế ấy; vì cớ cho nên chúng ta ngó thấy Thánh Thể Đức Chí Tôn tức nhiên Hội Thánh có đủ các phẩm Thần, Thánh, Tiên, Phật tại thế này.
Không có cái chi mà chúng ta cầu muốn hay là dùng công nghiệp mà Người không trả không bồi thường, vì Ngài đã mượn chúng ta làm Thánh Thể cho Ngài đặng Ngài phụng sự cho Vạn Linh thì Ngài phải trả, phải bồi thường, nếu muốn cho người ta theo thì phải lập vị cho họ, thì họ mới theo.
Đức Chí Tôn Ngài đến ký hòa ước với loài người nhứt là dân tộc Việt Nam trước cái đã, mấy người làm Thánh Thể cho tôi, đặng tôi phụng sự cho Vạn Linh, thì tôi sẽ lập vị Thần, Thánh, Tiên, Phật lại cho mấy người. Nếu các người chịu thì ký hòa ước với tôi, hể các người làm tôi cho con cái của tôi cho vừa sức của tôi muốn, hay vừa ý của tôi định thì tôi sẽ trả lụng lại là lập ngôi vị cho mấy người trong Thánh Thể ấy, tôi đã định phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật, tôi đã lập vị sẵn cho mấy người, mà mấy người đoạt được tại mặt thế này, tới chừng về cõi vô hình tôi không chối cãi gì hết, trái lại còn trả hơn khi mấy người (*1) phụng sự cho Vạn Linh tại mặt thế này nữa là khác./.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 04-06-Kỷ-Sửu nhằm ngày (dl. 29-06-1949).
(*1) Nơi đoạn cuối bài: Đức Chí Tôn Ngài đến ký hòa ước với loài người nhứt là dân tộc Việt Nam trước cái đã, mấy người làm Thánh Thể cho tôi, ... ... ..., tôi đã định phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật, tôi đã lập vị sẵn cho mấy người, mà mấy người đoạt được tại mặt thế này, tới chừng về cõi vô hình tôi không chối cãi gì hết, trái lại còn trả hơn khi mấy người phụng sự cho Vạn Linh tại mặt thế này nữa là khác
Nguyên bản chánh in là: Đức Chí Tôn Ngài đến ký hòa ước với loài người nhứt là dân tộc Việt Nam trước cái đã, mấy người làm Thánh Thể cho tôi, ... ... ..., tôi đã định phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật, tôi đã lập vị sẵn cho mấy người, mà mấy người đoạt được tại mặt thế này, tới chừng về cõi vô hình tôi không chối cãi gì hết, trái lại còn trả hơn khi chúng ta phụng sự cho Vạn Linh tại mặt thế này nữa là khác
Chúng tôi mạn phép trình bày như trên cho rõ nghĩa hơn.
BÍ PHÁP: Bài 09
Đức Hộ-Pháp
Thuyết Đạo tại Đền Thánh, đêm 08 tháng 06 Năm Kỷ Sửu (03-07-1949)
Đêm nay trước khi Bần Đạo thuyết Bí Pháp chơn truyền của Đạo, tương liên Thể Pháp của Đạo thế nào, trước khi thuyết Bần Đạo nhắc lại nữa, nhắc một điều cần yếu cho cả thảy đều nhớ, nhớ để đi theo.
Trước khi trong tinh thần đạo đức kia chỉ dẫn chơn pháp Càn Khôn Vũ Trụ cốt định cho loài người có hiện diện tại nơi thế này đặng phụng sự cho Vạn Linh, mà cũng là dẫn đạo cho Vạn Linh.
Phụng sự đặng dẫn đạo cho Vạn Linh, ấy vậy chơn pháp có ảnh hưởng là quyết định thiệt phận của loài người là phải phụng sự mà thôi. Hễ không phụng sự tức nhiên là vô đạo, mà vô đạo thì không thể gì đoạt được cơ giải thoát hết.
Bần Đạo đã chỉ rõ tương quan của luật pháp Đời cốt yếu nương theo"Tứ Diệu Đề" tức nhiên Tứ Khổ, đặng rồi thiên hạ dầu quốc gia xã hội nào cũng kiếm phương bợ đỡ tinh thần loài người hay là toàn dân trong nước đặng lập vị của mình.
Thật sự ra, nói rằng: Họ đã tạo dựng Đạo Giáo đặng phụng sự cho dân nhưng thực sự đi trong đường nào? Lấy tinh thần cứu khổ của Đạo Giáo mà kỳ trung họ không phụng sự quốc dân, chỉ tạo quyền cho họ mà thôi, tức nhiên họ không phải vì sở định cứu khổ mà đến để lập quyền cho vững chắc. Nhưng Đạo Giáo chúng ta thì khác.
Đạo Giáo chúng ta buộc phải định phận mình là giải khổ, tức nhiên phải làm thế nào cứu vớt quần linh cho khỏi "Tứ Diệu Đề" tức nhiên Tứ Khổ của kiếp sanh đó vậy.
Hai cái tinh thần ấy dầu trong hành tàng cũng vậy, vẫn khác hẳn với nhau vì cớ cho nên Đạo với Đời không có bao giờ tương đắc với nhau đặng. Bần Đạo nói Đạo không phải giành quyền, mà chỉ tạo Đạo đặng định phận mà thôi.
Bên kia họ cho rằng: Đạo giành quyền của họ, trái hẳn chúng ta vẫn thường thấy, chính mình Đức Phật Thích Ca đến khi Ngài có quyền, chính cha của Ngài còn tranh giành cái quyền ấy. Về quyền hành có điều khó giải quyết hơn hết là: Cả tinh thần chúng sanh, cả thảy đều biết rằng Đạo phải phụng sự cho nhơn loại, vì đấy mà bên Đời dầu thế nào đi nữa bất quá là lòe con mắt đặng cho người ta theo, chớ không phải như bên Đạo phải phụng sự.
Bởi cớ cho nên mới dục ra tấn tuồng giành quyền với nhau là vì chỗ đó.
À, bây giờ Bần Đạo nói rõ phải ra phụng sự đặng giải khổ tức nhiên giải quyết "Tứ Diệu Đề" của Đức Phật Thích Ca đã để nơi mặt địa cầu này.
Bần Đạo thuyết cả Bí Pháp Đạo Giáo có liên quan mật thiết với Thể Pháp rồi cả thảy đều nghĩ từ thử đến giờ, Bần Đạo buộc phải đi cúng, phải hành đạo là thế nào, không phải buộc mấy người mà Bần Đạo hưởng một quyền lợi gì riêng hết, mấy người suy đoán chơn pháp rồi mấy người mới biết. Bần Đạo vì phận sự muốn cho con cái của Đức Chí Tôn tạo cơ giải thoát nên mới buộc gắt gao như vậy thôi.
Vả chăng trong chơn pháp con người nơi mặt thế này có ba điều:
1) Hoặc là phải trả quả kiếp xuống tại mặt địa cầu này để trả.
2) Hoặc muốn học hỏi thêm, muốn tấn hóa tới nữa, về phương lược địa vị tinh thần của mình còn thiếu kém, học thì đến mặt địa cầu này đặng học.
3) Các vị đã được địa vị cao siêu nơi cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống, đến mặt địa cầu này đặng lập vị mình thêm cho đặng cao trọng.
Ba điều ấy muốn đoạt được thì phải phụng sự Vạn Linh mới được. Bần Đạo thuyết tới con cái của Đức Chí Tôn sẽ ngó thấy Đức Chí Tôn không dùng quyền Chí Tôn của Ngài, Ngài đến đặng lập quyền cho con cái của Ngài mà thôi, không phải đến đặng lập quyền hành hoặc bảo vệ con cái của Ngài, Ngài không thế gì để cho con cái Đức Chí Tôn lạm quyền đặng.
Cơ quan giải thoát là phụng sự, dầu cho quả kiếp mà đến cũng vậy, dầu cho vì học hỏi mà đến cũng vậy, dầu cho lập vị mà đến cũng vậy. Chúng ta phải phụng sự cho Vạn Linh mới được, trong phụng sự ấy chúng ta không biết chúng ta bị quả kiếp nơi nào, người nào, nhưng nhờ phụng sự ấy mà mình gặp được người mình muốn trả nợ tiền khiên, biết đâu nhờ hồng ân Đức Chí Tôn định cho mình gặp đúng người để đặng trả, tóm lại cũng phải phụng sự mới có.
Bây giờ về học hỏi thì chúng ta muốn gì? Muốn biết mọi điều về huyền vi cơ tạo, muốn biết cho đặng thì phải phụng sự cho Vạn Linh mà thôi, rồi trong phụng sự ấy nó sẽ chỉ điều cho chúng ta muốn biết mà lập vị, và có gì hơn thay thế cho Đức Chí Tôn mà phụng sự cho Vạn linh lập vị ấy không thể gì ai chối cãi được.
Muốn làm cho đặng như Đức Chí Tôn đã làm ta phải làm gì? Ngài biểu chúng ta hiến ba món báu trong mình chúng ta là Tam Bửu.
1. Xác thịt
2. Trí não
3. Linh hồn
Tức nhiên thân thể và phàm thể của chúng ta Đức Chí Tôn biểu ta hiến cho Ngài đặng Ngài phụng sự cho Vạn Linh.
Chúng ta thấy gì? Mỗi ngày ta kêu Đức Chí Tôn làm chứng, kêu Tam Giáo làm chứng, giờ phút này con nguyện dâng cả xác thịt, trí não và linh hồn của con cho Thầy đặng Thầy làm lợi khí mà phụng sự cho Vạn linh. Hễ dâng rồi còn gì của mình nữa, có trả nợ tiền khiên chớ không có tạo nữa, nếu có tạo mà giờ phút này mình đến Đền Thánh này đây, ngồi trong lòng của Đức Chí Tôn đứng trong phần tử Thánh Thể của Ngài tình cờ mình bị quả kiếp gì xảy đến, mình không biết, vì thân thể mình không biết duy chủ nữa mà chính Đức Chí Tôn duy chủ, vì mình giao cả thân thể mình nơi tay Đức Chí Tôn thì mình không còn biết gì nữa.
Ngày kia mình có thể nói mỗi hành tàng của con làm, con đã tạo, con giao cả trong tay Đại Từ Phụ, quyền hạn xử định do nơi tay Thầy chớ con không biết.
Mình giao cả hình hài đó cho Ngài sử dụng, nếu sự thật có gì không hay xảy tới cho mình, mình không hiểu, mình giao cả thân thể mình cho Đức Chí Tôn đặng Đức Chí Tôn phụng sự cho Vạn Linh, quyền xử định ấy do Đức Chí Tôn quyết định, mình đừng làm trái với mặt luật của Ngài định.
Ấy vậy, mỗi ngày từ mơi tới trưa, đến chiều, từ chiều đến khuya, từ khuya tới sáng, mình vô Đền Thánh kêu Đức Chí Tôn, kêu Tam Giáo và các Đấng Thiêng liêng mà phân chứng trước. Thân tôi không còn của tôi nữa, tôi đã hiến cho Đức Chí Tôn làm tôi tớ cho Vạn Linh thay thế cho Đức Chí Tôn, giờ phút đó chúng ta không biết tội nào chúng ta đã làm, dầu có tội mà chúng ta không làm điều gì thêm nữa thì quả kiếp ấy tiêu diệt, cơ quan giải thoát chúng ta đoạt không thể gì định tội được. Đức Chí Tôn biểu chúng ta không phải là chúng ta, mà chúng ta không phải là chúng ta, thì quả kiếp ấy không phải là của chúng ta tức nhiên ta đã đoạt cơ giải thoát, quyền ấy chính của ta chớ không phải của Đức Chí Tôn. Lấy quyền của ta mà cho ta, mình đã định quyền cho mình, chớ không phải Ngài định, Ngài định cho có quyền giải thoát, quyền Thiêng Liêng không có tạo, chính ta tạo quyền giải thoát đó do nơi ta mà thôi./.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 08-06-Kỷ-Sửu nhằm ngày (dl. 03-07-1949).
BÍ PHÁP: Bài 10
Đức Hộ-Pháp
Thuyết Đạo tại Đền Thánh, đêm 11 tháng 06 Năm Kỷ Sửu (06-07-1949)
Đêm nay Bần Đạo giảng tiếp sự liên quan Thể Pháp và Bí Pháp của Đạo.
Trước khi Bần Đạo giảng tại sao Đức Chí Tôn lập hình thể hữu hình đặng Ngài tạo Đạo.
Đêm nay Bần Đạo giảng đặng cho cả thảy đều hiểu rõ Thánh Thể là gì? Tại sao lấy Tam Bửu ấy là trong người của ta để làm Thánh Thể, cả thảy Tam bửu là có một, mà một do ba người hiệp nhứt, cũng như Càn Khôn Vũ Trụ sản xuất ba quyền Phật, Pháp, Tăng trong đó có ba người, nhưng trong ba người chỉ có một là Đức Chí Tôn mà thôi.
- Người thứ nhứt là ta hay là thể chất tức nhiên thân thể của ta đây.
- Người thứ nhì là chơn thần tức là trí não của ta hay là pháp thân, pháp thân ấy do nơi Kim Bàn phát hiện, tức nhiên do nơi Phật Mẫu sanh đẻ ra đó vậy.
- Người thứ ba là chơn linh tức linh hồn của ta hay linh thể của chúng ta do nơi Đức Chí Tôn sản xuất, ba món ấy hiệp lại mới thành người. Linh thể của chúng ta từ trước Đạo Giáo của nhà Phật do Ấn Độ sản xuất, tức nhiên Đức Phật Thích Ca đã minh tả thể chất có ba người. Ngài gọi nguyên chất là (Égo) người thiệt của chúng ta, tới chừng đem qua Bắc Tông rồi, tức nhiên họ qua Nho Giáo. Nho Giáo không có tên mới đặt linh thể ấy là Tâm, lấy Tâm đặt tên chơn thể, chữ Tâm ấy do tướng hình Thiên Lương vi bổn.
Một vật hễ sản xuất tại mặt địa cầu này đứng trong khuôn khổ Đạo Giáo tức nhiên Thiên Lương của mình, Thiên Lương ấy không tướng hình nên để chữ Tâm. Ấy vậy, chữ Tâm ở bên Bắc Tông Phật Giáo tả hình Linh Thể của chúng ta đó vậy, tức nhiên tả hình chơn linh của chúng ta, do nơi Đức Chí Tôn sản xuất. Ấy vậy, ba người trong thân thể chúng ta đang gánh chịu đó, khi được hình rồi, có hiện tượng tại mặt thế này rồi thì chúng ta ngó thấy chúng ta có ba mối nợ.
Mối nợ của cha mẹ thân sanh ra ta, sản xuất ra ta, là mối nợ trước phải trả. Nếu khi ta đoạt kiếp được, lập vị Thiêng liêng của mình đặng vô cửa Thiêng Liêng Hằng Sống mà đàng sau lưng của mình có mang ba mối nợ thì vô cửa ai cho, phải trả cho rồi mới vô đặng.
Vì cớ cho nên Đức Chí Tôn biểu mình phụng sự cho Vạn Linh, đặng trả nợ thi hài của mình, tức nhiên trả nợ máu thịt của mình, nợ ấy ta nhận là công chánh hay oan khúc cho ta? Thì chúng ta ngó thấy nó rất công chánh, một giọt máu, một điểm tinh của chúng ta thọ nơi phụ mẫu chúng ta, rồi cha mẹ của ta đã thọ của người trên trước nữa, cũng một giọt máu, cũng một điểm tinh mà tạo nên thi hài. Cha mẹ đã thọ nơi Ông Bà Tổ Phụ của chúng ta, rồi giọt máu, điểm tinh ấy truyền thống cho chúng ta, ta phải chịu khi ấy phải trả, mà trả thì phải khổ cho ta lắm, nếu chạy thì cha mẹ chúng ta phải trả.
Rồi khi cha mẹ sanh ra ta, ta phải nhờ ai mà sống, nhờ ai mà nên người, nhờ ai mà có. Chúng ta sản xuất tại mặt thế gian này tức nhiên nhờ xã hội nhơn quần, nhờ ăn mới sống, thi hài thân thể mới giữ đặng giọt máu, điểm tinh, để truyền thống? Trả đủ nợ ấy cho xã hội nhơn quần mới về cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống được. Quả nhiên chúng ta thiếu nợ hay là Tổ Phụ Ông Bà chúng ta thiếu nợ nên chúng ta phải trả, muốn trả phải phụng sự cho xã hội nhơn quần. Đức Chí Tôn coi trọng hệ nhứt, nên Ngài mới lập trường công quả này đây. Chỉ có làm công quả nơi của Đạo Cao Đài này mới trả hết số nợ đó mà thôi.
Tiếp sau đây Bần Đạo sẽ giảng tại sao có mở trường công quả trong thời buổi này? Ấy là nơi để chúng ta tạo công, rồi lấy công trả nợ máu thịt mà trả nợ máu thịt tức trả cho xã hội nhơn quần đó vậy.
Phụng thờ Tổ Tiên Ông Bà và song thân đó, do đạo Nhơn luân vi bổn. Mang nợ máu thịt ấy phải trả tức nhiên làm công quả để lấy công quả trả nợ máu thịt đó vậy.
Xã hội chúng ta vẫn thấy từ thử đến giờ, chúng sanh vẫn chạy nợ, dầu muốn dầu không họ vẫn trốn nợ bất kỳ là nợ gì? Cho nên Đức Chí Tôn vi chứng rằng: Bây phải trả nợ mà bây đã vay từ trước. Ngài truyền tức nhiên Ngài truyền cho xã hội nhơn quần, vì trong Thiên tánh của Ngài định cho chúng ta trả nợ, mà muốn cho ta dễ trả nợ, Ngài bảo chúng ta phải làm thế nào? Chúng ta duy có phụng sự mà thôi. Vì cớ cho nên Ngài lập Đạo là vậy.
Trả nợ nhơn quần xã hội rồi mới chỉ có một mối, còn hai mối nợ nữa phải trả chớ, nợ của người sản xuất ra chơn thần, là Mẹ đẻ pháp thân tức nhiên Phật Mẫu đó vậy.
Bây giờ Đức Chí Tôn Ngài đến đặng Ngài nhìn nhận con cái của Ngài, Đức Chí Tôn bảo Đức Phật Mẫu bà là chủ nợ Bà phải đòi, kêu chúng nó đến trước mặt Bà mà trả cho Bà. Bà đừng để cho nó thiếu nợ mà nó giải thoát không đặng.
Ngài đến mở Đạo nhìn chúng ta là con cái, con cái của Ngài nhìn chủ nợ là Bà, thì chúng ta phải trả, vì cớ cho nên chúng ta thờ phượng Phật Mẫu là vậy. Chúng ta đến bái lạy Ngài thì chúng ta cũng nguyện dâng cả thi hài, chơn thần và chơn linh của ta đặng làm mô giới cho Ngài tạo Đạo, cũng như Đức Chí Tôn vậy. Chúng ta trả nợ Đức Chí Tôn ra sao thì đối với Phật Mẫu cũng như thế ấy.
Còn nợ thứ ba nữa là: Nợ đối với Đức Chí Tôn. Ngài đã ban cho ta một điểm Chơn Linh của Ngài, tức nhiên chúng ta do nơi Ngài mà sản xuất, linh tánh của chúng ta linh hơn vạn vật, vì có tánh Trời ở trỏng.
Bần Đạo thuyết minh rằng: Con thú này có Ông Trời ở trỏng. Ổng đồng sống với nó. Có Ông Trời đồng sống trong Tánh linh ấy, mà muốn trả nợ với Đức Chí Tôn do nhứt điểm chơn linh của Ngài sản xuất thì chúng ta phải làm như Ngài đã làm, đặng kế nghiệp cho Ngài, mà làm như điều của Ngài đã làm. Ở chúng ta không thể gì định được sự trả nợ của các Ngài, sự làm của Ngài có ảnh hưởng thanh túy, tức nhiên là hy sinh Vạn Linh mà phụng sự Vạn Linh.
Chúng ta phải học ở Ngài, cái tánh chất mà Ngài đã làm để chúng ta phụng sự cho Vạn Linh, như Ngài đã phụng sự chúng ta thấy trước mặt không thể gì chối cãi đặng. Chúng ta thiếu nợ Nhứt điểm linh, chúng ta muốn trả nợ phải trả như Ngài, mà muốn trả nợ Vạn linh Ngài phải làm tôi tớ cho Vạn Linh, chúng ta vẫn ngó thấy. Chúng ta muốn trả nợ cho Ngài thì chúng ta phải làm tôi tớ cho Vạn Linh như Ngài đã làm. Chúng ta phải làm Thầy Vạn Linh như Ngài đã làm Thầy của Vạn Linh.
Chúng ta trả ba món nợ ấy được rồi, tới ngày chúng ta giải thể của chúng ta, trở về cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống nhập vô Niết Bàn Cảnh, không còn ai níu lưng nữa. Phải trả nợ ấy rồi mới vô bởi vì chúng ta đã trả rồi./.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 11-06-Kỷ-Sửu nhằm ngày (dl. 06-07-1949).
BÍ PHÁP: Bài 11
Đức Hộ-Pháp
Thuyết Đạo tại Đền Thánh, đêm 18 tháng 06 Năm Kỷ Sửu (13-07-1949)
Trước khi Bần Đạo thuyết về Bí Pháp chơn truyền của Đạo, Bần Đạo đã kết luận cái phản khắc Đạo Pháp, Thể Pháp, tức nhiên sự phản khắc của Đời và Đạo. Sự phản khắc ấy do nơi Nguyên khí mà ra, không phải vì Nguyên khí trong Vạn Linh mà thôi, Nguyên khí của Vạn loại nữa. Chính Nguyên khí ấy trong mình của chúng ta đã chuyển xuất ra vậy.
Bần Đạo cần thuyết cái thi hài này lấy triết lý chớ không phải lấy bí truyền mà luận, thì thi hài chúng ta đã có nơi mặt địa cầu này, do nơi nguyên căn vật dục xuất hiện ra, tức nhiên trong Thất tình nó đi đến cái tình chót hết là tình quyết định, tình duy chủ, cả mối tình kia thường phản khắc nhau còn cái tình dục cốt yếu duy chủ định hướng của nó mà thôi.
Chúng ta ngó thấy trong Vạn Linh nó chia ra hai phần chơn hồn: Tiểu Chơn Hồn và Đại Chơn Hồn. Tiểu Chơn Hồn chia ra làm ba thuyết, mà tối tiểu là Vật Chất Hồn, Thảo Mộc Hồn và Thú Cầm Hồn nó thuộc về Tiểu Hồn.
Nhơn Hồn thì có thứ Tiểu và có Đại tức nhiên tình dục định phận nó, muốn Tiểu thì Tiểu, muốn Đại thì Đại.
Đại Hồn là Thần, Thánh, Tiên, Phật bốn cái Đại Hồn định Thiêng Liêng vị cho cả Vạn Linh. Chúng ta ngó thấy trong mình chúng ta có Thần có Thú, vì cớ cho nên triết lý thất tình định duy chủ, muốn làm Phật thì làm, muốn làm Thú thì làm, bởi nó định theo tình dục của nó. Bây giờ trong thân thể của chúng ta, trong nguyên bổn của chúng ta, vẫn thường chiến đấu, Phật chiến đấu với Thú, Thú chiến đấu với Phật.
Hai hình trạng của Đời và Đạo, Đạo xu hướng theo Phật, Đời xu hướng theo Thú, hai tương quan phản khắc ngang nhau, vì cớ cho nên thuyết Duy Tâm và Duy Vật nó hay tương đối với nhau. Tình dục duy bổn thì thấy trong mình nếu chúng ta muốn thành Phật thì chúng ta làm đặng, muốn đi theo Phật lập vị mình thì trong Đại Hồn giúp ta làm đặng, hay là tình dục ấy muốn đi theo đám Tiểu Hồn, vì ảnh hưởng trong cá nhân ta mà ảnh hưởng ấy chẳng phải của chúng ta mà thôi! Chúng ta ngó thấy trong Vạn Linh nó có hai con đường đi đặc biệt, không thể gì chối cãi được, thành thử cái phản khắc tương liên của Đời và Đạo nó đi từ trong cá nhân của chúng ta mà ra, cho tới xã hội nhân quần. Nhân loại phản khắc ấy không thể gì tưởng được. Từ thử tới giờ lập vị Phật như Đức Phật Thích Ca cũng chưa giải quyết được; Đức Chí Tôn đến kỳ này chúng ta thử hỏi giải quyết hay không? Cũng phải giải quyết chớ, Ổng đến vạch ra lẽ Phật với Thú ấy để chán chường trước mắt, con cái của Ổng, Ổng biểu lấy trí khôn ngoan, lấy huệ khiếu của mình làm mô giới, tùng theo Nguơn Linh làm căn bản.
Định Phật, muốn Phật, sẵn được Phật, muốn Thú được Thú, Ổng chỉ hai con đường rõ rệt để cho con cái của Ổng quyết định cho mình, sự tương tranh tương đấu bây giờ trong các xã hội nhơn quần trong mặt địa cầu này, đương nhiên bây giờ cũng tấn tuồng ấy, làm hình trạng của nó ra lớn vĩ đại, chúng ta không để ý mà thôi. Muốn tìm tàng chơn lý thì rõ rệt không có lạ lùng gì hết.
May sao, giờ phút này nhơn loại đương bị trong thảm cảnh khốn khổ, không biết chừng thảm cảnh ấy xô đến cảnh diệt vong của họ nữa mà chưa giải quyết được, vì cả tinh thần bên Phật yếu ớt bên Thú đương tráng kiện, hùm hổ dữ tợn, mà bên Phật thì yếu ớt quá.
Đạo Phật truyền tại mặt địa cầu này đương nhiên bây giờ vô giá trị mà hễ Đạo hết quyền tức nhiên con vật kia không có kỷ cương muốn chạy đâu thì chạy, muốn làm gì thì làm, muốn làm ngang nào thì đặng ngang nấy, nếu không duy chủ đặng nó, tánh đức không mực thước, không chuẩn thằng, không biết định phận mình thì sẽ xô đẩy đến cảnh diệt vong chớ không có lạ gì hết.
Bởi vậy cho nên Đức Chí Tôn đến kêu gọi cả toàn nhơn loại chỉ con đường diệt vong trước mắt, khôn thì dừng bước lại để biết lấy phận mình đứng mực nào? Rồi mình mới phân định được.
Bí Pháp chơn truyền Bần Đạo thuyết không gì khác hơn là chỉ đường, biết giá trị mỗi cá nhân, mình biết mình, nếu vị Hoàng Tử con của Ông Vua kia lên ngôi Cửu ngũ trị vì thiên hạ mà không biết giá trị tương lai làm Chúa thì tưởng lại họ như kẻ thường dân hay hèn hạ, họ tập thành theo tánh đĩ thõa, điếm đàng buông lung, thì chẳng khi nào làm vị Đế vương xứng đáng đặng, mình phải biết địa vị mình thế nào, rồi mới thi hành theo khuôn luật định của mình, Bí Pháp chơn truyền là vậy.
Ngày giờ nào cả con cái Đức Chí Tôn biết đoạt Pháp, biết mình, biết định phận của mình, biết ngôi vị của mình, biết giá trị của mình là giờ ấy trật tự an ninh trong cửa Thiêng Liêng Hằng Sống Đức Chí Tôn để tại mặt thế này, tức nhiên trong cửa Đạo đây mới thiệt giá trị.
Giờ phút này ngó thấy tấn tuồng hỗn độn, con người họ tưởng Đạo Cao Đài như Thầy Chùa, Thầy Pháp, Bóng Chàng, nói cái nào cũng được, vì cớ mới có Đảng Phái dám cả gan bày ra Tả Đạo Bàn Môn, nếu biết đâu dám làm, vì họ lầm tướng diện của họ cho nên ngày nay mới có cái cảnh tương tàn đánh sát họ kia kìa, bằng đi tới nữa thì không còn chơn tướng nào tồn tại được.
Ấy vậy Bần Đạo đã nói rõ, bây giờ có một điều trọng yếu không lẽ trong cái Bí Pháp chơn truyền nói cho mấy người nghe mà thôi, mấy người được đặc ân gì mà hưởng riêng như vậy.
Kể từ đây đến sau, họa may Bần Đạo có thuyết, là thuyết trong ngày SócVọng mà thôi, hễ đi cúng nhiều thì nói, bằng không thì thôi, còn nữa, còn nữa nếu con cái Đức Chí Tôn còn làm biếng đi cúng nữa thì vô nhà tịnh rồi sẽ hay chớ không thuyết nữa./.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 18-06-Kỷ-Sửu nhằm ngày (dl. 13-07-1949).
BÍ PHÁP: Bài 12
Đức Hộ-Pháp
Thuyết Đạo tại Đền Thánh, đêm 29 tháng 07 Năm Kỷ Sửu (23-08-1949)
Đêm hôm nay Bần Đạo khởi giảng tiếp Bí Pháp chơn truyền của Đức Chí Tôn.
Trước khi chúng ta muốn hiểu, cái huyền vi của Bí Pháp ấy thì chúng ta phải tìm coi con người của ta đây có chịu ảnh hưởng với Thể Pháp ấy thế nào, và ta là gì trước đã.
Ta là gì? Và có trọng hệ trong cơ quan bí mật, Tạo Đoan Càn Khôn Vũ Trụ, và tạo hình thể chúng ta có tại mặt thế này. Nguyên do đâu sản xuất? Chúng ta đã ngó thấy Đức Chí Tôn đến Ngài để trước mặt chúng ta một cái huyền bí tạo Càn Khôn Vũ Trụ.
Bần Đạo thuyết về "Tam Bửu" tức nhiên là:
1. Thi Hài
2. Chơn Thần
3. Chơn Linh.
Đức Chí Tôn gọi chung là xác thân. Chơn thần và Chơn linh, Bần Đạo xin nói quả quyết rằng: Không có một vật loại nào trong Càn Khôn Vũ Trụ này mà không do quyền năng vô tận của Đức Chí Tôn sản xuất. Cái nguyên do thế nào chúng ta đã ngó thấy, vạn vật trong Càn khôn Vũ Trụ này phải hoạt động mãi thôi, không ngừng, nó nhờ hoạt động chuyển luân mà tấn hóa mãi mãi.
Vạn vật trong Càn Khôn Vũ Trụ dù trái địa cầu thấy trước mắt hay địa cầu chúng ta đương cư ngụ đây, phải vận hành luôn, ngưng là chết mà cả vạn vật loài người cũng phải vậy. Nó có lưu động là nhờ khí nổ Thái Cực buổi nọ, Thái Cực nổ thành khối lửa, khối lửa nổ trong Càn Khôn Vũ Trụ hiện ra muôn muôn triệu triệu ức quả địa cầu trong Càn khôn Vũ Trụ. Quả cầu ấy nguội lại thành địa cầu chúng ta đương ở đây, là quả địa cầu 68, quả cầu ấy là vậy.
Bần Đạo nói thật không có vật loại nào, chúng ta Nam, Nữ cũng vậy, cũng đồng trong khối chất ấy mà biến ra, Bần Đạo đứng giữa tòa giảng này, nói tất cả đều chịu ảnh hưởng Thái Cực đó định mà có. Ngày giờ chúng ta chết, chúng ta trở về Nguơn khí vô cùng vô biên ấy, cũng do nơi quyền năng vận chuyển của Thái Cực. Cái Nguơn Linh của chúng ta cũng do quyền năng Thái Cực mà nó nắm cả Nguơn linh tạo nghiệp ấy trong Càn Khôn Vũ Trụ. Cả cơ quan hữu hình, nó tạo Bí Pháp vô biên là chuyển luân trong Càn Khôn Vũ Trụ hoặc là chuyển luân hình thể, hoặc là chuyển luân Ngươn khí, hay chuyển luân Bí Pháp Thiêng Liêng của Ngài.
Ấy vậy, Bần Đạo khởi giảng trong ba món bửu bối chúng ta là gì? Thi hài chúng ta đồng mạng như sống theo vạn vật hữu hình là vật thú, thật sự nó vậy, chớ không gì khác hết. Nếu chúng ta kiếm theo cái phương pháp "Cách vật Trí tri" chúng ta đã ngó thấy quả quyết rằng: Con người chúng ta không có gì khác hơn con khỉ, con chó, con bò, con trâu, thật sự nó vậy.
Duy có một điều trọng hệ hơn hết là do nơi quyền năng Tạo Đoan của Đức Phật Mẫu đã tạo chơn thần chúng ta và hình thể chúng ta khi con người mới thai bào. Cái tinh trùng ở trong Nguơn khí cha nhập vô nguồn khí của mẹ, khi vào lâm bồn của mẹ thì gặp con âm trùng mẹ, con dương trùng của cha nhập vô ôm khích lại với âm trùng của mẹ; dương trùng của cha tạo biến thành hình hài xương cốt chúng ta, còn âm trùng của mẹ chúng ta biến ra máu thịt của chúng ta đó vậy. Hai con vi trùng ấy ôm khít lại với nhau thành tượng biến hình hài.
Hai cái tinh trùng hiệp lại khác hẳn với cái hình tướng tinh trùng đơn sơ, khi nhập vào hai con làm một. Cái buổi tượng hình của chúng ta thì chơn thần của chúng ta còn ở ngoài thân, ngoài cốt hài của chúng ta, nó vơ vẩn hoặc là quanh theo bà mẹ chúng ta ở dựa bên, nhứt là bà mẹ đi nơi nào nó đều theo nơi đó. Chơn thần đến theo người mẹ có chửa, nếu người mẹ có đạo đức dám chắc đi đâu chưa có sự gì rủi ro đến đổi thiệt hại, bởi cớ cho nên đứa con theo mãi, theo cho đến khi tượng hình chúng ta ra khỏi lòng bà mẹ, chơn thần ấy mới nhập vô ảnh hài đó làm khuôn viên cho ảnh hài đó.
Tượng hình khuôn khổ chơn thần Đức Phật Mẫu đã tạo cho nó đi bực Tiểu Hồi, nó đi trong thú chất không có chơn thần nào tạo nhứt phẩm liên quan cho trọn vẹn.
Họ có can đảm dám đầu kiếp từ vật loại đi lên, tạo đến Phật vị đặng tạo nhứt phẩm liên quan, Phật Mẫu tạo ra họ buộc họ phải quên cả kiếp trước, bỏ cái cũ nhập vô cái mới đi từ Tiểu hồi Vật hồi đến Nhơn loại, Chơn Linh ấy biết làm người rồi đó, làm cũng như khuôn khổ chúng ta biết vậy.
Ngộ nghĩnh thay nếu chúng ta ngó thấy tinh thần chúng ta đầy đủ đạo đức chừng nào thì chơn thần ảnh hài càng ngày càng đẹp càng tăng tiến.
Bởi thế Tiên Nho chúng ta có nói: rủi sanh chỗ bất phước, Tiên Nho ta cho rằng: Kiếp tu không có dễ dàng, ít có người tu thiệt tâm tu, nếu tinh thần đầy đủ là kiếp sanh mình tạo đầy đủ đạo đức, mỗi kiếp tu của chúng ta mỹ miều đẹp đẽ lắm.
Hại thay!!! Chúng ta đã ngó thấy trong nhà Phật chúng ta quả quyết rằng: Những chơn thần nào bị tội đọa xuống Phong đô trong Kim Bồn Phật Mẫu xuất hiện thế nào mà bị đọa xuống cửa Địa ngục rồi hại thay! Quả kiếp ấy quỉ quái thì thành quỉ quái không thoát.
Cả tinh thần ấy biến tướng do Nguơn linh mà ra, vì Nguơn linh không đủ quyền năng tạo dựng. Tạo dựng Nguơn linh ấy phát động thế nào, thì Nguơn linh biến động ra thế ấy. Loài người ở tới chừng nào đoạt được Đạo nơi mặt địa cầu này mới thôi.
Kể từ ngày có nhơn loại nơi mặt địa cầu này đến nay chừng một ngàn năm trăm triệu năm. Nếu đoạt được phẩm vị đó là nhơn phẩm chớ không phải là dã nhơn, chịu trong phẩm dã nhơn ít nữa một trăm triệu năm, xác thịt họ mới có phương thế dung nạp Nguơn linh Đức Chí Tôn.
Chơn thần Phật Mẫu đến theo loài người từ buổi mới tạo ra loài người, còn Nguơn linh Đức Chí Tôn đến loài người chừng năm chục triệu năm, Nguơn linh có trong thân thể của loài người, Đức Chí Tôn đến sau chớ không đến trước như Đức Phật Mẫu, khi mẹ chúng ta sanh ta ra, nuôi gần năm sáu tuổi cũng chưa biết cha là gì, chưa biết theo cha, nghe hiểu nhìn cha là gì, bảy, tám, chín, mười tuổi mới biết. Buổi ban sơ loài người cũng thế đó.
Phật Mẫu sanh ra chỉ biết nuôi nấng theo bực Tiểu Hồi, chớ Đại Hồi chưa có. Ngày giờ có Đại Hồi là Đức Chí Tôn giáng linh trong thân thể loài người.
Thánh Giáo Gia Tô nói: Hình hài người là đất, Ngài nắn Ngài thổi ra mới biến người. Không phải vậy đâu. Nếu nói thân thể con người thú chất là đúng duy có Đức Chí Tôn đến ở cùng nó mới là Thánh thôi.
Đức Chí Tôn ở cùng nó thì là Đại Hồi (Ego) chớ không phải Tiểu Hồi (Monad).
Bây giờ ta sống với cái Nguơn linh mà cái Nguơn linh xác thịt ấy là Phật và Thú, Chơn thần chúng ta làm trung gian cho thi hài, làm trung gian cũng như làm thông ngôn cho Chơn linh và xác thịt chúng ta vậy.
Bần Đạo lấy cái thí dụ trắng như: Cái máy bay, cánh đuôi và mình là xác thịt, cái chong chóng quây đi được đó là Chơn thần. Người cầm lái điều khiển cho vận hành là cái linh tánh định cái sống đặc biệt nó là Ngươn linh.
Bần Đạo nói lại nữa: cái máy bay. Mình, đuôi nó chẳng khác chi như xác chúng ta, chong chóng quây chạy đó là chơn thần, người cầm máy làm cho máy bay vận hành theo ý người muốn là Nguơn linh đó vậy.
Muốn hiểu Bí Pháp Đức Chí Tôn thì xem cái xác thịt của chúng ta và chơn thần của chúng ta phải chịu ảnh hưởng thế nào thì cái Bí Pháp thế ấy. Linh hồn trúng là chơn pháp, trật là giả pháp.
Kỳ tới Bần Đạo kết vô Bí Pháp Đức Chí Tôn./.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 29-07-Kỷ-Sửu nhằm ngày (dl. 23-08-1949).
BÍ PHÁP: Bài 13
Đức Hộ-Pháp
Thuyết Đạo tại Đền Thánh, đệm 15 tháng 08 Năm Kỷ Sửu (06-10-1949)
LỄ HỘI YẾN DIÊU TRÌ KIM MẪU
Hôm nay là ngày Lễ kỷ niệm Bí Pháp, Bí Pháp Hội Yến Diêu Trì, Đức Chí Tôn đã lập trong nền chơn giáo của Ngài, Bần Đạo thừa dịp nên thuyết minh cho toàn cả con cái Đức Chí Tôn hiểu rõ cái huyền vi bí mật ấy, bởi có ảnh hưởng với cơ quan đoạt Đạo chúng ta tại mặt thế gian này. Hơn nữa Bần Đạo có phương tiện tỏ ra một đức tin dị thường của một Đấng yêu ái, một Đấng tạo Càn khôn Vũ Trụ, Đấng tự hữu, hằng hữu, Đấng quyền năng vô tận vô biên, cốt để cho con cái của Ngài thấu đáo cái tâm tình của Ngài đối với ta và ta đối với Ngài dường nào.
Đoạt đặng đức tin phi thường ấy, năm Ất Sửu tức nhiên năm một ngàn chín trăm hai mươi lăm (1925), Đức Chí Tôn đến với chúng ta, nhưng Ngài đến với một tình bạn mà thôi, đến với một danh hiệu, giờ phút này Bần Đạo không dám nói. Ngài đến cũng làm bạn Thượng Phẩm và Hộ Pháp. Tháng 12 năm ấy, Ngài dùng cơ bút huyền diệu của Ngài, Ngài dạy vọng Thiên Bàn cầu Đạo (điều mà chúng ta không thể tưởng tượng đây là một cử chỉ) ai cũng lấy làm lạ, nhiều người muốn tầm Đạo phải để một dấu hỏi, hỏi tại sao buổi ấy Thượng Phẩm và Hộ Pháp có một đức tin vững vàng nghe theo lời Ngài vọng Thiên Bàn cầu Đạo. Điều mà chúng ta không thể tưởng tượng, đây là một cử chỉ chung chớ không phải cá nhân Thượng Phẩm hay Hộ Pháp mà lời huấn giáo của Ngài cốt yếu để cho toàn thể nhơn loại nơi mặt địa cầu này nhứt hơn hết là nòi giống Việt Nam chúng ta.(*1)
Bần Đạo nói đây: Còn có Bà Nữ Chánh Phối Sư Hương Hiếu là người bạn Cao Thượng Phẩm và Bần Đạo buổi ban sơ thấu hiểu điều ấy, Ngài đến với một tình cảm đáo để, một đức tin vững vàng làm sao đâu? Không thể sợ đặng; không còn biết vị kỷ nhục nhã chi hết. Giữa khoảng đường nơi Châu thành Sàigòn thiên hạ tấp nập mà Đức Chí Tôn buộc phải quì ngoài đường dựa bên lề ấy, quì đặng cầu nguyện xin Đạo cho chúng sanh, tội nghiệp thay!!! Ngài thử thách cho đến nước thoảng như mình quì đó mà thiên hạ không hiểu mình quỳ làm gì thì cũng ít mắc cở chút mà cũng có thể quì, còn làm mà người biết thì nhột nhạt khó chịu lắm, nhưng sợ Đức Chí Tôn phải rán mà làm.
Ngoài ra có ông bạn ai cũng đều biết danh của người là nhà thi sĩ danh tiếng, Bần Đạo dám chắc nội trong Nam Bộ chúng ta đây chưa có ai bằng, nổi danh thi sĩ đứng đầu hết thảy là người ấy, không biết chứng cớ gì mà người mê thi phú của Đức Chí Tôn quá chừng quá đổi. Đến nước người thuộc lòng thi phú của Đức Chí Tôn rồi người họa lại với Đức Chí Tôn, người làm như mê man vậy. Bần Đạo thì nhột nhạt, duy có sợ mà vâng mạng lịnh thi hành, quyền giáo hóa của Đức Chí Tôn, còn người "Thi sĩ Bồng Dinh" họa theo đó mà ngâm, thiên hạ thấy tấn tuồng dị hợm tụ lại xem đông lắm. Trước để một cái bàn vọng Thiên cầu Đạo, ngay chính giữa coi bộ dị hợm lắm, Bần Đạo mới gát hai tay lên cho đở mắc cỡ, vừa gát tay lên thì cái bàn quay gõ nói chuyện.
Các Đấng Thiêng Liêng đến không biết bao nhiêu, đến các vị Giáo Chủ cũng xuống giảng dạy chúng ta và làm nhiều kiểu lạ lắm; cũng lúc này Đức Chí Tôn đã giáo hóa khá lâu, các Đấng Thiêng Liêng cũng đến cùng Thượng Phẩm và Hộ Pháp, tuy mới mà đủ đầu óc có một đức tin vững vàng, đức tin ấy có thể nói rằng: Tuy buổi ban sơ mà dường như khối óc đã thâm hiểu nhiều rồi; nên Đức Chí Tôn mới ra lệnh biểu làm một cái tiệc. Ngài dạy sắp đặt cái tiệc ấy để đãi Đấng vô hình; đãi mười người: Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương. Phần hữu hình có 3 người Thượng Sanh, Thượng Phẩm và Hộ Pháp. Sắp tiệc ấy do tay Bà Nữ Chánh Phối Sư Hương Hiếu vâng mạng lịnh tạo thành một tiệc, trên bàn thờ Phật Mẫu, ở dưới sắp 9 cái ghế cũng như có người ngồi vậy. Chén, đũa, muỗng, dĩa, bất kỳ cái gì cũng giống như đãi người hữu hình vậy; duy có 3 người có xác thịt là Thượng Sanh, Thượng Phẩm, Hộ Pháp. Bần Đạo mới hỏi tiệc này là tiệc gì? Ngài nói là Hội Yến Diêu Trì, Bần Đạo nghe nói vậy thì hay vậy chớ không biết giá trị Hội Yến là gì cả. Nghĩ chắc cũng có ảnh hưởng gì cần yếu đến tương lai của Đạo mà vâng lịnh thôi. Chớ không hiểu nghĩa lý cho cùng cạn gì hết.
Ba người sống đồng ngồi ăn, còn Bà Phối Sư Hương Hiếu gắp đồ ăn để vào chén cho 9 vị và trên bàn thờ cho Đức Phật Mẫu cũng như người sống kia vậy.
Bần Đạo còn nhớ một chuyện lạ lùng, lúc đó lấy làm kỳ quái không hiểu gì hết, giờ biết Đạo mới hiểu, Đức Chí Tôn buổi nọ lấy một tên riêng đối với Bần Đạo; bây giờ Bần Đạo không dám nói lại, Ngài đến làm bạn cùng Thượng Phẩm và Hộ Pháp.
Chừng Hội Yến Diêu Trì rồi các Đấng Thiêng Liêng và các vị Giáo Chủ ra từ giã (Thăng) kế Đức Chí Tôn đến nhập cơ. Thượng Phẩm và Bần Đạo tọc mạch hỏi:
- Khi nãy Diêu Trì Cung đến có Ngài đến ở đó không?
Đức Chí Tôn trả lời: - Có chớ, ta ở đây từ khi ban sơ đến giờ.
- Ngài có thấy Diêu Trì đến không?
- Có chớ, chính mình ta tiếp đãi!
Cao Thượng Phẩm hỏi: - Diêu Trì Cung ngó thấy Ngài không?
- Không ngó thấy.
Cao Thượng Phẩm hỏi: - Sao vậy?
Ngài trả lời: Ngài dùng phép ẩn thân.
Bần Đạo tọc mạch hỏi tiếp: - Như đứa em của tôi là Thất Nương Diêu Trì có thể đoạt đặng chăng?
- Đoạt đặng chớ.
Cao Thượng Phẩm hỏi: - Phải làm sao?
Ngài nói: - Phải tu, bằng không tu thì chẳng đoạt đặng.
Bần Đạo hỏi: - Tu chừng bao lâu mới đoạt đặng?
Cái đó Ngài làm thinh. Bần Đạo hỏi một năm, năm năm, một ngàn năm, mười ngàn năm, một trăm ngàn năm.... Ngài cũng làm thinh, rồi thôi không hơi sức nào hỏi nữa, không biết chừng nào mới đoạt đặng, nghe vậy hay vậy. Các vị Nữ Phái rán nhớ Diêu Trì Cung, Bần Đạo có giải nghĩa Hội Yến Diêu Trì là gì rồi đó.
Toàn Thánh Thể Đức Chí Tôn và con cái của Ngài rán để ý cho lắm: Từ khi Đạo bị bế Ngọc Hư Cung bác Luật, Cực Lạc Thế Giái thì đóng cửa nên chúng sanh toàn cả Càn Khôn Vũ Trụ có tu mà thành thì rất ít, bởi phương pháp khó khăn lắm, muốn đoạt Pháp không phải dễ.
Cổ Pháp định cho các chơn hồn về nơi Diêu Trì Cung hưởng được Hội Yến Bàn Đào tức nhiên hưởng được Hội Yến Diêu Trì, ăn được quả Đào Tiên, uống được Tiên Tửu mới nhập vô cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống gọi là nhập tịch. Ôi thôi! Từ thử đến giờ có ai đặng hưởng, nếu có đặng hưởng cũng một phần rất ít.
Giờ phút này Đức Chí Tôn quyết định tận độ con cái của Ngài thay vì Bí Pháp ấy độ con cái của Ngài về nơi Kim Bàn Phật Mẫu đặng hưởng đặc ân Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn.
Đức Chí Tôn buộc Phật Mẫu phải đến tại thế gian này để Bí Pháp HộiYến Diêu Trì tại cửa Đạo này, cho con cái của Ngài giải thoát, ấy là một Bí Pháp Thiêng Liêng duy có tay Ngài định pháp ấy mới đặng.
Hôm nay là ngày Phật Mẫu đem Bí pháp đặng giải thoát chúng sanh, tận độ toàn Vạn linh sanh chúng, Ngài để tại mặt thế này trong cửa Đạo này mà thôi.
Hôm nay, ngày Lễ của Ngài mà là cũng ngày trọng hệ trong cửa Đạo; xin toàn cả con cái của Ngài nhớ và để nơi tâm mình, bởi thế năm nào Bần Đạo cũng để ý đến Lễ của Ngài hơn hết; từ tạo Thiên lập Địa đến giờ chưa có ai hưởng được thời kỳ này, Ngài đến tại mặt địa cầu 68 này đặng tận độ con cái của Ngài.
Chúng ta phải chiêm ngưỡng ơn vô biên vô tận của Ngài, chúng ta phải chiêm nghiệm Lễ này để làm mật niệm cám ơn Đức Chí Tôn và Phật Mẫu ấy là Bí Pháp của chúng ta đó vậy./.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 15-08-Kỷ-Sửu nhằm ngày (dl. 06-10-1949).
(*1) Nơi đoạn thứ 2: Đoạt đặng đức tin phi thường ấy, năm Ất Sửu tức nhiên năm một ngàn chín trăm hai mươi lăm (1925), Đức Chí Tôn đến với chúng ta, nhưng Ngài đến với một tình bạn mà thôi, đến với một danh hiệu, giờ phút này Bần Đạo không dám nói. Ngài đến cũng làm bạn Thượng Phẩm và Hộ Pháp. Tháng 12 năm ấy, Ngài dùng cơ bút huyền diệu của Ngài, Ngài dạy vọng Thiên Bàn cầu Đạo... ...
Nguyên bản chánh in là: Đoạt đặng đức tin phi thường ấy, năm Mậu Tý tức nhiên năm một ngàn chín trăm hai mươi bốn (1924), Đức Chí Tôn đến với chúng ta, nhưng Ngài đến với một tình bạn mà thôi, đến với một danh hiệu, giờ phút này Bần Đạo không dám nói. Ngài đến cũng làm bạn Thượng Phẩm và Hộ Pháp. Tháng 2 năm ấy, Ngài dùng cơ bút huyền diệu của Ngài, Ngài dạy vọng Thiên Bàn cầu Đạo... ...
Tham chiếu với ĐẠO SỬ XÂY BÀN năm Ất Sửu (1925) do Nữ Đầu Sư Hương Hiếu biên soạn. Chúng tôi xin hiệu đính như trên. Kính cáo.
BÍ PHÁP: Bài 14
Đức Hộ-Pháp
Thuyết Đạo tại Đền Thánh, đêm 01 tháng 09 Năm Kỷ Sửu (22-10-1949)
Bần Đạo hứa mỗi kỳ Sóc Vọng thì thuyết Bí Pháp. Hôm nay Bần Đạo khởi thuyết về Bí Pháp, có nhiều yếu tố Bần Đạo phải minh bạch ra cho toàn con cái của Đức Chí Tôn hiểu cái sơ yếu của Bí Pháp đối với ta và đối với Đức Chí Tôn.
Bần Đạo khởi giảng cho hiểu tại sao Đức Chí Tôn mở Tam Kỳ Phổ Độ gọi là mở Cơ quan tận độ chúng sanh? Đức Chí Tôn sai Hộ Pháp giáng thế; tại sao Ngài không dùng cơ bút để truyền Bí Pháp cho con cái của Ngài, Ngài chỉ giáng bút truyền cho Hộ Pháp mà thôi, vì cớ cho nên bạn của Bần Đạo nơi Hiệp Thiên Đài có lắm người thắc mắc về vụ đó. Không có lạ chi; mở cơ quan tận độ chúng sanh tức nhiên là lập một khoa thi sang Tam chuyển tái phục Thiêng liêng vị nơi cảnh vô hình; mỗi chuyển tức nhiên mỗi khoa mục của các đẳng chơn hồn cần phải thi đặng đoạt vị: Thăng hoặc Đọa.
Bởi cớ cho nên Đức Chí Tôn gọi là trường thi công quả là vậy. Đức Chí Tôn cho Hộ Pháp và Thập Nhị Thời Quân đến cốt yếu để mở cửa Bí Pháp ấy đặng cho Vạn Linh đoạt vị. Cả thảy đều hiểu rằng Đức Chí Tôn buổi mới sơ khai chưa tạo Thiên lập Địa, Ngài muốn cho Vạn Linh đặng hiệp cùng Nhứt Linh của Ngài do quyền năng sở hữu của quyền hạn Thần Linh.
Ngài vừa khởi trong mình quyết định thi hành điều ấy thì Ngài nắm cái Pháp. Trước Ngài chỉ là Pháp, vì cớ cho nên ta để Phật tức nhiên là Ngài, kế thứ nhì là Pháp hễ nắm Pháp rồi Ngài phán đoán vạn vật thành hình; Ngài muốn vạn vật thành hình tức nhiên Tăng, cả Vạn Linh đều đứng trong Tăng. Ấy vậy, Pháp là chủ của Vạn Linh. Bởi do nơi Pháp, Vạn Linh mới chủ tướng biến hình do nơi Pháp mới sản xuất Vạn Linh. Cả huyền vi hữu hình Đức Chí Tôn tạo Đạo do nơi Pháp. Chúng ta biết Pháp thuộc về hình thể của Vạn Linh, vì cớ cho nên Đạo Giáo minh tả rõ rệt Tam Châu Bát Bộ thuộc về quyền Hộ Pháp. (Tam Châu Bát Bộ Hộ Pháp Thiên Tôn)
Tại sao gọi Tam Châu Bát Bộ là: Đông Thắng Thần Châu, Tây Ngưu Hóa Châu, Nam Thiệm Bộ Châu, đều thuộc về quyền hạn của Hộ Pháp, còn Bắc Cù Lưu Châu để cho các phẩm chơn hồn quỉ vị nó định phận tại nơi đó, định nơi cư trú tại đó. Nó có một quyền năng vô định chẳng cần chỉ giáo, để đặc biệt một Châu cho quỉ vị ăn năn tu học đặng đoạt vị; ba Bộ Châu kia thuộc quyền hạn Hộ Pháp giáo hóa, duy có Bắc Châu Ngài không thường ngó tới lắm, để cho nó tự do làm gì thì làm, khôn nhờ dại chịu.
Bát Bộ là gì? Là nơi Bát phẩm chơn hồn chớ có chi đâu. Tám hồn là gì: Là Vật Chất hồn, Thảo Mộc hồn, Thú Cầm hồn, Nhơn hồn, dĩ chí cho đến Thần, Thánh, Tiên, Phật. Tám bộ ấy thuộc về quyền hạn Hộ Pháp Thiên vị nơi Đức Chí Tôn gọi đến tạo cơ quan tận độ chúng sanh không còn ai khác hơn Hộ Pháp, chính Hộ Pháp trách nhiệm ấy.
Hạnh phúc thay cho nhơn loại! Hạnh phúc thay cho Vạn Linh! Đức Chí Tôn đã đem một hồng ân tối đại để nơi mặt địa cầu 68 này. Tại sao Đức Chí Tôn giao cho Hộ Pháp? Bần Đạo nói thật giờ phút nào Bí Pháp duy chủ quyền Đạo là giả tướng mà thôi, không có chơn thật gì hết. Nếu chúng ta tu mà không đoạt Pháp được tức nhiên chúng ta không giải thoát đặng, thì kiếp tu chúng ta không hữu ích chi hết.
Đức Hộ Pháp đến cốt yếu đem Bát phẩm chơn hồn thăng vị: nhiều hoặc ít, có thể một đẳng cấp từ vật chất Hộ Pháp đem lên Thảo mộc, Thảo mộc đem lên Thú cầm, Thú cầm đem lên Nhơn loại dĩ chí Phật vị, Hộ Pháp có thể chỉ định cho họ đặng. Bởi trong quyền ấy Đức Chí Tôn nói trọng quyền thì trọng phạt. Quyền hành nắm chẳng phải nơi mặt thế gian này mà thôi, Hộ Pháp và Thập Nhị Thời Quân, không phải quyền tại thế gian này, quyền nơi cửa Đạo Cao Đài này, cũng không phải tại đây nữa. Bần Đạo nói đây là quyền Đạo Cao Đài cả Thiêng Liêng Hằng Sống.
Cao Đài Đại Đạo cảnh vô hình kia y như lời Tiên tri của Công Giáo tức nhiên Thiên Chúa Giáo nói: Trên nước Thiêng Liêng Hằng Sống kia Đức Chí Tôn gần đến và đã đến, đến thời buổi này, ấy vậy bây giờ chúng ta tìm coi cái tương liên chúng ta đối với Đức Chí Tôn, Đức Chí Tôn biểu chúng ta làm gì, và chúng ta đã làm gì?
Đức Chí Tôn muốn ta làm thi hài hữu hình của Ngài, tức nhiên Ngài đến lập Thánh Thể của Ngài là Hội Thánh. Hội Thánh của Ngài để thay hình ảnh cho Ngài. Muốn thay hình ảnh cho Ngài thì phải đổi cho Ngài cái gì? Ông đem cơ giải thoát, đem phẩm vị Thiêng Liêng cho chúng ta, đem tận nơi tay cho chúng ta đặng chúng ta định vị. Rồi Ổng đòi chúng ta đổi chọn cái gì? Ổng đòi chúng ta đem đổi ba món báu là "Tam Bửu" là Tinh, Khí, Thần. Cái liên quan mật thiết Tinh, Khí, Thần là gì? Đối với thi hài chúng ta nó bảo trọng thế nào mà Đức Chí Tôn đòi đó mà thôi? Nếu không có nó chẳng hề khi nào Đức Chí Tôn tạo thành Thánh Thể của Ngài đặng. Ngài lấy ba cái vật tỉ như ba món báu trong mình chúng ta; Hoa, Ngài tỉ như thân thể chúng ta; Rượu, Ngài tỉ như trí thức tinh thần khôn ngoan của chúng ta; Trà, Ngài tỉ như linh hồn của chúng ta, mà thật ra trong mình của chúng ta có ba món ấy là báu mà thôi.
Ngộ nghĩnh thay chúng ta nên để ý điều này: Đức Chí Tôn biểu chúng ta mỗi ngày phải dâng ba món ấy ba món trọng hệ hơn hết là Tinh, Khí, Thần. Thường ngày chúng ta chỉ lấy Khí, Thần dâng mà thôi, còn Tinh thì Tiểu Đàn hay Đại Đàn mới có. Ngài chán biết thi hài của chúng ta chẳng phải chúng ta làm chủ nếu đòi quả quyết nó thì nó đi đặng phụng sự cho Vạn Linh thì không có làm gì được nên Ổng không buộc mà để cho nó có quyền tự do định phận của nó. Nội bao nhiêu đó chúng ta cũng ngó thấy cái lòng Đại Từ Đại Bi của Ngài đến thế nào. Thể chất kia mà Ngài không ràng buộc không ép bức để cho nó định phận, tưởng coi ai có nhân từ đến mức đó không?
Kỳ tới Bần Đạo sẽ giảng tiếp về trí não và tâm hồn như thế nào.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 01-09-Kỷ-Sửu nhằm ngày (dl. 22-10-1949).
BÍ PHÁP: Bài 15
Đức Hộ-Pháp
Thuyết Đạo tại Đền Thánh, đêm 30 tháng 10 Năm Kỷ Sửu (19-12-1949)
Đêm nay Bần Đạo đình thuyết Bí Pháp, cái nguyên do thế nào Bần Đạo xin minh biện ra. Vã chăng, chúng ta đương ở trong hoàn cảnh náo nhiệt, vì hai thuyết duy tâm và duy vật đương chiến đấu với nhau, chúng ta dầu Chức Sắc Thiên Phong hay là mấy em nam nữ cũng thế, là một phần tử trong Thánh Thể Đức Chí Tôn. Ngài đã tạo tinh thần chúng ta, vì sự thương yêu của Ngài, Ngài lập thiên vị tại thế này cho con cái thương yêu của Ngài, Ngài biểu chúng ta ký hòa ước với Ngài, để thay thế hình ảnh cho Ngài, đem hết tinh thần từ bi công chánh của Ngài, đối với Vạn Linh, tức nhiên chúng ta phải thay thế hình ảnh cho Ngài, dung hòa Vạn Linh hiệp với Chí Linh, tức nhiên Ngài cho ta cái sứ mạng để dung hòa Đời với Đạo.
Cái lý thuyết duy vật, là cái lý thuyết sống của đời, còn cái lý thuyết duy tâm phải chăng là cái sống của Đạo. Đáng lý ra chúng ta phải tùng bên mặt duy tâm thì mới phải, bởi chính mình chúng ta có sứ mạng thay thế vi chủ của duy tâm tức nhiên chúng ta phải ngã bên mé duy tâm hơn hết, vì đã có ký hòa ước với Đấng Chí Linh kia giữ công chánh đặng dung hòa tinh thần Đời với Đạo, vì mức công chánh ấy chúng ta không nên nghiêng đổ đó vậy.
Chúng ta tìm tàng, chúng ta định lụng lại, là có cái lý do này, Đạo Cao Đài không cần dùng mê tín dị đoan là cho sự tín ngưỡng đặng mạnh mẽ của nó. Chúng ta không cần trái ngược lụng lại, đem hết triết lý chơn thật để lại thế nầy mà thôi. Bởi vì dối trá dầu cho Đạo hay Đời, trường dối trá ấy đã làm cho cơ thể Tạo Đoan nghiêng ngữa. Chúng ta không cần xu hướng, theo cái dối trá thường tình nữa, chúng ta phải tiêu diệt cái dối trá ấy. Lại nữa trong hoàn cảnh chúng ta đương làm trung gian giữa Đạo và Đời, chúng ta chẳng nên mượn thế lực mê tín dị đoan để làm khiếp phục đặng quyết thắng tà quyền đương làm tinh thần loài người điên đảo, một trường ngôn luận xù xì đã kiếm thế hèn tiện của thiên hạ đang tính tạo thành một phản động lực đặng làm mất giá trị của nền chơn giáo Đức Chí Tôn. Bần Đạo nói thật, muốn đánh tiêu cả sự dối trá, gian ngược ấy, chẳng phải dễ, người có thể làm cho thiên hạ mê tín dị đoan được là Bần Đạo, mà Bần Đạo không làm. Bởi vì Bần Đạo coi sự làm ấy hèn tiện và vô đạo đức, Bần Đạo chỉ lấy một triết lý chơn thật của Đức Chí Tôn để giáo đạo cho con cái của Ngài mà thôi.
Bần Đạo duy muốn làm bạn với con cái Ngài, nên phẩm vị Phật sống của Đức Chí Tôn để cho Bần Đạo, mà Bần Đạo chưa có ngồi. Ấy vậy mê tín dị đoan trong cửa Đạo Cao Đài không có và không cần có, quả quyết hẳn vậy, nên đình lại bí pháp chơn truyền, nếu thuyết ra là lấy cái quyền năng mê tín dị đoan mà thắng thiên hạ là một điều hèn nhát nên Bần Đạo không dùng, để khi nào dùng được Bần Đạo sẽ dùng. Bần Đạo hứa chắc sẽ giáo hóa cho con cái Đức Chí Tôn mà thôi.
Bây giờ Bần Đạo xin thuyết "Ý vị và ý nghĩa lý sống của con người". Vã chăng, chúng ta đến với một phần xác ở tại thế nầy, chúng ta phải biết cái sống của nó có ý vị gì? Đã sanh đứng làm người sống tại mặt thế gian nầy, chúng ta nên tìm hiểu cho thấu đáo cái ý vị của cái sống ấy và cái ý nghĩa của nó thế nào trước cái đã. Vì thế mà từ Thượng Cổ đến giờ tinh thần loài người vẫn đeo đuổi mãi mà thôi, vì cớ cho nên tượng trưng các hình tướng, các nền Đạo, các Tôn giáo.
Chúng ta quan sát cả triết lý của cái sống phải có lý do nào? Sống đương nhiên của chúng ta có hai cái sống.
1.- Sống về vật chất, mà nói rõ ra sống về phương pháp thú chất.
2.- Sống về tinh thần, tức nhiên sống về phương pháp hiển hách, anh linh của nó, chúng ta thấy có hai cái quyền năng ấy, nó tương tranh với nhau mãi mà thôi. Vì cớ cho nên mới nảy sanh ra thuyết duy tâm và duy vật. Chúng ta thử nghĩ do lịch sử của loài người, thì chúng ta biết loài người như đã nói cái thuyết kia là phải "Connais-toi, toi-même" Nghĩa là: "Người biết người hơn hết". Mình muốn biết mình đặng chi? Đặng tìm hiểu cho thấu đáo cái nghĩa lý sống của mình.
Chúng ta ngó thấy Thượng Cổ, bực cổ nhân, nhứt là hạng vĩ nhân. Dân Âu Châu thì có Socrate cũng trong thời đại nhơn sanh đó, chính Ngài lấy thuyết Đấng Chí Linh trong Càn Khôn Vũ Trụ, cái thuyết làm cho phản động lực coi Ngài như kẻ thù nghịch đến nước, cái quyền năng buổi nọ coi mạnh mẽ thế nào? định tử hình Ngài, cho Ngài lấy chén thuốc độc mà tự tử. Khi giam Ngài trong ngục, Ngài có phương thế hội đàm với các nhà triết học. Tới giờ chúng đem chén thuốc độc đưa trong tay của Ngài biểu Ngài uống. Ngài bưng chén thuốc độc ấy để từ giả các bạn của Ngài mà Ngài nói như chơi vậy.
Ngài nói: "Tôi biết rằng: Ngoài cơ thể Tạo Đoan của đời nầy nó còn có cơ quan vô hình tối trọng kia, tôi đã quả quyết rằng có, thì cái chết nầy ta mong lắm chớ, giờ phút ta cầm chén thuốc độc nầy ta uống thì ta sẽ được hội hiệp với các vị hiền triết được làm bạn với họ thì có gì hơn" Nói rồi: Ngài bưng chén thuốc độc Ngài uống.
Giờ chết của Ngài, giờ ngặt mình của Ngài thì môn đệ của Ngài hỏi: "Ngài chết đây rồi Ngài sẽ đi đâu? hay sẽ làm gì ?". Ngài cười nói: "Ta chưa biết, ta sẽ làm chúa cả cơ thể Tạo Đoan nầy, để điều đình cả cơ quan vĩ đại của Càn Khôn Vũ Trụ hay ta sẽ làm chơn của con châu chấu, dầu thế nào cũng có Đấng cầm mực thước định cho ta làm cái gì, thì ta làm cái nấy". Cái chết đối với Ngài không có nghĩa lý gì hết.
Đức Lão Tử khi đạt được bí mật của Bát Quái Đồ rồi, Ngài từ giả nhà Châu, Ngài về Côn Lôn Sơn mà an nghỉ, môn đệ của Ngài hỏi: Ngài về Côn Lôn Sơn để làm gì? Có hạnh phúc hay không? Ngài trả lời: "Duy có cái biết của ta mà nó làm cho ta có cái thú vị sống đặc biệt riêng, không cần nói rõ hạnh phúc ấy ra thế nào? Nhưng ta chỉ nói rằng: cái biết của ta nó làm cho ta hưởng được thú vị an ủi của cái sống ấy".
Đức Khổng Phu Tử từ giả quan trường về giáo Đạo cho các môn đệ của Ngài, thiên hạ gọi là vô phước, mà cảnh thiệt vô phước của Ngài là lúc làm quan cho nhà Châu, làm quan cho nước Tề, nước Yên, và lúc châu lưu trong lục quốc.
Bây giờ Ngài về sống với thất thập nhị hiền, tam thiên đồ đệ của Ngài, là Ngài hạnh phúc hơn hết, vì Ngài biết thú vị cái sống của Ngài thế nào, cái sống của Ngài vui về Đạo mà thôi.
Giờ trái ngược lại, sống chúng ta ngó thấy trước kia sống của Tần Thủy Hoàng, sống như Sở Bá Vương, hai tay trắng lập nên nghiệp đế, đè ép cả tinh thần dân chúng buổi nọ, vị Chúa của họ sanh sát tàn ác không có điều chi mà họ không làm, quyền hành của họ tàn sát lắm.
Cái sống của Tần Thủy Hoàng thế nào? Dòm lụng lại, thấy cái chết của Ngài, Ngài than: Cái tài tình thâu cả nghiệp Đế ta thắng được, duy có cái chết ta thắng không được, vì thế mới cho người đi kiếm thuốc trường sinh bất tử, mê tín đến nước người ta cho ăn dái ngựa mà cũng ăn nữa, ăn đặng sống mà anh ta cũng chết.
Nả Phá Luân đã được cơ hội làm nên nghiệp đế, hồi buổi đó làm cho cả toàn dân Âu Châu, các nước chư hầu đều cúi đầu hết thảy, đến chừng chết, chết trong ngục Le Saint Hélène.
Ông vua giàu có sang trọng hơn hết là Louis (XIV) thiên hạ hồi thế kỷ đó cho Ông là vua Trời "Le Roi Soleil" cả thiên hạ đều tùng phục, kính trọng, kiêng nể, Âu Châu buổi nọ, có thể nói Ngài là một Vị Bá Chủ của thiên hạ, không có cái gì mà anh ta không có, "Phú Hữu Tứ Hải" sang trọng vô biên có một điều là đền Vua của Ngài "Palais Louis XIV quân lính canh từng bảy vòng, cấm cái chết vô trong Hoàng Gia của Ngài mà không đặng, chết cả con cháu của Ngài cho đến nỗi gần hết trong Hoàng Gia. Rốt chuyện Ngài truyền ngôi báu lại cho đứa cháu nội mà thôi. Ngài than rằng: Hại thay! Hoàng Thành của ta mấy vòng canh nghiêm nhặt mà không cản được cái chết đến nhà ta.
Chức vị sang trọng của mình sống như cọp vậy, bắt được thịt ăn cho đã rồi nằm ỳ ra đó ngủ mà chúng cũng kiêng cũng sợ, nhưng chúng chưa biết thương, sống như cá Ông không ai thấy, mà chiếc ghe nào chìm thì cá Ông cũng đỡ. Cái sống con cọp không có ai thờ, còn cái sống của cá Ông có người ta thờ.
Hai cái sống đặc biệt ấy là cái sống duy vật và duy tâm. Bần Đạo tả ra cho con cái Đức Chí Tôn mỗi người lấy đó mà suy gẫm.
Bài 15 Bí Pháp: trùng lập với bài 15 Quyển 3 - Năm Kỷ Sửu - Canh Dần (1949-1950).
Để cho có sự nhất quán các tài liệu bài 15 Bí Pháp chúng tôi xin được trích lại từ bài 15 Quyển 3 - Năm Kỷ Sửu - Canh Dần (1949-1950). Do Ban Đạo Sử ấn hành lần thứ nhứt năm Giáp Dần (1974). Kính cáo.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 30-10-Kỷ-Sửu nhằm ngày (dl. 19-12-1949).
PHỤ LỤC TAM BỬU: Tam Bửu: Tinh, Khí, Thần. (Q.1/17)
Ðêm rằm tháng 2 năm Ðinh Hợi (1947) tại Ðền Thánh
Phàm con người có ba báu: Tinh là xác thân của cha mẹ sanh ra, liên quan với xác thân (corps astral) là hơi, nó tiếp xúc liên quan bảo trọng sự sống. Sự sống là nuôi nấng lấy hình hài chúng ta bằng sanh quang do nơi Phật Mẫu tạo mà có, liên quan với linh hồn ta là của Chí Tôn ban cho mà có. Ba thành một, một thành ba gọi là Tam Bửu: Tinh, Khí, Thần.
Chí Tôn lại chọn lựa vật quí báu là Bông (Tinh), Rượu (Khí), Trà (Thần) là ý nghĩa Ngài muốn đòi hỏi con cái của Ngài những món quí mà ta có để sống ấy hiến cho Ngài, tức là Ngài muốn toàn con cái của Ngài sống mãi với Ngài đó vậy.
Muốn cho khỏi phụ lòng Chí Tôn thì ta phải đào luyện cho đệ nhị xác thân ấy đặng tinh khiết nhẹ nhàng. Muốn được vậy, ta chỉ có hai điều là phải trai giới, chỉnh tu cho cái đệ nhị xác thân được tráng kiện hoạt bác, tùng khuôn viên thiện đức. Ðệ nhị xác thân ta khi còn sống ở quanh mình ta, bảo hộ về sanh quang tiếp với đệ tam xác thân là linh hồn. Khi lìa khỏi xác thúi hôi hữu hoại thì nó trực tiếp ngay với linh hồn nếu nó được thanh khiết. Bằng nó nghiệc ác thì nó phải dính líu với cái xác thúi hôi nầy mà phải chịu lìa xa cái linh hồn thì thần tử sẽ rước đi mà phải đọa là vậy. Bởi cớ Chí Tôn ban cho ta cái Bí Pháp (phép xác) cắt đứt dây oan nghiệt cho nó rời hẳn với đệ nhứt xác thân được khinh phù nhập một với linh hồn tức là hằng sống vậy.
Loài người quá xảo quyệt khôn khéo tiềm tàng sự sung sướng xác thịt nầy, tại do đó mà gây nên biết bao nhiêu thần sầu quỉ khóc, chiến tranh không ngớt, là do nơi lòng tham lam tiến triển văn minh, cơ khí tối tân như là bom nguyên tử để giết người. Hiện tại nơi Mỹ Châu, Cổ Tàng Viện của họ có đến 200 triệu quyển sách. Cứ bổ đồng một ngày xem một quyển thì phải sống đến mấy đời mới đọc hết được.
Chí Tôn biết rõ loài người tiến hóa tột bực mà tự đắc tự tôn, chỉ biết lo cho xác thịt mà thôi, không chuyên lo cho đệ nhị xác thân và tinh thần, nên Chí Tôn đến khai Ðạo là cố ý giáo hóa cho loài người biết rõ câu tội phước, giồi luyện cho con người tận thiện đến hiệp cùng Ngài. Nếu chúng ta biết được vậy thì toàn thể thế giới nầy những điều tinh ma quỉ quái sẽ tiêu diệt, thần tử không hề đến ta được.
Nếu ta thấy được cõi Hư Linh kia, cái tinh của vạn loại bị giết chóc một cách tàn nhẫn, bởi loài người kết oán thù thâm với nó, chực chờ thù ghét, vì vậy mà có vay trả luân hồi mãi mãi đọa đày, bất năng thoát tục.
Mong sao chúng ta từ đây phải biết trọng lấy lẽ ấy mà luyện đệ nhị xác thân cho đủ đầy sự tinh khiết, là phải thương loài vật, phải thương tất cả để chấm dứt cái oan nghiệt ấy mà truyền bá cái hườn thuốc linh đơn nầy là đạo đức của Chí Tôn, để cứu vớt quần sanh thoát vòng đọa lạc hoàn toàn.
Cả thế gian nầy biết được vậy thì chắc chắn không còn cảnh thảm khổ nầy tái diễn lại nữa. Loài người do một nguyên căn mà thôi, bởi do tâm lý và tập quán của các nước, của các sắc dân, vì cái khác ấy mà chia phôi nhau, nghịch lẫn nhau, thù địch nhau, mà tranh tranh đấu đấu không ngừng.
Vậy Thánh Ý của Chí Tôn khai mở Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, Tam Giáo Qui Nguyên, Ngũ Chi Phục Nhứt là muốn dung hòa tâm lý toàn cả con cái của Người để cứu vãn trọn 92 ức nguyên nhân, vì thế mà phải bị sa đoạ nơi đây. Chí Tôn đã đại từ đại bi chỉ rõ căn nguyên và ban ơn cho ta, dạy dỗ cho ta để đạt đạt ngôi vị là phải trau luyện cho Tinh hiệp với Khí, Tinh Khí hườn Thần là cơ huyền bí để mà đắc Ðạo vậy.
Trong giá của Tam Bửu mà Chí Tôn ưa chuộng để dâng Ðại Lễ cho Ngài là nguyên nhân chấm dứt cái họa tranh thù mà gây nên trường oan nghiệt cho toàn thế giới.
Ấy vậy, muốn duy trì sự hòa hiệp đại đồng nầy cũng do nơi gốc Bí Pháp đó mà thôi, dầu triết lý thâm uyên đạo đức mà tôn giáo nào cũng không qua lẽ ấy; mà nếu không đạt được thì toàn lẽ ấy là đệ nhị xác thân của toàn thể ô trược tội tình, thì thế giới sẽ điêu tàn tiêu diệt mà chớ.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 15-02-Đinh Hợi nhằm ngày (dl. 07-03-1947).
PHỤ LỤC TAM BỬU: Tam Bửu: Tiên thiên khí, Hậu thiên khí và Vật chất khí. (Q.1/18)
Ðền Thánh, ngày rằm tháng 2 nhuận năm Ðinh Hợi (1947)
Hôm nay Bần Ðạo giảng tiếp về Tam Bửu, Bần Ðạo lần lượt giảng Tam Bửu trước là vì Ðức Chí Tôn lấy Bông, Rượu, Trà mà tượng hình ba thể chất, tạo nên vạn loại.
Chơn linh mới thiệt là ta, còn Chơn thần là do tinh ba của vật khí biến hình. Chơn linh ta mượn cơ quan hữu hình để thân mật cùng cả cơ quan tạo đoan võ trụ.
Ta đến mang mảnh hình hài như thế nầy đặng chi? Nguyên do nơi nào mà đến, rồi Bần Ðạo lần lượt giảng vì sao mà ta phải Tu. Tu có ích gì, do nguyên lý nào mà phải Tu.
Bần Ðạo sẽ giảng nguyên do con người là gì, rồi mới tiếp giảng đến Cửu Thiên Khai Hóa, Ðức Chí Tôn tạo Bát Quái Ðài là gì?
Bây giờ Bần Ðạo giảng về Tam Bửu, ba cơ quan tạo nên hình thể con người, Chơn linh ta do nguyên khí mà có, nguyên khí là Tiên thiên khí; Chơn thần do Hậu thiên khí kết thành, còn xác thịt thì do vật chất mà nên.
Hỏi vậy ta muốn sống đây do cơ quan nào? Ấy là nhờ chơn linh mới có sự sống. Chơn linh có một quyền năng vô đoán, chưa có khoa học nào tra cứu rõ thấu được. Cái quyền năng của nó là của Ðức Chí Tôn ban cho. Quyền năng của chơn linh không giới hạn, nó là quyền năng bảo trọng đường sống của vạn loại, của xác hình. Chơn thần là Hậu thiên khí, nó bảo trọng vật chất khí.
Trong ba khí chất ấy, tạo ra hình hài chúng ta, chơn linh là nhứt điểm linh quang do Chí Tôn mà có để bảo trọng cái sinh mạng, cái sống của thi hài. Ðến ngày giờ nào niên kỷ đã định hết khối sinh quang rồi thì cái quyền năng ấy ra khỏi xác, thì xác phải hoại, chúng ta gọi là tử.
Ấy vậy, ta kiếm thử coi Tiên thiên khí, Hậu thiên khí và Vật chất khí là gì? Chúng ta sẽ thấy bất kỳ vật hữu hình nào cũng có ba thể chất:
Vật chất thì mắt ta thấy.
Mùi vị là Hậu thiên khí.
Năng lực là Tiên thiên khí.
Ba khí chất nầy tượng ra hình hài của con người, vật chất mùi vị, năng lực thế nào thì loài người thế ấy, vì chúng ta thấy một hột gạo, nấu ra cơm, ăn vào để lấy cái tinh ba của nó là Hậu thiên khí phục nguyên khối sanh quang của ta được tồn tại.
Tinh ba của vật chất nó vào mình làm cho xác hài có năng lực tráng kiện. Ta thấy khi đói bủn rủn tay chơn là thiếu sanh khí đó vậy.
Chơn thần là Hậu thiên khí, ta không thấy mà chớ nên tưởng rằng không có, ta ăn hột cơm vào bụng, lọc lấy cái tinh ba làm huyết khí để nuôi lấy khối sanh vật nầy. Ta biết có mà không thấy được. Chơn thần chúng ta, thiên hạ kêu là phách, vía cả thảy đều có.
Người hay sợ ma là tại sao? Vì họ thấy hình ảnh của khí chất biến hình, năng minh năng ẩn, mà sự ẩn hiện ấy lấy làm lạ và trái với mắt phàm thường thấy, nên làm cho họ sợ.
Một khi ta thấy một vong linh hiện hình mà ta có phước gần gủi đặng họ sẽ thương yêu mình hơn kẻ phàm lắm vậy.
Kẻ phàm mang xác hài hay có thất tình, lục dục, nên có sự phân cách về thể chất hữu vi làm cho thiếu sự thương yêu vì ta sợ.
Ngày nào ta về cảnh vô hình sống trong khối tạo đoan chừng đó ta mới biết Ðạo là có phận sự bảo trọng chúng sanh, khuyên lơn dạy dỗ và giục thúc cho các đẳng linh hồn tăng tiến trên đường tấn hóa. Ta chỉ đặng phép thương yêu binh vực chớ không ai đặng mưu hại giục hư.
Bần Ðạo giảng cõi Hư linh, nếu ta đạt pháp xuất ngoại xác thân, tương hội cùng các bạn cõi vô hình thì ta thấy khác hẳn theo tánh chất phàm tâm tưởng tượng.
Cõi Hư linh các bậc cao trọng, Thánh, Tiên, Phật chỉ có mơ ước thiết thực nhất một điều là làm thế nào giúp ích cho chúng sinh. Các đấng ấy rất may mắn gặp những dịp để an ủi tâm hồn chúng sanh, hằng giờ hằng buổi không thiếu tình thương.
Chúng ta đến làm người, cốt yếu đạt cho được cơ tạo đoan trở nên Chí linh chí Thánh, một kiếp học thêm một bực, để ngày kia mong mỏi làm Trời.
Các bạn biết Phật Thích Ca xưng là Bổn Sư, người tu gọi là Thầy, nếu các chơn linh ấy gặp được, thấy được gần được Phật thì đối với Phật không ngoài mức bạn thân ái.
Ở thế nầy dầu một vị Phật cũng không chê ai, không hạng nào chê, hạng nào khen, vì Phật đã biết con đường đi trước kia, dầu ai phàm, dầu ai lạc hậu cũng tới sau, họ chỉ biết một điều là chỉ từ nẻo quanh co, vui vẻ chỉ cho bạn đi cùng đường đạt lên Phật vị.
Họ không dám chê ai, chẳng phải đối với loài người mà thôi mà đối với tất cả vạn loại, chúng sinh chỉ là anh em còn lạc hậu đó vậy.
Con vật mà ta thấy bị giết được là vì nó vô cô không phương bảo vệ, ngày nay giết nó mà ăn thịt, biết đâu sau nầy các bạn lạc hậu ấy tiến hóa đến phẩm người trở lên, rồi chúng ta sẽ gặp nó bên mình, khi ấy nó ngó ta mà cười và hỏi: "Xưa kia Ðức Phật có ăn tôi một lần". Nghĩ tưởng chẳng gì sỉ hổ thẹn thuồng bằng. Thế nên ta phải ăn chay.
Chưa có ai nhẫn tâm giết người đặng ăn thịt, cũng không có ai đặng quyền giết các bạn lạc hậu ấy để ăn.
Ta đến đây làm bạn cùng vạn vật chúng sanh, vạn vật giúp ta học cho thấu đáo huyền vi cơ Ðạo, tạo chí linh nối nghiệp Ðức Chí Tôn.
Thầy có nói: Thầy dành sẵn gia nghiệp phẩm vị cho chúng ta, Thầy không khi nào lấy lại, trừ ra kẻ nào từ bỏ bởi Ðại Từ Phụ mà không tin sao? Ông cha phàm kia còn yêu ái con, trước buổi nhắm mắt còn tính để lại cho con một phần gia nghiệp hương hỏa.
Một điều là ông cha phàm làm với phạm vi nhỏ phương pháp nhỏ theo phàm. Còn ông Cha Thiêng Liêng không lẽ thua ông cha phàm? Thầy nói: Thầy dành sẵn gia nghiệp ngôi vị thì Thầy không quyền cho kẻ khác, trừ khi mình bỏ. Bần Ðạo tưởng, nhứt là phái Nam, thanh niên vũ chức (*1) nếu mấy em biết cơ quan ấy thì không hạnh phúc nào hơn là dám hủy mình vì Chí Tôn. Bần Ðạo dám chắc Thầy không hề chịu thiếu ai và Thầy không hề quên mối nợ tình ái của con cái của Ngài. Nếu Thầy không thường món nợ ấy thì Hộ Pháp hứa sẽ tái kiếp luân hồi bồi thường cho đủ.
Vì những kẻ dám đem mình làm tế vật cho Thầy để lập nên một Quốc gia Thiên định tại thế nầy, Bần Ðạo chắc Quốc gia ấy phải thành. Ðức Chí Tôn tạo cho con cái của Ngài một cửa nhỏ tuy khó đi mà Bần Ðạo chắc rằng, những hạng con cái dám chết vì Ngài thì chúng nó dám đạp văng cửa ra chúng nó đi sấn đến. Nếu chúng ta có con mắt thiêng liêng, ngày nào họ đi ngang qua thì ta sẽ thấy các Ðấng dầu chư Thần, Thánh, Tiên, Phật tức là các chơn linh cao trọng cũng phải cúi đầu.
Thầy sẽ trả bao nhiêu món nợ tình ái của con cái của Ngài thì không biết, chớ không khi nào Ðức Chí Tôn trả cho một mà phải trả nhiều hơn là hẳn vậy. Xin cho toàn Ðạo nam nữ sao lục nguyên văn để phổ thông chơn lý.
(*1) Thanh niên có chức phận trong Quân đội Cao Ðài.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 15-02N-Đinh Hợi nhằm ngày (dl. 06-04-1947).
PHỤ LỤC TAM BỬU: Tam Bửu: Nguyên thỉ tạo thành Càn Khôn Thế Giái. (Q.1/21)
Ðền Thánh, đêm 29 tháng 3 năm Ðinh Hợi (1947)
Hôm nay Bần Ðạo giảng về Tam Bửu, nguyên thủy tạo thành Càn Khôn Thế Giái.
Từ trước đến giờ thiên hạ thường nói là có Ðạo, tin Ðạo, nhưng Bần Ðạo tưởng chắc chưa có ai hiểu Ðạo là gì cả, nên Bần Ðạo lần lượt giảng cái chơn nghĩa của chữ Ðạo, giải rõ cái liên quan giữa Ðạo và con người cùng vạn vật do nơi đâu mà có, rồi sẽ giảng về nguyên căn của Tam Bửu, là một nguyên căn, là một bổn nguyên Tinh, Khí, Thần. Ðức Chí Tôn là Ðấng tự hữu hằng hữu, mà từ thử đến giờ bất kỳ một Ðấng Thiêng Liêng nào cũng không hiểu rõ nguyên căn của Người đặng.
Theo lời Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn nói thì chính Ngài cũng không hiểu rõ nguyên căn của Chí Tôn, chỉ biết cái quyền năng vô đối của Người mà thôi. Bần Ðạo đã vấn nạn Ðức Chưởng Ðạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn một vấn đề khó giải mà từ xưa đến nay chắc chưa có vị Giáo Chủ nào đã hỏi như Bần Ðạo. Bần Ðạo hỏi nguyên căn của Ðức Chí Tôn và quyền năng của Người, thì Ðức Chưởng Ðạo có tả một bài văn chữ Pháp dịch ra Quốc Ngữ; nhưng chính Ðức Nguyệt Tâm cũng đã thú thật rằng: Không biết nguyên do của Chí Tôn là thể nào, chỉ biết quyền năng vô đối của Người mà thôi.
Nay thuyết về vấn đề ấy, Bần Ðạo chỉ nói Ðấng Chí Linh hằng hữu ấy là Ðức Chí Tôn, là Cha cả chơn linh vạn vật mà nhứt là chúng ta đây đã biết với một cách thâm thúy khối linh ấy thế nào hơn hết, biết bao nhiêu Ðấng, biết bao nhiêu người từ xưa đến nay thường tự xét, tự hỏi, vì cớ nào ta có một cái linh tâm cao trọng hơn cả vạn vật? Tìm tòi với chẳng biết bao nhiêu sự khôn ngoan hiểu biết, và cũng vì tại nơi ấy mà buổi nào loài người cũng chẳng hề quên Ðạo. Nhìn biết và hiểu hay không hiểu, dầu muốn từ chối hay không, chúng ta cũng tự xét có vật tối linh trong thân thể ta, mà vật ấy là gì, từ trước đến giờ loài người tìm kiếm mãi nguyên do của nó.
Tiếp khai các nền Tôn Giáo hiện hữu không một nền Tôn Giáo nào nói mực thước và có một chơn lý cao siêu hơn là Phật Giáo, nhưng cũng chưa giải rõ. Ta chẳng cần tìm đâu xa xuôi làm chi, chúng ta thấy hiểu con người có tâm linh chúng ta có quan sát cả chơn lý của Phật Giáo từ buổi sơ khai, nên chúng ta dám nói chắc rằng: Chúng ta có một Tôn Giáo mà Tôn Giáo ấy là Chúa Tể các nền Tôn Giáo khác, vì bởi nó là nguyên căn của Tôn Giáo và chính nó là một Tôn Giáo tự hữu, từ buổi Trời Ðất biến sanh đã có, cái khối chơn linh ấy là Cha của chơn linh, Cha của nhứt điểm linh quang, làm sao chúng ta hiểu linh quang ấy, vì ta xét từ trước Ðức Chí Tôn dùng cái thanh khí ấy mà tạo ra loài người với đất do thanh khí ấy mà biến thành vạn vật. Loài người đến nay nhờ tấn hóa mà khôn ngoan, cũng như vạn vật nhờ tấn hóa mà được toàn năng toàn tri vậy. Các nhà triết học luận bàn đã nhiều, nhưng xét ra cũng chưa hiểu rõ cái nguyên căn ấy. Phật Giáo nói: Cái khối linh ấy phân tánh của mình ban bố ra cả vạn vật, khối linh ấy trước khi phân tánh thì gọi là Brama là Phật, đến khi phân tánh rồi thì Ðấng thứ nhì Civa chủ về Pháp, Ðức Chí Linh cầm quyền năng biến chuyển chớ không cầm quyền năng tạo đoan. Pháp vận hành mà sanh khí nên ta thấy mênh mông trước mắt ta ấy là Khí, vậy Khí là gì? Khí là khối sanh quang vạn vật nhờ thở khí ấy mà sống, cho nên chữ Khí là sự sống của vạn vật, do Khí là Pháp biến tướng ra vạn vật. Nên Ðấng thứ nhì chưởng quản cái sanh khí thường gọi là "2è Logos" thuộc Âm ấy là Phật Mẫu chưởng quản cả cơ quan tạo đoan nầy vậy.
Như chúng ta thấy cơ quan sanh hóa vạn vật và loài người là do âm dương phối hợp mà biến tướng, Phật chiết tánh biến ra Pháp là Ngôi thứ nhì thuộc Âm, là Phật Mẫu, nhưng chúng ta không biết cái bí mật ấy là khí âm dương phối hiệp biến hình, mà Phật Mẫu dùng gì để tạo nên cơ quan hữu vi nầy, vì bởi Phật Mẫu dùng khối sanh quang có năng lực vận hành trong không khí, chúng ta không thể thấy được. Khí biến ra hữu tướng là nước, lửa, gió, rồi nước, lửa, gió vận hành biến ra vạn vật, đi từ Hổn ngươn khí, Hư vô khí đến Huyền ảnh khí rồi mới biến ra vạn vật, tức là Huyền ảnh khí biến ra nhơn hình vậy. Khí mà khoa học gọi là Nguyên tử khí (Atome) Nguyên tử khí có năng lực vô biên mà loài người đã đoạt được để dùng, chớ không biết nguyên căn và nguyên tánh của nó đi đến mức nào. Kể từ ngày loài người tìm được nguyên tử chất và dùng được cái Nguyên tử khí ấy là cái khí sanh của vũ trụ, mà họ có biết đâu một ngày kia phàm thế sẽ nương nhờ Nguyên tử khí ấy mà qui nguyên Thánh Thể. Thử hỏi Ðức Chí Tôn cho nhơn loại đoạt Nguyên tử khí ấy để làm chi? Chúng ta cũng nên tìm hiểu cái huyền vi bí mật ấy, mà dầu cho Ðạo Giáo nào cũng vẫn còn đương mơ tưởng để kiếm hiểu. Ngày hôm nay Nguyên tử khí dùng để giết người, thì biết đâu sau nầy nó sẽ là phương cứu tử hườn sanh cho người, và nó sẽ đem loài người đến địa vị trường sanh bất tử.
Vì bởi Nguyên tử khí là căn nguyên sự sống của vạn loại, nếu nó đã làm chết được thì nó cũng sẽ làm sống được. Cái khí ấy sanh trước hết là nước, lửa, gió vận hành tạo ra hữu hình là vạn vật, vì cớ mà con người đối với vũ trụ hình ảnh thế nào thì tạo đoan cũng thế ấy, nên mới lấy Càn Khôn làm Ðại Thiên Ðịa và lấy con người mà làm Tiểu Thiên Ðịa. Mạng sanh của con người đồng thể cùng Càn Khôn, tức là sự sống phải tương liên với Chí Tôn mà Chí Tôn lại cầm quyền năng vô đối.
Hỏi vậy Chí Tôn tạo ra cái đại nghiệp ấy để cho ai? Ðể cho Vạn Linh, mà đứng đầu Vạn Linh lại là loài người, mà loài người có hưởng được thì Ðức Chí Tôn mới dành cho, nếu chúng ta một ngày kia hoặc nam hay nữ chẳng hạn, cũng sẽ có một đứa hưởng được cái quyền năng ấy. Ðức Chí Tôn lập ra đại nghiệp thì Ngài cũng muốn chúng ta làm được như Ngài, tức là đem Tiểu Thiên Ðịa đến Ðại Thiên Ðịa.
Ấy vậy về cơ quan đoạt lấy đại nghiệp, Chí Tôn chỉ dặn chúng ta có một tiếng Tu. Tu cho hiền mới hưởng được, nhưng thế gian lại chưa hiền, thế gian còn dữ quá thì chừng nào mới đoạt đặng.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 29-03-Đinh Hợi nhằm ngày (dl. 19-05-1947).
PHỤ LỤC TAM BỬU: Dâng Tam Bửu. (Q.1/48)
Ðền Thánh, đêm mồng 1 tháng chạp năm Ðinh Hợi (1948)
Bần Ðạo xin nhắc lại một phen nữa, khi nào hành lễ lúc dâng Tam Bửu. Hễ dâng Bông lên là dâng cái thể hình của chúng ta đó, ta cúi đầu cầu nguyện Chí Tôn: "Con xin dâng mảnh hình hài của con cho Chí Tôn dùng phương nào thì dùng".
Khi dâng Rượu cầu nguyện: "Con xin dâng cả trí thức tinh thần của con cho Chí Tôn dùng phương nào thì dùng".
Khi dâng Trà cầu nguyện: "Con xin dâng cả linh hồn con cho Chí Tôn dùng phương nào thì dùng".
Câu chót nếu ta khôn ngoan nguyện như vầy: "Cả linh hồn, cả trí não, cả hình hài con, Thầy đào tạo đó là của Thầy thì do nơi quyền hành độc đoán của Thầy định". Ðó ta cầu nguyện như vậy với Chí Tôn.
Bần Ðạo đã giảng Tam Bửu, tại sao Chí Tôn lấy bông tượng trưng hình hài, Ngài muốn nhìn con cái của Ngài bằng cái giá trị tốt đẹp như con mắt ngó thấy cái bông.
Ngài lấy rượu là muốn tinh thần của loài người cường liệt như rượu mạnh vậy.
Ngài lấy trà là muốn chơn linh ra điều hòa như trà vậy. Ngài lựa ba món đó cốt yếu là vậy.
Ngày nay Bần Ðạo giảng ba ngôi hiệp nhứt của Ðức Chí Tôn, cả thảy mỗi phen vào Ðền Thánh nắm sanh khí ấy tạo cả cơ quan hữu hình nầy, dầu sắt đá cỏ cây, cả thú vật vạn linh hữu tướng, thuộc về Tăng.
Ðứng đầu tiên hết Chí Tôn tức là Phật nắm cả cơ quan bí mật tạo thành Càn Khôn Vũ Trụ.
Ðạo nầy luật thế nầy, Ðạo kia luật thế khác, nhưng không khác hơn Phật Giáo.
Giả thí như Thánh Giáo Gia Tô cũng có ba ngôi (la trinité): Le Père, Le Fils et Le Saint Esprit (Ðức Chúa Cha, Ðức Chúa Con và Ðức Chúa Thánh Thần). Ðức Chúa Cha là Phật, Ðức Chúa Con là Pháp, Ðức Chúa Thánh Thần là Tăng.
Không Ðạo giáo nào thuyết minh rõ ràng cơ tạo đoan, lấy thuyết hổn độn sơ khai phân chia: Khí chi khinh thanh thượng phù giả vi Thiên, khí chi trọng trược hạ ngưng giả vi Ðịa. (Hễ khí thanh thì lên Trời, khí trược thì hạ xuống đất).
Cả vật loại hữu tướng nầy có hai quyền năng sản xuất:
Ngôi Chí Tôn.
Ðức Mẹ.
Cả quyền năng ông cha chúng ta đào tạo thế nào, ngày nay quyền năng Chí Tôn cũng đào tạo thế ấy, mà bà mẹ chúng ta thế nào thì mặt luật ấy không khác nào quyền năng vô tận của Phật Mẫu dùng đặng đào tạo Càn Khôn Thế Giái, chúng ta không biết, không thể đoán được, luật ấy không xa.
Chí Tôn là Phật, Phật Mẫu là Pháp, Càn khôn là Tăng, mặt địa cầu nầy đến 3.000 thế giái cũng là Tăng.
Nắm quyền trị thế là Hạo Nhiên Pháp Thiên chính quyền năng Chí Tôn định, địa cầu nầy không định khác, chỉ có một mặt Trời nầy không có mặt Trời khác, trong 24 giờ có một ngày, Ðấng cầm quyền trong pháp giới là Hư Vô Cao Thiên vâng mạng lịnh Hạo Nhiên Pháp Thiên làm cho vũ trụ khỏi tương tàn với nhau. Ðịa cầu nầy nếu không mặt luật đạo đức thì sanh ra bậy bạ con người không chắc sống.
Bây giờ chúng ta quan sát Hổn Ngươn Thượng Thiên, ngày nay Ðức Phật Di Lặc ở nơi Hổn Ngươn Thượng Thiên cầm cả hành tàng Càn Khôn Vũ Trụ, giờ Ngài đương cầm quyền cả vật loại.
Trước khi nguyện lấy dấu và niệm: Nam Mô Phật, Nam Mô Pháp, Nam Mô Tăng, dám chắc thật đích xác ba ngôi ấy chưa ai biết rõ.
Ngày nay Bần Ðạo giảng: Phật là gì? Phật là một Ðấng toàn tri toàn năng, người ta lầm lạc tưởng không thấy hình dạng là không có người thế gian lầm lạc nhiều lắm. Họ quả nhiên là người sống hiện tại chỉ khác hơn chúng ta là không có thi hài mà thôi. Ðấng toàn tri toàn năng ấy là Ðấng đầu tiên hiệp lại với Chí Tôn.
Bần Ðạo đã giải nơi Phật có ba cảnh đặc biệt:
1. Hạo Nhiên Pháp Thiên tương liên hiệp một cùng Ðức Chí Tôn.
2. Hư Vô Cao Thiên thuộc về Pháp giới cầm cả luật Thiên Ðiều.
3. Hổn Ngươn Thượng Thiên thuộc Tạo hóa thuộc Tăng. Phật vị có ba đẳng cấp ấy đặng nắm cả quyền năng Càn khôn Thế giái.
Phi Tưởng Diệu Thiên nắm quyền hành tạo đoan loài người thuộc Phật, đồng thể với Phật.
Tạo Hóa Huyền Thiên thuộc Pháp và có ba quyền tạo đoan thế giái hữu hình nầy vô cùng tận. Tạo hóa cầm sanh khí để tạo sanh vật.
Phi Tưởng Diệu Thiên, Tạo Hóa Huyền Thiên. Bây giờ tới Phi Tưởng Diệu Thiên lãnh phận sự nơi Ðức Chí Tôn cầm ngươn khí của con người, giữ sanh mạng vạn vật kêu là vạn linh.
Tới Tạo Hóa Huyền Thiên, Phật Mẫu cầm pháp chuyển cơ sanh hóa không cùng tận, cả loài người, cây, cỏ, sắt, đá, cũng tấn lên phẩm người nữa, là nhờ tay của Ðức Phật Mẫu nắm Pháp biến xuất. Cả thi hài chơn linh trí não pháp thân luân chuyển sanh sanh tử tử. Nợ sanh tử ấy là bài học của Tạo hóa trong các cơ thể ấy, loài người học làm đặng biết, đặng chi? Ðặng tạo Pháp thân huyền diệu được toàn thiện toàn mỹ, toàn tri toàn năng như Phật Mẫu đã làm, ta làm đặng học hỏi tạo Pháp thân do quyền lực thuộc Pháp, hình hài xác thịt thuộc Tăng thấy chúng ta thay đổi lăn lóc trên đường sanh sanh tử tử cũng như Phật ở tối cao tối trọng, gần Chí Tôn là Hạo Nhiên Pháp Thiên. Các Ðấng ấy hữu sanh hữu tử tri khổ nghiệp chướng vạn linh năng du ta bà thế giái độ tận vạn linh đắc qui Phật vị.
Các Ðấng ấy đã chịu như chúng ta ngày nay đặng đi đến toàn thiện, đặng toàn tri toàn năng, họ đi trước, mình đi sau, họ cao mình thấp thỏi, con đường họ đi mình cũng sẽ tới. Một điều ta nên để ý hơn hết là chúng ta phải hiểu rằng: Mặt thế nầy chưa biết ai cao ai thấp. Nơi Hạo Nhiên Pháp Thiên một vị Phật cao trọng toàn tri toàn năng gần như Ðức Chí Tôn nữa mà xuống tại thế nầy đặng học, bài học khổ dám làm kẻ ngu dốt lắm.
Chúng ta thấy hình thể một vị Phật Mahâsarouth là một vị Chí Phật như Ðức Cakya Mouni đến thế gian bưng bình Bát Du để xin cơm đặng nuôi kẻ khổ. Một người ăn mày ở thế gian như vậy mà nơi cửa hư không lại có quyền năng vô tận vô đối. Ðến Ðức Chúa Jésus Christ là một vị Christna Vichnou đệ nhị kiếp Chí Tôn giáng linh xuống làm một vị bần hèn khổ não để đi xin từ chén cơm, từ miếng bánh mì đặng nuôi kẻ đói khó. Ðó là bài học trước mắt phàm chúng ta đã thấy.
Ðấng Tạo Ðoan đưa tay xin cho loài người ăn, đó là Người cầm quyền năng nuôi khắp vạn vật Càn Khôn Võ Trụ. Thế gian chưa hề thấy và chưa hề biết.
Kỳ sau Bần Ðạo sẽ giảng tiếp.
Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 01-12-Đinh Hợi nhằm ngày (dl. 11-01-1948).
PHỤ LỤC TAM BỬU: CHỮ TU. (Q.5/15)
Đền Thánh đêm 14/5 năm Nhâm Thìn (06/6/1952)
Đêm nay Bần Đạo xin bắt chước các bạn đã lên giảng đài từ thử đến giờ giảng chữ tu.
Chữ tu tiếng Phạn gọi là Dyana, người Miên tức nhiên người Tần Nhơn nói trại lại một chút Xaxona. Tiếng Pháp hay tiếng bên Âu Châu Se perfectioner nghĩa là Rendre parfait ou plus parfait có nghĩa là làm thế nào cho mình đặng tận thiện tận mỹ. Tiếng tu nó bao quát như thế, thiên kinh vạn điển tiếng của các Tôn Giáo đã để lại duy chỉ trong một chữ đấy mà thôi; thành thử chẳng phải đứng trên giảng đài mà giảng chữ tu ấy cho cùng lý được, nhứt là Bần Đạo có thể lấy cái tinh túy của nó để ra, dầu không trọn vẹn, nhưng cả thể toàn thể con cái của Đức Chí Tôn để ý, định trí cho lắm nghe và hiểu.
Vả chăng khuôn Luật Thiên Nhiên của Tạo Hóa nó buộc cho các Đẳng linh hồn dầu vật loại, phải trau mình thế nào đặng đoạt cho đến nhơn phẩm của mình, rồi khi đã đứng địa vị làm người, mình phải dồi mài, sửa cải thế nào đặng đi từ từ đặng đoạt đến Phật Vị.
Chúng ta sanh nơi đây rồi chết, rồi tái sanh lại đặng mỗi kiếp sanh của chúng ta tu, tu đặng từ từ bước lên Thiêng Liêng Vị của mình. Tu nhơn phẩm đoạt đến địa vị tối cao tối trọng là Phật Vị đó vậy.
Trong phương tu của chúng ta buổi nào cũng tu, vừa trong lòng mẹ ra khỏi thì đã tu rồi.
Tu là gì?
Đứa con nít nó không biết nói, không biết gì hết, không biết làm sao đặng mẹ nó cho bú, hễ nó khát sữa nó có phương pháp là nó khóc, nó tìm phương làm cho mẹ nó hiểu, tức nhiên nó tu đó. Rồi khi nó biết cha biết mẹ, biết thương cha mến mẹ, cái đó cũng cái tu của nó nữa. Khi nó có em biết thương em, cái tu nó đấy. Khi trí khôn ngoan hơn chút nó vô trường học, mỗi ngày học được mấy chữ, Thầy kể rằng học đặng thấu đạt được cái hay cái biết là tu đó; lớn hơn chút nữa có trí khôn ngoan, nó kiếm phương thế làm sao cho nó hay hơn bạn nó, ham làm giỏi hơn bạn, nó biết tranh đua tức nhiên nó tu đấy. Khi nó biết khôn ngoan rồi hiểu rằng tôi phải học cho hay hơn thiên hạ trong xã hội nhơn quần, nó kiếm thế nào học hiểu cho nhiều đương đầu, đặng sống cùng xã hội, tu đấy. Khi nó có tuổi, trong tuổi trứng nước đó đến tuổi khôn ngoan hơn nữa, nó biết lựa chọn một người bạn trăm năm là vợ của nó, ấy là nó tu đấy. Đối cùng xã hội nhơn quần nó kiếm phương pháp thế nào đứng trong xã hội cho có địa vị của nó, nó nong nả đừng cho nó quá hèn, mỗi ngày nó kiếm thế tiến triển hay ho thêm mãi, tu đó.
À, cái tu từ khi mới thơ sinh lọt lòng mẹ đặng làm người, nó tu về Nhơn Đạo, tức là tu thân. Cái tu thân gọi rằng tu thân là chi? Là nó phải biết cái tu thân ấy mới có phương thế lập công cùng xã hội nhơn quần. Nó lập công làm thế nào cho toàn cả nhơn loại trên mặt địa cầu này đặng hạnh phúc, nếu như nó có phương thế làm nên cái công nghiệp vĩ đại ấy là tu thân của nó đấy.
Bây giờ Bần Đạo mới thuyết cái phương tu trong chơn truyền của Đức Chí Tôn đã để nơi cửa Đạo nầy. Chúng ta dùng Tam Bửu mỗi ngày chúng ta cầu nguyện Đức Chí Tôn đặng dâng hiến ba của báu ấy. Bần Đạo thuyết tu về Tinh, tu về Thần, đặng lập công, tức nhiên mình thờ phượng cái Tinh của mình, báu đầu tiên của mình là thân thể mình. Bây giờ ta chỉ nói với một kẻ ngu muội hay là khùng kia cũng vậy, mà mình biết nó khùng mà nó cũng biết nó là khùng, nhưng ta điểm mặt nó nói, mày điên, mày khùng thì nó giận dữ ngay đa và tức mình lắm. Cái giận ấy là trong tinh thần của nó có khuôn luật thiên nhiên bảo nó phải tu, đừng để nó ngu, mà hễ ai nói nó ngu tức nhiên làm nó phạm luật thiên nhiên ấy, nên nó không chịu, nó tức giận lắm, dầu cho nó đã thiệt ngu.
Huống chi con người sanh ra nơi cõi nầy, Đức Chí Tôn đã ban cho một cái ân đặc biệt hễ khi nào trong lòng mẹ đã xuất hiện ra thì trong cái tinh thần thiên nhiên của ta nó đã có cái quyền năng đạt được cả cái hiểu biết của nhơn loại, dầu cho Thượng Cổ, Trung Cổ nó cũng tự nhiên am hiểu cho được mới thôi. Cả cái tinh thần của nó đấy có đủ quyền năng đạt đặng khối bao quát thiên nhiên về tinh thần trí não của loài người.
Từ khi loài người đã có nơi mặt thế nầy, đều muốn thoát ly cái thú tánh của họ. Hễ thoát ly đặng cái thú tánh ấy tức nhiên họ sẽ định tâm sáng suốt thành ra một vị Thánh tại thế gian này. Chúng ta đã ngó thấy biết bao vị Thánh sống xuất hiện trong loài người từ thử đến giờ, huyền bí vô biên của tạo đoan là do nơi đó.
Ấy vậy cái khuôn luật thiên nhiên kia bảo ta phải tu trí, nếu chúng ngu xuẩn, mê muội thì bao giờ cũng phải chịu làm tôi đòi nô lệ trong kiếp sống của ta, chúng ta vẫn ngó thấy một đứa con nít mà nó vẫn kiếm phương thế đặng hiểu mọi điều thiên hạ đã biết, nó không biết nó hỏi, vấn nạn cho biết, ấy cái khuôn luật thiên nhiên biểu nó tu trí. Tu trí đặng chi? Đặng đủ khôn ngoan, tu hạnh đức hay hạnh kiểm của mình, rồi mới tu ngôn ngữ của mình, tu trí đặng lập ngôn tại thế gian này, tức nhiên tu về khí đó vậy.
Bây giờ tới tu tâm, hễ khi nào chúng ta đầy đủ trí thức, tâm ta mới sáng suốt, khi tâm đã sáng suốt thì biết rằng: Cảnh tượng kiếp sống của chúng ta đây cả thảy đều là mộng ảo, dầu cho cái ý sống hay cái thân của ta đây cũng là mộng ảo, con vật thân thể đã thế nào, thì thân thể ta cũng thế ấy. Con vật chết như thế nào thì chúng ta cũng chết tương tợ như thế đó, không khác. Đã biết kiếp sống của chúng ta là mộng ảo thì chúng ta cần phải tìm gì mà chớ. Tìm cái chi cho bền vững chắc chắn hơn, tức nhiên cái thiên lương của chúng ta, là căn bản là linh hồn của chúng ta. Ta đã hiểu được cái chơn linh của chúng ta nó bất di bất dịch, nó tồn tại mãi mãi nơi cõi Hằng Sống, biết được cái sống ấy là hằng sống thì ta phải tô điểm nó, gìn giữ nó cho được trường tồn đẹp đẽ.
Trước các tôn giáo nhứt là nhà Phật, chưa có danh từ thiên lương là gì, và tiếng linh hồn mà thiên hạ đã để lấy chữ tâm mà tượng trưng ấy, thì nó vẫn là bóng dáng chớ không phải thiệt tướng. Lấy chữ tâm là bất quá nói cái trí của chúng ta do tinh thần căn bản, nên lấy chữ tâm thay thế cho tinh thần, chớ chưa phải thật tướng tinh thần.
Ấy vậy, khi chúng ta đã qua khỏi tu trí, mới tới giai đoạn tu tâm, thì tu tâm ấy nó buộc chúng ta phải xem xét quan sát cả hành tàng kiếp sống của các bậc Thánh Nhơn, Hiền Triết, lời nói và việc làm của các vị Phật hay các vị Tiên đã lưu lại tại thế này, chúng ta mới lấy nó làm căn bản, đặng kiếm một khuôn khổ, một phương pháp đặc biệt của mình để làm phương tu của mình.
Các bạn cả thảy đều biết sự tu tâm nó chẳng phải để một cái tình cảm đối với vạn vật hay nhơn loại nơi mặt địa cầu này, mà nó còn dắt ta đi, đi mãi con đường đi của nó vô biên vô tận, bởi nó lấy Càn Khôn Vũ Trụ làm phương tu của nó. Nó lấy Càn Khôn Vũ Trụ làm nhà, làm căn bản của nó; cho nên trí của ta đối lại tâm ta, nó lại không vừa, vì danh của tâm nó còn cao vọng hơn nữa, nó còn vô tận vô biên hơn nữa. Nơi cảnh vô hình thế nào thì chữ tâm cũng thế ấy, không ai biết rõ. Do chữ tâm mà Đức Chí Tôn để cái tình yêu ái, cái thương với cái công chánh, hai cái đó là hình trạng thay thay thế chữ Tâm mới thiệt tướng của nó mà thôi. Còn ngoài ra nữa nó liên hệ và liên quan với cả Phật tánh, Thiên tánh nữa kìa. Muốn đến con đường liên hệ với Thiên tánh, Phật tánh nó có một cái cửa là cửa tịch mịch, cái cửa ấy ở thế gian này thiên hạ muốn lắm, mà phần nhiều đi chưa tới, là cửa Hư Vô tịch diệt trong cảnh Thiêng Liêng kia đó vậy.
Đạo Cao Đài giờ phút nầy còn thiếu cái đó, tức là Đạo Cao Đài còn thiếu tu tâm vậy. Nếu tu tâm mà thật hiện đặng là "Ái tuất thương sanh", hành vi của Thánh Thể của Ngài phụng sự cho Vạn Linh là tu tâm đó.
Nhưng cái tâm mà diễn ra bao nhiêu đấy không phải đủ nó còn nữa còn vô ngần vô tận, cả kiếp sanh này chúng ta không có cái năng lực để tạo nó. Ta chỉ nhờ hồng phúc mới tạo nó đặng, nên ta cần nó lắm. Nếu chưa đặng chúng ta không thể nói rằng: Con đường của chúng ta thật hiện còn đi xa vời hơn nữa. Bởi vì phụng sự vạn linh Đức Chí Tôn đã để là cốt yếu. Ngài nói rằng: Nếu biết phụng sự Vạn Linh các con mới bước vô con đường tu tâm của các con, mà nói các con chưa tu tâm, bởi cả hình trạng vô biên các con chưa theo dõi, dầu cho các con đặng chữ Từ Bi, Bác Ái và Công Chánh thì cũng chưa đủ gì hết. Ấy, tu tâm ấy mới gọi là tu tâm. Hễ có tâm mới có phương thế lập Đức. Đức Chí Tôn dạy chúng ta phụng sự Vạn Linh cốt yếu biểu chúng ta rán tu tâm, tu tâm chúng ta mới đối lại cái quyền năng tinh thần của tâm lý, đặng lập Đức là Tam Lập đó vậy, vì nó liên hệ với nhau như thế đấy.
Cả những lời Bần Đạo, thuyết từ nảy giờ có thể viết ra một quyển sách mà nói lại có bao nhiêu, về rồi suy nghĩ kiếm hiểu ở trỏng tràn trề ý vị.
CHUNGLỜI THUYẾT ÐẠO CỦA ÐỨC HỘ PHÁP |
"Con Đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống" và "Bí Pháp" được coi như là hai tập tài liệu quý hiếm nhất trong loạt bài Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp, mà đối với những người mộ đạo đã có dịp đọc qua một lần thảy đều cho là toàn bộ triết lý và yếu lý của Đạo Cao Đài đều được gói trọn trong đó.
TT/NSW chúng tôi xin được phép lần lượt trích đăng và phổ biến tất cả các tài liệu nói trên - coi như là những lời tâm huyết còn sót lại sau cùng của Đức Ngài - để các chư Đạo tâm, Đạo hữu chưa từng lượt qua có dịp làm quen, hoặc chư Đạo hữu nào đã đọc qua rồi có cơ hội tham đọc lại để mà tâm đắc. Hy vọng của chúng tôi là giúp ích cho quí vị có được một quyển cẩm nang trong tay để một ngày kia tự mình tìm về nguồn cội, đạt cơ siêu thoát mà không phải hoài công đi tìm chơn lý.
Tiếc là vì hoàn cảnh khó khăn, chúng tôi vẫn chưa thể đệ trình lên Ban Tốc Ký - những bậc đàn anh đã dày công ghi chép lại tất cả các Lời Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp trong lúc Ngài còn tại thế - để nhờ duyệt đọc lại toàn bộ Thuyết Đạo của Đức Ngài mà chúng tôi đã phổ biến, kể cả hai quyển CĐTLHS và BP trước khi đăng, hầu bổ xung lại những phần nào chúng tôi còn thiếu sót, hoặc hiệu chỉnh lại những chỗ sai lầm để tài liệu chúng ta có được ngày hôm nay tương đối hoàn chỉnh hơn.
Tương tự như những quyển Thuyết Đạo từ quyển I đến quyển VI đã được ấn hành trong Cao Đài E Book trước đây, nội dung quyển CĐTLHS và BP chúng tôi vẫn giữ nguyên. Tuy nhiên, về hình thức trình bày, có những phần khác biệt sau đây so với bản chánh:
1) Thay đổi cách chấm (.) hoặc phẩy (,) trong một số đoạn văn khá dài, không có hoặc toàn là dấu phẩy.
2) Sửa một số lỗi chánh tả thông thường (khi gặp phải) căn cứ vào quyển Việt Nam Tân Tự Điển của Thanh Nghị do nhà sách Khai Trí xuất bản tháng 12 năm 1967 và Việt Nam Tự Điển của Lê Văn Đức, Lê Ngọc Trụ do nhà sách Khai Trí xuất bản tháng 4 năm 1970.
3) Phụ ghi vào cuối một số bài khi gặp một vài nghi vấn (có thể) được Ban Đạo Sử duyệt xét lại sau nầy.
4) Phụ ghi ngày và tháng dương lịch (cho những bài không ghi rõ dương lịch) căn cứ theo Lịch Việt Nam, ấn bản 1-3, do Nguyễn Duy Thức biên soạn, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung - Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996.
5) Riêng trong quyển Bí Pháp, phần Phụ lục về Tam Bửu, chúng tôi xét thấy nội dung những bài nầy đều giống các bài thuyết giảng cũng cùng đề tài Tam Bửu (trong các quyển Thuyết Đạo quyển I và quyển V). Chúng tôi nghĩ xuất xứ những bài nầy có thể đã cùng một nguồn gốc như nhau.
Vì vậy, để cho nhất quán, chúng tôi xin được phép trích lại các tài liệu luận về Tam Bửu nói trên từ nơi các quyển:
Thuyết Đạo quyển I năm Bính Tuất - Đinh Hợi (1946-1947) do Ban Đạo Sử ấn hành lần thứ nhứt năm Canh Tuất (1970).
Thuyết Đạo quyển V năm Nhâm Thìn (1952) do Ban Tốc Ký Tòa Thánh Tây Ninh sưu khảo.
để đăng trong phần Phụ lục của quyển Bí Pháp nầy.
Trong việc đánh máy cũng như đưa bài vở lên mạng lưới toàn cầu, chắc chắn là chúng tôi không thể nào tránh được những sơ suất và lỗi lầm. TT/NSW ước mong đón nhận được sự chỉ giáo và đóng góp ý kiến của các bậc cao minh, cũng như của chư Đồng Đạo khắp mọi nơi trên thế giới, nhất là Ban Tốc Ký Tòa Thánh Tây Ninh để những lần tái bản sau nầy mỗi ngày thêm được hoàn hảo hơn.
Mong thay!
Kỷ niệm nhân ngày Đức Hộ Pháp qui Thiên,
[Mồng 10 tháng 4 năm Ất Dậu (2005)]
Thánh Thất New South Wales thành thật kính cáo.
) )( __)_(__ __(_____)__ (((_________))) ) ׀ ( |
|
|||||
Tài liệu kính biếu. |